Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

các giải pháp nâng cao hiệu quả thu thuế tại chi cục thuế huyện tiền hải - thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (936.35 KB, 110 trang )


1
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân, đƣợc xuất
phát từ yêu cầu phát sinh trong công việc để hình thành hƣớng nghiên cứu.
Các số liệu có nguồn gốc rõ ràng tuân thủ đúng nguyên tắc và kết quả trình
bày trong luận văn đƣợc thu thập đƣợc trong quá trình nghiên cứu là trung
thực chƣa từng đƣợc ai công bố trƣớc đây.

Hà Nội, tháng 5 năm 2014
Tác giả luận văn


Nguyễn Mạnh Tuân













i

2


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN i
KÍ HIỆU VIẾT TẮT v
DANH SÁCH CÁC BẢNG vi
MỞ ĐẦU 1
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI 1
2. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 2
3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3
4. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN 3
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THUẾ VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ
THU THUẾ 4
1.1. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI THUẾ. 4
1.1.1. Khái niệm 4
1.1.2. Bản chất, chức năng 5
1.2. HỆ THỐNG THUẾ VÀ PHÂN LOẠI THUẾ 8
1.2.1. Khái niệm hệ thống thuế 8
1.2.2. Phân loại thuế 9
1.3. VAI TRÒ CỦA THUẾ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG 11
1.4. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ 15
1.4.1. Khái niệm 15
1.4.2. Nội dung cơ bản của công tác quản lý thuế 15
1.5. TỔ CHỨC QUẢN LÝ THUẾ 18
1.5.1. Quản lý đối tượng nộp thuế 18
1.5.2. Quản lý đối tượng tính thuế 19
1.5.3. Công tác tính thuế 20
1.5.4. Nộp thuế vào ngân sách nhà nước 20
1.5.5. Công tác thanh tra, kiểm tra chống thất thu thuế 21
1.6.CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ THU THUẾ 21
ii


3
1.7. NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN CÔNG TÁC THU THUẾ 27
1.7.1. Các yếu tố khách quan. 27
1.7.2. Các yếu tố chủ quan. 30
1.8. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRONG CÔNG TÁC THU
THUẾ 33
1.8.1. Anh quốc 33
1.8.2. Những bài học rút ra cho công tác quản lý thuế 39
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG THU THUẾ TẠI CHI CỤC THUẾ
HUYỆN TIỀN HẢI 43
2.1 .ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA CHI
CỤC THUẾ HUYỆN TIỀN HẢI. 43
2.1.1. Khái quát tình hình đặc điểm đơn vị. 43
2.1.2. Đặc điểm kinh tế xã hội huyện Tiền Hải. 44
2.1.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Chi cục thuế huyện Tiền Hải 47
2.2. MỘT SỐ VĂN BẢN PHÁP LÝ TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ THUẾ 56
2.2.1. Văn bản pháp luật 56
2.2.2. Văn Bản Dưới Luật 60
2.3.THỰC TRẠNG THU THUẾ TẠI CHI CỤC THUẾ HUYỆN TIỀN HẢI. 63
2.3.1. Chính sách phân cấp ngân sách huyện tiền hải 63
2.3.2. Kết Quả Công Tác Thu Thuế. 71
2.4. ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC THU THUẾ TẠI CHI CỤC THUẾ TIỀN HẢI. 77
2.4.1. Kết Quả Đạt Được. 77
2.4.2. Những Hạn Chế. 83
2.4.3.Nguyên Nhân Của Những Hạn Chế. 83
CHƢƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THU THUẾ
TẠI CHI CỤC THUẾ HUYỆN TIỀN HẢI – THÁI BÌNH 85
3.1. ĐỊNH HƢỚNG CÔNG TÁC THU THUẾ TẠI CHI CỤC THUẾ
HUYỆN TIỀN HẢI. 85

iii

4
3.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THU THUẾ TẠI CHI CỤC
THUẾ HUYỆN TIỀN HẢI – THÁI BÌNH. 86
3.2.1. Giải pháp cụ thể mang tính địa phương 86
3.2.2. Giải pháp mang tính vĩ mô 96
3.3. KIẾN NGHỊ ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC THU THUẾ
TẠI CHI CỤC THUẾ HUYỆN TIỀN HẢI. 99
3.3.1. Kiến nghị đối với Cục thuế Thái Bình. 99
3.3.2. Kiến nghị đối với UBND Huyện: 99
3.3.4. Kiến nghị đối với chi cục thuế huyện Tiền Hải: 100
KẾT LUẬN 102
TÀI LIỆU THAM KHẢO 104



















iv

5
KÍ HIỆU VIẾT TẮT


NSNN Ngân sách nhà nƣớc
NS Ngân sách.
NN Nhà nƣớc.
NSTW Ngân sách trung ƣơng.
NSĐP Ngân sách địa phƣơng.
HĐND Hội đồng nhân dân.
UBND Ủy ban nhân dân.
HĐBT Hội đồng bộ trƣởng.
HTXNN Hợp tác xã nông nghiệp
DN Doanh Nghiệp
DNQD Doanh Nghiệp Quốc doanh.
DNNQD Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh
GTGT Giá trị gia tăng.
MB Môn bài
TNDN Thu nhập doanh nghiệp.
XDCB Xây dựng cơ bản
PTVT Phƣơng tiện vận tải.
SDĐNN Sử dụng đất nông nghiệp.
SDĐPNN Sử dụng đất phi nông nghiệp
SDĐ Sử dụng đất.
VHTT Văn hóa tuyên truyền.
TDTT Thể dục thể thao.


v

1
DANH SÁCH CÁC BẢNG

BẢNG 1: Dự toán thu ngân sách nhà nƣớc năm 2014 huyện tiền hải
60
BẢNG 2: Thu NS Huyện năm 2013 theo các cấp
68
BẢNG 3: So Sánh dự toán Tỉnh giao và Huyện giao năm 2013.
70
BẢNG 4: Tình hình thực hiện thu thuế CTNDV – NQD
74
BẢNG 5: Công Tác Thực Hiện Thu Thuế 3 Năm Từ 2011 Đến 2013
81
vi

