Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

phân tích triển vọng và dự phóng báo cáo tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (377.7 KB, 38 trang )

z
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

MÔN PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
Đề tài:
PHÂN TÍCH TRIỂN VỌNG VÀ DỰ PHÓNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH

Giảng viên : PGS - TS. Lê Thị Lanh
Lớp : Cao học TCDN Ngày 2 – K21
Thực hiện : Nhóm 01
TP Hồ Chí Minh, tháng 05 năm 2013
DANH SÁCH NHÓM
STT Họ tên Ghi chú
Trang 2
01. Lê Thị Minh Hương K20
02. Đặng Thị Kiều K20
03. Lu Thúy Lan K20
04. Phan Vũ Phong K20
05. Huỳnh Thị Hoài Trinh K20
06. Võ Thị Tú Trinh K20
07. Phạm Thị Tường Vi K20
08. Vũ Thị Vinh K20
09. Bùi Thị Thanh Xuân K20
10. Trần Thị Hải Yến K20
Trang 3
MỤC LỤC
Trang 4
Các nhà đầu tư giá trị luôn tìm kiếm các công ty được bán với giá thấp hơn giá trị thực của chúng và
họ cũng hy vọng rằng trong tương lai giá trị thực sẽ được nhận biết và sẽ được phản ánh ở giá cổ phiếu


cao hơn. Tuy nhiên để xác định được giá trị tiềm tàng đó thì nhà đầu tư cần kiểm tra triển vọng kinh
doanh của chính công ty một cách cẩn thận. Phân tích triển vọng chính là bộ phận cốt lõi của đầu tư giá
trị. Phân tích triển vọng dựa trên một sự hiểu biết vững chắc về môi trường kinh tế và những nguyên tắc
cơ bản trong kinh doanh. Trên cơ sở đó, những dự báo về hiệu quả hoạt động trong tương lai sẽ được phát
triển tạo ra cơ sở để định giá cổ phiếu. Với tiêu chí là tìm hiểu về phân tích triển vọng của công ty, nội
dung của đề tài này xoay quanh:
• Các yếu tố tác động đến tiềm năng triển vọng của công ty
• Tầm quan trọng của phân tích triển vọng
• Quy trình phân tích triển vọng, trọng tâm là dự phóng báo cáo tài chính
• Minh họa phân tích triển vọng một công ty cụ thể.
I.CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN TIỀM NĂNG TRIỂN VỌNG CỦA DOANH NGHIỆP
Tiềm năng triển vọng của doanh nghiệp là khả năng đạt được thành công trong tương lai của
doanh nghiệp bằng cách dựa trên những nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp như vốn, lao động, kỹ
năng làm việc, trình độ kỹ thuật cũng như tận dụng được các cơ hội bên ngoài.
Tiền năng triển vọng của doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố. Chúng ta có thể nhóm các
yếu tố này thành 2 nhóm lớn :
 Nhóm các yếu tố bên ngoài như: yếu tố kinh tế vĩ mô, chính sách kinh tế, yếu tố văn hóa chính trị, xã
hội, pháp luật, điều kiện tự nhiên và các yếu tố thuộc về vi mô ngành.
 Nhóm các yếu tố bên trong như: giai đoạn phát triển của doanh nghiệp, năng lực quản trị, trình độ
nhân lực, công nghệ, tiềm lực tài chính, thị trường…
I.1. Các yếu tố bên ngoài
a. Các yếu tố kinh tế vĩ mô
Trong điều kiện hội nhập, nền kinh tế thế giới có thể ảnh hưởng đến triển vọng phát triển của công
ty, sự cạnh tranh về giá từ các đối thủ cạnh tranh nước ngoài mà công ty phải đương đầu, hay lợi
nhuận mà công ty đạt được từ đầu tư nước ngoài.
Trang 5
+ Toàn cầu hóa tạo ra các sức ép cạnh tranh, các đối thủ đến từ mọi khu vực. Quá trình hội nhập sẽ
khiến các doanh nghiệp phải điều chỉnh phù hợp với các lợi thế so sánh, phân công lao động của khu
vực và của thế giới.
+ Điều quan trọng là khi hội nhập, các rào cản về thương mại sẽ dần dần được gỡ bỏ, các doanh

