Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Phân tích một số giải pháp tài trợ thâm hụt ngân sách ở Việt Nam trong những năm gần đây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.31 KB, 14 trang )

Đề tài : Phân tích một số giải pháp tài trợ thâm hụt ngân sách ở Việt Nam
trong những năm gần đây
I. CÁC KHÁI NIỆM :
1. Ngân sách nhà nước: Ngân sách nhà nước là tổng các kế hoạch chi
tiêu, thu nhập hàng năm của Chính phủ, bao gồm các khoản thu (chủ yếu
từ thuế) và các khoản chi ngân sách.
2. Thâm hụt ngân sách : Gọi B là hiệu số giữa thu và chi ngân sách, ta
có:
B = T – G
Khi B > 0 ta có thặng dư ngân sách
B = 0 ta có cân bằng ngân sách
B < 0 ta có thâm hụt ngân sách
Các lý thuyết tài chính hiện đại cho rằng, ngân sách Nhà nước không
cần thiết phải cân bằng theo tháng, theo năm. Vấn đề là phải quản lý các
nguồn thu và chi sao cho ngân sách không bị thâm hụt quá lớn và kéo dài.
Tuy vậy, trong nhiều nước đặc biệt là các nước đang phát triển, các Chính
phủ vẫn theo đuổi một chính sách tài khóa thận trọng, trong đó chi ngân
sách phải nằm trong khuôn khổ các nguồn thu ngân sách.
Thực ra, trong nên kinh tế thị trường, thâm hụt ngân sách thực tế
chưa phải là một chỉ bảo tốt về chính sách tài khóa củ Chính phủ. Thật
vậy, một khi nền kinh tế vận động theo chu kỳ thì chính chu kỳ kinh
doanh có tác dụng không nhỏ đến thâm hụt ngân sách. Người ta dễ dàng
nhận thấy thu ngân sách tăng lên trong thời kỳ phồn thịnh và giảm đi
trong thời kỳ suy thoái. Ngược lại, chi ngân sách tăng trong thời kỳ suy
thoái và giảm trong thời kỳ phồn thịnh. Chính vì vậy, thâm hụt ngân sách
1
sẽ trầm trọng hơn trong thời kỳ suy thoái, bất chấp sự cố gắng của Chính
phủ.
Vì lý do trên, để đánh giá tác động của chính sách tài khóa đến thâm
hụt ngân sách, người ta thường sử dụng ngân sách trong điều kiện nền
kinh tế hoạt động ở mức sản lượng tiềm năng.


Phân biệt 3 khái niệm thâm hụt ngân sách :
(1)Thâm hụt ngân sách thực tế : Đó là thâm hụt khi số chi thực tế vượt
số thu thực tế trong thời kì nhất định.
(2)Thâm hụt ngân sách cơ cấu : Đó là thâm hụt tính toán trong trường
hợp nếu nền kinh tế hoạt động ở mức sản lượng tiềm năng.
(3)Thâm hụt ngân sách chu kỳ : Đó là thâm hụt ngân sách bị động do
tình trạng của chu kỳ king doanh.
Thâm hụt chu kỳ bằng hiệu số giữa thâm hụt thực tế và thâm hụt cơ
cấu.
Trong ba loại thâm hụt trên, thâm hụt cơ cấu phản ánh kết quả hoạt
động chủ quan của chính sách tài khóa như : định ra thuế suất phúc lợi,
bảo hiểm Vì vậy, để đánh giá kết quả của chính sách tài khóa phải sử
dụng thâm hụt cơ cấu.
II. THÂM HỤT NGÂN SÁCH VỚI VẤN ĐỀ THÁO LUI ĐẦU TƯ
Cơ chế của thoái lui đầu tư : Chính phủ sử dụng chính sách tài
khoá lỏng (G,T) à Y tăng theo cấp số nhân. Khi đó cầu tiền cũng tăng
trong khi cung tiền không thay đổi à i à I. Mà IàADàY à thu
ngân sách giảm.
Đó chính là cơ chế thoái lui đầu tư và thường xuất hiện với hiện
tượng thâm hụt cơ cấu
2
Ý nghĩa: khi muốn tăng chi tiêu để tăng trưởng kinh tế sẽ dẫn đến
bóp nghẹt đầu tư và giảm sản lượng .Về mặt ngắn hạn, quy mô của tháo
lui đầu tư là nhỏ, nhưng trong dài hạn, quy mô này có thể rất lớn.
Cần kết hợp hài hoà giữa chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ
III. PHÂN TÍCH CÁC BIỆN PHÁP TÀI TRỢ THÂM HỤT NGÂN
SÁCH
1. Thực trạng bội chi ngân sách nhà nuớc những năm gần đây
Những năm gần đây, tình trạng bội chi ngân sách nhà nước ở nước
ta vẫn còn diễn ra, tuy nhiên, mức bội chi so hiện nay so với giai đoạn

