Tải bản đầy đủ (.pdf) (162 trang)

dạy chèo theo đặc trưng thể loại cho học sinh lớp 10, chương trình nâng cao, trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 162 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC







ĐỖ THỊ NGUYỆT




DẠY CHÈO THEO ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠI
CHO HỌC SINH LỚP 10, CHƢƠNG TRÌNH NÂNG CAO,
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG








LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM VĂN









HÀ NỘI – 2010


2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC






ĐỖ THỊ NGUYỆT





DẠY CHÈO THEO ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠI
CHO HỌC SINH LỚP 10, CHƢƠNG TRÌNH NÂNG CAO,
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG



LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM VĂN

Chuyên ngành: PHƢƠNG PHÁP VÀ LÍ LUẬN DẠY HỌC
BỘ MÔN NGỮ VĂN

Mã số: 60 14 10




Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thúy Hồng





HÀ NỘI – 2010


3
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn, em đã nhận được rất nhiều sự quan tâm,
giúp đỡ. Nhân dịp này, em xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn
sâu sắc đến Cô giáo - Phó giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Thuý Hồng, người
hướng dẫn khoa học đã tận tình chỉ bảo, động viên, khích lệ em trong suốt
quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô trong Khoa sư phạm,
Trường Đại học giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy
và tạo mọi điều kiện giúp đỡ em trong quá trình học tập, thực hiện đề tài.
Xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp đang giảng dạy

tại trường THPT Lê Quý Đôn, Trực Ninh, Nam Định cùng những người
thân yêu trong gia đình đã dành cho tôi sự quan tâm khích lệ và chia sẻ
trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu.
Hà Nội, tháng 11 năm 2010
Tác giả luận văn

Đỗ Thị Nguyệt











4
CÁC TỪ NGỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN


CT Chƣơng trình
ĐC Đối chứng
GV Giáo viên
GD – ĐT Giáo dục đào tạo
HS Học sinh
PPDH Phƣơng pháp dạy học
SGK Sách giáo khoa
SGV Sách giáo viên

TP Tác phẩm
TPVC Tác phẩm văn chƣơng
TPVH Tác phẩm văn học
TPVHDG Tác phẩm văn học dân gian
TN Thực nghiệm
VB Văn bản
VHDG Văn học dân gian















5
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử nghiên cứu
3. Mục đích nghiên cứu
4. Đối tƣợng nghiên cứu
5. Phạm vi nghiên cứu

6. Giả thuyết nghiên cứu
7. Nhiệm vụ nghiên cứu
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
9. Đóng góp của đề tài
10. Cấu trúc luận văn
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Thể loại và dạy học tác phẩm văn chƣơng theo đặc trƣng thi pháp thể
loại
1.1.1.1. Thể loại văn học
1.1.1.2. Thi pháp thể loại và thi pháp thể loại văn học dân gian
1.1.1.3. Dạy học tác phẩm văn chƣơng theo đặc trƣng thể loại
1.1.1.4. Đặc trƣng thể loại chèo
1.1.2. Tâm lý tiếp nhận văn chƣơng và tâm lý tiếp nhận chèo của học sinh
THPT
1.1.2.1. Tâm lý học sinh trung học phổ thông
1.1.2.2. Tâm lý tiếp nhận văn chƣơng của học sinh trung học phổ thông.
1.1.2.3. Tâm lý tiếp nhận Chèo của học sinh trung học phổ thông
1.1.3. Tích cực hóa hoạt động tiếp nhận tác phẩm văn chƣơng
1.1.3.1. Tích cực và tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh
1.1.3.2. Tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh trong giờ học Ngữ
văn và giờ học tác phẩm văn chƣơng
Trang
1
4
9
9
9
10
10

10
10
11
12
12

12
12
16
19
22

32
32
36
43
45
45

47

6
1.1.3.3.Tích cực hóa hoạt động của học sinh trong giờ học trích đoạn chèo
cổ.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Chèo trong chƣơng trình Ngữ văn
1.2.2. Thực trạng dạy học Chèo trong chƣơng trình Ngữ văn 10, nâng cao
Chƣơng 2: GIẢI PHÁP DẠY CHÈO THEO ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠI
CHO HỌC SINH LỚP 10
2.1. Tìm hiểu mối quan hệ giữa nhân vật trong chèo với văn hóa nông