nghiệp có cơ hội buôn bán với các đối tác ở cách xa khu vực địa lý, khách hàng của họ lúc này không
chỉ là thị trường nội địa mà còn là các khách hàng đến từ khắp nơi.
Cuộc khủng hoảng toàn cầu trong những năm qua đã cho thấy sự ảnh hưởng của nền kinh tế quốc
tế đến sự phát triển cuả các doanh nghiệp thị trường chứng khoán ảm đảm, hàng loạt các công ty phá
sản…
Kinh tế vĩ mô trong nước cũng tác động trực tiếp các doanh nghiệp và ngành.
+ Tổng sản phẩm quốc nội (GDP): GDP là số đo tổng sản phẩm hàng hóa và dịch vụ của nền
kinh tế được sản xuất trong một thời đoạn. GDP tăng trưởng nhanh sẽ cho thấy nền kinh tế đang mở
rộng sẽ có các cơ hội to lớn cho doanh nghiệp gia tăng doanh số.
+ Lạm phát: Lạm phát là tỷ lệ gia tăng mức giá chung của hàng hóa và dịch vụ. Lạm phát cao
thường gắn liền với những nền kinh tế “quá nóng”, nghĩa là những nền kinh tế có cầu hàng hóa và
dịch vụ vượt xa công suất sản xuất, dẫn đến áp lực tăng giá.
+ Lãi suất: Lãi suất cao làm giảm giá trị hiện tại của dòng tiền tương lai, qua đó làm giảm sức thu
hút của các cơ hội đầu tư. Vì lý do này, lãi suất thực là yếu tố then chốt quyết định chi phí đầu tư kinh
doanh.
+ Tỷ giá: Tỷ giá hối đoái là yếu tố hiển nhiên ảnh hưởng đến sức cạnh tranh quốc tế của các ngành
công nghiệp trong một nước. Sự biến động của chỉ số này cũng có những ảnh hưởng nhất định đối với
chi phí sản xuất và thu nhập của doanh nghiệp khi nhập khẩu nguyên liệu và xuất khẩu ra nước ngoài.
Ví dụ, đối với ngành bia Việt Nam, nguyên liệu nhập chiếm 60-70%. Do đó sản lượng công ty sẽ
phụ thuộc lớn vào nguồn cung nước ngoài và lợi nhuận chịu sự ảnh hưởng của tỷ giá. Chẳng hạn nếu
VND mất giá so với đồng tiền của nước nhập nguyên liệu, công ty phải chi nhiều VND hơn để nhập
nguyên liệu về.
+ Các chính sách kinh tế vĩ mô: chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
Chính sách tài khoá liên quan đến hành động chi tiêu và thu thuế của chính phủ cho mục đích bình
ổn nền kinh tế. Chính sách tài khoá có lẽ là phương thức trực tiếp nhất để kích cầu hoặc làm nền kinh
tế chậm lại. Giảm chi tiêu chính phủ sẽ trực tiếp làm giảm phát cầu hàng hóa và dịch vụ. Tương tự,
việc tăng thuế suất ngay lập tức sẽ bơm hút thu nhập từ người tiêu dùng về phía chính phủ và dẫn đến
Trang 6
giảm tiêu dùng tương đối nhanh. Cách phổ biến để xem tác động của chính sách tài khoá là xem xét
thâm hụt hay thặng dư ngân sách.

Thâm hụt ngân sách là giá trị chi ngân sách vượt quá thu ngân sách của chính phủ. Bất kỳ mức
thiếu hụt ngân sách nào cũng phải được bù đắp bằng vay mượn của chính phủ. Giá trị vay mượn lớn
của chính phủ có thể gây sức ép làm tăng lãi suất thông qua tăng tổng cầu tín dụng trong nền kinh tế.
Các nhà kinh tế tin rằng vay mượn chính phủ thái quá sẽ ‘chèn lấn’ vay mượn tư nhân và đầu tư bằng
cách buộc lãi suất tăng lên và ức chế đầu tư kinh doanh.
Tuy nhiên, thâm hụt lớn có nghĩa chính phủ chi tiêu nhiều hơn đáng kể so với số thu ngân sách qua
hệ thống thuế khóa. Ảnh hưởng ròng là làm tăng cầu hàng hóa (thông qua chi tiêu) nhiều hơn so với
làm giảm cầu hàng hóa (thông qua thu thuế), do đó, kích cầu nền kinh tế.
Chính sách tiền tệ liên quan đến việc điều chỉnh cung tiền để ảnh hưởng đến kinh tế vĩ mô. Chính
sách tiền tệ chủ yếu phát huy tác dụng thông qua tác động đến lãi suất. Tăng cung tiền (chính sách tiền
tệ mở rộng) làm giảm lãi suất ngắn hạn, cuối cùng khuyến khích cầu đầu tư và tiêu dùng. Tuy nhiên,
trong dài hạn, hầu hết các nhà kinh tế tin rằng cung tiền cao hơn chỉ dẫn đến mức giá cao hơn và
không có tác động lâu dài đến hoạt động kinh tế.
+ Chu kỳ kinh tế: là các chu kỳ suy thoái và phục hồi lặp đi lặp lại của nền kinh tế. Trong mỗi
giai đoạn nhất định của chu kỳ nền kinh tế sẽ có những đặc điểm riêng tác động đến hoạt động doanh
nghiệp.
Những ngành theo chu kỳ - nghĩa là những ngành có độ nhạy với trạng thái của nền kinh tế cao
hơn bình quân – sẽ có xu hướng đạt được kết quả hoạt động tốt hơn những ngành khác. Ví dụ về
những ngành theo chu kỳ là những ngành sản xuất hàng hóa lâu bền, như ô tô và máy giặt. Vì việc
mua sắm những hàng hóa này có thể được trì hoãn trong thời kỳ suy thoái, nên doanh số bán hàng đặc
biệt nhạy cảm trước tình hình kinh tế vĩ mô. Những ngành theo chu kỳ khác bao gồm những nhà sản
xuất hàng hóa đầu tư, nghĩa là những hàng hóa được sử dụng bởi các doanh nghiệp khác để sản xuất
sản phẩm của họ. Khi cầu sa sút, ít có công ty nào mở rộng sản xuất và mua sắm hàng hóa đầu tư. Do
đó, ngành sản xuất hàng hóa đầu tư gánh chịu thiệt hại trong thời kỳ suy thoái nhưng làm ăn khấm khá
khi kinh tế mở rộng.
Trái với những công ty theo chu kỳ, những ngành phòng thủ là những ngành ít nhạy cảm trước
chu kỳ kinh tế. Đó là những ngành sản xuất những hàng hóa mà doanh số và lợi nhuận ít nhạy cảm
nhất với trạng thái của nền kinh tế. Các ngành phòng thủ bao gồm các nhà sản xuất và chế biến lương
thực thực phẩm, các hãng dược, và các công ty tiện ích công cộng. Những ngành này sẽ hoạt động tốt
hơn so với những ngành khác khi nền kinh tế bước vào suy thoái.

