Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Thực trạng và những kiến nghị về tái cơ cấu đầu tư công ở Việt Nam giai đoạn 2008 - 2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 76 trang )


i
LỜI CAM ĐOAN

Khóa luận tốt nghiệp với đề tài: “Thực trạng và những kiến nghị về tái
cơ cấu đầu tư công ở Việt Nam giai đoạn 2008 - 2009” do em thực hiện dưới
sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Trọng Nghĩa và sự giúp đỡ của lãnh đạo và các
cán bộ Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân - Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Em xin cam
đoan khóa luận tốt nghiệp này là kết quả của quá trình nghiên cứu, tìm tòi và
thu thập số liệu từ các nguồn khác nhau có ghi trong phần tài liệu tham khảo.
Ngoài ra, khóa luận còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá của các tác giả, cơ
quan tổ chức khác và cũng đã được thể hiện trong phần tài liệu tham khảo.
Nếu có gì sai với lời cam đoan trên, em xin chịu toàn bộ trách nhiệm
Hà Nội, tháng 5 năm 2014
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Hồng Dịu









ii
MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU i
Chương 1: Tổng quan về tái cơ cấu đầu tư công 4


1.1. Một số lý luận cơ bản về tái cơ cấu đầu tư công 4
1.1.1. Đầu tư 4
1.1.2. Đầu tư công 4
1.1.3. Cơ cấu đầu tư 6
1.1.4. Tái cơ cấu đầu tư công 7
1.1.4.1. Khái niệm tái cơ cấu đầu tư công 7
1.1.4.2. Các hình thức tái cơ cấu đầu tư công 8
1.1.4.2.1. Tái cơ cấu đầu tư theo các chương trình mục tiêu 8
1.1.4.2.2. Tái cơ cấu theo các dự án đầu tư công 9
1. 2. Phân loại cơ cấu đầu tư công 12
1.2.1. Cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn: 12
1.2.2. Cơ cấu vốn đầu tư 14
1.2.3. Cơ cấu đầu tư phát triển theo ngành 14
1.2.4. Cơ cấu đầu tư phát triển theo địa phương vùng lãnh thổ. 15
1.3. Nguồn vốn, đối tượng, vai trò của tái đầu tư công 15
1.3.1. Nguồn vốn của tái đầu tư công 15
1.3.2. Đối tượng của tái đầu tư công 16
1.3.3. Vai trò của tái đầu tư công 17
1.4. Sự dịch chuyển cơ cấu đầu tư công 18
1.4.1. Định nghĩa 18
1.4.2. Tác động của cơ cấu đầu tư tới sự dịch chuyển của cơ cấu kinh tế18
1.5. Các nhân tố ảnh hưởng tới cơ cấu đầu tư công 20
1.5.1. Nhóm nhân tố nội bộ nền kinh tế 20

iii
1.6. Một số kinh nghiệm từ việc tái cơ cấu đầu tư của một số nước trên
thế giới 21
1.6.1. Trung Quốc 21
1.6.2. Singapore 22
2.1. Tổng quan tình hình đầu tư công ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 201223

2.2.Thực trạng tái cơ cấu đầu tư công giai đoạn 2008 – 2012 25
2.2.1. Tổng mức huy động vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2008 - 201226
2.2.2. Tỷ trọng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội 28
2.2.3. Tái cơ cấu vốn đầu tư công theo nguồn vốn 29
2.2.4.Tái cơ cấu vốn đầu tư công theo ngành 30
2.2.4.1. Ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản 31
2.2.4.2. Đầu tư khu công nghiệp, khu kinh tế 33
2.2.4.3. Cảng biển 35
2.2.4.4. Điện 37
2.2.5. Huy động và sử dụng các nguồn vốn đầu tư công trong giai đoạn
2008 -2012 38
2.2.5.1. Huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển giai đoạn 2008 –
2012 38
2.2.5.2. Huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển trong giai đoạn
2008 – 2012 40
2.2.6. Về phân cấp quản lý đầu tư phát triển 42
2.2.7. Cơ cấu phân bổ vốn cho các vùng, địa phương 42
2.3. Một vài kết quả đạt được và những khó khăn, hạn chế của đầu tư
công trong giai đoạn 2008 – 2012 43
2.3.1. Một vài kết quả đạt được của đầu tư công trong giai đoạn 2008 –
2012 43
2.3.2. Những hạn chế của đầu tư công và nguyên nhân gây kém hiệu
quả 45

iv
2.3.2.1. Những tồn tại và hạn chế của đầu tư công 45
2.3.1.2. Những nguyên nhân gây kém hiệu quả trong việc tái cơ cấu
đầu tư công 49
Chương 3: Các kiến nghị về tái cơ cấu đầu tư công 52
3.1. Kiến nghị về quan điểm, mục tiêu trong việc tái cơ cấu đầu tư công52

3.1.1. Quan điểm về tái cơ cấu đầu tư công 52
3.1.2. Mục tiêu của tái cơ cấu đầu tư công 53
3.2. Kiến nghị về phương hướng tái cơ cấu đầu tư 54
3.2.1. Đối với nguồn vốn ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ và
các nguồn vốn đầu tư có tính chất ngân sách nhà nước. 54
3.2.2. Đối với nguồn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước: 56
3.2.3. Đối với nguồn vốn ODA: 56
3.2.4. Đối với nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước: 57
3.2.5. Đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài 58
3.2.6. Đối với đầu tư của các doanh nghiệp ngoài nhà nước đầu tư của
dân cư: 58
3.3.Kiến nghị giải pháp chủ yếu để thực hiện tái cơ cấu đầu tư 59
3.3.1. Các giải pháp cấp bách trước mắt đối với đầu tư từ ngân sách
nhà nước và trái phiếu Chính phủ. 59
3.3.2. Các giải pháp tái cơ cấu đầu tư trong trung hạn và dài hạn 62
KẾT LUẬN 66
TÀI LIỆU THAM KHẢO 68










v
DANH MỤC VIẾT TẮT
 BOT: là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có

thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng
trong một thời gian nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao không bồi
hoàn công trình đó cho nhà nước Việt Nam.
 CSHT: Cơ sở hạ tầng
 EVN: Tổng công ty điện lực Việt Nam
 FDI: Tốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài
 GDP: tổn sản phẩm quốc nội
 ICOR: Chỉ số phát triển kinh tế
 KCN: Khu công nghiệp
 KKT: Khu kinh tế
 ODA: Vốn hỗ trợ phát triển chính thức
 PPP: Mô hình hợp tác công – tư mà theo đó nhà nước cho phép
tư nhân cùng tham gia đầu tư vào các dịch vụ hoặc công trình công cộng của
nhà nước.