nghiệp Đồng bằng Bắc Bộ.
2.1.1. Nhân vật chèo với quan niệm đạo đức của ngƣời nông dân
2.1.2. Nhân vật chèo với tinh thần phản kháng áp bức bóc lột của ngƣời
nông dân.
2.1.3. Nhân vật chèo với tinh thần lạc quan, nhân đạo của ngƣời nông dân
2.2. Tìm hiểu chèo trong mối quan hệ với nghệ thuật biểu diễn
2.3. Tìm hiểu chèo trong mối quan hệ với cốt truyện và kịch tính
2.3. Tìm hiểu chèo theo đặc trƣng ngôn ngữ thể loại
Chƣơng 3: THỰC NGHIỆM
3.1. Những vấn đề chung
3.1.1. Mục đích thực nghiệm
3.1.2. Đối tƣợng, địa bàn và thời gian thực nghiệm
3.1.3. Nội dung thực nghiệm
3.1.4. Tiến trình thực nghiệm
3.1.5. Đánh giá quá trình thực nghiệm
3.2. Kết quả thực nghiệm
3.2.1. Tiến hành kiểm tra
3.2.2. Kết quả kiểm tra
3.2.3. Đánh giá kết quả thực nghiệm
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

50
56
56
57

65


65
66

73
77
87
93
100
111
111
111
112
112
113
114
115
115
115
116
119
121

7
MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Văn học là môn học về khoa học xã hội và nhân văn, có nhiệm vụ
cung cấp cho HS những kiến thức về văn học, hình thành và phát triển ở HS
năng lực tiếp nhận TPVH. Văn học còn đem lại những tri thức phong phú, bổ
ích về văn hoá, xã hội, lịch sử, đời sống nội tâm, bồi dƣỡng tƣ tƣởng tình

cảm, giáo dục thị hiếu thẩm mĩ lành mạnh, góp phần hình thành và phát triển
nhân cách ngƣời học. Trong thời đại bùng nổ thông tin khoa học kỹ thuật nhƣ
hiện nay, con ngƣời có năng lực, trình độ nhận thức phải có tầm khái quát
toàn diện và sâu sắc. Cùng với các môn khoa học khác, môn Ngữ Văn có một
vị trí và vai trò quan trọng trong hệ thống giáo dục. Muốn đạt đƣợc hiệu quả
giáo dục cao nhất, việc giảng dạy văn học phải tiến hành sao cho phù hợp với
đặc trƣng của bộ môn, vừa mang bản chất xã hội, vừa là một hiện tƣợng thẩm
mỹ, hiện tƣợng nghệ thuật. Nâng cao chất lƣợng giảng dạy văn học, nâng cao
khả năng tiếp nhận, cảm thụ TPVH cho HS, đổi mới PPDH để tạo hiệu quả
giảng dạy cao là công việc luôn đƣợc ngƣời làm công tác giảng dạy Văn quan
tâm.
1.2. Trong những năm gần đây, vấn đề đổi mới phƣơng pháp dạy học ở
nƣớc ta đã đƣợc Đảng, Nhà nƣớc cũng nhƣ các cấp quản lí giáo dục rất quan
tâm. Nghị quyết hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa
VIII đã nhấn mạnh đến việc “Đổi mới mạnh mẽ phƣơng pháp giáo dục – đào
tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tƣ duy sáng tạo
của ngƣời học. Từng bƣớc áp dụng các phƣơng pháp tiên tiến và phƣơng tiện
hiện đại vào quá trình dạy học…”.
Trong “Luật giáo dục” đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua ngày 02/12/1998 ở chƣơng I “Những quy định
chung” đã nhấn mạnh tới yêu cầu và đổi mới phƣơng pháp giáo dục là “Phải

8
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tƣ duy sáng tạo của học sinh, bồi
dƣỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vƣơn lên”.
Chiến lược phát triển Giáo dục 2001 – 2010 đã đề ra phƣơng
hƣớng: Cùng hòa nhịp vào xu hƣớng đổi mới phƣơng pháp dạy học đang
diễn ra sôi nổi khắp nơi trên thế giới, việc đổi mới phƣơng pháp dạy học ở
nƣớc ta cần đƣợc xúc tiến mạnh mẽ hơn nữa trên cơ sở những quan điểm
đầy đủ và thống nhất về đổi mới phƣơng pháp dạy và học cũng nhƣ những

giải pháp phù hợp, khả thi.
Theo tinh thần đổi mới phƣơng pháp dạy học, hoạt động dạy học
tác phẩm văn chƣơng không đơn thuần nhằm truyền thụ tri thức đến học sinh
mà quan trọng hơn là giúp các em biết cách “giải mã” tác phẩm. Để làm
đƣợc việc này, mỗi ngƣời giáo viên phải luôn suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo
không ngừng để tìm ra một phƣơng pháp hợp lí, hiệu quả để nâng cao chất
lƣợng giảng dạy tác phẩm văn chