Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Quản lý nhà nước về thu Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2000 – 2009. Thực trạng và một số giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (575.23 KB, 94 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
MỤC LỤC
Tài liệu đính kèm: Hệ thống biểu mẫu thu BHXH, BHYT bắt buộc ở
Việt Nam (theo Quyết định số 1333/QĐ – BHXH của Tổng giám đốc
Bảo hiểm xã hội Việt Nam)....................................................................3
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG, BIỂU......................................................4
LỜI NÓI ĐẦU........................................................................................1
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI..............................3
1.1. Lý luận chung về bảo hiểm xã hội.......................................................3
1.1.1. Sự cần thiết khách quan của BHXH............................................3
1.1.2. Bản chất của BHXH......................................................................5
1.1.3. Vai trò của BHXH.........................................................................7
1.1.4. Đối tượng của BHXH....................................................................9
1.1.5. Chức năng của BHXH..................................................................9
1.1.6. Tính chất của BHXH..................................................................10
1.1.7. Những nguyên tắc cơ bản của BHXH.......................................11
1.1.8. Những quan điểm cơ bản về BHXH..........................................12
1.1.9. Quỹ BHXH...................................................................................14
1.2. Lý luân chung về quản lý nhà nước về thu BHXH........................16
1.2.1. Khái niệm.....................................................................................16
1.2.2. Mục tiêu của quản lý nhà nước về thu BHXH.........................18
1.2.3. Những nguyên tắc trong thu BHXH..........................................19
1.2.4. Đối tượng của quản lý nhà nước về thu BHXH......................20
1.2.5. Công cụ quản lý nhà nước về thu BHXH..................................21
1.2.6. Những nguồn thu của BHXH.....................................................23
1.2.7. Nội dung quản lý nhà nước về thu BHXH................................24
Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Hoàn
Lớp: BHXH 49
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC


VỀ THU BHXH Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 – 2009.................29
2.1. Quá trình hình thành và phát triển của BHXH Việt Nam.............29
2.2. Thực trạng công tác quản lý nhà nước về thu BHXH ở Việt Nam
giai đoạn 2000 – 2009................................................................................31
2.2.1. Mục tiêu công tác quản lý nhà nước ở Việt Nam giai đoạn này
.................................................................................................................31
2.2.2. Cơ quan quản lý nhà nước về thu BHXH ở Việt Nam giai đoạn
này...........................................................................................................32
2.2.3. Nội dung quản lý nhà nước về thu BHXH ở Việt Nam giai
đoạn 2000 – 2009...................................................................................33
2.2.4. Đánh giá chung công tác quản lý nhà nước về thu ở Việt Nam
giai đoạn này..........................................................................................68
2.2.5. Một số công cụ quản lý nhà nước về thu BHXH ở Việt Nam
giai đoạn 2000-2009...............................................................................70
CHƯƠNG III: MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP
NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ THU BHXH Ở VIỆT NAM...........................................................73
3.1. Định hướng về BHXH Việt Nam ......................................................73
3.1.1. Định hướng về xây dựng chính sách BHXH ............................73
3.1.2. Định hướng về công tác quản lý nhà nước về thu BHXH ở Việt
Nam giai đoạn tới..................................................................................73
3.2 Một số kiến nghị và giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý
nhà nước về thu BHXH ở Việt Nam........................................................74
3.2.1. Một số kiến nghị..........................................................................74
3.2.2 Một số giải pháp...........................................................................80
KẾT LUÂN...........................................................................................88
Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Hoàn
Lớp: BHXH 49
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tài liệu đính kèm: Hệ thống biểu mẫu thu BHXH, BHYT bắt buộc ở Việt Nam

(theo Quyết định số 1333/QĐ – BHXH của Tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt
Nam)
Danh mục tài liệu tham khảo
Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Hoàn
Lớp: BHXH 49
Website: Email : Tel : 0918.775.368
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG, BIỂU
Sơ đồ 1: Sơ đồ bộ máy tổ chức quản lý nhà nước ở Việt Nam..........38
Sơ đồ 2: Quy trình quản lý thu BHXH ở Việt Nam............................40
Bảng 1: Số người tham gia BHXH ở Việt Nam giai đoạn 2000-2009.46
Bảng 2: Tỷ trọng lao động tham gia BHXH so với tổng số lao động
tham gia hoạt động kinh tế của Việt Nam giai đoạn 2000-2009.........48
Bảng 3:Tỷ lệ trích BHXH của người sử dụng lao động và người lao
động
của Việt Nam........................................................................................ 51
Bảng 4: Tình hình thu BHXH Việt Nam giai đoạn 2000-2009...........54
Biểu đồ 1: Biểu đồ biểu diễn số thu BHXH Việt Nam từ 2000-2009..55
Bảng 5: Các đợt điều chỉnh lương ở Việt Nam của chính phủ...........57
Bảng 6: Tình hình thu BHXH bắt buộc tại các khối lao động của Việt
Nam giai đoạn 2000 - 2009...................................................................59
Bảng 7: Tình hình nợ đọng BHXH Việt Nam giai đoạn 2000-2009...62
Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Hoàn
Lớp: BHXH 49
Chuyên đề tốt nghiệp 1
LỜI NÓI ĐẦU
Bảo hiểm xã hội(BHXH) là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đối với
người lao động và gia đình họ với mục đích đảm bảo mức sống tối thiểu cho người
lao động và gia đình khi không may bị mất hoặc giảm thu nhập do ốm đau, thai sản,
mất sức lao động, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, mất việc làm, tuổi già hoặc bị
chết. Ngay từ những ngày đầu thành lập nước, chính sách BHXH đã được chú trọng

thực hiện và ngày càng được hoàn thiện cho phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội
của đất nước.
Từ việc nghiên cứu tình hình triển khai BHXH ở Việt Nam, tôi thấy BHXH
thực sự là một chính sách quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước. Nó không những góp phần ổn định cuộc sống cho người lao
động mà còn thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần đảm bảo an sinh xã hội cho đất
nước, BHXH không ngừng được hoàn thiện cả về chất và lượng. Hiện nay, số lượng
người tham gia và thụ hưởng BHXH không ngừng tăng lên hàng năm, các chế độ
được thực hiện dần tiến tới các chuẩn mực của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO). Đặc
biệt là sự đổi mới quản lý từ cơ chế tập trung, bao cấp sang cơ chế có đóng góp vào
quỹ và quỹ hoạt động theo nguyên tắc cân bằng thu chi qua đó góp phần làm giảm
gánh nặng cho ngân sách nhà nước đồng thời thể hiện trách nhiệm của người lao
động và người sử dụng lao động. Nhà nước đóng vai trò tổ chức thực hiện và quản lý
thông qua BHXH Việt Nam - được tổ chức theo ngành dọc từ Trung ương đến địa
phương.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, BHXH Việt Nam vẫn còn rất nhiều tổn tại
cần khắc phục, sửa chữa cả về nội dung và chính sách thực hiện. Đây là một nhu cầu
thiết yếu, đòi hỏi cần phải được nghiên cứu để ngày càng hoàn thiện chính sách và tổ
chức quản lý của BHXH Việt Nam. Và quản lý nhà nước về thu BHXH là một nội
dung lớn cần được chú trọng và quan tâm vì thu BHXH mà được thực hiện tốt thì
quỹ BHXH mới có thể an toàn, đủ khả năng chi trả khi các sự kiện bảo hiểm xảy ra
từ đó góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
Vì vậy, trong thời gian học tập và nghiên cứu tại Khoa Bảo hiểm – Đại học
Kinh tế Quốc dân và thực tập tại Viện Khoa học BHXH Việt Nam, tôi đã lựa chọn đề
tài: “ Quản lý nhà nước về thu Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2000 – 2009.
Thực trạng và một số giải pháp” với mục đích rút ra được những thành tựu đạt được
Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Hoàn
Lớp: BHXH 49
Chuyên đề tốt nghiệp 2
của công tác quản lý nhà nước về thu BHXH để tiếp tục phát huy và tìm ra được