vi
MỤC LỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1: Tốc độ tăng trưởng GDP và CPI trong giai đoạn 2002 – 2012 27
Hình 2.1: Cơ cấu vốn đầu tư thực hiện theo giá hiện hành phân theo thành
phần kinh tế 29
Bảng 2.2: Tốc độ tăng trưởng các nguồn vốn đầu tư công (giá so sánh 2005) 31
Bảng 2.3: Cơ cấu đầu tư công giai đoạn 2005 – 2012 32
Hình 2.2: Biểu đồ tăng trưởng GDP và điện giai đoạn 1992 – 2012 37
Hình 2.3: Đầu tư phân theo nguồn vốn và tỷ lệ so với GDP giai đoạn 2005 –
2012 39
Bảng 2.4: Cân đối vĩ mô giai đoạn 2005 – 2012 40

Bảng 2.5: Hệ số ICOR trung bình các giai đoạn và tốc độ giảm trung bình từ
1996 – 2012 44





1
LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm vừa qua, kinh tế thế giới đã trải qua những giai đoạn
hết sức khó khăn và đối mặt với rất nhiều những thách thức như suy thoái
kinh tế, lạm phát, thất nghiệp. Không đi ngoài xu hướng đó, kinh tế Việt Nam
cũng đã trải qua những thời điểm vô cùng khó khăn với kinh tế vĩ mô còn
nhiều bất ổn khi lạm phát vẫn ở mức cao, thâm hụt ngân sách chưa giảm đáng
kể, tỷ lệ nợ công vẫn chưa được kiểm soát hiệu quả, hệ thống tài chính ngân
hàng kém bền vững chưa hỗ trợ tốt cho nền kinh tế.
Để cải thiện cho tình hình đó, một công cuộc đổi mới nền kinh tế theo
cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được đưa ra thực hiện và
bước đầu đã tạo cơ sở để huy động và sử dụng nguồn vốn cả trong nước và
ngoài nước cho đầu tư phát triển. Kết quả đầu tiên mà công cuộc đổi mới nền
kinh tế đã đạt được đó chính là đưa Việt Nam chính thức trở thành nước có
mức thu nhập trung bình trên thế giới.
Tuy nhiên, việc kéo dài quá lâu mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều
rộng, chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu tư, đặc biệt là đầu tư công hiệu quả thấp,
góp phần khiến nền kinh tế luôn đối diện với những mất cân đối vĩ mô quan
trọng như chênh lệch tiết kiệm - đầu tư, thâm hụt thương mại, thâm hụt ngân
sách trong thời gian dài, tình trạng mất cân đối giữa nhu cầu vốn đầu tư và
khả năng huy động các nguồn vốn, thể hiện rõ nhất là trong đầu tư phát triển

bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ,…
Để khắc phục những tồn tại và hạn chế nêu trên thì tái cấu trúc nền kinh tế
đang là một yêu cầu bức thiết trong bối cảnh hậu khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế toàn cầu giai đoạn 2008 – 2012 và nước ta bước vào giai đoạn phát
triển mới nhằm kiến tạo những nền tảng thể chế và chính sách phù hợp cho bước
phát triển nhanh và bền vững sắp tới. Một trong những nội dung trụ cột của quá
trình tái cấu trúc nền kinh tế là tái cơ cấu đầu tư công. Vì vậy người viết đã lựa




2
chọn đề tài: “ Thực trạng và những kiến nghị về tái cơ cấu đầu tư công ở
Việt Nam giai đoạn 2008 - 2012” làm đề tài nghiên cứu.
Do thời gian nghiên cứu có hạn nên mục đích nghiên cứu của đề tài
này chỉ nhằm đưa ra những lý luận cơ bản nhất về tái cơ cấu đầu tư công ở
Việt Nam giai đoạn 2008 – 2012 và đưa ra một số kiến nghị nhằm thực hiện
việc tái cơ cấu đầu tư công, đồng thời cũng đề cập đến tái cơ cấu đầu tư với
một số các nguồn vốn khác.
2. Các vấn đề khóa luận cần giải quyết
Với mục đích nghiên cứu như trên, khóa luận này tập trung giải quyết
câu hỏi chính được đưa ra là: “ Làm thế nào để tái cơ cấu đầu tư công ở
Việt Nam trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay?”
Để đưa ra câu hỏi cho câu trả lời cho câu hỏi trên, khóa luận lần lượt
giải quyết ba vấn đề nhỏ:
Vấn đề 1: Tái cơ cấu nguồn vốn cho đầu tư công, cụ thể là:
(1) Tỷ trọng các nguồn vốn trong tổng vốn dành cho đầu tư công là bao nhiêu;
(2) Tỷ trọng của đầu tư công trên tổng đầu tư của toàn xã hội là bao nhiêu;
(3) Mối quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư khu vực tư nhân như thế nào?
Vấn đề 2: Tái cơ cấu đầu tư công theo các ngành và lĩnh vực:

(1) Tập trung phân bổ đầu tư vào những ngành nào?
(2) Trong mỗi ngành, đầu tư công nên chú trọng đến những phân ngành nào?
Vấn đề 3: Cần có những điều kiện, thiết chế gì để hỗ trợ quá trình tái
cơ cấu đầu tư công?
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Căn cứ các nghị quyết của hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XI và Nghị quyết Quốc hội, khóa luận tái cơ cấu đầu tư
công nghiên cứu đánh giá tình hình và cơ cấu đầu tư phát triển toàn xã hội
trong thời gian qua; những kết quả đã đạt được trong thời gian trước mắt
và sẽ đạt được trong trung hạn, dài hạn nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư.
Thời gian nghiên cứu khóa luận từ đầu năm 2008 đến tháng 12 năm 2012.




3
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận là một chủ đề nhiên cứu mới, chưa có nhiều tài liệu đề cập
đến do đó tác giả phải tham khảo thêm nhiều tài liệu khác nhau, ở nhiều lĩnh
vực khác nhau như từ sách, báo, internet, nghị quyết của quốc hội, các bộ
luật… trong nước và ngoài nước nên tác giả sử dụng các phương pháp phân
tích lý luận bao gồm phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê và kế thừa
các phương pháp của các chuyên gia và điều tra chọn mẫu.
Người viết sẽ đưa ra nhận xét về thực trạng việc tái đầu tư công ở Việt
Nam và đưa ra một số kiến nghị. Từ đó có thể thấy được tình hình tái cơ cấu
đầu tư công ở Việt Nam và lần lượt đi giải quyết từng câu hỏi phụ nhằm
hướng tới trả lời cho câu hỏi chính của khóa luận.
5. Cấu trúc của khóa luận
Cấu trúc của khóa luận bao gồm ba chương trong đó :
Chương 1: Tổng quan về tái cơ cấu đầu tư công ở Việt Nam.