1
MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nƣớc và là công cụ điều
tiết vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Chính vì vậy mà các nhà kinh tế, các nhà
quản lý luôn quan tâm nghiên cứu về chính sách thuế của quốc gia nói chung
và của từng địa phƣơng nói riêng. Trọng tâm của các nghiên cứu là: làm thế
nào để chính sách thuế đạt đƣợc mục đích tạo nguồn thu vững chắc, đảm bảo
cân đối thu chi Ngân sách Nhà nƣớc; đồng thời góp phần phát huy tác dụng
điều tiết vĩ mô nền kinh tế, thực hiện công bằng xã hội.
Huyện Tiền Hải tỉnh Thái Bình đã nhanh chóng hoà cùng với cả nƣớc

tạo thế, tạo đà vững bƣớc đi lên; xây dựng Huyện trở thành một trung tâm
kinh tế-văn hoá-du lịch ngày càng vững mạnh của tỉnh Thái Bình. Trong quá
trình phát triển kinh tế, huyện đã luôn quan tâm xây dựng ngành tài chính -
thuế tạo nguồn thu ngân sách, đáp ứng đƣợc nhiệm vụ chi tiêu ngày càng cao
của huyện nhà.
Kết quả thu ngân sách qua các năm ngày càng tăng, nhờ chính sách
thuế đã phần nào hợp lý, tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh phát
triển; nuôi dƣỡng đƣợc nguồn thu; Hệ thống quản lý thu thuế đã từng bƣớc
cải cách, hiện đại hóa, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lƣợng cho đội ngũ
công chức thuế, tăng hiệu quả trong quản lý thu thuế. Tuy nhiện, Hệ thống
chính sách thuế vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề ở chính sách thuế, cũng nhƣ
trong quá trình tổ chức quản lý thu thuế. Hệ thống chính sách thuế chƣa bắt
nhịp đƣợc với sự phát triển ngày càng cao về khoa học, công nghệ. Sự hội
nhập và quá trình toàn cầu hóa một cách nhanh chóng đã làm cho chính sách
thuế cũng nhƣ công tác tổ chức quản lý thuế bộc lộ nhiều bất cập và tính khả
thi thấp. Bên cạnh đó, cơ cấu tổ chức quản lý thu thì chƣa phù hợp, thiếu chặt
chẽ, chồng chéo, nặng nề nên gây thất thu lớn về số lƣợng cơ sở, đơn vị thực
tế có kinh doanh nhƣng không nộp thuế hoặc nộp không đầy đủ, nợ đọng dây

2
dƣa thu ngân sách. Trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế chƣa phát huy hết tác
dụng của công cụ thuế để đẩy mạnh sản xuất kinh doanh có lợi cho quốc kế
dân sinh, thực hiện đóng góp hợp lý, công bằng cho Ngân sách Nhà nƣớc. Vì
vậy, việc chọn đề tài : "Các Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Thu Thuế Tại
Chi Cục Thuế Huyện Tiền Hải-Thái Bình" có ý nghĩa thiết thực cả về mặt
lý luận và thực tiễn.
2. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Luận văn đƣợc thực hiện nhằm đạt đƣợc những mục đích sau đây:
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hệ thống hóa những vấn đề
lý luận về thuế và công tác quản lý thuế.

- Phân tích đánh giá thực trạng về công tác quản lý thu thuế trên địa bàn
huyện Tiền Hải.
- Nghiên cứu, đề xuất những giải pháp để hoàn thiện tổ chức bộ máy
và nâng cao hiệu quả công tác thu thuế trên địa bàn
Đối tƣợng nghiên cứu là các sắc thuế chủ yếu đang thực hiện và cơ cấu
tổ chức bộ máy của Cục Thuế Thừa Thiên Huế hiện tại, đề ra cơ cấu tổ chức
mới theo hƣớng cải cách bộ máy hành chính và hiện đại hóa nền tài chính
quốc gia, phù hợp thông lệ quốc tế và khu vực.
Phạm vi nghiên cứu là công tác quản lý thuế trong đó có nhấn mạnh
đến công tác thu thuế tại huyện Tiền Hải. Với phạm vi đó, trọng tâm của vấn
đề nghiên cứu chủ yếu bao gồm các loại thuế chủ yếu và các đối tƣợng quản
lý thu thuế của địa phƣơng. Nội dung chủ yếu của Luận văn : Từ phân tích kết
quả thu thuế qua từng năm chỉ ra ƣu, nhƣợc điểm và tác động của chính sách
thuế đến số thu Ngân sách, và phát triển kinh tế, thực hiện công bằng xã hội
ở địa phƣơng; nghiên cứu các nguyên nhân về mặt chính sách, chế độ, về tổ
chức quản lý thu thuế, về đối tƣợng nộp thuế để đƣa ra đƣợc những giải pháp
tổ chức quản lý thuế khả thi trong thời gian tới.

3
3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Do nét đặc thù của chủ đề nghiên cƣu, để thƣc hiện đề tài này, các
phƣơng pháp nghiên cứu truyền thống và đƣợc sử dụng rộng rãi trong nghiên
cứu khoa học xã hội đã đƣợc sử dụng. Cụ thể của các phƣơng pháp nghiên
cứu này là: phƣơng pháp duy vật lịch sử, phƣơng pháp duy vật biện chứng,
phƣơng pháp điều tra, thu thập, tổng hợp và phân tích số liệu thống kê,
phƣơng pháp phân tích định lƣợng và phƣơng pháp hạch toán, tứclà sử dụng
hệ thống các chỉ tiêu GO, IC, để đánh giá kết quả và hiệu quả công tác
quản lý thu thuế.
4. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Luận văn gồm 3 phần chính : ngoài phần mở đầu, kết luận, phần chính

của luận văn gồm bốn chƣơng :
Chương 1 : Cơ sở lý luận về thuế và công tác quản lý thu thuế.
Chương 2 :Thực trạng thu thuế tại huyện Tiền Hải
Chương 4 : Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý
thu thuế trên địa bàn huyện Tiền Hải.