những tồn tại, hạn chế để có biện pháp khắc phục, góp phần hoàn thiện quá trình
quản lý nhà nước về thu BHXH để phát huy tối đa chức năng BHXH trong thời kì
mới.
Kết cấu của đề tài gồm ba chương:
Chương I: Lý luận chung về BHXH và quản lý nhà nước về BHXH.
Chương II: Thực trạng công tác quản lý nhà nước về thu BHXH ở Việt
Nam giai đoạn 2000-2009.
Chương III: Một số định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện công tác
quản lý nhà nước về thu BHXH ở Việt Nam.
Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Hoàn
Lớp: BHXH 49
Chuyên đề tốt nghiệp 3
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI.
1.1. Lý luận chung về bảo hiểm xã hội
1.1.1. Sự cần thiết khách quan của BHXH
Con người trong xã hội ai cũng phải trải qua quá trình sinh ra, lớn lên, trưởng
thành và chết đi hay nói cách khác là vòng luân hồi: sinh, lão , bệnh, tử. Để có thể tồn
tại và phát triển được thì con người phải được thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu về vật
chất và tinh thần. Muốn vậy, họ phải lao động để làm ra những sản phẩm thiết yếu
đó. Khi sản phẩm làm ra càng nhiều thì đời sống con người sẽ càng đầy đủ và hoàn
thiện hơn. Hay nói cách khác, việc thỏa mãn các nhu cầu sinh sống và phát triển của
con người phụ thuộc vào khả năng lao động của chính bản thân họ: sản phầm làm ra
nhiều thì đời sống ngày càng đầy đủ, tiện nghi hơn, xã hội ngày một văn minh, phát
triển hơn. Tuy nhiên trong quá trình tham gia lao động sản xuất, con người không
phải lúc nào cũng gặp thuận lợi, có thể thỏa mãn được đầy đủ nhu cầu của cuộc sống
mà họ có thể gặp phải rất nhiều rủi ro, bất lợi, khó khăn bất cứ lúc nào như ốm đau,
tai nạn, về già,… gây mất hoặc giảm thu nhập và các điều kiện sinh sống khác. Khi
đó, các nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, thậm chí còn tăng
lên và xuất hiện thêm một số nhu cầu mới như: chi phí khám chữa bệnh khi ốm đau,

người chăm sóc khi về già,… Bởi vậy, ngay từ khi xã hội loài người xuất hiện thì nhu
cầu an toàn đối với con người cũng xuất hiện và nó là một trong những nhu cầu thiết
yếu. Lúc nào con người cũng tìm cách bảo vệ bản thân mình trước những rủi ro trong
cuộc sống và khi rủi ro xảy ra thì phải tìm ra nhiều biện pháp khắc phục. Để khắc
phục những rủi ro, bất hạnh giảm bớt khó khăn cho bản thân và gia đình thì ngoài
việc tự mình khắc phục, người lao động có thể nhận được sự trợ giúp của cộng đồng
thông qua các hình thức như: vay mượn, đi xin, san xẻ, đùm bọc lẫn nhau hoặc dựa
vào sự cứu trợ của Nhà nước. Tuy nhiên, các biện pháp trên đều hoàn toàn thụ động
và không chắc chắn.
Cùng với sự phát triển của xã hội, khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hóa phát
triển, theo đó xuất hiện lao động làm thuê và người làm chủ. Lúc đầu hai giới này bao
giờ cũng rất dễ hòa hợp với nhau bởi vì cả hai giới đều có những nhu cầu riêng của
mình và đều được đáp ứng. Tuy nhiên trong một thời gian ngắn sau đó, giữa hai giới
Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Hoàn
Lớp: BHXH 49
Chuyên đề tốt nghiệp 4
bắt đầu có những mâu thuẫn nảy sinh liên quan đến sự đối xử với nhau khi người lao
động bị ốm đau, bệnh tật,… đặc biệt với những gia đình đông con, hoàn cảnh khó
khăn. Người chủ thì chỉ muốn trả lương cho người lao động khi họ tham gia lao
động trong khi giới thợ thì muốn người chủ phải đảm bảo cho họ một khoản thu nhập
nhất định để họ trang trải cuộc sống tối thiểu cả khi rủi ro xảy ra. Cuối cùng giới chủ
phải cam kết trả cả khoản thu nhập đó. Trong thực tế, không phải lúc nào những rủi
ro trên cũng xảy ra và người chủ không phải chi trả một đồng nào. Nhưng cũng có
khi rủi ro xảy ra dồn dập, người chủ phải bỏ ra một khoản tiền lớn một lúc mặc dù
không muốn. Điều này dẫn đến giới thợ liên kết lại với nhau cùng chống lại giới chủ.
Cuộc đấu tranh này ngày càng diễn ra gay gắt trên diện rộng và ảnh hưởng trực tiếp
tới mọi mặt của nền kinh tế xã hội.
Để khắc phục tình trạng trên, Nhà nước phải đứng ra làm trung gian hòa giải
mâu thuẫn bằng cách huy động một khoản đóng góp từ cả phía chủ và thợ, bản thân
Nhà nước cũng sẽ hỗ trợ một phần để hình thành nên một quỹ tài chính. Quỹ này do

Nhà nước quản lý và sẽ chi trả khi biến cố xảy ra mà không phụ thuộc vào việc giới
chủ có muốn hay không. Nhờ có quỹ này mà đời sống của người lao động và gia đình
họ được đảm bảo khi có rủi ro không may xảy đến với lao động chính trong gia đình.
Ngoài ra nó còn tạo tâm lý ổn định cho người lao động, kích thích tinh thần làm việc
hăng say của họ để hoàn thành công việc một cách tốt nhất. Đồng thời, giới chủ cũng
thấy quyền lợi thiết thực của mình được đảm bảo, không phải lo chi trả những khoản
chi trợ cấp đột xuất cho người lao động khi có rủi ro xảy ra. Như vậy, cả giới chủ và
giới thợ đều cảm thấy mình được bảo vệ.
Từ những vấn đề nêu trên, thế giới quan niệm việc hình thành nguồn quỹ đó và
cách thức quản lý quỹ đó chính là để bảo hiểm xã hội cho người lao động trước hết là
trong trường hợp ốm đau, tai nạn, gia cảnh người lao động gặp khó khăn.
Như vậy, bảo hiểm xã hội(BHXH) ra đời là một tất yếu khách quan để đảm bảo
cho nền kinh tế - xã hội phát triển bình thường. Nó được ra đời khá sớm và được
thực hiện ở tất cả các nước trên thế giới. BHXH là một trong những chính sách cơ
bản nhất của mỗi quốc gia, thể hiện trình độ văn minh, tiềm lực và sức mạnh kinh tế
cũng như khả năng quản lý của quốc gia đó.
*Khái niệm BHXH: Tuy ra đời từ rất sớm và được thực hiện ở tất cả các quốc
gia trên thế giới nhưng hiện nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về BHXH
Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Hoàn
Lớp: BHXH 49
Chuyên đề tốt nghiệp 5
- Từ giác độ pháp luật: BHXH là một chế độ pháp định bảo vệ người lao động,
sử dụng tiền đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động, người lao động
và được sự tài trợ, bảo hộ của Nhà nước, nhằm trợ cấp vật chất cho người được bảo
hiểm và gia đình trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình thường do ốm
đau, tai nạn lao động, thai sản, hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật (hưu)
hoặc chết.
- Từ giác độ tài chính: BHXH là quá trình chia sẻ rủi ro và tài chính giữa những
người tham gia bảo hiểm theo quy định của pháp luật.
- Từ giác độ chính sách xã hội: BHXH là một chính sách xã hội nhằm đảm bảo