Chương 2: Thực trạng tái đầu tư công ở Việt Nam.
Chương 3: Các kiến nghị về tái cơ cấu đầu tư công.
Do thời gian có hạn và kiến thức còn hạn chế nên phạm vi điều tra cũng
như việc phân tích, nghiên cứu và tổng hợp phục vụ cho khóa luận còn hạn
hẹp. Vì vậy, những đánh giá đưa ra trong khóa luận này không tránh khỏi
những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự góp ý chân thành từ phía các
thầy cô và các bạn đọc để khóa luận hoàn chỉnh hơn.
Tác giả xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của Ts.
Nguyễn Trọng Nghĩa đã giúp tác giả hoàn thành khóa luận này.
Sinh viên




Nguyễn Thị Hồng Dịu





4
Chương 1: Tổng quan về tái cơ cấu đầu tư công
1.1. Một số lý luận cơ bản về tái cơ cấu đầu tư công
1.1.1. Đầu tư
Đầu tư từ trước tới nay luôn là giải pháp giúp phát triển nền kinh tế của
một đất nước. Thủa xa xưa, người dân đã biết tích trữ lại những sản phẩm dư
thừa, không dùng hết của gia đình mình để mang đổi những sản phẩm của các
gia đình khác. Lâu dần, một số người dân nhận thức được sự tích trữ đầu tư
chờ tới thời điểm có lợi thì tung ra thị trường, đầu tư bắt đầu xuất hiện. Từ đó,
một số người dân đã bỏ vốn ra bằng các tài sản hữu hình (tiền, nhà xưởng,

máy móc,…) hoặc vô hình (phát minh, sáng chế, thương hiệu,…) để kinh
doanh nhằm đạt được lợi ích nào đó chính là đầu tư.
Ngoài ra đầu tư theo kinh tế học vĩ mô còn được hiểu là việc tăng vốn
tư bản nhằm tăng cường sức sản xuất trong tương lai. Hay đầu tư là việc bỏ tư
bản, bỏ vốn động nào đó để đạt được mục đích kinh tế, là hoạt động mang lại
lợi nhuận cho chủ đầu tư. Đầu tư còn được coi là sự hình thành tư bản hoặc
tích lũy tư bản. Trong đó, chỉ ra rằng tư bản trong lĩnh vực tài chính tiền tệ là
kinh doanh bất động sản không được coi là đầu tư.
1.1.2. Đầu tư công
Công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế đang và đã mang lại
nhiều thành tựu cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Đầu tư là một trong
những yếu tố mang lại các thành tựu đó. Hơn nữa việc huy động và sử dụng
vốn đầu tư của nhà nước (đầu tư công) có một ý nghĩa quan trọng cho phát
triển kinh tế, định hướng xã hội.
Đầu tư công là một trong những chính sách phát triển kinh tế - xã
hội rất quan trọng của bất cứ Nhà nước nào, đặc biệt có ý nghĩa đối với những
quốc gia đang trong giai đoạn chuyển đổi và phát triển kinh tế thị trường như
Việt Nam. Có nhiều ý kiến về định nghĩa đầu tư công:




5
Theo một số ý kiến cho rằng việc gia tăng vốn xã hội được gọi là đầu tư
công. Việc tăng vốn xã hội thuộc chức năng của Chính phủ, vì vậy đầu tư
công thường được đồng nhất với đầu tư mà chính phủ thực hiện. Đầu tư công
bao gồm: đầu tư từ ngân sách (phân cho các Bộ, ngành, Trung ương và các
địa phương); đầu tư theo các chương trình hỗ trợ có mục tiêu (thường là các
chương trình mục tiêu trung và dài hạn), cũng được thông qua trong kế hoạch
ngân sách hằng năm, tín dụng đầu tư (vốn cho vay) của Nhà nước có mức độ

ưu đãi nhất định; Đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước, mà phần vốn quan
trọng của doanh nghiệp có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước.
Khái niệm “đầu tư công” còn được hiểu là việc sử dụng nguồn vốn
Nhà nước để đầu tư vào các chương trình, dự án phục vụ phát triển kinh tế -
xã hội không nhằm mục đích kinh doanh.
Đầu tư công bao gồm: Chương trình mục tiêu, dự án phát triển kết cấu
hạ tầng kỹ thuật, kinh tế, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh; các dự án
đầu tư không có điều kiện xã hội hoá thuộc các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã
hội, y tế, khoa học, giáo dục, đào tạo Chương trình mục tiêu, dự án phục vụ
hoạt động của các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội, kể cả việc mua sắm, sửa chữa tài sản cố định bằng vốn
sự nghiệp; Các dự án đầu tư của cộng đồng dân cư, tổ chức chính trị - xã hội -
nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp được hỗ trợ từ vốn nhà nước theo
quy định của pháp luật; Chương trình mục tiêu, dự án đầu tư công khác theo
quyết định của Chính phủ.
Hiện tại "đầu tư công" vẫn được quan niệm một cách khá đơn giản: nó
bao gồm tất cả các khoản đầu tư do chính phủ và các doanh nghiệp thuộc khu
vực kinh tế nhà nước tiến hành. Đầu tư công được xét không phải từ góc độ
mục đích mà từ góc độ tính sở hữu của nguồn vốn dùng để đầu tư. Đầu tư
công là đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước theo quy định của pháp luật hiện
hành, bao gồm: vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng do nhà nước bảo lãnh,
vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, vốn đầu tư phát triển của các




6
doanh nghiệp nhà nước và các vốn khác do nhà nước quản lý. Đây là cách
hiểu phổ biến hơn cả và cũng là đối tượng của chính sách đầu tư của Nhà
nước hiện nay.