những năm 80 của thế kỷ trước đã đạt được nhiều thành tựu.
BẢNG THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TỪ 2001 – 2007
Đơn vị tính: Tỷ Đồng
Năm Số Bội chi Bội chi so với GDP
200
1
25.885 4,67%
200
2
25.597 4,96%
200
3
29.936 4,9%
200
4
34.703 4,85%
200
5
40.746 4,86%
200
6
48.500 5%
200
7
56.500 5%
3
Giảm một cách đáng kế thâm hụt ngân sách Nhà nước được coi là
thành tựu đáng kể của quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta. Thành tựu này
đă góp phần to lớn vào quá trình đẩy lùi lạm phát ở nước ta cuối những
năm 80. Giảm thâm hụt ngân sách đạt được là do kết quả của những biện

pháp cứng rắn như cắt giảm chi tiêu chính phủ, xóa bỏ dần các loại trợ
cấp qua giá, lương, trợ cấp cho xí nghiệp quốc doanh… Nhiều năm thâm
hụt giảm xuống dưới 5% so với GDP – một kết quả đáng khích lệ.
Chúng tôi đưa ra bảng dưới đây để làm kết quả so sánh:
BẢNG THÂM HỤT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM TỪ 1987
ĐẾN 1994
Đơn vị tính: Tỷ đồng
1987 198
8
1989 1990 1991 1992 1993 1994
- Thâm hụt ngân
sách
130,4 107
2
1081 303
3
1728 3847 7930 7714
- So với GDP (%) 4,9 8,1 8,1 7,9 2,5 3,8 6,3 5,9
Để đạt được những thành tựu này, chúng ta đã có nhiều đổi mới
như: Về hệ thống thuế: Thuế đã được xem xét đúng với vai trò cơ bản củ
nó trong cơ chế thị trường là tạo nguồn thu cho ngân sách, kích thích tăng
trưởng, điều chỉnh và phân phối lại thu nhập. Hệ thống thuế đã và dang
được cải cách theo hướng mở rộng cơ sở thu thuế, tăng tỉ lệ động viên từ
thuế so với GDP, đảm bảo công bằng, bình đẳng giữa các thành phần
kinh tế, các sắc thuế có nội dung rõ rang, đơn giản, dễ hiểu,dễ làm,dễ
kiểm tra và không trùng lắp, nhiều sắc lệnh thuế mới ban hành phù hợp
với điều kiên nước ta và thông lệ quốc tế (thuế thu nhập, thuế đát đai,
thuế sử dụng tài nguyên)
4
Về chi tiêu ngân sách: Chuyển sang cơ chế thị trường, chi tiêu ngân