4
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THUẾ VÀ CÔNG TÁC
QUẢN LÝ THU THUẾ

1.1. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI THUẾ.
1.1.1. Khái niệm
Thuế trên thực tế đã tồn tại từ khi các Nhà nƣớc hình thành, song các lý
luận về kinh tế của thế giới, cho đến nay vẫn chƣa có sự thống nhất tuyệt đối
khái niệm về thuế [33]. Nhìn chung các quan điểm của các nhà kinh tế đƣa ra,
mới nhìn nhận từ những khía cạnh khác nhau của thuế, do đó không phản ánh
đầy đủ bản chất chung nhất của phạm trù này. Gần đây trong một số công
trình nghiên cứu về thuế các nhà kinh tế cho rằng, để vạch rõ bản chất của
thuế thì trong định nghĩa phải nêu bật đƣợc các khía cạnh sau : Nội dung kinh
tế của thuế đƣợc đặc trƣng bởi các quan hệ tiền tệ giữa Nhà nƣớc với các
pháp nhân và các thể nhân; những mối quan hệ dƣới dạng tiền tệ này đƣợc
nảy sinh một cách khách quan và có ‎ ý ‎‎‎nghĩa xã hội đặc biệt [39][42]. Kết hợp
những hạt nhân hợp lý của các quan niệm về thuế kể trên, có thể nêu lên khái
niệm tổng quát về thuế nhƣ sau:
Thuế là một khoản chuyển giao thu nhập bắt buộc từ các thể nhân và
pháp nhân cho Nhà nước theo các mức độ mà pháp luật quy định. Khoản
chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế để phục vụ cho mục tiêu phục vụ lợi

ích công cộng. Nguồn thu về thuế không được sử dụng cho mục tiêu cá nhân.
Trong thực tế, ở nƣớc ta hiện nay khi hình thành quỹ tiền tệ tập trung,
Nhà nƣớc thực hiện các chức năng của mình trong đó có chức năng quản lý
và xây dựng kinh tế thông qua việc kiến thiết, xây dựng, phát triển cơ sở hạ
tầng và các công trình phúc lợi xã hội khác thì ngƣời nộp thuế thông qua đó
đựơc hƣởng một phần kết quả nộp thuế của mình [22]. Nhƣ vậy thuế ở nƣớc
ta luôn luôn là một khoản thu bắt buộc, không đƣợc hoàn trả trực tiếp cho

5
ngƣời nộp thuế nhƣng họ đƣợc gián tiếp hƣởng lợi do chính sách đầu tƣ, phát
triển của Nhà nƣớc cho các công trình phúc lợi xã hội khác nhau [40][43].
1.1.2. Bản chất, chức năng
Từ khái niệm thuế nói trên ta có thể thấy đƣợc bản chất của thuế đƣợc
thể hiện bởi các thuộc tính bên trong vốn có của nó, những thuộc tính đó có
tính ổn định tƣơng đối qua từng giai đoạn phát triển [43]. Nghiên cứu về thuế,
ngƣời ta thấy có những đặc điểm riêng biệt để phân biệt với các công cụ tài
chính khác nhƣ sau :
a) Thuế là một khoản chuyển giao thu nhập của các tầng lớp nhân dân
cho Nhà nƣớc mang tính bắt buộc phi hình sự. Tính bắt buộc phi hình sự là
thuộc tính cơ bản vốn có của thuế, phân biệt thuế với các hình thức huy động
tài chính khác của Ngân sách Nhà nƣớc [43].
Đặc điểm này vạch rõ nội dung kinh tế của thuế là những quan hệ tiền
tệ, đƣợc hình thành khách quan và có ‎ý nghĩa xã hội đặc biệt, việc động viên
mang tính chất bắt buộc của Nhà nƣớc ta [39].
Phân phối mang tính chất bắt buộc dƣới hình thức thuế là một phƣơng
thức phân phối của Nhà nƣớc mà kết quả của quá trình đó là một bộ phận thu
nhập của ngƣời nộp thuế đƣợc chuyển giao cho Nhà nƣớc mà không kèm theo
một sự cấp phát hoặc những quyền lợi nào khác cho ngƣời nộp thuế.
Tính cƣỡng bức, bắt buộc của việc chuyển giao thu nhập bắt nguồn từ
những l‎ý do sau :

Thứ nhất, hình thức chuyển giao thu nhập dƣới hình thức thuế không
gắn với lợi ích cụ thể của ngƣời nộp thuế, do đó không thể sử dụng phƣơng
pháp tự nguyện trong việc chuyển giao. Để đảm bảo nhu cầu chi tiêu công
cộng Nhà nƣớc tất yếu phải sử dụng quyền lực chính trị để bắt buộc các đối
tƣợng có thu nhập phải chuyển giao [21].
Thứ hai, trong một xã hội hiện đại, các thành viên của cộng đồng ngày
càng có nhu cầu cao về hàng hóa công cộng [20]. Nhìn chung đại bộ phận
hàng hóa công cộng do Nhà nƣớc sản xuất và cung cấp. Để sản xuất và cung

6
cấp hàng hóa công cộng tất yếu phải bỏ chi phí, các chi phí đó phải đƣợc bù
đắp từ nguồn thu nhập của những ngƣời thụ hƣởng hàng hóa công cộng. Song
do tính chất của hàng hóa công cộng không thể phân bổ theo khẩu phần để sử
dụng và không muốn sử dụng theo khẩu phần, do đó, không có tính cạnh
tranh, không thể trao đổi theo cơ chế thị trƣờng. Chính vì vậy trong việc cung
cấp hàng hóa công cộng xuất hiện “ngƣời ăn không” nghĩa là không tự
nguyện trả tiền cho việc thừa hƣởng hàng hóa công cộng. Do vậy để có chi
phí cho việc cung cấp hàng hóa công cộng, Nhà nƣớc chỉ có thể sử dụng
phƣơng pháp bắt buộc “ngƣời ăn không” chuyển giao thu nhập từ khu vực tƣ
sang khu vực công [22].
Tuy nhiên tính bắt buộc của thuế không có nội dung hình sự, nghĩa là
hành động đóng thuế cho Nhà nƣớc không phải là hành động xuất hiện khi
biểu hiện phạm pháp, mà hành động đóng thuế là hành động thực hiện nghĩa
vụ của ngƣời công dân [26].
Từ đặc trƣng này, thuế không giống nhƣ các hình thức huy động tài
chính khác của ngân sách Nhà nƣớc nhƣ phí, lệ phí, công trái hoặc hình thức
phạt bằng tiền. Hình thức phạt bằng tiền cũng là hình thức bắt buộc, song việc
phạt bằng tiền chỉ xảy ra đối với ngƣời nộp phạt khi có hành vi vi phạm luật
lệ làm phƣơng hại đến lợi ích nhà nƣớc hoặc cộng đồng [31].
b) Việc chuyển giao thu nhập dƣới hình thức thuế không mang tính

chất hoàn trả trực tiếp, biểu hiện ở các khía cạnh:
Thứ nhất, sự chuyển giao thu nhập thông qua thuế không mang tính đối
giá, nghĩa là mức thuế mà các tầng lớp trong xã hội chuyển giao cho Nhà
nƣớc không hoàn toàn dựa trên mức độ ngƣời nộp thuế thừa hƣởng những
dịch vụ và hàng hóa công cộng do Nhà nƣớc cung cấp [43], [20]. Ngƣời nộp
thuế cũng không có quyền đòi hỏi Nhà nƣớc phải cung cấp hàng hóa, dịch vụ
công cộng trực tiếp cho mình mới phát sinh khoản chuyển giao khoản thu
nhập cho Nhà nƣớc, mặt khác mức độ cung cấp dịch vụ công cộng của Nhà
nƣớc cũng không nhất thiết ngang bằng mức độ chuyển giao [1], [21]