Theo dự thảo luật Đầu tư công: đầu tư công là hoạt động đầu tư của
nhà nước vào các chương trình, dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội và đầu tư vào các chương trình, dự án phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Theo cách định nghĩa này thì lĩnh vực đầu tư công sẽ bao gồm: đầu tư
các chương trình dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; đầu tư phục vụ hoạt
động của các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội ở trong nước và ở nước ngoài; đầu tư và hỗ trợ hoạt động
cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích; đầu tư bằng nguồn vốn đầu tư công
trong phần Nhà nước tham gia thực hiện các dự án theo hình thức đối tác
công tư.
Hoạt động đầu tư công bao gồm lập, thẩm định, phê duyệt chủ trương
đầu tư; lập, thẩm định, phê duyệt chương trình, dự án sử dụng vốn đầu tư
công; lập, thẩm định, phê duyệt, giao triển khai thực hiện, theo dõi và đánh
giá, kiểm tra, thanh tra, thực hiện kế hoạch đầu tư công.
1.1.3. Cơ cấu đầu tư
Trước khi đi đến khái niệm cơ cấu đầu tư, cơ cấu kinh tế, cần làm rõ
nội dung của thuật ngữ “cơ cấu”. Cơ cấu hay kết cấu là một phạm trù triết
học phản ánh cấu trúc bên trong của một đối tượng nào đó, kể cả số lượng và
chất lượng, là tập hợp những mối quan hệ cơ bản, tương đối ổn định giữa các
yếu tố cấu thành nên đối tượng đó, trong một thời gian nhất định.
Cơ cấu của một đối tượng được thể hiện bằng hai đặc trưng chính. Đó
là các bộ phận cấu thành nên đối tượng và mối quan hệ giữa các bộ phận cấu
thành đó. Cơ cấu của một đối tượng quyết định tính chất hay năng lực của nó
nhằm thực hiện một chức năng hay mục tiêu nào đó mà đối tượng cần đạt
đến. Với cơ cấu xác định, thì đối tượng có những tính chất nhất định hay có
một năng lực và hạn chế nhất định. Hay nói một cách khác, cấu trúc của đối





7
tượng xác định tính chất và năng lực của nó. Để khắc phục những khuyết tật
do cơ cấu hay tạo ra một năng lực mới và tính chất mới của đối tượng bắt
buộc phải thay đổi cấu trúc của nó.
Cơ cấu đầu tư là cơ cấu các yếu tố cấu thành đầu tư như cơ cấu về vốn,
nguồn vốn, cơ cấu huy động và sử dụng vốn… quan hệ hữu cơ, tương tác qua
lại giữa các bộ phận trong không gian và thời gian, vận động theo hướng
hình thành một cơ cấu đầu tư hợp lý và tạo ra những tiềm lực lớn hơn về mọi
mặt kinh tế-xã hội.
Cơ cấu đầu tư mang tính khách quan, trong nền kinh tế, cơ cấu đầu tư
được thực hiện theo các chiến lược kế hoạch đã được hoạch định trước.
Nhưng không vì thế mà cơ cấu đầu tư mất đi tính khách quan của nó. Mọi sự
vật hiện tượng đều hoạt động theo các quy luật khách quan. Và trong quá
trình sản xuất, cơ cấu đầu tư không ngừng vận động, không ngừng phát triển
theo những quy luật khách quan. Quá trình hình thành và biến đổi cơ cấu đầu
tư ở các nước đều tuân theo nhưng quy luật chung. Một cơ cấu đầu tư hợp lý
phải phản ánh được sự tác động của các quy luật phát triển khách quan.
Từ đây ta có thể suy ra: cơ cấu đầu tư công có thể hiểu là cơ cấu các
yếu tố cấu thành đầu tư như cơ cấu về vốn nhà nước, các nguồn vốn nhà
nước, các hình thức huy động và sử dụng vốn,… quan hệ hữu cơ tương tác
qua lại giữa các yếu tố hình thành nên đầu tư công để tạo ra cho xã hội
những lợi ích tốt hơn nữa về mọi lĩnh vực.
1.1.4. Tái cơ cấu đầu tư công
1.1.4.1. Khái niệm tái cơ cấu đầu tư công
Đa phần những ai khi nghe tới từ “tái cơ cấu đầu tư công” đều sẽ hiểu
rằng đây là làm mới lại cơ cấu phân bổ của các nguồn vốn đầu tư công. Điều
này là đúng nhưng có phần chưa đủ.
Từ lâu nay việc phân bổ các nguồn vốn đầu tư công đều hướng theo
đúng đường lối, phương hướng lãnh đạo phát triển của Thủ tướng, Chính phủ
song việc phân bổ đúng chưa hẳn đã mang lại hiệu quả cao cho việc đầu tư





8
công. Như thực tế cũng đã chứng minh điều như vậy, thế nên song song với
việc phân bổ các nguồn đầu tư công môt cách hợp lý, chúng ta cũng cần thực
hiện các bước cải tiến các chính sách quản lý, quy trình làm việc, tiêu chí
hoàn thành công việc, tiêu chuẩn thực hiện của một dự án đầu tư và có những
hệ thống đánh giá, kiểm soát công việc đầu tư một cách hiệu quả hơn.
Đây cũng chính là việc cải tiến về mặt hình thức cũng như cách quản lý
một dự án đầu tư công để mang lại hiệu quả cao hơn cho nhà nước tránh lãng
phí nguồn lực không cần thiết. Từ đây ta có thể nhìn nhận, việc tái cơ cấu đầu
tư công cần phải làm một cách hoàn chỉnh, “tái” một cách triệt để từ khâu
phân bổ đến khâu quản lý và thực hiện để phát huy hết sức có thể những
nguồn lực “tài chính công” được coi là mạnh nhất của Việt Nam hoàn thành
tốt vai trò của nó.
Trên góc nhìn của nền kinh tế thị trường hiện nay, việc tái cơ cấu
không chỉ nên dành cho mảng đầu tư công mà còn cần tái cơ cấu cả nền kinh
tế khi mà đất nước đang trong tình trạng suy thoái kinh tế, kiệt quệ vì khủng
hoảng kinh tế đang diễn ra.
Các tác động dẫn đến việc tái cơ cấu đầu tư công:
 Tác động bên trong: môi trường kinh tế, chính sách kinh tế, luật
 Tác động bên ngoài: quy mô tăng trưởng, khả năng thu hút vốn đầu tư
từ nước ngoài,…
1.1.4.2. Các hình thức tái cơ cấu đầu tư công
1.1.4.2.1. Tái cơ cấu đầu tư theo các chương trình mục tiêu
Chương trình mục tiêu là tập hợp các dự án đầu tư nhằm thực hiện một
hoặc một số mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội cụ thể của đất nước hoặc của
một vùng lãnh thổ trong một thời gian nhất định.