sách Nhà nước đã được đặt đúng vị trí của nó là công cụ điều tiết thị
trường, bình ổn giá cả, định hướng phát triển sản xuất, đồng thời là công
cụ điều tiết thu nhập, đặc biệt thông qua các chương trình xóa đói, giảm
nghèo, các chính sách trợ cấp củ Chính phủ.
Chi tiêu ngân sách hàng năm đã được Quốc hội thảo luận và thông
qua trong các phiên họp của mình, thể hiện rõ định hướng của nhà nước
trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Chi ngân sách đã được thực hiên
theo nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả nhằm nâng dần phần tích lũy của ngân
sách cho đầu tư phát triển.Khoản chi thường xuyên của ngân sách thường
được khống chế tối đa trong khuôn khổ khả năng thu ngân sách. Mỗi
khoản chi được xác định trên cơ sở phân định rõ đối tượng và mục đích
cụ thể. Tốc độ tăng chi thường xuyên được khống chế thấp hơn tốc độ
tăng chi cho phát triển
2. Các biện pháp tài trợ cho thâm hụt ngân sách
Về cơ bản các biện pháp là “ tăng thu và giảm chi” và các biện
pháp khác: Vay nợ trong nước (vay dân); Vay nợ nước ngoài; Sử dụng
dự trữ ngoại tệ; Vay ngân hàng (in tiền).
2.1. Biện pháp “tăng thu, giảm chi”
Đây là biện pháp mà Chính phủ bằng những quyền hạn và nhiệm
vụ được giao, tính toán hợp lý để tăng các khoản thu như thu từ Thuế
và cắt giảm chi tiêu. Tuy vậy, vấn đề đặt ra là phải tính toán số tăng thu
và giảm chi thế nào để gây ảnh hưởng ít nhất đến tăng trưởng kinh tế à
hệ quả từ mô hính số nhân
5
m=1/(1-MPC) ; mt= -MPC/(1-MPC) ; m+mt = 1 (số nhân ngân sách cân
bằng )
Ý nghĩa : khi chính phủ tăng chi tiêu (G) và tăng thuế (T) một
lượng như nhau thì ngân sách không đổi và sản lượng cân bằng sẽ
tăng một lượng tương ứng ∆Y = ∆G = ∆T
Khi chính phủ tăng chi tiêu

∆Y = x ∆G
Khi đồng thời tăng thuế :
1 MPC
∆Y = x ∆G - x ∆T
1-MPC 1-MPC
Mà ∆G =∆T nên ta có ∆Y = ∆G= ∆T
2.2. Vay nợ trong nước (Vay dân) :
Vay nợ trong nước được Chính phủ thực hiện dưới hình thức phát
hành công trái, trái phiếu. Công trái, trái phiếu là những chứng chỉ ghi
nhận nợ của nhà nước, là một loại chứng khoán hay trái khoán do nhà
nước phát hành để vay các dân cư, các tổ chức kinh tế - xã hội và các
ngân hàng. Ở Việt Nam, Chính phủ thường uỷ nhiệm cho Kho bạc nhà
nước phát hành trái phiếu dưới các hình thức: tín phiếu kho bạc; trái
phiếu kho bạc; trái phiếu công trình.
Năm Số tiền vay trong nước để bù
đắp bội chi ngân sách nhà
nước
6
(đơn vị tính: Tỷ đồng)
2007 43.000
2006 36.000
2005 32.420
2004 27.450
2003 22.895
2002 18.382
Ưu điểm: Đây là biện pháp cho phép Chính phủ có thể du trì việc
thâm hụt ngân sách mà không cần phải tăng cơ sở tiền tệ hoặc giảm dự
trữ quốc tế. Vì vậy, biện pháp này được coi là một cách hiệu quả để kiềm
chế lạm phát.
Hạn chế : Việc tài trợ thâm hụt ngân sách nhà nước bằng nợ tuy

không gây ra lạm phát trước mắt nhưng nó lại có thể làm tăng áp lực lạm
phát trong tương lai nhếu như tỷ lệ nợ trong GDP liên tục tăng. Thứ nữa,
việc vay từ dân trực tiếp sẽ làm giảm khả năng của khu vực tư nhân trong
vviệc tiếp cận tín dụng và gây sức ép làm tăng lãi suất trong nước.
Đặc biệt, ở những nước trải qua giai đoạn lạm phát cao (như nước
ta hiện nay), giá trị thực của trái phiếu chínhphủ giảm nhanh chóng, làm
cho chúng trở nên ít hấp dẫn. Chính phủ có thể sử dụng quyền lực của
mình để buộc các chủ thể khác trong nền kinh tế phải giữ trái phiếu, tuy
nhiên, nếu việc này có dài có thể gây ảnh hướng nghiêm trọng đến uy tín
của Chính phủ và khiến cho việc huy động vốn thông qua kênh này sẽ trở
nên khó khăn hơn vào các năm sau.
2.3. Vay nợ nước ngoài:
7
Chính phủ có thể tài trợ thâm hụt ngân sách bằng các nguồn vốn
nước ngoài thông qua việc nhận viện trước nước ngoài hoặc vay nợ nước
ngoài từ các chính phủ nước ngoài, các định chế tài chính thế giới như
Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát
triển Châu Á (ADB), các tổ chức liên chính phủ, tổ chức quốc tế
Viện trợ nước ngoài là nguồn vốn phát triển của các chính phủ, các
tổ chức liên chính phủ, các tổ chức quốc tế cung cấp cho chính phủ của
một nứoc nhằm thực hiện các chương trình hợp tác phát triển kinh tế xã
hội và hiện nay chủ yếu là nguồn vốn phát triển chính thức ODA.
Vay nợ nước ngoài có thể thực hiện dưới các hình thức: phát hành
trái phiếu bằng ngoaà tệ mạnh ranước ngoài, vay bằng hình thức tín
dụng
Năm Số tiền vay nước ngoài để bù
đắp bội chi ngân sách nhà nước
(đơn vị tính: Tỷ Đồng)
2007 13.500
2006 12.500