7
Thứ hai, Khoản chuyển giao thu nhập dƣới hình thức thuế không hoàn
trả trực tiếp có nghĩa là ngƣời nộp thuế suy cho cùng sẽ nhận đƣợc các dịch
vụ công cộng của Nhà nƣớc. Đặc điểm này giúp chúng ta phân biệt sự khác
nhau giữa thuế và các khoản phí, lệ phí [23].
c) Việc chuyển giao thu nhập dƣới hình thức thuế đƣợc quy định trƣớc
bằng pháp luật.
Đặc điểm này, một mặt thể hiện tính pháp l‎í cao của ‎thuế, mặt khác
phản ánh sự chuyển giao thu nhập này ‎không mang tính chất tùy tiện mà dựa
trên những cơ sở khoa học nhất định và đã đƣợc xác định trong luật thuế.
Những tiêu thức thƣờng đƣợc xác định trƣớc đối với thuế là : đối tƣợng chịu
thuế, đối tƣợng nộp thuế, mức thuế phải nộp, thời hạn cụ thể và những chế tài
mang tính cƣỡng chế khác [23].
d) Các khoản chuyển giao thu nhập dƣới hình thức thuế chịu sự ảnh
hƣởng của các yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội trong những thời kỳ nhất định.
Yếu tố kinh tế tác động đến thuế thƣờng là mức độ tăng trƣởng của nền
kinh tế quốc dân, thu nhập bình quân đầu ngƣời, giá cả, thị trƣờng, sự biến
động của ngân sách Nhà nƣớc
Yếu tố chính trị, xã hội tác động đến thuế thƣờng là thể chế của Nhà
nƣớc, tâm l‎í, tập quán của các tầng lớp dân cƣ, truyền thống văn hóa, xã hội

của dân tộc Do thuế chịu sự ràng buộc của các yếu tố kinh tế, chính trị, xã
hội nhƣ vậy nên ngƣời ta thƣờng nói thuế mang ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã
hội tổng hợp [23].
e) Các khoản chuyển giao thu nhập dƣới hình thức thuế chỉ đƣợc giới
hạn trong phạm vi biên giới quốc gia với quyền lực pháp l‎í của nhà nƣớc đối
với con ngƣời và tài sản [23].
Tóm lại, những thuộc tính cơ bản trên đây của thuế đã phản ánh bản
chất và nội dung bên trong của thuế. Từ những thuộc tính đó giúp ta phân biệt
thuế với các hình thức động viên khác của ngân sách nhà nƣớc trên nhiều
phƣơng diện khác nhau.

8
1.2. Hệ thống thuế và phân loại thuế
1.2.1. Khái niệm hệ thống thuế
Hệ thống thuế là tổng hợp các hình thức khác nhau mà giữa chúng có mối
quan hệ mật thiết bao hàm việc xây dựng các sắc thuế, loại thuế; phƣơng pháp
thu, nộp trên những nguyên tắc nhất định .Tùy thuộc vào khả năng và ý đồ của
từng Nhà nƣớc trong việc điều tiết dòng thu nhập quốc dân, ở những giai đoạn
lịch sử cụ thể mà hình thành những hệ thống thuế khác nhau. Tuy vậy, bất kỳ
một hệ thống thuế nào cũng phải bao gồm 2 bộ phận : Hệ thống chính sách thuế
và Hệ thống quản lý thuế. Chính sách thuế là tổng hợp các phƣơng hƣớng của
Nhà nƣớc trong lĩnh vực thu nộp thuế; quản lý thuế là các biện pháp, thủ pháp
thực hiện chính sách thuế để đạt đƣợc những mục tiêu đã định
Khi xem xét hệ thống thuế của một quốc gia nhất định, ngƣời ta ít chú
ý đến số lƣợng của các sắc thuế, các loại thuế trong hệ thống đó, mà chủ yếu
đánh giá, xem xét đến khía cạnh chất lƣợng của nó. Mỗi quốc gia tùy theo
điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội ở từng giai đoạn cụ thể mà định hƣớng xây
dựng hệ thống thuế riêng của mình. Hệ thống thuế đó phản ánh những mục
tiêu của Nhà nƣớc đặt ra [41].
Ở Việt nam, trong giai đoạn 1990 – 1998, Hệ thống chính sách thuế đã

đƣợc cải cách đáng kể, đã xây dựng đƣợc một hệ thống chính sách thuế gồm 9
sắc thuế và một số loại phí, lệ phí, cụ thể :
- Thuế doanh thu
- Thuế hàng hoá
- Thuế lợi tức
- Thuế xuất khẩu, nhập khẩu
- Thuế nông nghiệp
- Thuế tài nguyên
- Thuế nhà, đất
- Thuế thu nhập dân cƣ
- Thuế vốn

9
Và một số thuế mang tính chất lệ phí (nhƣ thuế môn bài, thuế sát
sinh…) [41].
Hệ thống chính sách thuế hiện nay đƣợc xây dựng và hoàn chỉnh có
tính pháp lý cao nhất đó là các văn bản Luật và đã đáp ứng đƣợc một số yêu
cầu của một hệ thống chính sách thuế hiện đại, đó là :
+ Về tài chính : Đã bao quát hết mọi nguồn thu có thể bồi dƣỡng, khai
thác và động viên nhằm đáp ứng đƣợc nhu cầu chi tiêu cần thiết ngày càng
tăng của ngân sách nhà nƣớc, tạo đƣợc phần tích lũy cho phát triển kinh tế,
xây dựng cơ sở hạ tầng .
+ Về kinh tế : Thực sự phát huy tác dụng là công cụ có hiệu lực của
Nhà nƣớc tích cực góp phần quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tăng
cƣờng hạch toán kinh tế, khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh. Thực
hiện tốt chính sách kinh tế đối ngoại trong quá trình hội nhập với khu vực và
thế giới.
+ Về xã hội : Từng bƣớc thực hiện yêu cầu động viên đóng góp công
bằng, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cƣ, giảm dần
khoảng cách chênh lệch về thu nhập và tiêu dùng xã hội, góp phần ổn định

chính trị, kinh tế, an toàn xã hội.
+ Về nghiệp vụ : Chính sách chế độ đã có sự đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu,
dễ kiểm tra; phát huy đƣợc quyền dân chủ và nâng cao đƣợc trách nhiệm và
nghĩa vụ công dân về thuế [41].
1.2.2. Phân loại thuế
Để phục vụ cho công tác nghiên cứu, quản lý và tổ chức hành thu trong
thực tế, ngƣời ta tiến hành phân loại thuế theo một số tiêu thức nhất định.
1.2.2.1. Phân loại theo tính chất kinh tế của thuế
Theo cách phân loại truyền thống đã hình thành từ rất lâu, thuế đƣợc
chia thành hai loại : thuế trực thu và thuế gián thu. Sự phân loại này phụ thuộc
vào đối tƣợng đánh thuế, mối quan hệ tƣơng hỗ giữa ngƣời nộp thuế và nhà
nƣớc.