Chương trình mục tiêu có thể được phân chia theo nhiều cấp độ bao
gồm: chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình mục tiêu cấp tỉnh.




9
Chương trình mục tiêu quốc gia là chương trình đầu tư do Chính phủ
quyết định chủ trương đầu tư để thực hiện một hoặc một số mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội của một vùng lãnh thổ hoặc cả nước trong kế hoạch 5 năm.
Chương trình mục tiêu cấp tỉnh là chương trình đầu tư do Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh quyết định chủ trương đầu tư để thực hiện một hoặc một số
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong kế hoạch 5 năm cấp tỉnh.
Để đạt được mục tiêu “tái cơ cấu đầu tư công” ta cần phải phân loại các
chương trình mục tiêu một cách cụ thể, rõ ràng để xem xét tính khả thi cũng
như sự cần thiết nên hay không nên đầu tư. Nên củng cố chặt chẽ hơn các
bước thiết lập chương trình mục tiêu để sao cho đảm bảo thực hiện đúng
phạm vi, nội dung đầu tư, chất lượng, mức chi phí, thời hạn và các yêu cầu
khác ghi trong quyết định phê duyệt chương trình mục tiêu. Nhà nước có thể
có những chính sách khuyến khích tổ chức và cá nhân tham gia thực hiện
chương trình mục tiêu có giải pháp rút ngắn thời hạn thực hiện, nâng cao chất
lượng và tiết kiệm chi cho đầu tư trong quá trình thực hiện chương trình mục
tiêu dự án đầu tư công.
1.1.4.2.2. Tái cơ cấu theo các dự án đầu tư công
Dự án đầu tư công là dự án đầu tư sử dụng toàn bộ hoặc một phần vốn
đầu tư công.
1

Phân loại dự án đầu tư công
Dự án đầu tư công được phân loại theo tính chất bao gồm dự án đầu tư

có cấu phần xây dựng và dự án đầu tư không có cấu phần xây dựng.
Dự án đầu tư có cấu phần xây dựng là các dự án đầu tư xây dựng mới,
cải tạo, nâng cấp, mở rộng các dự án đã đầu tư xây dựng, bao gồm cả phần
mua tài sản, mua đất đai, mua trang thiết bị của dự án;


1
Theo dự thảo Luật Đầu tư công, mục 8 điều 4




10
Dự án đầu tư không có cấu phần xây dựng là các dự án đầu tư mua tài
sản, mua đất đai, mua trang thiết bị, kể cả thiết bị, máy móc không cần lắp
đặt, dự án sửa chữa, nâng cấp tài sản, thiết bị.
Dự án đầu tư công bao gồm: Dự án quan trọng quốc gia, dự án nhóm
A, nhóm B, nhóm C được phân loại theo tiêu chí quy định:
Dự án đầu tư nhóm A
Các dự án không phân biệt tổng mức đầu tư thuộc lĩnh vực bảo vệ an
ninh, quốc phòng có tính chất bảo mật quốc gia; sản xuất chất độc hại, chất
nổ; hạ tầng khu công nghiệp.
Các dự án đầu tư thuộc lĩnh vực công nghiệp điện, khai thác dầu khí, hoá
chất, phân bón, chế tạo máy, xi măng, luyện kim, khai thác chế biến khoáng sản,
các dự án giao thông (cầu, cảng biển, cảng sông, sân bay, đường sắt, đường quốc
lộ), xây dựng khu nhà ở có tổng mức đầu tư trên 1.500 tỷ đồng.
Các dự án đầu tư thuộc lĩnh vực thuỷ lợi, giao thông (bổ sung các dự án
tại khoản 2 Điều 7 dự thảo Luật Đầu tư công), cấp thoát nước và công trình hạ
tầng kỹ thuật, kỹ thuật điện, sản xuất thiết bị thông tin, điện tử, tin học, hoá
dược, thiết bị y tế, công trình cơ khí khác, sản xuất vật liệu, bưu chính, viễn

thông có tổng mức đầu tư trên 1.000 tỷ đồng.
Các dự án đầu tư thuộc lĩnh vực công nghiệp nhẹ, sành sứ, thuỷ tinh, in,
vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng
thuỷ sản, chế biến nông, lâm, thuỷ sản có tổng mức đầu tư trên 700 tỷ đồng.
Các dự án đầu tư thuộc lĩnh vực y tế, văn hoá, giáo dục, phát thanh,
truyền hình, xây dựng dân dụng khác (trừ xây dựng khu nhà ở), kho tàng, du
lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác có tổng mức
đầu tư trên 500 tỷ đồng.
Dự án đầu tư nhóm B
Các dự án đầu tư thuộc lĩnh vực công nghiệp điện, khai thác dầu khí,
hoá chất, phân bón, chế tạo máy, xi măng, luyện kim, khai thác chế biến




11
khoáng sản, các dự án giao thông (cầu, cảng biển, cảng sông, sân bay, đường
sắt, đường quốc lộ), xây dựng khu nhà ở có tổng mức đầu tư từ 75 đến 1.500
tỷ đồng.
Các dự án đầu tư thuộc lĩnh vực thuỷ lợi, giao thông (trừ các dự án quy
định tại khoản 1 Điều này), cấp thoát nước và công trình hạ tầng kỹ thuật, kỹ
thuật điện, sản xuất thiết bị thông tin, điện tử, tin học, hoá dược, thiết bị y tế,
công trình cơ khí khác, sản xuất vật liệu, bưu chính, viễn thông có tổng mức
đầu tư từ 50 đến 1.000 tỷ đồng.
Các dự án đầu tư thuộc lĩnh vực hạ tầng kỹ thuật khu đô thị mới, công
nghiệp nhẹ, sành sứ, thuỷ tinh, in, vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, sản
xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, chế biến nông, lâm, thuỷ sản có
tổng mức đầu tư từ 40 đến 700 tỷ đồng.
Các dự án đầu tư thuộc lĩnh vực y tế, văn hoá, giáo dục, phát thanh,
truyền hình, xây dựng dân dụng khác (trừ xây dựng khu nhà ở), kho tàng, du

lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác có tổng mức
đầu tư từ 30 đến 500 tỷ đồng.
Dự án đầu tư nhóm C
Các dự án đầu tư thuộc lĩnh vực công nghiệp điện, khai thác dầu khí,
hoá chất, phân bón, chế tạo máy, xi măng, luyện kim, khai thác chế biến
khoáng sản, các dự án giao thông (cầu, cảng biển, cảng sông, sân bay, đường
sắt, đường quốc lộ); các trường phổ thông nằm trong quy hoạch, xây dựng
khu nhà ở có tổng mức đầu tư dưới 75 tỷ đồng.
Các dự án đầu tư thuộc lĩnh vực thuỷ lợi, giao thông trừ các dự án quy
định tại khoản 1 Điều này), cấp thoát nước và công trình hạ tầng kỹ thuật, kỹ
thuật điện, sản xuất thiết bị thông tin, điện tử, tin học, hoá dược, thiết bị y tế,
công trình cơ khí khác, sản xuất vật liệu, bưu chính, viễn thông có tổng mức
đầu tư dưới 50 tỷ đồng.
Các dự án đầu tư thuộc lĩnh vực công nghiệp nhẹ, sành sứ, thuỷ tinh, in,
vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng
thuỷ sản, chế biến nông, lâm, thuỷ sản có tổng mức đầu tư dưới 40 tỷ đồng.