2005 8.326
2004 7.253
2003 7.041
2002 7.125
Ưu điểm: nó là một biện pháp tài trợ ngân sách nhà nước hữu hiệu,
có thể bù đắp được các khoản bội chi mà lại không gây sức ép lạm phát
cho nền kinh tế. Đây cũng là một nguồn vốn quan trọng bổ sung cho
nguồn vốn thiếu hụt trong nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội.
8
Nhược điểm: Nó sẽ khiến cho gánh nặng nợ nần, nghĩa vụ trả nợ
tăng lên, giảm khả năng chi tiêu của chính phủ. Đồng thời, nó cũng dễ
khiến cho nền kinh tế trở nên bị phụ thuộc vào nước ngoài. Thậm chí,
nhiều khoản vay, khoản viện trợ còn đòi hỏi kèm theo đó là nhiều các
điều khoản về chính trị, quân sự, kinh tế khiến cho các nước đi vay bị phụ
thuộc nhiều.
2.4. Sử dụng dự trữ ngoại tệ:
Quỹ dự trữ ngọai tệ là lượng ngoại tệ mà ngân hàng trung ương
hoặc cơ quan hữu trách tiền tệ của một quốc gia hoặc một lãnh thổ nắm
giữ dưới dạng ngoại tệ nhằm thanh toán quốc tế hoặc hỗ trợ đồng tiền
quốc gia.
Chính phủ có thể sử dụng việc giảm dự trữ ngoại tệ để tài trợ thâm
hụt ngân sách.
Ưu điểm của việc này là dự trữ hợp lý có thể giúp quốc gia tránh
được khủng hoảng.
Tuy nhiên, việc sử dụng quỹ dự trữ ngoại tệ để tài trợ thâm hụt
ngân sách lại tiềm ẩn nhiều rủi ro và phải hết sức hạn chế sử dụng. Vì nếu
khu vực tư nhân cho rằng nguồn dự trữ ngoại tệ của quốc gia hết sức
mỏng mảnh, thì sự mất niềm tin vào khả năng mà chính phủ có thể can
thiệp vào thị trường ngoại hối có thể dãn đến một dòng vốn ồ ạt chảy ra

thế giới bên ngoài, làm cho đồng nội tệ giảm mạnh giá và làm tăng sức ép
lạm phát. Kết hợp với việc vay nợ nước ngoài ở trên, việc giảm quỹ dự
trữ ngoại tệ cũng sẽ khiến cho tỷ giá hối đoái tăng, làm suy yếu sức cạnh
tranh quốc tế của hàng hoá trong nước.
2.5. Vay ngân hàng (in tiền)
9
Chính phủ khi bị thâm hụt ngân sách sẽ đi vay Ngân hàng Trung
ương để bù đắp. Để đáp ứng nhu cầu này, tất nhiên, Ngân hàng trung
ương sẽ tăng việc in tiền. Điều này sẽ tạo ra thêm cơ sở tiền tệ. Chính vì
vậy, nó được gọi là tiền tệ hoá thâm hụt.
Ưu điểm của biện pháp này là nhu cầu bù tiền để bù đắp ngân sách
nhà nước được đáp ứng một cách nhanh chóng, không phải trả lãi, không
phải gánh thêm các gánh nặng nợ nần.
Nhưng, nhược điểm của biện pháp này lại lớn hơn rất nhiều lần.
Việc in thêm và phát hành thêm tiền sẽ khiến cho cung tiền vượt cầu tiền.
Nó đẩy cho việc lạm phát trở nên không thể kiểm soát nổi. Trong những
năm 80 của thế kỷ 20, nước ta đã bù đắp bội chi ngân sách nhà nước bằng
cách in thêm tiền đưa vào lưu thông. Việc này đã đẩy tỷ lệ lạm phát đỉnh
điểm lên tới hơn 600%, nền kinh tế bị trì trệ
Chính vì những hậu quả đó, biện pháp này rất ít khi được sử dụng.
Và từ năm 1992, nước ta đã chấm dứt hoàn toàn việc in tiền để bù đắp bội
chi ngân sách nhà nước.
2.6. Một số hạn chế khác trong việc bù đắp nhân sách nhà nước ở
Việt Nam
2.6.1- Đi vay trong nước thông qua việc phát hành chứng khoán nợ
của CP:
Do thị trường thứ cấp ở Việt Nam kém phát triển, uy tín tài chính
quốc gia thấp, hình thức và chủng loại chứng khoán nghèo nàn, năng lực
quản lý nợ công còn nhiều hạn chế nên nợ Chính phủ dưới dạng trái
phiếu và tín phiếu kho bạc rất thấp, chiếm khoảng 2,7%GDP. Trong khi