10
- Thuế trực thu là loại thuế đánh trực tiếp lên một khoản thu nhập (tiền
lƣơng, lợi nhuận, lợi tức ) hoặc tài sản (ruộng đất, nhà cửa, chứng khoán )
nào đó của ngƣời nộp thuế.
Thuế trực thu thƣờng đụng chạm trực tiếp đến lợi ích của ngƣời nộp
thuế, dễ gây ra tâm lý bất bình trong nhân dân. Ở nƣớc ta, trong hệ thống thuế
hiện hành, các loại thuế dƣới đây đƣợc xem là thuế trực thu : nhƣ thuế lợi tức,
thuế thu nhập, thuế tài nguyên, thuế nhà đất và thuế sử dụng đất nông nghiệp.
- Thuế gián thu là một loại thuế đánh vào hàng hoá, dịch vụ và đƣợc ấn
định dƣới hình thức một khoản phụ thêm đƣợc cấu thành trong giá cả hàng
hoá, dịch vụ nhằm điều tiết một phần thu nhập của ngƣời tiêu dùng.
Khi áp dụng hình thức thuế gián thu, mối quan hệ giữa ngƣời nộp thuế
và nhà nƣớc đƣợc thể hiện một cách gián tiếp.
Ngày nay, sự phân biệt giữa thuế trực thu và thuế gián thu không còn rõ
nét nhƣ trƣớc đây. Ở giác độ hành chính đã có sự thống nhất quản lý đối với
hai loại thuế. Trong các hệ thống thuế hiện đại, còn tồn tại hai phƣơng thức
thu thuế, nhƣng mỗi phƣơng thức đều tƣơng ứng với hình thức thu gián tiếp.

Thuế lúc này sẽ do ngƣời chủ các đơn vị nộp đối với các khoản lƣơng bổng,
hoặc do chủ ngân hàng nộp đối với các khoản tiền lãi về động sản, hay do
ngƣời bán hàng nộp đối với các khoản chi tiêu. Tuy nhiên, thuế trực thu đáp
ứng yêu cầu đánh thuế dựa trên khả năng chi trả hơn thuế gián thu, thuế suất
trung bình sẽ tăng khi thu nhập gia tăng, và những ngƣời có thu nhập cao sẽ
phải chịu thuế suất trung bình cao hơn [43].
1.2.2.2. Phân loại theo đối tượng đánh thuế
Phân loại theo đối tƣợng đánh thuế, hệ thống thuế bao gồm các loại:
- Thuế đánh vào hàng hoá: thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, nhập
khẩu, thuế giá trị gia tăng.
- Thuế đánh vào thu nhập, nhƣ: thuế lợi tức, thuế thu nhập.
- Thuế đánh vào tài sản, nhƣ: thuế nhà, thuế đất, thuế chuyển quyền sử
dụng nhà, đất

11
- Thuế đánh vào các tài sản thuộc sở hữu công cộng, nhƣ: thuế tài
nguyên, thu vốn ngân sách.
Vận dụng cách phân loại này trong thực tế cho thấy hệ thống thuế bao gồm
nhiều loại thuế với những tác dụng riêng có khác nhau, từng loại thuế phát huy vai
trò điều tiết trong các lĩnh vực nhất định song chúng vừa hổ trợ, bổ sung cho nhau
để đảm bảo thực hiện chức năng toàn diện của hệ thống thuế.
Ngoài ra còn một số cách phân loại nhƣ:
- Phân loại thuế dựa vào tính chất lũy tiến và lũy thoái
- Phân loại thuế theo chế độ phân cấp quản lý, điều hành ngân sách:
Thuế nhà nƣớc, thuế địa phƣơng
- Phân loại theo phƣơng thức sử dụng: Thuế tổng hợp, thuế chuyên
dùng [43].
1.3. Vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường
Quản lý Nhà nƣớc đối với kinh tế là một chức năng vốn có của Nhà
nƣớc, đặc biệt trong nền kinh tế thị trƣờng thì nhất thiết vai trò đó càng đƣợc

coi trọng và phát huy. Với vai trò chủ yếu là tạo ra cơ sở pháp lý cho sự phát
triển kinh tế - xã hội, sự can thiệp tích cực của Nhà nƣớc thông qua hệ thống
Pháp luật, đặc biệt là pháp luật tài chính, thuế, ngân hàng, trong đó vai trò của
thuế trở nên cực kỳ quan trọng. Thuế đƣợc coi là công cụ điều tiết vĩ mô nền
kinh tế, là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nƣớc, có ảnh hƣởng to lớn
đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Thuế điều tiết thu nhập trong xã hội và góp
phần đảm bảo công bằng xã hội [20].

Thuế là khoản thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước :
Để có một nền tài chính Quốc gia lành mạnh chủ yếu phải dựa vào
nguồn thu từ nội bộ nền kinh tế quốc dân. Đặc biệt đối với nƣớc ta hiện nay,
các khoản viện trợ giảm xuống nhiều thì thuế phải trở thành nguồn thu chủ
yếu của Ngân sách quốc gia, là một bộ phận cơ bản của chính sách tài chính
quốc gia. Sau 20 năm đổi mới tình hình kinh tế nƣớc ta có nhiều chuyển biến
tích cực. Tốc độ tăng trƣởng kinh tế năm sau tăng hơn năm trƣớc, bình quân

12
trong 5 năm 2009-2013 là 7,5% [42]. Lạm phát đƣợc kìm hãm và đẩy lùi, thị
trƣờng đƣợc mở rộng, kim ngạch xuất khẩu tăng, tạo điều kiện cho sản xuất
trong nƣớc phát triển. Quan hệ kinh tế đối ngoại từng bƣớc đƣợc mở rộng và
phát triển hội nhập . Trong bối cảnh đó thu ngân sách hàng năm tăng đều đặn
năm sau cao hơn năm trƣớc đáp ứng đƣợc nhu cầu chi thƣờng xuyên, chi đầu
tƣ phát triển, góp phần tích lũy cho Ngân sách và cả việc chi trả nợ vay. Đƣợc
nhƣ vậy thuế đã góp phần tích cực trong việc tăng thu Ngân sách. Tỷ lệ động
viên GDP vào Ngân sách Nhà nƣớc ngày càng tăng. Trong đó mức động viên
thuế và phí chiếm vai trò quan trọng.