12
Các dự án đầu tư thuộc lĩnh vực y tế, văn hoá, giáo dục, phát thanh,
truyền hình, xây dựng dân dụng khác (trừ xây dựng khu nhà ở), kho tàng, du
lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác có tổng mức
đầu tư dưới 30 tỷ đồng.
1. 2. Phân loại cơ cấu đầu tư công
Có thể có nhiều cách phân loại cơ cấu đầu tư khác nhau khi nghiên cứu
về đầu tư. Sau đây là một số phân loại đầu tư thường gặp:
1.2.1. Cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn:
Đầu tư từ ngân sách nhà nước, bao gốm vốn trong nước và vốn ngoài

nước (vay hỗ trợ phát triển chính thức – ODA đưa vào cân đối ngân sách nhà
nước). Trong tổng số vốn ngân sách nhà nước được chia ra vốn ngân sách
Trung ương và vốn ngân sách địa phương. Vốn ngân sách Trung ương để đầu
tư cho các dự án kết cấu hạ tầng do các bộ, cơ quan Trung ương quản lý và
vốn thực hiện các chương trình vì mục tiêu quốc gia và các chương trình bổ
sung các mục tiêu địa phương.
Trong cơ cấu vốn đầu tư của ngân sách Trung ương hiện nay còn bao
gồm một số khoản chi chung khác, như chi mua hàng dự trữ quốc gia, chi góp
các quỹ, bù lãi suất tín dụng ưu đãi…
Đầu tư từ trái phiếu Chính phủ là nguồn vốn vay của Chính phủ thông
qua phát hành trái phiếu để đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng
quan trọng trong phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội từng thời
kỳ. Hiện nay, nguồn vốn trái phiếu Chính phủ được sử dụng để đầu tư xây
dựng các công trình giao thông, thủy lợi, bệnh viện, kiên cố hóa trường lớp
học và nhà ở công vụ cho giáo viên, ký túc xá sinh viên. Số vốn đầu tư từ
nguồn trái phiếu Chính phủ về mục tiêu, tính chất sử dụng vốn như nguồn vốn
từ ngân sách Trung ương đầu tư theo mục tiêu cho các ngành các địa phương,
nhưng không cân đối và ngân sách nhà nước.
Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là nguồn vốn ưu đãi của
các tổ chức quốc tế và Chính phủ các nước với lãi xuất thấp và thời gian dài




13
chủ yếu để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và bảo vệ môi
trường. Vốn vay ODA được chia ra phần bố trí trong cân đối ngân sách nhà
nước để đầu tư các dự án kết cấu hạ tầng không vốn trực tiếp và phần cho vay
lại đối với các dự án có thể hoàn vốn, như các dự án nguồn điện, lưới điện,
cấp nước sinh hoạt…

Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước: được hình thành
từ hai nguồn vốn trong nước và vốn ngoài nước. Vốn trong nước bao gồm
vốn của Ngân hàng Phát triển Việt Nam và huy động trong nước. Vốn ngoài
nước chủ yếu là nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức hoặc cả nguồn vốn
vay khác của Chính phủ, ủy thác cho Ngân hàng phát triển cho vay.
Đối tượng được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là dự
án đầu tư của doanh nghiệp thuộc các ngành, các vùng lãnh thổ được ưu đãi,
khuyến khích đầu tư.
Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước: được đầu tư theo các
mục tiêu, chức năng của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước và các doanh
nghiệp nhà nước độc lập. Trong phân loại đầu tư, xét về nguồn gốc vốn, thì
đầu tư của doanh nghiệp nhà nước thuộc đầu tư công. Tuy nhiên căn cứ theo
Luật Doanh nghiệp, từ ngày 01/07/2010 doanh nghiệp nhà nước đã chuyển
sang mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và chịu sự điều
chỉnh của Luật Doanh nghiệp, Luật đầu tư và các luật liên quan khác. Vì vậy,
đề nghị không xếp đầu tư của doanh nghiệp nhà nước trong đầu tư công như
trước đây.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: là nguồn vốn đầu tư của các
nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam nhằm mục tiêu kinh doanh thu lợi
nhuận. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm: 100% vốn ước
ngoài, liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh…
Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp ngoài nhà nước và dân cư: là
nguồn vốn của các nhà đầu tư tư nhân và dân cư đầu tư vào sản xuất kinh
doanh với mục tiêu thu lợi nhuận. Trong quá trình đổi mới nền kinh tế những




14
năm qua, đầu tư của khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước và dân cư không