đời sống vật chất cho người lao động khi họ không may gặp phải các “rủi ro xã hội”,
nhằm góp phần đảm bảo an toàn xã hội….
-Theo luật BHXH Việt Nam năm 2006: BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù
đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc
chết, trên cơ sở đóng góp vào quỹ BHXH.
-Gần đây, một số quan điểm cho rằng: BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù
đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm
giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc bị mất việc làm, bằng cách hình thành và sử
dụng một quỹ tài chính tập trung do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, nhằm
góp phần đảm bảo an toàn đời sống của người lao động và gia đình họ, góp phần đảm
bảo an toàn xã hội.
1.1.2. Bản chất của BHXH
BHXH ra đời với mục đích bảo đảm một mức sống tối thiểu cho NLĐ và gia
đình họ khi gặp NLĐ gặp phải biến cố gây mất hoặc giảm thu nhập. Tuy có nhiều
khái niệm khác nhau về BHXH nhưng bản chất của BHXH được thể hiện rất rõ ràng
và cụ thể ở những nội dung sau:
- BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng, phức tạp của xã hội, nhất là trong xã
hội mà sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường và quan hệ chủ thợ phát triển đến
một mức độ nhất định. Kinh tế là nền tảng của BHXH do đó, chỉ khi nào nền kinh tế
đạt đến một trình độ nhất định thì BHXH mới ra đời. Một nền kinh tế chậm phát
triển, đời sống nhân dân thấp kém không thể có một hệ thống BHXH vững mạnh
được. Kinh tế càng phát triển kéo theo hệ thống BHXH ngày càng đa dạng, các chế
Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Hoàn
Lớp: BHXH 49
Chuyên đề tốt nghiệp 6
độ BHXH ngày càng mở rộng, các hình thức BHXH ngày càng phong phú nhưng
BHXH không bao giờ vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi nước.
- Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH xuất phát trên cơ sở quan hệ lao động
và quan hệ quản lý xã hội và diễn ra giữa ba bên sau: bên tham gia BHXH( có thể là

NLĐ hoặc cả NLĐ và NSDLĐ: là bên có trách nhiệm đóng góp BHXH theo quy định
của pháp luật), bên bảo hiểm xã hội( bên nhận nhiệm vụ BHXH thường là cơ quan
chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ: là bên nhận sự đóng góp của người lao
động, người sử dụng lao động, lập nên quỹ BHXH. Bên BHXH có trách nhiệm thực
hiện chi trả trợ cấp cho bên được BHXH khi có nhu cầu phát sinh và làm cho quỹ
BHXH phát triển.), bên được BHXH( chính là NLĐ và gia đình họ khi có đủ điều
kiện ràng buộc cần thiết). Giữa các bên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong kinh
tế thị trường, bên tham gia BHXH có thể đồng thời là bên được BHXH (lao động
chẳng hạn). Đối với người lao động độc lập, họ vừa là người tham gia BHXH vừa là
người được quyền hưởng BHXH vì họ đóng phí được BHXH để bảo hiểm cho chính
họ.
- Những biến cố gây mất hoặc giảm khả năng lao động, mất việc làm trong
BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên, không lường trước được như: ốm đau, tai
nạn lao động,… hoặc cũng có thể là những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu
nhiên, có thể dự báo trước được như: tuổi già, thai sản,… Đồng thời những biến cố
này có thể xảy ra trong quá trình lao động hoặc ngoài quá trình lao động của con
người.
- Phần thu nhập của người lao động bị mất hoặc giảm do gặp phải những khó
khăn, biến cố, rủi ro sẽ được thay thế hoặc bù đắp một phần từ một nguồn quỹ tiền tệ
tập trung được tồn tích lại. Quỹ này hình thành do sự đóng góp của bên tham gia
BHXH hoặc các nguồn thu hợp pháp khác của quỹ BHXH. Như vậy, BHXH thực
chất cũng là quá trình phân phối lại thu nhập. Xét trên phạm vi toàn xã hội, BHXH
được coi là một bộ phận của GDP, được xã hội phân phối lại cho những thành viên
của mình khi gặp phải những sự kiện bảo hiểm như ốm đau, thai sản, tuổi già, tai nạn
lao động,… Xét trong nội tại BHXH thì phân phối lại thu nhập được thực hiện cả
theo chiều dọc và chiều ngang. Phân phối theo chiều ngang là sự phân phối của chính
bản thân người lao động theo thời gian (nghĩa là sự phân phối lại thu nhập của quá
trình làm việc và quá trình không làm việc). Phân phối theo chiều dọc là sự phân phối
giữa những người khỏe mạnh cho người ốm đau, bệnh tật; giữa những người trẻ cho
Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Hoàn

Lớp: BHXH 49
Chuyên đề tốt nghiệp 7
người già; giữa những người không sinh đẻ (nam giới) và người sinh đẻ (nữ giới);
giữa những người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp...
- BHXH đảm bảo mục tiêu thỏa mãn nhu cầu thiết yếu cho NLĐ và gia đình họ
trong trường hợp có sự kiện bảo hiểm xảy ra gây mất hoặc giảm thu nhập, mất việc
làm. Mục tiêu này được ILO cụ thể hóa như sau:
+ Đền bù cho NLĐ những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu sống
thiết yếu của họ. Tuy nhiên mức đền bù này luôn nhỏ hơn so với thu nhập của họ khi
đang làm việc.
+ Chăm sóc sức khỏe và chống bệnh tật
+ Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các nhu cầu đặc
biệt của người già, người tàn tật và trẻ em.
Như vậy có thể thấy BHXH góp phần thực hiện mục tiêu đảm bảo an toàn kinh
tế cho NLĐ và gia đình họ. BHXH mang cả bản chất kinh tế và bản chất xã hội,
chúng không tách rời nhau mà đan xen, hòa quyện và tác động lẫn nhau. Khi nói đến
sự bảo đảm kinh tế cho người lao động và gia đình họ là đã nói đến tính xã hội của
BHXH, ngược lại, khi nói tới sự đóng góp ít nhưng lại đủ trang trải mọi rủi ro xã hội
thì cũng đã đề cập đến tính kinh tế của BHXH.
1.1.3. Vai trò của BHXH
1.1.3.1.Vai trò của BHXH đối với người lao động và gia đình của họ
Ở bất kỳ hoàn cảnh, thời điểm nào, rủi ro luôn luôn rình rập, đe doạ cuộc sống
của mỗi người gây gánh nặng cho bản thân người đó, cho cộng đồng và xã hội. Rủi
ro phát sinh hoàn toàn ngẫu nhiên bất ngờ không lường trước được nhưng xét trên
bình diện xã hội, rủi ro là một tất yếu không thể tránh được. Để phòng ngừa và hạn
chế những tác động tiêu cực của rủi ro đối với con người và xã hội là nhiệm vụ, mục
tiêu hoạt động của BHXH. Chúng ta có thể liệt kê một số vai trò của BHXH đối với
cá nhân người lao động và gia đình họ như sau:
- Thứ nhất: BHXH có vai trò ổn định thu nhập cho người lao động và gia đình
họ.

Khi tham gia BHXH, người lao động phải trích một khoản phí nộp vào quỹ
BHXH, khi gặp rủi ro, bất hạnh như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động,… làm cho
chi phí gia đình tăng lên hoặc phải ngừng làm việc tạm thời. Do vậy thu nhập của gia
đình bị giảm, đời sống kinh tế lâm vào tình cảnh khó khăn, túng quẫn. Nhờ có chính
Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Hoàn
Lớp: BHXH 49
Chuyên đề tốt nghiệp 8
sách BHXH mà họ được nhận một khoản tiền trợ cấp đã bù đắp lại phần thu nhập bị
mất hoặc bị giảm để đảm bảo ổn định thu nhập, ổn định đời sống.
- Thứ hai: Ngoài việc đảm bảo đời sống kinh tế, BHXH tạo được tâm lý an tâm,
tin tưởng. Khi đã tham gia BHXH góp phần nâng cao đời sống tinh thần cho người
lao động đem lại cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho nhân dân lao động.
1.1.3.2.Vai trò của BHXH đối với xã hội
- Thứ nhất: Tăng cường mối quan hệ giữa Nhà nước, người sử dụng lao động
và người lao động, mối quan hệ ràng buộc, chặt chẽ, chia sẽ trách nhiệm, chia sẽ rủi
ro chỉ có được trong quan hệ của BHXH. Tuy nhiên mối quan hệ mối quan hệ này thể
hiện trên giác độ khác nhau. Người lao động tham gia BHXH với vai trò bảo vệ
quyền lợi cho chính mình đồng thời phải có trách nhiệm đối với cộng đồng và xã hội.
Người sử dụng lao động tham gia BHXH là để tăng cường tình đoàn kết và cùng chia
sẻ rủi ro cho người lao động nhưng đồng thời cũng bảo vệ, ổn định cuộc sống cho
các thành viên trong xã hội. Mối quan hệ này thể hiện tính nhân sinh, nhân văn sâu
sắc của BHXH.
- Thứ hai: BHXH thể hiện chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp, BHXH tạo cho những
người bất hạnh có thêm những điều kiện, những lực đẩy cần thiết để khắc phục
những biến cố xã hội, hoà nhập vào cộng đồng, kích thích tính tích cực của xã hội
trong mỗi con người giúp họ hướng tới những chuẩn mực của chân-thiện-mỹ nhờ đó
có thể chống lại tư tưởng “Thân ai người ấy lo”. BHXH là yếu tố tạo nên sự hoà
đồng mọi người, không phân biệt chính kiến, tôn giáo, chủng tộc, vị thế xã hội đồng
thời giúp mọi người hướng tới một xã hội nhân ái, cuộc sống công bằng, bình yên.
- Thứ ba: BHXH thể hiện truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau tương thân