Trang 7
b. Các yếu tố về thể chế - luật pháp:
Đây là yếu tố có tầm ảnh hưởng lớn tới tất cả các ngành kinh doanh, nó ảnh hưởng đến khả năng
tồn tại và phát triển của bất cứ ngành nào.
• Sự bình ổn trong chính trị, ngoại giao: Thể chế nào có sự bình ổn cao sẽ tạo điều kiện tốt cho việc
hoạt động kinh doanh và ngược lại các thể chế không ổn định, xảy ra xung đột sẽ tác động xấu tới hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp.
• Các chính sách kinh tế của chính phủ: Các chính sách kinh tế thể hiện những ưu đãi, khuyến khích
đối với một số khu vực, hay ngành kinh tế nào đó như giảm thuế, trợ cấp…. Đồng thời chính phủ cũng
có thể đưa ra những biện pháp, chế tài như quy định những ngành, khu vực cấm hay hạn chế kinh
doanh. Chẳng hạn, chính phủ đánh thuế cao đối với các doanh nghiệp kinh doanh các sản phẩm có hại
đối với sức khoẻ người dân như thuốc lá, rượu bia…Hoặc độc quyền quản lý các ngành kinh doanh
đặc biệt như ngành điện,…
Ví dụ: Các sản phẩm bia chịu thuế tiêu thụ đặt biệt, Từ 01/01/2010 đến 31/12/2012: bia hơi: 30%;
bia chai, bia lon, bia tươi: 75%. Tuy nhiên từ 01/01/2013: Các loại bia không phân biệt hình thức đóng
gói đều chịu mức 50%. Điều này sẽ ảnh hưởng cơ cấu sản phẩm của công ty.
• Các luật liên quan: Luật đầu tư, luật doanh nghiệp, luật lao động, luật chống độc quyền, chống bán
phá giá
c.Các yếu tố văn hoá xã hội:
Mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ đều có những giá trị văn hóa và các yếu tố xã hội đặc trưng, và
những yếu tố này là đặc điểm của người tiêu dùng tại các khu vực đó. Ngoài ra, những yếu tố này
cũng khiến cho các doanh nghiệp quan tâm khi nghiên cứu thị trường như chia nhóm khách hàng theo
độ tuổi, thu nhập, điều kiện sống…
d. Yếu tố tự nhiên:
Thời tiết, khí hậu, đất đai, tài nguyên thiên nhiên…các yếu tố này ảnh hưởng nhiều mặt tới nguồn
lực đầu vào cần thiết cho các nhà sản xuất kinh doanh và chúng có thể gây ảnh hưởng cho các hoạt
động marketing trên thị trường của doanh nghiệp.
Trang 8
• Vị trí địa lý có ảnh hưởng đến hoạt động thương mại của doanh nghiệp, liên quan đến chi phí vận
chuyển và khả năng cạnh tranh nhờ lợi thế về mức chi phí vận chuyển thấp.