Đơn Vị TínhNghìn Tỷ Đồng
Nguồn: Tổng Cục Thuế, 2013
Sơ Đồ 1 : Kết quả thu ngân sách của nƣớc ta giai đoạn 2011 – 2013

Ngân sách Nhà nƣớc đƣợc thu từ nhiều nguồn khác nhau: Từ thuế, Phí
- lệ phí, viện trợ nƣớc ngoài, tín dụng nhƣng thuế và phí, đặc biệt là thuế là
nguồn thu chủ yếu, là bộ phận cơ bản của nền tài chính quốc gia. ở các nƣớc
phát triển, thuế chiếm trên dƣới 90% tổng thu ngân sách. Ở Việt Nam vai trò
của thuế trong tổng thu ngân sách chiếm tỷ trọng lớn ngày càng tăng. Trong
năm 1990 tỷ trọng thuế và phí trong Tổng thu ngân sách nhà nƣớc (NSNN) là

13
76,8%, năm 2001 tăng lên 96,5% và tỷ lệ điều tiết từ GDP hàng năm khoảng
21-22%; tốc độ thu ngân sách qua các năm đƣợc thể hiện theo biểu đồ trên về
kết quả thu ngân sách của nƣớc ta [37]
Với cơ cấu nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Hệ thống thuế đƣợc
áp dụng thống nhất, đồng bộ giữa các thành phần kinh tế đã bao quát toán bộ
mọi hoat động sản xuất kinh doanh.
Các nguồn thu nhập, mọi tiêu dùng của xã hội thuế đã hoàn thành đƣợc
nhiệm vụ tập trung tích lũy ngân sách đảm bảo cho yêu cầu chi của Nhà nƣớc
về các mặt: Chi thƣờng xuyên, chi đầu tƣ phát triển

Thuế là công cụ quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế:
Thuế là một công cụ sắc bén của Nhà nƣớc để quản lý kinh tế - xã hội
với chức năng chủ yếu là đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nƣớc và
điều tiết vĩ mô nền kinh tế, hƣớng dẫn tiêu dùng khuyến khích sản xuất phát
triển theo định hƣớng của Nhà nƣớc [32].
Một trong những yêu cầu có tính nguyên tắc là chính sách thuế phải
phù hợp với chiến lƣợc phát triển kinh tế trong từng thời kỳ. Do vậy, bằng
các sắc thuế khác nhau áp dụng đối với từng ngành, từng lĩnh vực khác nhau.
Nhà nƣớc điều chỉnh quy mô đầu tƣ vào các ngành, các lĩnh vực khác nhau.
Thực hiện cân đối hàng - tiền, cân đối cung cầu ở tầm vĩ mô, hình
thành cơ cấu kinh tế hợp lý giữa các ngành, các vùng lãnh thổ giữa Trung
ƣơng và Địa phƣơng đáp ứng nhu cầu sản xuất tiêu dùng tích lũy trong toàn

bộ nền kinh tế quốc dân. Đây là điều kiện quan trọng ổn định để thúc đẩy tốc
độ phát triển của nền kinh tế.
Thông qua Pháp luật thuế Nhà nƣớc xác định đúng đắn cơ cấu và quan
hệ giữa các sắc thuế, quy định chính xác, hợp lý đối tƣợng nộp thuế, chế độ
miễn giảm, phƣơng pháp quản lý thuế để đảm bảo việc thu đúng thu đủ đồng
thời khuyến khích, nâng đỡ những hoạt động sản xuất kinh doanh cần thiết
cho xã hội, khuyến khích những thành phần kinh tế cần thiết, các danh nghiệp
sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Đồng thời hạn chế, thu hẹp những ngành

14
nghề, những mặt hàng cần thiết phải hạn chế kể từ sản xuất đến tiêu dùng xã
hội theo định hƣớng của chiến lƣợc phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nƣớc có
lợi cho quốc kế dân sinh.
"Khuyến khích các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần
kinh tế cạnh tranh và chống độc quyền không thể áp dụng một cơ chế tài
chính đồng nhất cho các doanh nghiệp Nhà nước trong giai đoạn chuyển đổi
hiện nay (giữa các doanh nghiệp kinh doanh theo cơ chế thị trường và các
doanh nghiệp phục vụ các lợi ích công cộng) để điều tiết kinh tế - xã hội. Mặt
khác để chống độc quyền cần thiết phải có Luật về mặt tài chính cần phải sử
dụng công cụ thuế" [Trích Lê Thanh Huệ, trang 37].
Thuế góp phần khuyến khích việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo
vệ môi trƣờng sinh thái đồng thời khuyến khích việc khai thác, sử dụng một
cách tiết kiệm có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, vật tƣ trong nƣớc [8].
Bằng các quy định phù hợp với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế,
Thuế không những khuyến khích đƣợc hoạt động xuất khẩu hàng hoá nội địa,
từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển đồng thời thuế đã tạo điều kiện tốt cho quan
hệ hợp tác quốc tế trong khu vực và quốc tế. Mở rộng, phát triển đầu tƣ hợp
tác quốc tế thông qua chính sách khuyến khích đầu tƣ và xuất nhập khẩu [15].