tương ái của cộng đồng: Sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng là nhân tố
quan trọng giúp đỡ những người bất hạnh là nhằm hoàn thiện những giá trị nhân bản
của con người, tạo điều kiện cho một xã hội phát triển lành mạnh và bền vững.
- Thứ tư: BHXH góp phần thực hiện bình đẳng xã hội: trên giác độ xã hội,
BHXH là một công cụ để nâng cao điều kiện sống cho người lao động. Trên giác độ
kinh tế, BHXH là một công cụ phân phối lại thu nhập giữa các thành viên trong cộng
đồng. Nhờ sự điều tiết này người lao động được thực hiện bình đẳng không phân biệt
các tầng lớp trong xã hội.
Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Hoàn
Lớp: BHXH 49
Chuyên đề tốt nghiệp 9
1.1.4. Đối tượng của BHXH
Mặc dù ra đời đã rất lâu nhưng đối tượng của BHXH còn có nhiều quan điểm
chưa thống nhất dẫn đến sự nhầm lẫn giữa đối tượng của BHXH với đối tượng tham
gia BHXH.
- Đối tượng của BHXH chính là phần thu nhập của người lao động bị biến
động, giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động do các biến cố như
đã nêu trên từ đó để giúp ổ định cuộc sống của bản thân người lao động và gia đình
họ. Chính vì yếu tố này mà BHXH được coi là một chính sách lớn của mỗi quốc gia
và được Nhà nước quan tâm quản lí chặt chẽ. Cũng tùy vào điều kiện kinh tế của mỗi
nước mà các quy định về đối tượng này là có sự khác nhau nhưng cùng bảo đảm ổn
đình đời sống của người lao động.
- Đối tượng tham gia BHXH là gồm người lao động và cả người sử dụng lao
động. Sở dĩ người lao động phải đóng phí vì chính họ là đối tượng được hưởng
BHXH khi gặp rủi ro. Người sử dụng lao động đóng phí là thể hiện sự quan tâm,
trách nhiệm của họ đối với người lao động. Và sự đóng góp trên là bắt buộc, ngoài ra
còn có sự hỗ trợ của Nhà nước.
1.1.5. Chức năng của BHXH
Chức năng cơ bản nhất của BHXH là thay thế, bù đắp phần thu nhập của người
lao động khi họ gặp những rủi ro làm mất thu nhập do mất khả năng lao động hay

mất việc làm. Rủi ro này có thể làm mất khả năng lao động tam thời hay dài hạn thì
mức trợ cấp sẽ được quy định cho từng trường hợp. Chức năng này quyết định nhiệm
vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH.
Đối tượng tham gia BHXH có cả người lao động và người sử dụng lao động và
cùng phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho người lao động
khi gặp phải rủi ro nhưng số người này thường chiếm số ít. BHXH thực hiện cả phân
phối lại thu nhập theo chiều dọc và chiều ngang, giữa người lao động khoẻ mạnh với
người lao động ốm đau, già yếu..., giữa những người có thu nhập cao phải đóng
nhiều với người có thu nhập thấp phải đóng ít. Như vậy thực hiện chức năng này
BHXH còn có ý nghĩa góp phần thực hiện công bằng xã hội - một mục tiêu quan
trọng trong chính sách kinh tế -xã hội của mỗi quốc gia.
Nhờ có BHXH mà người lao động luôn yên tâm lao động, gắn bó với công việc,
nâng cao năng suất lao động. Từ đó góp phần nâng cao năng suất lao động xã hội, tạo
ra của cải vật chất ngày càng nhiều hơn, nâng cao đời sống toàn xã hội. Nếu trước
Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Hoàn
Lớp: BHXH 49
Chuyên đề tốt nghiệp 10
đây, sự trợ giúp là mang tính tự phát, thì hiện nay khi xã hội đã phát triển, việc trợ
giúp đã được cụ thể hoá bằng các chính sách, quy định của Nhà nước. Sự bảo đảm
này giúp gắn bó mối quan hệ giữa người lao động và xã hội và càng thúc đẩy hơn
nghĩa vụ của họ đối với xã hội.
Trong thực tế giữa người lao động và người sử dụng lao động có những mâu
thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương, tiền công, thời gian lao động... BHXH đã gắn
bó lợi ích giữa họ, đã điều hoà được những mâu thuẫn giữa họ, làm cho họ hiểu nhau
hơn và gắn bó với nhau hơn. Đây cũng là mối quan hệ biện chứng hai bên đều có lợi,
người lao động thì được đảm bảo cuộc sống, người sử dụng thì sẽ có một đội ngũ
công nhân hăng hái, tích cực trong sản xuất. Đối với Nhà nước thì BHXH giúp giảm
thiểu chi phí xã hội nhưng vẫn đạt hiệu quả cao vì đã giải quyết những khó khăn về
đời sống của người lao động và góp phần ổn định sản suất, ổn định kinh tế - xã hội.
1.1.6. Tính chất của BHXH

BHXH gắn liền với đời sống của NLĐ vì vậy nó có một số tính chất cơ bản sau:
-Tính tất yếu khách quan trong đời sống. Như đã phân tích ở trên, BHXH ra đời
là tất yếu khách quan trong đời sống kinh tế, xã hội của mỗi nước.
- BHXH có tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo thời gian và không
gian. Tính chất này thể hiện rất rõ ở những nội dung cơ bản của BHXH. Từ thời điểm
hình thành và triển khai, đến mức đóng góp của các bên tham gia để hình thành quỹ
BHXH. Từ những rủi ro phát sinh ngẫu nhiên theo thời gian và không gian đến mức
trợ cấp BHXH theo từng chế độ cho NLĐ...
- BHXH vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội, đồng thời còn có tính dịch vụ.
+ Tính kinh tế thể hiện rõ nhất là ở chỗ quỹ BHXH muốn được hình thành, bảo
toàn và tăng trưởng phải có sự đóng góp của các bên tham gia và phải được quản lý
chặt chẽ, sử dụng đúng mục đích. Quỹ BHXH chủ yếu dùng để trợ cấp cho NLĐ theo
các điều kiện BHXH. Thực chất phần đóng góp của các bên là không đáng kể, nhưng
quyền lợi nhận được là rất lớn khi gặp rủi ro. Đối với NSDLĐ việc tham gia đóng
góp vào quỹ BHXH là để bảo hiểm cho NLĐ mà mình sử dụng. Xét dươi góc độ kinh
tế, họ cũng có lợi vì điều đó sẽ làm cho quá trình tái sản xuất của họ diễn ra liên tục,
không bị ngắt quãng. Với Nhà nước, BHXH góp phần làm giảm gánh nặng cho ngân
sách, đồng thời quỹ BHXH còn là nguồn đầu tư đáng kể cho nền kinh tế quốc dân.
+ BHXH là bộ phận chủ yếu của hệ thống an sinh xã hội, vì vậy tính xã hội của
nó thể hiện rất rõ. Xét về lâu dài, mọi NLĐ trong xã hội đều có quyền tham gia
Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Hoàn
Lớp: BHXH 49
Chuyên đề tốt nghiệp 11
BHXH. Và ngược lại, BHXH phải có trách nhiệm bảo hiểm cho mọi NLĐ và gia
đình họ, kể cả khi họ còn đang trong độ tuổi lao động. Tính xã hội của BHXH luôn
gắn chặt với tính dịch vụ của nó. Khi nền kinh tế - xã hội ngày càng phát triển thì tính
dịch vụ và tính xã hội hóa của BHXH cũng ngày càng cao.
1.1.7. Những nguyên tắc cơ bản của BHXH
BHXH ra đời như một thực tế khách quan, hoạt động của nó không vì mục tiêu
lợi nhuận theo những nguyên tắc đã được quy định trong pháp luật. Nội dung cụ thể