• Các nguồn tài nguyên thiên nhiên: các doanh nghiệp có nguồn nguyên liệu đầu vào là tài nguyên,
khoáng sản sẽ chịu ảnh hưởng bởi vị trí của nguồn tài nguyên, cũng như sản lượng và các yêu cầu
riêng khi khai thác nguồn tài nguyên đó. Ví dụ các doanh nghiệp khai thác dầu mỏ, than đá cần đặt
nhà máy gần nguồn nguyên liệu nhằm giảm thiểu chi phí vận chuyển, thuận tiện cho việc khai thác và
chế biến nguyên liệu thô; ngoài ra các doanh nghiệp này cần phải đáp ứng các yêu cầu về máy móc,
thiết bị hiện đại nhằm giảm thiểu thất thoát trong quá trình chế biến nguyên liệu.
• Khí hậu, thời tiết có ảnh hưởng đến chu kỳ sản xuất và tiêu dùng trong khu vực, ảnh hưởng đến nhu
cầu về các loại sản phẩm được tiêu dung như các yếu cầu về vấn đề dự trữ, bảo quản.
• Các vấn đề về cân bằng sinh thái ô nhiễm môi trường: liên quan đến những hiện tượng bất thường
của khí hậu thời tiết, ảnh hưởng trực tiếp đến yêu cầu phát triển bền vững và ảnh hưởng đến khả năng
phát triển kinh doanh của doanh nghiệp.
e.Các yếu tố thuộc về vi mô ngành
Bên cạnh các yếu tố nói trên thì những yếu tố thuộc về đặc thù ngành cũng ảnh hưởng trực tiếp
đến tiềm năng triển vọng của doanh nghiệp như Quy mô ngành, tổng tiêu thụ của ngành, tốc độ tăng
trưởng, khả năng sinh lợi bình quân của ngành, triển vọng tăng trưởng của ngành.
• Quy mô ngành có tác động đến tiềm năng của doanh nghiêp. Ngành có quy mô nhỏ, GDP chiếm tỷ
trọng thấp tuy nhiên tốc độ tăng trưởng cao là một trong những điều kiện cho thấy doanh nghiệp trong
ngành còn nhiều tiềm năng để phát triển
• Tổng tiêu thụ của ngành cung cấp toàn cảnh về nhu cầu của thị trường đối với sản phẩm của ngành
từ đó doanh nghiệp có thể đánh giá khả năng tăng trưởng thị phần hay doanh thu trong tương lai
Ví dụ: Việt Nam đứng đầu khu vực Đông Nam Á về mức tiêu thụ bia với gần 2,6 tỉ lít bia trong
năm 2011, vượt xa hai nước đứng ở vị trí tiếp theo là Thái Lan và Philippines. Việt Nam cũng được lọt
vào top 25 quốc gia tiêu thụ Bia mạnh nhất thế giới. Với sức tiêu thụ hàng tỷ lít, cộng với mức tăng
trưởng 11-15%/năm, thị trường bia Việt Nam được dự báo còn tiềm năng tăng trưởng cao, sẽ xếp thứ
ba tại châu Á về sản lượng tiêu thụ, chỉ sau Nhật và Trung Quốc. Sức tiêu thụ khổng lồ này mức độ
cạnh tranh trên thị trường bia Việt Nam tăng với sự xuất hiện của hàng loạt nhãn hiệu bia mới. Chính
vì vậy, từ nhiều năm nay, dù đã có nhiều thương hiệu thất bại, nhưng các hãng bia nước ngoài vẫn tiếp
tục đổ bộ vào thị trường.
Trang 9
(Nguồn: Pomegranate)

• Tốc độ tăng trưởng của ngành qua các giai đoạn của nền kinh tế cũng cho thấy xu hướng và chu kỳ
phát triển của ngành đối với từng thời điểm và độ nhạy của sản phẩm của ngành đối với thị trường.
Ví dụ: Sản xuất bia tại Việt Nam chiếm tỷ trọng doanh thu lớn nhất trong ngành đồ uống có cồn,
chiếm khoảng 89% giá trị và 97,9% về sản lượng. Giai đoạn 2001-2007, ngành bia phát triển rất
nhanh, sản lượng tăng đột biến bì nh quân 13-15% mỗi năm. Lượng bia tiêu thụ bình quân tính theo
đầu người cũng tăng từ 10,04 lít năm 2000 lên 21,65 lít vào năm 2007. Năm 2008 là năm Việt Nam
đạt kỷ lục lạm phát gần 20% nhưng người dân cũng không vì thế mà cắt giảm chi phí nhậu. Là ngành
sản xuất công nghiệp nhẹ, lợi nhuận cao; doanh thu 2011 đạt hơn 60.000 tỷ đồng. Theo Euromonitor,
Quy mô Ngành bia Việt Nam năm 2012 ước đạt 4,6 tỷ USD (chiếm 3,7% GDP), tốc độ bìnnh quân
tăng trưởng là 11-15%.
• Triển vọng tăng trưởng của ngành cho ta thấy khái quát về tiềm năng phát triển của của doanh
nghiệp trong bối cảnh chung của toàn ngành.
Ví dụ: Euromonitor dự báo triển vọng tươi sáng cho ngành bia trong vài năm tới sẽ đến từ châu Á
và châu Phi, sản lượng bia sẽ ghi nhận kỉ lục tỉ lệ tăng trưởng thường niên ở mức 3,8% tại châu Á và
4,6% tại châu Phi trong năm 2012 cho đến năm 2016. Thu nhâp bình quân đầu người tại Việt Nam
tăng (gấp 10 lần từ 1994 đến 2012, đạt gần 1.600 USD) và dân số ở độ tuổi uống bia (20-40 tuổi) được
dự báo tăng 5%/năm, tương đương mức tiêu thụ sẽ tăng thêm 1,7 triệu người đến năm 2015 ; là
những nhân tố giúp Ngành giữ được mức tăng trưởng khá.
• Khả năng sinh lợi bình quân của ngành giúp nhà phân tích xác định lại vị thế của công ty trong môi
trường chung của ngành từ đó có thể đề ra nhưng kế hoạch dự báo phát triển phù hợp đối với ngành
nói chung và công ty nói riêng.
Ví dụ: Theo nghiên cứu của APB, biên lợi nhuận ngành bia Việt Nam cao hơn 50% so với các
nước cùng khu vực Châu Á thái bình dương. Trong hoạt động công nghiệp,ngành bia - rượu - nước
Trang 10
giải khát được đánh giá là có hiệu quả kinh tế cao so với các ngành khác. Từ năm 2001-nay, lợi nhuận
ngành này đã tăng gấp 4 lần với tốc độ tăng trung bình đạt 20-25%/năm. Trong đó, tính theo chuyên
ngành thì sản xuất bia có lợi nhuận cao nhất.
• Các đối thủ cạnh tranh của ngành. Phân tích này giúp cho nhà dự báo hiểu được các đối thủ cạnh
tranh của mình trong thị trường và phân khúc nào là cạnh tranh gay gắt nhất từ đó đề ra những giải
pháp cũng như những dự báo chính xác hơn