Thuế góp phần bảo đảm bình đẳng giữa các đối tượng nộp thuế

và góp phần thực hiện công bằng xã hội:
Hệ thống thuế mới bao gồm 9 sắc thuế đƣợc áp dụng thống nhất đối với
mọi thành phần kinh tế, mọi ngành nghề và các tầng lớp dân cƣ. Các đối
tƣợng nộp thuế bình đẳng về quyền và nghĩa vụ đối với việc nộp thuế, không
một ai có những đặc quyền đặc lợi riêng. Chính sách thuế không phân biệt, ƣu
tiên hay hạn chế giữa các thành phần kinh tế. Mọi tổ chức, cá nhân đều phải
chịu sự điều chỉnh giống nhau của Pháp luật thuế [10].
Thực hiện chức năng phân phối lại thu nhập quốc dân bằng các sắc thuế
và các mức thuế suất khác nhau đối với từng lĩnh vực, từng mức thu nhập Nhà
nƣớc thực hiện việc điều tiềt thu nhập giữa các thành phần kinh tế và các cá

15
nhân trong xã hội. Bằng cách đó, Nhà nƣớc thu hẹp, rút ngắn khoảng cách
chênh lệch quá mức về thu nhập giữa các bộ phận trong xã hội. Ngƣời có thu
nhập cao phải nộp thuế cao, ngƣời có thu nhập thấp nộp thuế thu nhập ít [17].
Nhƣng đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp, các cá nhân sản xuất
kinh doanh giỏi, có hiệu quả bằng cách thừa nhận các khoản thu nhập hợp
pháp của họ.
Trong điều kiện kinh tế chƣa phát triển, ý thức Pháp luật, tính tự giác
của số lớn các đối tƣợng nộp thuế chƣa cao. Để đảm bảo sự công bằng về
nghĩa vụ nộp thuế thì một việc hết sức quan trọng là phải tăng cƣờng công tác
quản lý thu thuế. Thông qua việc kiểm tra, thanh tra việc chấp hành Pháp luật
thuế phát hiện và xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm Pháp luật thuế. Từ yêu
cầu đó trong mọi luật thuế đều quy định rõ các biện pháp xử phạt, cƣỡng chế.
Nhờ đó thuế đã góp phần tích cực trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của
các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Góp phần vào việc thực hiện công bằng xã
hội nói chung.
1.4. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ
1.4.1. Khái niệm
Quản lý thuế là quá trình tổ chức, quản lý và kiểm tra việc thực hiện

những quy định trong luật thuế nhằm huy động đầy đủ những khoản tiền thuế
vào ngân sách nhà nƣớc theo luật định [7][20]
1.4.2. Nội dung cơ bản của công tác quản lý thuế
1.4.2.1. Tổ chức bộ máy
Để thực hiện công tác quản lý thu thuế, trƣớc hết bộ máy quản lý thuế
phải đƣợc tổ chức thống nhất từ trung ƣơng đến địa phƣơng, mỗi bộ phận có
chức năng riêng biệt, không chồng chéo đồng thời có sự phối hợp thống nhất
chặt chẽ, hỗ trợ nhau trong công tác quản lý thu thuế.
- Bộ máy thu thuế nhà nƣớc đƣợc tổ chức thống nhất, thành hệ thống
dọc từ Trung ƣơng đến các Quận, Huyện. Ở Trung ƣơng có Tổng Cục Thuế
thuộc Bộ Tài Chính. Ở Tỉnh, Thành Phố, Đặc khu trực thuộc trung ƣơng có

16
Cục Thuế thuộc Tổng Cục Thuế đồng thời chịu sự chỉ đạo của UBND cùng
cấp. Ở các Huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh có Chi cục thuế chịu sự
quản lý song trùng của Cục thuế và UBND huyện, thị cùng cấp. Các đội thuế
phƣờng, xã trực thuộc chi cục quản lý và UBND phƣờng, xã, thị trấn cùng
cấp [6][40].
1.4.2.2. Chức trách, nhiệm vụ chủ yếu của cơ quan thuế các cấp
- Tổng Cục Thuế :
Đây là cơ quan thuế cao nhất trong hệ thống thu thuế nhà nƣớc. Cơ cấu
gồm có: Các phòng chức năng và phòng nghiệp vụ đƣợc tổ chức theo các sắc
thuế. Tổng Cục Thuế có một số nhiệm vụ chủ yếu:
Một là, giúp Bộ Tài Chính soạn thảo các văn bản pháp qui về thuế và
các khoản thu khác trình cơ quan chức năng có thẩm quyền ban hành và tổ
chức thực hiện thống nhất các văn bản này trong cả nƣớc. Tổng Cục thuế
cũng đƣợc quyền ban hành theo ủy quyền của Bộ Trƣởng Bộ Tài Chính các
văn bản về nghiệp vụ quản lý thu thuế và hƣớng dẫn cơ quan thuế cấp dƣới
thực hiện thống nhất.
Hai là, hƣớng dẫn lập kế hoạch và tổng hợp kế hoạch thu thuế và thu

khác trình Bộ trƣởng Bộ Tài Chính xem xét để trình các cơ quan có thẩm
quyền quyết định. Tổng Cục thuế xem xét giao chỉ tiêu thu thuế và thu khác
cho cơ quan thuế cấp dƣới, hƣớng dẫn, chỉ đạo cấp dƣới tổ chức thu thuế và
thu khác trên địa bàn và đảm bảo thu đủ, kịp thời vào ngân sách nhà nƣớc.
Ba là, tổ chức thanh tra bộ máy thu thuế và các đối tƣợng nộp thuế; xử
lý vi phạm theo luật định [31].
- Cục Thuế
Về cơ cấu tổ chức cũng bao gồm một số phòng chức năng và phòng
nghiệp vụ. Cục Thuế có hai mặt nhiệm vụ chủ yếu sau:
Một là, hƣớng dẫn, chỉ đạo, tổ chức thực hiện các văn bản pháp qui về
thuế, quản lý công tác thu thuế và thu khác thống nhất trên địa bàn.

17
Hai là, trực tiếp thu thuế đối với các đối tƣợng nộp thuế. Theo phân cấp
hiện nay về công tác thu thuế thì Cục thuế trực tiếp thu thuế đối với các doanh
nghiệp nhà nƣớc trung ƣơng đóng trên địa bàn, các doanh nghiệp nhà nƣớc do
tỉnh quản lý, các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, ngoài quốc doanh
thu theo phƣơng pháp khấu trừ, lệ phí trƣớc bạ và một số đơn vị thu khác
ngân sách [31].
- Chi Cục Thuế
Về cơ cấu tổ chức, Chi Cục Thuế gồm các tổ chuyên môn, nghiệp vụ và
các đội, tổ, trạm trực tiếp quản lý thu thuế. Chi cục Thuế có các nhiệm vụ chủ
yếu sau:
+ Lập kế hoạch thu thuế hàng năm, quý, tháng trên địa bàn.
+ Tham gia với các cơ quan chức năng xét duyệt đăng ký kinh doanh,
đăng ký nộp thuế. Trực tiếp quản lý đăng ký tính thuế của các đối tƣợng nộp
thuế do Chi cục quản lý.
+ Tổ chức các biện pháp thu thuế: tính thuế lập sổ thuế, thông báo số
thuế phải nộp; đôn đốc thực hiện đầy đủ, kịp thời mọi khoản thu vào Kho bạc
nhà nƣớc; xem xét và đề nghị xét miễn, giảm thuế và các khoản thu khác theo