đó, nợ nước ngoài của Chính phủ tính đến 30/6/2994 chiếm 31,5%GDP,
10
điều này đồng nghĩa với việc trong những năm tới nghĩa vụ trả nợ (gốc và
lãi) của Chính phủ tăng, hậu quả là gây áp lực lên tỷ giá hối đoái và cán
cân thanh toán quốc tế, khi đó sẽ tác động tiêu cực lên cân đối tiền tệ của
Ngân hàng Nhà nước. Ngay cả di vay, dường như Chính phủ cũng “sính
ngoại” hơn! Diễn biến thị trường trái phiếu Chính phủ thời gian vừa qua
đã phản ảnh sự yếu kém của quản lý Ngân sách hiện nay, và đó cũng là
kết quả tất yếu của tình trạng thiếu sự đồng bộ giữa chính sách tiền tệ và
chính sách tài khoá.
Sự bất cập còn thể hiện ở việc hàng năm, Ngân hàng Nhà nước
tính toán mức cung ứng tiền, điều tiết khối lượng tiền phải do Chính phủ
phê duyệt. Để tài trợ cho thâm hụt Ngân sách, chính sách tiền tệ cần phải
tính toán kỹ để xác định khối lượng tiền cần bơm, hút, trong khi đó Bộ
Tài chính lại quy định tần suất tiến hành hoạt động các phiên đấu thầu
chứng khoán nợ, quy định lãi suất chứng khoán Chính phủ và lãi suất trái
phiếu phát hành qua Ngân hàng Nhà nước luôn bị đẩy lên tối đa. Điều
này gây khó khăn cho việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng
Nhà nước.
Khi chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá theo đuổi những mục
tiêu khác nhau dẫn tới có sự xung đột ngoài qui luật thị trường. Chính
sách tiền tệ thắt chặt làm giảm lạm phát nhưng có thể làm cho nền kinh tế
phát triển chậm lại, thậm chí dẫn tới suy thoái, dẫn đến nguồn thu Ngân
sách bị giảm, khi đó Chính phủ lại phải đi vay và làm tăng cầu tiền tệ dẫn
đến biến động lãi suất, gây mất ổn định thị trường tài chính. “Vòng tròn”
luẩn quẩn này sẽ mãi là bài toán cực khó gỡ nếu không có một cơ chế
minh bạch hoá theo hướng buộc mối quan hệ nói trên phải tuân thủ
nghiêm ngặt cơ chế quan hệ giữa “con nợ” và “chủ nợ” theo đúng qui luật
thị trường.
11