Ví dụ: Việt Nam hiện có 350 cơ sở sản xuất bia lớn nhỏ ở khắp các địa phương. Sản xuất bia tập
trung vào một số khu vực chính: Hồ Chí Minh (chiếm 23,2% tổng năng lực sản xuất bia toàn quốc);
Hà Nội: 13,44%, Hải Phòng: 7,47%; Hà Tây: 6,1%, Tiền Giang: 3,79%; Huế: 3,05%; Đà Nẵng:
2,83%. Ngành bia Việt Nam tuy có nguồn cầu lớn nhưng cũng đang cạnh tranh rất là gay gắt giữa các
doanh nghiệp trong nước đặc biệt là phân khúc thị trường trung và cao cấp.
I.2. Các yếu tố bên trong
a. Giai đoạn của doanh nghiệp trong chu kì sống:
Mỗi giai đoạn phát triển có đặc trưng riêng, việc xác định doanh nghiệp đang ở giai đoạn nào sẽ có
tác động đến tiềm năng triển vọng của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ đều phải trải
qua các giai đoạn giống nhau của một vòng đời, thời gian ở mỗi giai đoạn này có thể dài hoặc ngắn
khác nhau. Có 4 giai đoạn của chu kỳ sống:
Trang 11
- Giai đoạn khởi sự: Là giai đoạn mà doanh nghiệp bắt đầu quá trình đưa sản phẩm hoặc dịch vụ ra thị
trường. Doanh nghiệp mới thành lập thường có rủi ro kinh doanh cao, vốn đầu tư hạn chế tuy nhiên
nếu sản phẩm được thị trường chấp nhận và tăng trưởng hiệu quả thì triển vọng tương lai có thể rất
tích cực.
- Giai đoạn tăng trưởng: Đây có thể được xem là giai đoạn doanh nghiệp đã và đang dành thị phần; thu
về những gì đã mất và gặt hái thành quả của mình. Mức lợi nhuận ổn định và tăng trưởng sẽ giúp
doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn với các nguồn vốn mới. Các doanh nghiệp trong giai đoạn tăng
trưởng thường có tiềm năng triển vọng tốt.
- Giai đoạn bão hoà: Doanh thu các dịch vụ hay sản phẩm của doanh nghiệp sẽ đến lúc ổn định tại một
mức mà các sản phẩm cạnh tranh của đối thủ có thể chia sẻ hoặc thay thế được. Nhưng tình huống có
thể xấu hơn khiến cho doanh thu bắt đầu giảm sút, đặc biệt là đối với các sản phẩm mau chóng trở nên
lạc hậu và lỗi thời trước khi chúng được đem ra bán. Do vậy, doanh nghiệp thường có tiềm năng triển
vọng ở mức trung bình hoặc thấp.
- Giai đoạn suy thoái: Đây thực sự là giai đoạn doanh thu giảm sút dần cho đến khi lợi nhuận không
còn. Ở thời gian đầu của giai đoạn suy thoái, mức lợi nhuận vẫn có thể duy trì để hoàn trả các khoản
nợ vay hoặc dùng để chia lại cổ tức cho cổ đông. Song tình trạng này sẽ không kéo dài khi lợi nhuận
dần dần bị co hẹp đến khi biến mất. Đặc biệt, thời điểm trên có khả năng sẽ xuất hiện nhanh hơn dự
kiến nếu thị trường có biến động lớn hoặc doanh nghiệp để khách hàng truyền thống rơi vào tay các