trong từng Chương, Điều của Luật phải đảm bảo tuân thủ và thể hiện được những
nguyên tắc cơ bản đã được quy định. Nguyên tắc của BHXH trong Luật BHXH Việt
Nam được quy định tại Điều 5 gồm những nội dung sau:
Thứ nhất: Mức hưởng BHXH được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng
BHXH và có chia sẻ giữa những người tham gia BHXH.
Nguyên tắc này được thể hiện trên các mặt sau: có đóng BHXH thì được hưởng
chế độ; thời gian tham gia đóng BHXH nhiều và mức đóng góp cao thì mức trợ cấp
khi gặp rủi ro mới cao và ngược lại. Tuy nhiên, với đặc tính của bảo hiểm thì chia sẻ
giữa những người tham gia là không thể thiếu, nguyên tắc chia sẻ của BHXH được
thể hiện ở tất cả các chế độ, nhưng rõ nết nhất là ở các chế độ: ốm đau, thai sản,
TNLĐ-BNN và trợ cấp thất nghiệp (số đông người tham gia đóng góp để chi trả cho
một số người không may rủi ro hoặc khi sinh sản).
Thứ hai: Mức đóng BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp được tính trên cơ sở
tiền lương, tiền công của người lao động. Mức đóng BHXH tự nguyện được tính trên
cơ sở mức thu nhập do người lao động lựa chọn nhưng mức thu nhập này không thấp
hơn mức lương tối thiểu chung.
Nguyên tắc này quy định người tham gia BHXH bắt buộc phải đóng BHXH
theo tỷ lệ xác định trên cơ sở tiền lương, tiền công mà không đóng BHXH trên mức
thu nhập thực tế như: tiền lương tăng thêm, các khoản phụ cấp khác (trừ phụ cấp
chức vụ, phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề), thu nhập do lương
tăng thêm, do thực hiện chế độ khoán sản phẩm đem lại… Việc quy định nguyên tắc
này vừa đảm bảo cho việc sản xuất, kinh doanh cho các doanh nghiệp được ổn định,
vừa đảm bảo cho thực hiện quản lý thu BHXH trong điều kiện thực tế hiện nay (việc
xác định thu nhập của người lao động còn khó khăn). Đối với BHXH tự nguyện mức
đóng BHXH được quy định trên cơ sở mức thu nhập do người tham gia lựa chọn tùy
khả năng kinh tế của họ nhưng không thấp hơn mức tiền lương tối thiểu, đây là quy
Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Hoàn
Lớp: BHXH 49
Chuyên đề tốt nghiệp 12
định hợp lý nhằm thu hút và tạo điều kiện để đông đảo người lao động trong xã hội

có thể tham gia BHXH đồng thời đảm bảo mức sống cho người lao động khi sự kiện
bảo hiểm xảy ra.
Thứ ba: Trong trường hợp người lao động vừa có thời gian đóng BHXH bắt
buộc vừa có thời gian đóng BHXH tự nguyện thì được hưởng chế độ hưu trí và chế
độ tử tuất trên cơ sở thời gian đóng BHXH.
Với nguyên tắc này, giữa BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện có sự liên
thông, đảm bảo cho người tham gia BHXH khi hết tuổi lao động có nhiều cơ hội
được hưởng chế độ hưu trí do thời gian đóng BHXH được tính bằng tổng thời gian
đóng BHXH của 2 loại hình. Tuy nhiên theo quy định của Luật BHXH Việt Nam thì
trong cùng một thời điểm, người lao động chỉ được tham gia đóng BHXH bắt buộc
hoặc BHXH tự nguyện.
Thứ tư: Quỹ BHXH được quản lý thống nhất, dân chủ, công khai, minh bạch,
được sử dụng đúng mục đích, được hạch toán độc lập theo các quỹ thành phần của
BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp.
Nguyên tắc này nhằm đảm bảo cho việc quản lý, đầu tư quỹ có hiệu quả và
phục vụ cho công tác hạch toán, đánh giá tình hình cân đối quỹ để có điều chỉnh về
chính sách cho phù hợp, đảm bảo cân đối thu – chi, điều chỉnh kịp thời khi các quỹ
thành phần tạm thời bị mất cân đối, không ảnh hưởng đến quyền lợi của người tham
gia BHXH.
Thứ năm: Việc thực hiện BHXH phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo đảm
kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia BHXH.
Với nguyên tắc này, việc thực hiện BHXH đối với người lao động phải được
nghiên cứu để quy định cụ thể về hồ sơ, quy trình, thời hạn giải quyết sao cho phù
hợp, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người lao động, người sử dụng lao động khi
tham gia BHXH và khi giải quyết hưởng các chế độ BHXH.
1.1.8. Những quan điểm cơ bản về BHXH
Khi thực hiện BHXH, mỗi nước sẽ lựa chọn cho mình một mô hình phù hợp với
tình hình phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ, phù hợp với phong tục, tập
quán, khả năng trang trải của nước mình. Tuy nhiên, dù thực hiện theo mô hình nào
đi nữa thì cũng phải nhận thức được các quan điểm cơ bản sau về BHXH :

Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Hoàn
Lớp: BHXH 49
Chuyên đề tốt nghiệp 13
Thứ nhất: BHXH phải được coi là một bộ phận cấu thành và là bộ phận quan
trọng nhất trong chính sách xã hội
Khi BHXH được thực hiện thì công bằng xã hội cũng được thực hiện trên diện
rộng do mục đích chủ yếu của BHXH là đảm bảo cuộc sống cho NLĐ và gia đình họ
khi NLĐ không may gặp phải biến cố gây mất hoặc giảm thu nhập đe dọa đến cuộc
sống của gia đình họ. Hơn nữa, chính sách BHXH còn thể hiện trình độ văn minh,
tiềm lực, sức mạnh kinh tế, khả năng tổ chức và quản lý của mỗi quốc gia. Do đó,
cần phải coi BHXH là bộ phận quan trọng nhất trong chính sách xã hội của quốc gia.
Thứ hai: NSDLĐ phải có nghĩa vụ và trách nhiệm BHXH cho NLĐ.
NSDLĐ phải có nghĩa vụ tham gia, đóng góp vào quỹ BHXH và có trách nhiệm
thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH đối với NLĐ mà mình sử dụng theo đúng pháp
luật quy định. NSDLĐ muốn ổn định và phát triển sản xuất thì bộ phận quan trọng
không thể thiếu đó là NLĐ. Bình thường, NLĐ tham gia lao động thì phải trả lương
cho họ và khi họ không may lâm vào tình trạng khó khăn, ốm đau, tai nạn lao động,
… thì phải có trách nhiệm BHXH cho họ. Chỉ có như vậy, NLĐ mới yên tâm, tích
cực lao động sản xuất góp phần nâng cao NSDLĐ và tăng hiệu quả kinh tế cho DN.
Thứ ba: NLĐ được bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi đối với BHXH.
Bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi đối với BHXH đó là bình đẳng trong quá
trình tham gia và hưởng BHXH. Theo tuyên ngôn nhân quyền đã nêu, mọi người lao
động trong xã hội đều được hưởng BHXH và bình đẳng về nghĩa vụ đóng góp và
quyền lợi trợ cấp BHXH. Khi rủi ro xảy ra, người lao động muốn được BHXH tức là
có sự san sẻ rủi ro của mình cho những người khác thì trước hết tự mình phải gánh
chịu trực tiếp. Điều đó có nghĩa là họ phải có trách nhiệm và nghĩa vụ tham gia
BHXH để tự bảo hiểm cho mình.
Thứ tư: mức trợ cấp BHXH phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tình trạng mất khả
năng lao động, tiền lương lúc đang đi làm, ngành nghề công tác, thời gian công tác,
tuổi thọ bình quân của người lao động, điều kiện kinh tế xã hội trong từng thời kì của