2.6.2- Chính sách tiền tệ tài trợ thâm hụt Ngân sách thông qua việc
Ngân hàng Nhà nước trực tiếp chi cho Chính phủ vay:
Hàng năm, Ngân hàng Nhà nước vẫn phải cung ứng một lượng
tiền không nhỏ cho NSNN để xử lý thiếu hụt tạm thời quỹ NSNN và
khoản tiền này phải hoàn trả trong năm Ngân sách theo Luật định. Tuy
nhiên thực tế các khoản tạm ứng này thường không có đảm bảo và không
được hoàn trả trong năm theo đúng như luật định. Bên cạnh đó, các khoản
mục cho vay Chính phủ ròng trên bảng cân đối tài sản của Ngân hàng
Nhà nước và bảng cân đối tiền tệ toàn ngành biến động mạnh vì Chính
phủ thường xuyên phát hành trái phiếu, tín phiếu. Theo đó tiền hút về
hoặc bơm ra từ kênh tiền gửi Chính phủ và cho vay Chính phủ tương đối
lớn, mà tiền gửi của Chính phủ tại các NHTM chiếm khoảng 80% tổng
tiền gửi của Chính phủ tại hệ thống Ngân hàng đã hạn chế tới việc kiểm
soát tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước . Khi Chính phủ gửi tiền tại các
NHTM thì lượng tiền này lại có khả năng tạo tiền và do vậy tác động tới
M2 làm cho Ngân hàng Nhà nước khó có thể kiểm soát được. Chính vì
thế ngân hàng Nhà nước sẽ bị động trong quá trình điều hành chính sách
tiền tệ.
2.6.3- Chính sách tiền tệ tài trợ thâm hụt NSNN thông qua việc Ngân
hàng Nhà nước tái cấp vốn cho các NHTM.
Việc Ngân hàng Nhà nước cung ứng tiền để tài trợ cho thâm hụt
NSNN là không nhỏ, song so với khoản tái cấp vốn cho các NHTM NN
được sử dụng cho mục đích Ngân sách có nguy cơ gây nên những tác
động bất lợi cho điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước .
Tính độc lập của Ngân hàng Nhà nước trong bộ máy của Chính phủ còn
hạn chế đã tạo sự phụ thuộc của chính sách tiền tệ vào chính sách tài khoá
là điều không tránh khỏi. Bên cạnh đó, việc phải theo đuổi đa mục tiêu có
12
nhiều khả năng xung đột với nhau trong trung và dài hạn, đặc biệt là ổn
định giá trị đồng tiền và tăng trưởng kinh tế. Chính sách tiền tệ do đó còn

phải chịu sự tác động bởi áp lực và phải neo vào các mục tiêu ngắn hạn
của Chính phủ.
Tuy vậy nhưng ko thể nói là việc thực hiện bù đắp ngân sách
nhà nước chỉ toàn hạn chế chứ ko đạt đc gì và những điều đạt đc đó
thể hiện cụ thể như sau:
Đối với vay nước ngoài, thực hiện chính sách chỉ vay ưu đãi nước
ngoài, không vay thương mại nước ngoài cho đầu tư phát triển. Đối với
những khoản vay thương mại nước ngoài và nợ quá hạn trước đây đã được xử
lý qua Câu lạc bộ Pari và Câu lạc bộ Luân Đôn. Thực hiện xử lý nợ với Nga,
Angiêry, Nhờ thực hiện tốt quá trình cơ cấu lại nợ, cũng như chính sách vay
mới mà dư nợ Chính phủ hiện nay ở mức 35% GDP vào năm 2005, mức an
toàn, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia.
Đối với vay nợ trong nước: hàng năm Ngân sách phải huy động một
khoản tiền nhàn rỗi trong nước tương đối lớn để bù đắp bội chi Ngân
sách. Để việc huy động vốn không ảnh hướng lớn đến thị trường tiền tệ,
đến lãi suất, Bộ Tài chính thực hiện chính sách trước hết thực hiện vay
vốn nhàn rỗi từ các quỹ tài chính Nhà nước như: Quỹ Bảo hiểm xã hội,
Quỹ Tích lũy trả nợ, phần còn thiếu sẽ thực hiện phát hành trái phiếu và
tín phiếu Chính phủ. Đối với tín phiếu (loại thời hạn dưới 1 năm), thực
hiện phối hợp với Ngân hàng Nhà nước đấu thầu (đấu thầu về lãi suất)
qua Ngân hàng Nhà nước, đây là biện pháp vừa để đảm bảo nguồn bù đắp
bội chi cho Ngân sách Nhà nước, đồng thời cũng tạo điệu kiện cho các tổ
chức tín dụng có nguồn vốn nhàn rỗi, chưa cho vay được thực hiện mua
tín phiếu này (kết quả cho thấy trong năm qua nhiều tổ chức tín dụng đã
mua tín phiếu kho bạc).
13
* Tất cả mọi số liệu thống kê ở trên đều có nguồn từ Bộ Tài chính
nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam công bố trên trang web:
www.mof.gov.vn
14

×