đối thủ cạnh tranh. Triển vọng trong thời kỳ này là âm.
b. Năng lực quản trị:
Một doanh nghiệp không thể tạo ra giá trị gia tăng nếu người lãnh đạo thiếu năng lực, cũng như
doanh nghiệp nào có năng lực quản lý tốt hơn thì khả năng cạnh tranh và hội nhập sẽ tốt hơn. Điều này
đòi hỏi người điều hành phải có:
- Năng lực khống chế, điều phối sản phẩm và thị trường.
- Năng lực bồi dưỡng, quản lý thuộc cấp cao.
- Năng lực phối hợp, giao tiếp với chủ công ty, nhân viên dưới quyền và khách hàng.
- Năng lực chấp hành, chỉ huy công việc; tích cực học tập cầu tiến.
- Đạo đức nghề nghiệp tốt.
- Ngoài ra, một nhà quản trị cần am hiểu về lĩnh vực đầu tư của doanh nghiệp, có thời gian gắn bó càng
dài thì họ càng nắm bắt được doanh nghiệp cần gì, muốn gì và ngành này đang gặp khó khăn như thế
Trang 12
nào? nói một cách khác thì không ai hiểu rõ về doanh nghiệp và ngành bằng họ. Khi đó, nhà quản trị
sẽ có nhiều kinh nghiệm trong việc xử lý các tình huống phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh,
dễ dàng ứng phó với những khó khăn xảy ra khi nền kinh tế suy thoái, hoặc những thông tin bất lợi
cho ngành cũng như doanh nghiệp.
c.Các yếu tố khác:
+ Trình độ công nghệ: Công nghệ mà doanh nghiệp đang sử dụng so với trình độ chung của
ngành trong nước và so với nước ngoài như thế nào (ví dụ so với thang đo của quốc tế thì trình độ
công nghệ này đang ở mức nào…)? Nếu doanh nghiệp phân phối thì khả năng mở rộng hệ thống phân
phối cả chiều rộng và chiều sâu? Nếu quy định của ngành thay đổi về tiêu chuẩn phân phối nâng cao
hơn thì doanh nghiệp có khả năng đầu tư thêm không?
+ Trình độ nhân lực: Ngoài năng lực quản trị của người điều hành cần phải có đội ngũ lao động
có trình độ chuyên môn cao và đây cũng được xem như là yếu tố quyết định năng suất lao động của
doanh nghiệp ở hiện tại và trong tương lai.
Cán bộ tại Sabeco có trình độ đại học và trên đại học chiếm 36,57% tổng số lao động; Tỷ lệ công
nhân kỹ thuật tăng cao: 135 người chiếm 26,26%, trình độ Cao đẳng và trung cấp chiếm tỉ lệ thấp
nhất: 8,95% và 13,62%, Như vậy tỷ lệ lao động ở trình độ trên đại học, đại học và cao đẳng tăng cao.
Đây là một nguồn lực rất quan trọng trong công ty trong hoạt động sản xuất, nâng cao năng suất lao

động làm tăng thu nhập. Bên cạnh đó số lượng công nhân kỹ thuật cũng chiếm tỷ trọng tương đối lớn
là phù hợp với loại hình sản xuất, kinh doanh của công ty.
+ Thương hiệu: Thương hiệu là giá trị không nhìn thấy nhưng một thương hiệu mạnh là cánh cửa
mở ra nhiều cơ hội kinh doanh lớn. Uy tín thương hiệu giúp khách hàng tin tưởng và gắn bó hơn.
+ Sản phẩm, dịch vụ kinh doanh: Sản phẩm còn non trẻ hay đã có thương hiệu trên thị trường?
Sản phẩm có được đầu tư theo xu hướng phát triển chung của thế giới đối với sản phẩm đó hay không,
hay đã lạc hậu và ai cũng sản xuất được? Nhóm sản phẩm chủ lực đóng góp vào tỷ trọng doanh thu có
đáng kể không?
+ Thị trường: Thị phần của doanh nghiệp trong tổng thị phần như thế nào? Thị trường có còn
nhiều tiềm năng chưa khai phá không hay phải sáng tạo ra sản phẩm mới lạ để tạo nhu cầu mới cho thị
trường?…
+ Tiềm lực tài chính: Quy mô tài sản của doanh nghiệp có lớn hay không? Chất lượng tài sản của
doanh nghiệp như thế nào? Khả năng thanh khoản của tài sản như thế nào? Khả năng huy động vốn
của doanh nghiệp như thế nào?. Khả năng sinh lời của doanh nghiệp? Khả năng tăng vốn trong trung
Trang 13
hạn có thực hiện được hay không? Có xu hướng minh bạch hóa tài chính hay không (trở thành công ty
đại chúng…) để tăng khả năng huy động vốn và thu hút nhà đầu tư. Khả năng đi vay? Khả năng tích
lũy và tái đầu tư, đầu tư mở rộng? Khả năng liên doanh, liên kết để tăng tiềm lực tài chính và năng lực
sản xuất kinh doanh…?
Ví dụ: Sacbeco có lịch sử hơn 30 năm hoạt động trong ngành sản xuất chủ lực là bia. Các nhãn
hiệu bia của Sabeco chiếm trọn phân khúc bia phổ thông. Doanh thu hàng năm của công ty tăng
trưởng đều và so với tốc độ tăng trưởng sản lượng của ngành bia (do Bộ Công Nghiệp dự báo) khoảng
15%/năm, ngành bia của SABECO tốc độ tăng trưởng sản lượng tốt hơn rất nhiều tốc độ tăng trưởng
chung của ngành, đạt khoảng trên 20%. Công ty Sabeco chủ yếu nhập khẩu công nghệ sản xuất bia
của Đức, là nước có truyền thống sản xuất bia với công nghệ phát triển và dây chuyền mang lại nhiều
thành tựu đáng kể.
II. PHÂN TÍCH TRIỂN VỌNG – QUY TRÌNH PHÂN TÍCH TRIỂN VỌNG
II.1. Phân tích triển vọng
a. Khái niệm:
Phân tích triển vọng là quá trình xem xét thời kỳ đã qua, nhìn nhận hiện tại và ước tính tình hình