quy định của nhà nƣớc; thực hiện thanh quyết toán kết quả thu thuế đến từng
hộ nộp thuế.
+ Tổ chức kiểm tra chống khai man lậu thuế; kiểm tra và xử lý các vi
phạm chính sách chế độ thuế; vi phạm kỷ luật trong nội bộ ngành thuế; giải
quyết các đơn khiếu nại theo thẩm quyền và theo sự ủy quyền của cơ quan
thuế cấp trên.
+ Tổ chức công tác thống kê, kế toán, thông tin báo cáo tình hình và kết
quả thu nộp thuế theo chế độ quy định.
+ Quản lý kinh phí chi tiêu, trang phục, ấn chỉ của bộ máy thuế ở Quận,
Huyện.
Năm 1992, ngành thuế tập trung sắp xếp lại bộ máy Chi Cục Thuế theo
chỉ thị 238 của Chính Phủ và thông tƣ số 64 của Bộ Tài Chính về việc thành

18
lập các đội thuế Xã - Phƣờng gắn với chính quyền cơ sở. Đồng thời thực hiện
qui trình thu thuế tách 3 bộ phận độc lập nhau : Bộ phận quản lý và đôn đốc
thu nộp, bộ phận tính thuế lập bộ và bộ phận kiểm tra thanh tra.
Việc gắn đội thuế phƣờng, xã với chính quyền cơ sở đã có tác dụng tích
cực trong việc điều tra lập bộ quản lý nguồn thu đầy đủ, sát thực tế và tổ chức
hành thu kịp thời; chống thất thu về doanh số và số đối tƣợng nộp thuế; góp
phần thực hiện sự công bằng hợp lý về mức thuế của các đối tƣợng nộp thuế,
tăng cƣờng mối quan hệ chặt chẽ giữa chính quyền và cơ quan thuế địa
phƣơng, đề cao trách nhiệm của chính quyền cơ sở đối với công tác thuế, vì
vậy chất lƣợng và hiệu quả quản lý thu thuế đã đƣợc nâng lên rõ rệt [23][31].
1.5. Tổ chức quản lý thuế
Nhiệm vụ của công tác quản lý thuế là làm thế nào để quản lý tốt đối
tƣợng nộp thuế, quản lý đối tƣợng tính thuế, tính thuế đúng và nộp thuế vào
ngân sách nhà nƣớc kịp thời, đúng quy định.
1.5.1. Quản lý đối tượng nộp thuế
Đối tƣợng nộp thuế là cá nhân, đơn vị, tổ chức có thu nhập có nhiệm vụ

chuyển giao một bộ phận thu nhập của mình cho nhà nƣớc thông qua việc
đóng thuế. Đối tƣọng nộp thuế thƣòng rất đông và đa dạng do đó công tác
quản lý ĐTNT cũng phải tuỳ theo đặc điểm của đối tƣợng để quản lý. Trong
quản lý đối tƣợng nộp thuế, yêu cầu phải tổ chức lực lƣợng cán bộ trực tiếp
hợp lý, nhất là đội thuế phƣờng xã, số lƣợng đối tƣợng nộp thuế và các ngành
nghề sản xuất, kinh doanh, dịch vụ để bố trí cán bộ phù hợp, có khả năng
quản lý bao quát đến thôn, tổ dân phố, đƣờng phố. Trách nhiệm của cán bộ
thuế phải nắm chắc tất cả các tổ chức, cá nhân đang hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ trên địa bàn theo từng ngành nghề, quy mô kinh doanh, quan
trọng là theo dõi cho đƣợc các biến động của các đối tƣợng kinh doanh: cơ sở
mới phát sinh, đang tạm nghỉ, nghỉ hẳn, tái hoạt động, kinh doanh vãng lai,
các hoạt động kinh doanh ngầm, các đối tƣợng xin nghỉ nhƣng thực chất vẫn
kinh doanh trốn thuế, kinh doanh không đúng ngành nghề theo giấy phép,

19
hoạt động buôn lậu, gian lận thƣơng mại Đây là khâu cơ bản trong công tác
quản lý thu thuế.
Hệ thống cấp mã số thuế của ngành thuế ra đời góp phần tích cực vào
công tác quản lý thu thuế của ngành. Mã số thuế là nhân tố cơ bản để ngành
thuế thực hiện hiện đại hoá công tác quản lý thu thuế, quản lý chặt chẽ các đối
tƣợng nộp thuế trên địa bàn toàn quốc và thực hiện đối chiếu chéo các hoạt
động kinh doanh giữa các đối tƣợng nộp thuế nhằm phát hiện các trƣờng hợp
kê khai sai để trốn lậu thuế hoặc đề nghị hoàn thuế sai. Mặt khác, hệ thống mã
số thuế còn đƣợc sử dụng khai thác phục vụ cho công tác quản lý nhà nƣớc
[39],[43], [16].
1.5.2. Quản lý đối tượng tính thuế
Theo [1], [11] thì trong giai đoạn hiện nay, quản lý đối tƣợng tính thuế
thật sự là một vấn đề khó khăn. Để thực hiện tốt khâu quản lý này đòi hỏi phải
có các điều kiện sau:
+ Về phía quản lý nhà nƣớc phải xây dựng các định mức (sản lƣợng,

giá tính thuế, tỷ lệ động viên, mức thuế suất ) sát hợp theo từng ngành nghề,
quy mô kinh doanh và điều kiện kinh doanh của từng địa phƣơng, từng vùng
kinh tế có tính chất hƣớng dẫn kinh doanh đồng thời giúp công tác quản lý
kinh tế của nhà nƣớc chặt chẽ hơn.
+ Các tổ chức cá nhân kinh doanh phải chấp hành tốt pháp lệnh kế
toán-thống kê, thực hiện tốt chế độ sổ sách kế toán và hạch toán kinh tế đầy đủ.
+ Trong hoạt động kinh doanh phải thực hiện tốt chế độ hoá đơn, chứng
từ hợp pháp.
+ Cán bộ thuế phải có trình độ nghiệp vụ giỏi, đồng thời phải am hiểu
về hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của đối tƣợng nộp thuế để theo dõi
quản lý chuẩn xác.
+ Mọi sự vi phạm phải đƣợc xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.
Các vấn đề trên tuy rằg pháp luật đều có quy định, nhƣng thực chất sự
chấp hành của các tổ chức, cá nhân kinh doanh chƣa thật nghiêm túc: đối với

×