ngừng tăng lên, đóng góp quan trong đối với sự phát triển của nền kinh tế.
1.2.2. Cơ cấu vốn đầu tư
Cơ cấu vốn đầu tư thể hiện quan hệ tỷ lệ giữa từng loại vốn trong tổng
vốn đầu tư xã hội, vốn đầu tư của doanh nghiệp hay của một dự án. Trên thực
tế có một số cơ cấu đầu tư quan trọng cần được chú ý xem xét như cơ cấu vốn
xây lắp và vốn máy móc thiết bị trong tổng vốn đầu tư, cơ cấu vốn đầu tư xây
dựng cơ bản, vốn đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học công nghệ và môi
trường, vốn đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực, những chi phí tạo ra tài sản
lưu động và những chi phí khác như chi phí giành cho quảng cáo, tiếp thị. .
Cơ cấu vốn đầu tư theo quá trình lập và thực hiện dự án như chi phí chuẩn bị
đầu tư, chi phí chuẩn bị thực hiện đầu tư, chi phí thực hiện đầu tư. . . .
1.2.3. Cơ cấu đầu tư phát triển theo ngành
Cơ cấu đầu tư phát triển theo ngành là cơ cấu thực hiện đầu tư cho từng
ngành kinh tế quốc dân cũng như trong từng tiểu ngành. Cơ cấu đầu tư theo
ngành thể hiện việc thực hiện chính sách ưu tiên phát triển, chính sách đầu tư
đối với từng ngành trong một thời kỳ nhất định.
Trong bối cảnh điều kiện kinh tế quốc tế hiện đại thì trong quá trình
công nghiệp hóa của các nước đang phát triển, muốn đạt tăng trưởng cao và
cơ cấu kinh tế tiến bộ, phù hợp thì phải phát triển cân đối các ngành trong nền
kinh tế quốc dân, bao gồm công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ.
Tuy nhiên, ở các nước phát triển có sự hạn chế của các nhân tố phát
triển như: vốn, lao động, kỹ thuật, khoa học công nghệ, thị trường. . .Thực tế
đó không cho phép phát triển cân đối, mà ưu tiên đầu tư phát triển các ngành,
những lĩnh vực có tác dụng như “đầu tàu” lôi kéo toàn bộ nền kinh tế phát
triển. Trong những thời điểm nhất định, các lĩnh vực phải được chọn lọc để
tập trung nguồn lực còn khan hiếm của quốc gia cho việc sử dụng có hiệu quả
. Trong hiện tại và trong tương lai các ngành này có tác động thúc đẩy các
ngành khác tạo đà cho tăng trưởng chung, tạo sự chuyển dịch cơ cấu theo
hướng tích cực.





15
1.2.4. Cơ cấu đầu tư phát triển theo địa phương vùng lãnh thổ.
Cơ cấu đầu tư theo địa phương vùng lãnh thổ là cơ cấu đầu tư vốn theo
không gian. Nó phản ánh tình hình sử dụng nguồn lực địa phương và việc
phát huy lợi thế cạnh tranh của từng vùng.
Khi đầu tư phát triển vùng cần chú ý xem xét các đặc điểm xã hội, các
điều kiện kinh tế, điều kiện tự nhiên nhằm mục đích đảm bảo sự chuyển dịch
đồng bộ, cân đối giữa các vùng đồng thời phát huy được lợi thế so sánh của
từng vùng.
Tuy nhiên việc xây dựng một số vùng kinh tế trọng điểm là cần thiết
nhằm tạo thế và lực trong phát triển nền kinh tế nói chung. Bên cạnh việc xây
dựng các vùng kinh tế trọng điểm trong cơ cấu đầu tư cần coi trọng các quy
hoạch phát triển vùng và địa phương trong cả nước. Đó là một trong các yếu
tố đảm bảo sự phát triển toàn diện giữa các vùng miền, đảm bảo hình thành
một cơ cấu đầu tư và cơ cấu kinh tế hợp lý, có hiệu quả.
1.3. Nguồn vốn, đối tượng, vai trò của tái đầu tư công
1.3.1. Nguồn vốn của tái đầu tư công
Nguồn vốn đầu tư công được quy định tại dự thảo luật Đầu tư công
gồm: vốn ngân sách nhà nước, công trái quốc gia, trái phiếu Chính phủ, trái
phiếu chính quyền địa phương, vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài
trợ nước ngoài (FDI), vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, vốn đầu tư
từ nguồn thu để lại cho đầu tư nhưng chưa đưa vào cân đối ngân sách nhà
nước như thuế, phí và lệ phí, các khoản vốn vay của ngân sách địa phương để
đầu tư.
Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự
toán đã được cơ quan Nhà nước cóa thẩm quyền quyết định và được thực hiện
trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.

“Trái phiếu Chính phủ” là loại trái phiếu do Bộ Tài chính phát hành
nhằm huy động vốn cho ngân sách nhà nước hoặc huy động vốn cho chương
trình, dự án đầu tư cụ thể thuộc phạm vi đầu tư của nhà nước.




16
“Trái phiếu chính quyền địa phương” là loại trái phiếu do Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh)
phát hành nhằm huy động vốn cho công trình, dự án đầu tư của địa phương.
ODA là viết tắt của Official Development Assistance - Vốn hỗ trợ phát
triển chính thức. Đây là một hình thức đầu tư nước ngoài, thường do các nước
phát triển hơn đầu tư vào các nước đang hoặc kém phát triển (dưới dạng các
khoản vay lãi suất thấp hoặc không lãi suất, với thời gian dài hạn) nhằm giúp
các nước này phát triển kinh tế, nâng cao phúc lợi.
FDI là viết tắt của cụm từ Foreign Direct Investment là đầu tư trực tiếp
nước ngoài- là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay tổ chức, công ty của
một nước vào một nước khác bằng cách xây dựng các cơ sở sản xuất, kinh
doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản
xuất kinh doanh này.
Tín dụng nhà nước: là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước,
nước ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính
phủ hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền
phát hành theo quy định của pháp luật.
Thu thuế: Thuế là khoản thu chiếm tỷ trọng lớn nhất tại hầu hết các
quốc gia trên thế giới , không phân biệt chế độ chính trị. Khoản thu này được
xây dựng trên cơ sở trao đổi nghĩa vụ giữa công dân với nhà nước.
Phí và lệ phí: Phí và lệ phí là một nguồn thu thường được đề cập đầu
tiên trong các nguồn thu vốn có của NSNN vì nó trực tiếp gắn với chức năng

cung cấp hàng hóa công
1.3.2. Đối tượng của tái đầu tư công
Đầu tư công là một công cụ giúp cho nhà nước định hướng phát triển
kinh tế và xã hội. Bởi vậy, đầu tư công sẽ hướng tới tất cả các mặt, các vấn đề
được coi là nền tảng của xã hội, phát triển những vấn đề được coi là nền tảng,
cốt lõi của nền kinh tế của đất nước như:




17
Chương trình mục tiêu, dự án phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật, kinh
tế, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh;
Chương trình mục tiêu, dự án phục vụ hoạt động của các cơ quan nhà
nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, kể cả việc
mua sắm, sửa chữa tài sản cố định bằng vốn sự nghiệp.
Các dự án đầu tư của cộng đồng dân cư, tổ chức chính trị - xã hội -
nghề nghiệp được hỗ trợ từ vốn nhà nước theo quy định của pháp luật.
Chương trình mục tiêu, dự án đầu tư công khác theo quyết định của
Chính phủ.
1.3.3. Vai trò của tái đầu tư công
Đầu tư công luôn đi liền với phát triển kinh tế, văn hóa, chính trị, xã
hội của một đất nước nên cũng như vậy ở Việt Nam vai trò đầu tư công gắn
liền với quan niệm về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước nói chung và vai
trò “bà đỡ” của bàn tay nhà nước nói riêng trong quá trình CNH-HĐH theo
yêu cầu phát triển bền vững và bảo đảm an sinh xã hội:
Thúc đẩy quá trình CNH-HĐH, phát triển kinh tế và đảm bảo an sinh
xã hội: Đầu tư công đóng góp lớn vào tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, tạo công ăn việc làm; Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu thì đầu
tư công càng nổi bật vai trò duy trì động lực tăng trưởng kinh tế và góp phần

bảo đảm việc làm và an sinh xã hội thông qua các gói kích cầu của Chính phủ.
Định hình và phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội quốc gia
Gia tăng tổng cầu của xã hội: Đầu tư công chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng đầu tư của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Khi mà tổng cung chưa thay
đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng kéo sản lượng cân bằng và
giá cân bằng cũng tăng.
Gia tăng tổng cung và năng lực kinh tế: Đầu tư công làm tăng năng lực
sản xuất làm tổng cung tăng và sản lượng tăng, giá giảm xuống cho phép tiêu
dùng tăng. Tăng tiêu dùng lại kích thích sản xuất phát triển và làm kinh tế- xã
hội phát triển.




18
Đầu tư mồi, tạo cú huých và duy trì động lực tăng trưởng: Đầu tư công
định vị và củng cố nền kinh tế của VN trong mối quan hệ của khu vực và
quốc tế. Tạo niềm tin và động lực cho các nguồn đầu tư khác vào VN góp
phần tăng trưởng kinh tế.
Tạo việc làm cho xã hội: Một số dự án đầu tư công của nhà nước cũng
tạo được việc làm cho xã hội thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia
tại các vùng kinh tế khó khăn của đất nước.
1.4. Sự dịch chuyển cơ cấu đầu tư công
1.4.1. Định nghĩa
Chuyển dich cơ cấu đầu tư là sự thay đổi của cơ cấu đầu tư từ mức độ
này sang mức độ khác, phối hợp với môi trường và mục tiêu phát triển. Đây
không chỉ là sự thay đổi về vị trí ưu tiên mà còn là sự thay đổi về chất trong
nội bộ cơ cấu và chính sách áp dụng.
Sự thay đổi đó có thể là sự thay đổi về quy mô, phân bố nguồn lực hay
số lượng, chất lượng các ngành trong quá trình phát triển hoặc cũng có thể là

sự thay đổi về quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế
do những biến động trong nền kinh tế như sự xuấ hiện hoặc biến mấ của một
số ngành, tốc độ tăng trưởng của các yếu tố cấu thành cơ cấu đầu tư không
đồng đều, khoa học kỹ thuật phát triển nhanh chóng,…
1.4.2. Tác động của cơ cấu đầu tư tới sự dịch chuyển của cơ cấu
kinh tế
Những yếu tố quyêt định đầu tư sẽ làm ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế
trong tương lai. Nó làm thay đổi số lượng, tỷ trọng của từng bộ phận trong
nền kinh tế, đến lượt nó các bộ phận cấu thành nền kinh tế sẽ hình thành nên
một cơ cấu mới. Cơ cấu này có hiệu quả và tác động tốt tới nền kinh tế hay
không sẽ là một yếu tố quan trọng để đánh giá sự tăng trưởng và phát triển
kinh tế. Cơ cấu kinh tế thay đổi là để nhằm thực hiện những mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội đã đặt ra và những mục tiêu đó có đạt được hay không




19
chính là thước đo cơ bản nhất xác định kết quả, hiệu quả của đầu tư đổi mới
cơ cấu kinh tế và nó cho thấy tầm quan trọng của đầu tư đối với chuyển dịch
cơ cấu kinh tế.
Đầu tư và chuyển dịch cơ cấu đầu tư tác động đến cơ cấu kinh tế trước
hết là ở sự thay đổi số lượng các ngành trong nền kinh tế quốc dân, quyết định
đầu tư làm thay đổi sản lượng tuyệt đối các ngành, tiểu ngành cấu thành nền
kinh tế quốc dân. Cùng với quyết định đầu tư, sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học công nghệ khiến cho các ngành công nghiệp công nghệ cao, dịch vụ chất
lượng cao phát triển mạnh hơn trong khi một số ngành khác lại giảm vai trờ,
tỷ trọng do nhu cầu của xã hội giảm hoặc không còn sức cạnh tranh. Do đó tỷ
trọng các ngành, tiểu ngành trong cơ cấu kinh tế có sự thau đổi, thứ tự ưu tiên
khác nhau và kết quả là hình thành nên một cơ cấu ngành mới. Chính sách

đầu tư vào các ngành có tốc độ phát triển khác nhau sẽ tạo ra sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế tùy mức độ chuyển đổi cơ cấu đầu tư và hiệu quả đầy tư các
ngành đó. Cơ cấu kinh tế sẽ luôn luôn thay đổi theo thời gian. Sự vận động
của cơ cấu đầu tư luôn nhằm hướng tới một cơ cấu kinh tế có hiệu quả để các
ngành, các vùng, các thành phần kinh tế đều phát huy được điểm mạnh, khắc
phục được điểm yếu, bổ sung cho nhau, cùng nhau phát triển và sử dụng tối
ưu các nguồn lực của nền kinh tế.
Cuối cùng hiệu quả của có cấu đầu tư đổi mới cơ cấu kinh tế là làm tăng
hiệu quả cho từng bộ phận của nền kinh tế nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói
chung. Khi xem xét hiệu quả của đầu tư tới cơ cấu kinh tế cần xem xét cả hiệu quả
trực tiếp và hiệu quả gián tiếp. Hiệu quả trực tiếp đó là khi đầu tư vào riêng từng
bộ phận thì bộ phận đó sẽ thu được về sự tăng trưởng mới như gia tăng giá trị tổng
sản lượng, tạo thêm công ăn việc làm,… Hiệu quả gián tiếp đó là không chỉ bộ
phận nhân sự tác động trực tiếp của đầu tư có được những gia tăng mà những
vùng khác, những bộ phận khác cũng phát triển theo. Hoặc trái lại do sự cạnh
tranh nguồn lực, tranh chấp thị trường mà kìm hãm sự phát triển của các bộ phận

×