tài chính doanh nghiệp ở tương lai đặt trong một viễn cảnh nhất định. Phân tích triển vọng là bước
cuối cùng trong quá trình phân tích tài chính. Phân tích triển vọng chỉ có thể được thực hiện sau khi
các báo cáo tài chính lịch sử đã được điều chỉnh một cách thích hợp để phản ánh chính xác hiệu quả
kinh tế của công ty. Phân tích triển vọng là việc dự báo những thành quả trong tương lai (thu nhập,
dòng tiền), bao gồm dự báo bảng cân đối kế toán, bảng báo cáo kết quả kinh doanh và báo cáo lưu
chuyển tiền tệ.
b. Mục tiêu của phân tích triển vọng:
 Đánh giá về tiềm năng triển vọng của doanh nghiệp.
 Cụ thể hóa thành quả có thể đạt được trong tương lai thông qua dự phóng báo cáo tài chính
 Đưa ra dự báo trong ngắn hạn và dài hạn có thể ảnh hưởng đến quyết định của các nhà đầu tư và để
hoạch định chiến lược tài chính phù hợp đáp ứng nhu cầu tiềm năng triển vọng của doanh nghiệp.
Trang 14
c.Ý nghĩa của phân tích triển vọng:
Trang 15
+ Đối với doanh nghiệp:
Trang 16
 Là công cụ phân tích năng lực tài chính (quy mô vốn và tài sản, khả năng trả nợ và đầu tư ) và những
giá trị tương lai (doanh thu, lợi nhuận…) có thể đạt được của doanh nghiệp.
Trang 17
 Kiểm tra tính khả thi của các kế hoạch, chiến lược mà công ty đang dự định thực hiện.
Trang 18
 Xem xét hoạt động kinh doanh của công ty có khả năng tạo ra đủ dòng tiền để tài trợ cho tăng trưởng
trong tương lai hay không hay công ty phải tìm nguồn tài trợ từ bên ngoài.
Trang 19
 Đánh giá các kế hoạch chiến lược hiện hành có thu được lợi ích như ban quản lý công ty đã dự báo
không.
Trang 20
 Dự phóng giúp hoạch định và quản trị hoạt động vận hành của doanh nghiệp, đảm bảo doanh nghiệp
đi đúng hướng và hạn chế rủi ro đối mặt với những khó khăn tài chính có khả năng lường trước, tạo
điều kiện nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.

Trang 21
+ Đối với nhà đầu tư:
Trang 22
 Phân tích triển vọng sẽ giúp cho nhà đầu tư có cái nhìn sâu và chi tiết vào năng lực hiện tại cũng như
tiềm năng kinh doanh của doanh nghiệp. Hơn thế nữa, kết quả tính toán tốt trong bản dự báo là những
thông số rất tốt cho các phân tích mở rộng về doanh nghiệp. Tùy theo khẩu vị của nhà đầu tư mà họ sẽ
có chiến lược cho từng doanh nghiệp mà mình phân tích.
Trang 23
 Phân tích triển vọng hữu ích đối với chủ nợ trong việc đánh giá khả năng đáp ứng các yêu cầu trả nợ
của doanh nghiệp. Đặc biệt là đối với chủ nợ cho vay dài hạn (Ngân Hàng), họ quan tâm đến tiềm
năng triển vọng của doanh nghiệp bởi vì khả năng sinh lợi trong dài hạn quyết định đến việc có nên
tiếp tục cho vay nữa hay không?
II.2. Quy trình phân tích triển vọng
Bước 1: Xác định vị thế doanh nghiệp. Phân tích triển vọng được bắt đầu từ việc xác định vị thế
của doanh nghiệp trên cơ sở tổng hợp các yếu tố phân tích môi trường kinh tế vĩ mô, phân tích ngành ,
phân tích chiến lược phân tích kế toán, phân tích tài chính và các yếu tố khác có ảnh hưởng đến hoạt
động của doanh nghiệp để thấy được thế mạnh, rủi ro và khả năng tăng trưởng trong tương lai. Để
đánh giá được triển vọng của doanh nghiệp thì người phân tích phải nắm bắt được:
• Từ chiến lược kinh doanh: Mối quan tâm hiện nay của doanh nghiệp là gì để tập trung vào tái cấu trúc
nhằm gia tăng giá trị cho cổ đông nhờ lợi nhuận biên và doanh số? Suy luận gì có thể rút ra từ nhu cầu
vốn lưu động và chi phí sử dụng vốn?
• Từ phân tích kế toán: Có khía cạnh nào của kế toán cho thấy tài sản và thu nhập quá khứ bị phóng
đại, hoặc chi phí và nợ phải trả bị phóng đại? Nếu có, liệu có hàm ý bên trong nào về các báo cáo tài
chính tương lai?
• Từ phân tích tài chính: Nguyên nhân của những tăng trưởng trong lợi nhuận biên của doanh nghiệp ở
thời điểm phân tích? Tăng trưởng này có được duy trì? Những cải cách hiệu quả được duy trì hay gia
tăng? Liệu Doanh nghiệp có thay đổi chính sách nợ của nó?
Bước 2: Dự phóng báo cáo tài chính. Sau khi xác định được tiềm năng triển vọng, cụ thể hóa
những thay đổi của thu nhập hay dòng tiền tương lai thông qua dự phóng báo cáo tài chính.
Bước 3: Hoạch định chiến lược tài chính phù hợp.

Tuy nhiên, đề tài này chỉ tập trung vào trình bày quy trình dự phóng báo cáo tài chính bao gồm dự
phóng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, dự phóng bảng cân đối kế toán và dự phóng báo cáo lưu
chuyển tiền tệ
II.3. Dự phóng báo cáo tài chính
II.3.1 Kỹ thuật dự phóng
Cách tốt nhất để dự phóng tương lai là tiến hành một cách toàn diện. Tiến hành không chỉ là dự
phóng thu nhập mà còn là dự phóng dòng tiền và bảng cân đối kế toán. Một cách tiếp cận toàn diện sẽ
rất hữu ích, thậm chí trong trường hợp người ta chỉ tập trung vào một khía cạnh, bởi vì nó giúp chống
Trang 24
lại những suy luận thiếu thực tế. Ví dụ, nếu một chuyên viên phân tích dự đoán tăng trưởng doanh số
và thu nhập trong một vài năm tới nhưng không xem xét chi tiết nhu cầu vốn lưu động và tài sản nhà
xưởng và tài sản tài chính liên quan, dự đoán có thể rơi vào vô lý về vòng quay tài sản, đòn bẩy hoặc
vốn cổ phần.
Một cách tiếp cận toàn diện bao gồm rất nhiều dự phóng, nhưng trong hầu hết các trường hợp đều
liên quan đến hành vi của một vài “yếu tố điều khiển”. Những yếu tố này rất khác nhau tùy thuộc vào
ngành kinh doanh, nhưng cho khu vực kinh doanh dịch vụ tài chính, dự phóng doanh số sẽ gần như
luôn là yếu tố điều khiển chính, lợi nhuận biên là một yếu tố điều khiển khác. Khi vòng quay tài sản
được dự đoán là sẽ duy trì, tài khoản vốn lưu động và đầu tư vào nhà máy nên theo sát sự tăng trưởng
doanh số. Hầu hết các chi phí lớn đều di chuyển theo doanh số. Bằng cách liên kết dự phóng với các
dự đoán doanh số, có thể giúp tránh khỏi sự không thống nhất bên trong và các giả định phi thực tế.
II.3.2 Dự phóng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Bước 1: Dự phóng doanh thu
Dự phóng doanh thu là một vấn đề cực kỳ quan trọng, bởi lẽ doanh thu là điểm khởi đầu và chi
phối đến hầu hết các vấn đề tài chính và các hoạt động khác của doanh nghiệp. Vì vậy việc dự báo
doanh thu quá sai lệch sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng.
Dự phóng doanh thu là một quá trình phân tích phức tạp. Bởi vì doanh thu của một doanh nghiệp
chịu sự tác động của một loạt các yếu tố như: triển vọng của nên kinh tế, thị phần và khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp, chính sách giá của doanh nghiệp, chính sách marketing và chính sách tín dụng
thương mại với khách hàng, yếu tố lạm phát…v v… Vì vậy khi phân tích dự phóng, đòi hỏi cần phải
phân tích nhiều khía cạnh sau đây:

• Phân tích xu hướng quá khứ: từ xu hướng của quá khứ có thể giúp người phân tích có một cái nhìn về
hành vi biến đổi của doanh thu trong tương lại. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa rằng doanh thu ở
tương lai sẽ luôn luôn đi theo đúng xu hướng trong quá khứ, mà người phân tích cần phải xoáy sâu
vào những điểm bất thường trong xu hướng quá khứ.
• Mức độ kỳ vọng về hoạt động kinh tế vĩ mô: Dự phóng doanh thu thực chất là một sự đánh giá, một sự
kì vọng về doanh thu trong tương lai. Vì thế, sự kỳ vọng này bắt buộc phải được gắn liền với một sự
kỳ vọng của tình hình kinh tế vĩ mô. Hay nói cách khác, dự phóng doanh thu là một kì vọng về doanh
thu trên một giả thiết về tình hình kinh tế vĩ mô cho trước.
• Bối cảnh cạnh tranh: từ đặc điểm ngành hiện tại mà doanh nghiệp tham gia và tình hình thị trường
hiện tại của doanh nghiệp để dự phóng bối cảnh cạnh tranh trong tương lai. Nếu doanh nghiệp sắp rơi
vào giai đoạn bão hòa thì trong tương lai rất có khả năng có các đối thủ rời bỏ ngành để tham gia
ngành mới. Nếu doanh nghiệp đang trong thời kì kiềm năng thị trường còn rộng lớn, chưa khai thác
Trang 25

×