đất nước,… nhưng phải đảm bảo nguyên tắc mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức
lương đang đi làm. Vì nếu mức trợ cấp cao hơn hoặc bằng thì không một người lao
động nào muốn cố gắng tìm việc làm và tích cực làm việc để có lương mà ngược lại
còn lợi dụng BHXH để được nhận trợ cấp. Như vậy, quan điểm này vừa phản ánh
tính cộng đồng xã hội, vừa pản ánh nguyên tắc phân phối lại quỹ BHXH cho những
người tham gia BHXH.
Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Hoàn
Lớp: BHXH 49
Chuyên đề tốt nghiệp 14
Thứ năm: Nhà nước quản lý thống nhất chính sách BHXH và tổ chức bộ máy
thực hiện chính sách BHXH.
BHXH là một bộ phận cấu thành các chính sách xã hội, nó vừa là nhân tố ổn
định, vừa là nhân tố động lực phát triển kinh tế - xã hội nên vai trò của Nhà nước là
vô cùng quan trọng. Thực tế đã chứng minh nếu không có sự quản lý của nhà nước
thì quan hệ giữa NLĐ và NSDLĐ sẽ khó có thể bền vững và mối quan hệ ba bên
trong BHXH sẽ bị phá vỡ. Hơn nữa, BHXH được thực hiện thông qua một quy trình:
từ hoạch định chính sách, giới hạn về đối tượng tham gia, phạm vi bảo hiểm cho đến
đảm bảo tài chính và xét trợ cấp,… Do đó, nhà nước phải quản lý toàn bộ quy trình
này một cách chặt chẽ và thống nhất.
Nhà nước quản lý vấn đề hoạch định chính sách thông qua việc xây dựng các
dự án luật, các văn bản pháp quy về BHXH và ban hành thực hiện. Sau đó, nhà nước
hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra các tổ chức, cá nhân thực hiện chính sách đó.
Đối với việc đảm bảo tài chính cho BHXH thì vai trò của Nhà nước phụ thuộc
vào chính sách BHXH do Nhà nước quy định. Nếu như mô hình về đảm bảo vật chất
cho BHXH do NSDLĐ, NLĐ và Nhà nước đóng góp thì nhà nước đóng vai trò quản
lý. Ngược lại nếu mô hình đảm bảo nguồn trợ cấp do ngân sách nhà nước cung cấp
thì vai trò của Nhà nước là trực tiếp và toàn diện. Để quản lý BHXH, Nhà nước sử
dụng các công cụ chủ yếu như luật pháp, bộ máy quản lý.
1.1.9. Quỹ BHXH
1.9.1.1 Nguồn hình thành quỹ BHXH

Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ độc lập, tập trung nằm ngoài Ngân sách Nhà
nước. Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ sự đóng góp bằng tiền của các bên
tham gia BHXH nhằm mục đích chi trả cho những người được BHXH và gia đình họ
khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập khi gặp các rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập do
mất khả năng lao động hoặc mất việc làm và chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH ở
các cấp, các ngành để đảm bảo cho hệ thống BHXH hoạt động bình thường.
Như vậy, quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng; nó
vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện hay cơ sở vật chất
quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển.
Quỹ BHXH hình thành và hoạt động đã tạo ra khả năng giải quyết những sự kiện,
những “rủi ro xã hội” của tất cả những người tham gia với tổng dự trữ ít nhất, giúp
cho việc dàn trải “rủi ro” được thực hiện theo cả hai chiều không gian và thời gian,
Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Hoàn
Lớp: BHXH 49
Chuyên đề tốt nghiệp 15
đồng thời giúp giảm tối thiểu thiệt hại kinh tế cho người sử dụng lao động, tiết kiệm
chi cho cả ngân sách Nhà nước và ngân sách gia đình.
Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau đây:
- Người lao động đóng góp.
- Người sử dụng đóng góp.
- Nhà nước bù thiếu khi cần thiết.
- Các nguồn thu khác (từ các cá nhân và các tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi đầu tư
vốn nhàn rỗi).
Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn nêu
trên là do:
- Người lao động đóng góp một phần vào quỹ BHXH biểu hiện sự gánh chịu
trực tiếp rủi ro của chính mình mặt khác nó có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền
lợi của họ một cách chặt chẽ.
- Người sử dụng lao động đóng góp một phần quỹ BHXH cho người lao động
một mặt sẽ tránh được những thiệt hại to lớn như đình trệ sản xuất, đào tạo lại lao

động khi có rủi ro xảy ra đối với người lao động đồng thời nó giảm bớt đi sự căng
thẳng trong mối quan hệ vốn chứa đựng đầy những mâu thuẫn, tranh chấp giữa chủ
và thợ.
- Nhà nước tham gia đóng góp một phần vào quỹ BHXH trên cương vị của
người quản lý xã hội về mọi mặt với mục đích phát triển kinh tế và ổn định xã hội.
Do mối quan hệ giữa chủ - thợ có chứa nhiều mâu thuẫn mà hai bên không thể tự giải
quyết được nên nhà nước buộc phải tham gia nhằm điều hoà mọi mâu thuẫn của hai
bên thông qua hệ thống các chính sách, pháp luật. Không chỉ có như vậy nhà nước
còn hỗ trợ thêm vào quỹ BHXH giúp cho hoạt động BHXH được ổn định.
Phương thức đóng góp BHXH của người lao động và người sử dụng lao động
hiện nay vẫn còn tồn tại hai quan điểm.
Quan điểm thứ nhất: là phải căn cứ vào mức lương cá nhân và quỹ lương của cơ
quan, doanh nghiệp.
Quan điểm thứ hai: Phải căn cứ vào thu nhập cơ bản của người lao động được
cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế để xác định mức đóng góp BHXH.
Mức đóng góp BHXH: một số nước quy định người sử dụng lao động phải chịu
toàn bộ chi phí cho chế độ tai nạn lao động. Chính phủ trả chi phí y tế và trợ cấp gia
Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Hoàn
Lớp: BHXH 49
Chuyên đề tốt nghiệp 16
đình, các chế độ còn lại do cả người lao động và người sử dụng lao động đóng góp
mỗi bên một phần như nhau. Một số nước khác lại quy định, chính phủ bù thiếu, cho
quỹ BHXH hoặc chịu toàn bộ chi phí quản lý BHXH...
1.9.1.2. Mục đích sử dụng quỹ BHXH
Quỹ BHXH được sử dụng vào ba mục đích chính, đó là:
Thứ nhất: là chi trả trợ cấp BHXH. Đây là khoản tiền từ quỹ BHXH được bên
BHXH( cơ quan BHXH) chi trả cho NLĐ khi họ gặp phải các sự kiện bảo hiểm như:
giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm, mất khả năng lao động hoặc mất việc làm.
Khoản chi này chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng chi của quỹ BHXH.
Thứ hai: là chi cho quản lý hoạt động BHXH. Đây là khoản chi nhằm trang trải

cho các chi phí quản lý liên quan đến mọi hoạt động của tổ chức BHXH.
Thứ ba: là chi cho hoạt động đầu tư. Đây là khoản chi để thực hiện các hoạt
động đầu tư quỹ tài chính BHXH nhàn rỗi, chẳng hạn như: chi phí giao dịch, chi phí
đi lại,…
1.2. Lý luân chung về quản lý nhà nước về thu BHXH
1.2.1. Khái niệm
1.2.1.1 Quản lý nhà nước
Quản lý nhà nước theo nghĩa rộng : Là hoạt động tổ chức, điều hành của cả bộ
máy nhà nước, nghĩa là bao hàm cả sự tác động ,tổ chức của quyền lực nhà nước trên
các phương diện lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo nghĩa này, quản lý Nhà nước
bao gồm toàn bộ tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước trong mối quan hệ
tương quan của các nhân tố trong xã hội để quản lý có hiệu lực, hiệu quả các công
việc của đất nước.
Theo nghĩa hẹp, Quản lý nhà nước chủ yếu là quá trình tổ chức, điều hành của
hệ thống cơ quan hành chính nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt
động của con người theo pháp luật nhằm đạt được những mục tiêu yêu cầu nhiệm vụ
quản lý nhà nước. Đồng thời, các cơ quan nhà nước nói chung còn thực hiện các hoạt
động có tính chất chấp hành, điều hành, tính chất hành chính nhà nước nhằm xây
dựng tổ chức bộ máy và củng cố chế độ công tác nội bộ của mình. Chẳng hạn ra
quyết định thành lập, chia tách, sát nhập các đơn vị tổ chức thuộc bộ máy của mình;
đề bạt, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức, ban hành quy chế làm việc nội
Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Hoàn
Lớp: BHXH 49
Chuyên đề tốt nghiệp 17
bộ ...Quản lý nhà nước theo nghĩa hẹp này còn đồng nghĩa với khái niệm quản lý
hành chánh nhà nước.
Trong bài viết này, quản lý nhà nước được hiểu theo nghĩa rộng, đó là hoạt
động của chủ thể quyền lực nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp.
1.2.1.2 Quản lý nhà nước về tài chính BHXH
Quản lý Nhà nước về tài chính BHXH là quá trình tác động và điều hành của

Nhà nước đối với việc hình thành và sử dụng quỹ BHXH nhằm đảm bảo việc hình
thành và sử dụng quỹ đúng mục đích, đúng quy định trong việc thực hiện tốt chính
sách BHXH. Đồng thời đảm bảo an toàn tài chính cho BHXH, đảm bảo chi trả đúng
chế độ, đúng đối tượng hưởng theo quy định của Nhà nước.
1.2.1.3 Quản lý nhà nước về thu BHXH.
BHXH là chế độ bồi thường kinh tế, được xây dựng dựa trên sự hỗ trợ lẫn nhau
về kinh tế giữa những người cùng tham gia bảo hiểm, dựa trên sự hỗ trợ của nhà
nước hoặc xã hội về vật chất cho các thành viên trong xã hội khi họ già yếu, mất khả
năng lao động hoặc những điều kiện khó khăn đặc biệt khác.
Xét dưới góc độ tài chính, BHXH hình thành thì việc hình thành và sử dụng quỹ
tiền tệ tập trung là tất yếu trong hệ thống BHXH. Quỹ này được hình thành do sự
đóng góp của người tham gia và Nhà nước chịu trách nhiệm bù thiếu khi cần thiết để
đảm bảo cung cấp đầy đủ vật chất cho những người tham gia khi họ không may rơi
vào tình trạng mất hoặc giảm thu nhập, không thể đảm bảo được cuộc sống cho bản
thân và gia đình.
BHXH là một chính sách kinh tế xã hội lớn và quan trọng của mỗi quốc gia, do
đó phải có sự quản lý hoạt động của BHXH. Và nhà nước có vai trò đặc biệt quan
trọng trong các hoạt động quản lý đó. Việc tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt
động BHXH với mục đích tạo ra một cơ chế, chính sách công bằng, dân chủ đáp ứng
nhu cầu của đại đa số người lao động và đòi hỏi của xã hội, bảo vệ được quyền và lợi
ích hợp pháp của người lao động khi tham gia BHXH. Tăng cường quản lý nhà nước
đối với hoạt động BHXH nhằm xác định rõ trách nhiệm của người sửa dụng lao động
và người lao động trong việc đóng quỹ BHXH và trách nhiệm của nhà nước đối với
hoạt động BHXH. Thông qua hệ thống Luật BHXH làm phương tiện để nhà nước
quản lý, tổ chức thực hiện và kiểm tra giám sát để mọi quan hệ BHXH hình thành,
vận động và phát triển nhằm đạt được hiệu quả cao nhất.
Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Hoàn
Lớp: BHXH 49
Chuyên đề tốt nghiệp 18
Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng

và phức tạp của nền kinh tế đã đặt ra nhiều thách thức và thử thách như: sự lựa chọn,
đào thải lao động của thị trường dẫn đến mất việc làm và người lao động thất nghiệp,
sự biến động phức tạp của thị trường và sản xuất kinh doanh đưa đến cho người lao
động những rủi ro ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ngày một gia tăng. Bất
kì một xã hội nào cũng phải thừa nhận rằng những chi phí phát sinh do những rủi ro
này gây ra không chỉ do trách nhiệm của bản thân người lao động mà còn có trách
nhiệm của toàn xã hội. Do đó, để bảo vệ lợi ích của người lao động đòi hỏi nhà nước
cần tăng cường vai trò quản lý của mình hơn nữa trong đối với chính sách hỗ trợ cho
các rủi ro trên người lao động khi họ gặp các rủi ro đó – chính sách BHXH. Trong
đó, việc tăng cường quản lý nhà phải làm sao vừa quản lý, vừa kiểm soát được các
hoạt động BHXH nhưng không làm hạn chế sự phát triển của xã hội nói chung và
phải tạo điều kiện cho sự phát triển của xã hội. Trong đó, vấn đề quản lý hoạt động
BHXH phải được tiến hành gắn liền với sự phát triển kinh tế, hài hoà với tiến bộ và
công bằng xã hội. Đó cũng là vấn đề bức xúc hiện nay trong việc quản lý nhà nước
đối với hoạt động BHXH nói riêng và hoạt động kinh tế - xã hội nói chung. Tức là,
vấn đề tăng cường quản lý nhà nước không chỉ nhằm vào việc thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế mà còn nhằm vào việc đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội. Vì vậy, tăng
cường quản lý nhà nước đối với hoạt động BHXH là một yêu cầu cấp bách, tất yếu,
khách quan đặt ra từ chính đòi hỏi của nền kinh tế thị trường.
Phải thừa nhận rằng chức năng quản lý nhà nước về công tác thu BHXH cũng
rất quan trọng vì: thu BHXH có vị trí vô cùng quan trọng trong hoạt động của
BHXH, là cơ sở để đảm bảo sự an toàn, hiệu quả của quỹ BHXH, đảm bảo cho quỹ
có khả năng chi trả cho các đối tượng khi sự kiện bảo hiểm xảy ra và đảm bảo cho hệ
thống BHXH hoạt động bình thường.
Như vậy có thể hiểu quản lý nhà nước về thu BHXH là quá trình tác động và
điều hành của nhà nước đối với việc hình thành quỹ BHXH nhằm đảm bảo hình
thành quỹ BHXH theo đúng mục đích, đúng quy định trong việc thực hiện tốt chính
sách BHXH và nhằm đảm bảo an toàn cho tài chính BHXH, đảm bảo thu đủ, thu
đúng đối tượng và đúng thời gian quy định của Nhà nước.
1.2.2. Mục tiêu của quản lý nhà nước về thu BHXH

Mục tiêu xuyên suốt của quá trình quản lý nhà nước về thu BHXH là nhằm đảm
bảo thu đúng đối tượng, thu đủ mức thu, đủ số người cần thu, thu kịp thời, đúng thời
Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Hoàn
Lớp: BHXH 49
Chuyên đề tốt nghiệp 19
gian quy định, không ngừng nuôi dưỡng và tăng trưởng nguồn thu, đảm bảo thực
hiện tốt những chính sách thu được đề ra và mở rộng đối tượng tham gia. Quản lý
nhà nước về thu BHXH để đảm bảo các cá nhân và tổ chức có trách nhiệm và nghĩa
vụ tham gia BHXH tuân thủ pháp luật về thu BHXH và đảm bảo quyền lợi cho người
lao động được tham gia BHXH đầy đủ. Từ đó, góp phần đảm bảo quyền lợi cho
người tham gia và đảm bảo sự tuân thủ pháp luật của các thành viên trong xã hội.
1.2.3. Những nguyên tắc trong thu BHXH
Thu BHXH là một trong những nguồn hình thành nên quỹ BHXH, quỹ này chủ
yếu dùng để chi trả trợ cấp cho người tham gia BHXH khi cần thiết. Do đó, thu
BHXH là một trong những khâu thiết yếu cần quản lý nhà nước. Và trong quá trình
thu phải đảm bảo một số nguyên tắc sau:
Thứ nhất, đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp thời: để đảm bảo công bằng giữa
những người tham gia và đảm bảo quyền lợi cho người lao động được tham gia
BHXH thì việc thu đúng người, đúng đối tượng, đúng thời gian và đúng mức là rất
quan trọng. Để đảm bảo nguyên tắc này thì quản lý thu BHXH phải chú trọng ngay từ
khâu xem xét quản lý đối tượng tham gia và trong quá trình quản lý phải theo dõi
được biến động của đối tượng tham gia.
Thứ hai, đảm bảo an toàn tiền mặt : tùy vào mỗi quốc gia, mỗi mô hình BHXH
trong mỗi thời kì mà phương thức thu nộp có thể được áp dụng khác nhau. Các biện
pháp đảm bảo an toàn tiền mặt sẽ được áp dụng khác nhau phù hợp với các phương
thức thu nộp khác nhau.
- Nếu nộp qua chuyển khoản, séc: phải có chứng nhận của cơ quant rung gian là
ngân hàng hoặc hệ thống tài chính liên quan. Hinh thức thu nộp này khá an toàn.
- Nếu nộp trực tiếp bằng tiền mặt: cơ quan BHXH cần xây dựng thủ tục thanh
toán nhanh gọn để chuyển tiền về quỹ một cách nhanh chóng nhất, hạn chế tối đa tình

trạng rủi ro như: chiếm dụng tiền đóng BHXH, cướp giật, biển thủ,…
Thứ ba: đảm bảo tuân thủ các chế độ kế toán và báo cáo thống kê: thực hiện tốt
thanh quyết toán đầy đủ chứng từ hợp lệ, lưu trữ, bảo quản hồ sơ tốt,… và phải thực
hiện các báo cáo liên quan đến thu BHXH theo các mẫu thống nhất.
Thứ tư: thực hiện phân cấp quản lý thu hợp lý, hiệu quả: để thực hiện nguyên
tắc này thì cơ quan BHXH cấp trên cần phải nắm rõ được trách nhiệm, chức năng và
quyền hạn của mình để hướng dẫn, giám sát thu cho cơ quan BHXH cấp dưới đồng
thời cơ quan BHXH cấp dưới cũng phải có nghĩa vụ báo cáo lên cấp trên.
Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Hoàn
Lớp: BHXH 49
Chuyên đề tốt nghiệp 20
1.2.4. Đối tượng của quản lý nhà nước về thu BHXH
1.2.4.1 Cơ quan quản lý nhà nước về thu BHXH
BHXH trên thế giới có lịch sử phát triển khá lâu đời và đa dạng. Các nước có
điều kiện kinh tế - xã hội và thể chế chính trị khác nhau thì có bộ máy quản lý nhà
nước về thu BHXH nói riêng và BHXH nói chung là khác nhau. Nhiều quốc gia trên
thế giới chức năng quản lý nhà nước về BHXH được giao cho một bộ chuyên trách
thực hiện như ở Cuba, Tây Ban Nha, Mêhicô, Thổ Nhĩ Kỳ, Mỹ latinh,…giao cho bộ
lao động, ở các nước như Irac, Ixaren, Chile,… giao cho bộ lao động và phúc lợi xã
hội thực hiện, cá biệt có một số quốc gia giao cho bộ tài chính hoặc bộ y tế quản lý
nhà nước về BHXH. Ngoài các mô hình trên, còn có mô hình khác đó là Nhà nước
trực tiếp lập ra một Ủy ban quản lý nhà nước về BHXH nói chung và thu BHXH nói
riêng.
Trong trường hợp chức năng quản lý nhà nước về thu BHXH được ủy quyền
cho một bộ thực hiện thì thường có Hội đồng quản lý BHXH được thiết lập để thực
hiện việc giám sát, chỉ đạo trực tiếp các hoạt động của cơ quan BHXH và có trách
nhiệm trong việc đầu tư quỹ tài chính BHXH. Ngoài ra Hội đồng còn tham gia tư
vấn, đóng góp ý kiến cho bộ chủ quản trong việc phát triển chính sách BHXH. Hội
đồng quản lý BHXH thường bao gồm các thành viên:
- Đại diện cho NLĐ và NSDLĐ

- Một số quan chức của cơ quan Nhà nước có liên quan
- Giám đốc hoặc tổng giám đốc của cơ quan BHXH.
1.2.4.2 Đối tượng bị quản lý
Đối tượng bị quản lý là những cá nhân, tổ chức chịu sự quản lý của cơ quan
quản lý nhà nước về thu BHXH. Đó là: cơ quan BHXH các cấp, đối tượng tham gia
BHXH.
- Cơ quan BHXH các cấp: có nhiệm vụ nhận sự đóng góp của NLĐ và NSDLĐ,
phải có trách nhiệm quản lý, sử dụng quỹ để thực hiện mọi công việc về BHXH đối
với người tham gia BHXH.
- Đối tượng tham gia BHXH: là NLĐ, NSDLĐ tham gia vào hệ thống BHXH.
NLĐ tham gia vào hệ thống BHXH là nhằm bảo hiểm cho bản thân họ, NSDLĐ tham
gia vào hệ thống BHXH là mục đích bảo hiểm cho NLĐ mà mình thuê mướn đồng
thời bảo hiểm cho chính bản thân họ. Tùy vào điều kiện phát triển kinh tế xã hội của
Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Hoàn
Lớp: BHXH 49
Chuyên đề tốt nghiệp 21
mỗi nước mà đối tượng tham gia BHXH có thể là toàn bộ hoặc một bộ phận người
lao động nào đó.
1.2.5. Công cụ quản lý nhà nước về thu BHXH
Nhà nước với vai trò quản lý, điều hành xã hội, có rất nhiều công cụ quản lý để
thực hiện chức năng của mình. Đối với mỗi đối tượng khác nhau, Nhà nước sử dụng
những công cụ khác nhau trong đó những công cụ quản lý nhà nước chủ yếu là :
- Văn bản pháp luật :
Văn bản pháp luật là toàn bộ các văn bản do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền ban hành. Gồm có : luật và các văn bản pháp luật dưới luật hoặc hướng dẫn thi
hành
Luật : là những văn bản quy phạm pháp luật có tính pháp lý cao nhất và là công
cụ quản lý vững chắc nhất mà mọi tổ chức, các cá nhân phải tuân thủ. Luật BHXH do
quốc hội thông qua và có phạm vi áp dụng trong cả nước. Những nước có tổ chức
theo Bang thì luật có thể do Quốc hội Bang thông qua nhưng không được trái với các

điều luật của Liêng Bang. Đối với lĩnh vực BHXH ở từng quốc gia thì thường có các
đạo luật chi phối như : luật BHXH, luật lao động,…
Các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật hoặc hướng dẫn thi hành : là các văn
bản do các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm giải thích rõ,
hướng dẫn cụ thể việc thi hành về một số nội dung, vấn đề có liên quan đến lĩnh vực
BHXH.
- Hồ sơ, biểu mẫu :
Là công cụ quản lý trực tiếp của cơ quan quản lý nhà nước về thu BHXH. Với
chức năng quản lý của mình, cơ quan quản lý nhà nước về thu BHXH có thể ban
hành các loại hồ sơ có liên quan đến mức đóng, đối tượng, … Một trong số những hồ
sơ quan trọng nhất liên quan đến quản lý nhà nước về thu BHXH đó là mẫu sổ
BHXH( một số nước gọi là thẻ BHXH). Để quản lý sổ(thẻ) BHXH thì cơ quan quản
lý nhà nước quy định thống nhất mã số sổ(thẻ) BHXH hoặc ủy quyền cho cơ quan
sự nghiệp BHXH thực hiện việc này nhưng phải quy định những nguyên tắc chung.
Ngoài ra, cơ quan quản lý nhà nước về BHXH còn ban hành các biểu mẫu thẻ, báo
cáo như : báo cáo về đối tượng, báo cáo về NSDLĐ,…
- Chế độ báo cáo :
Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Hoàn
Lớp: BHXH 49

×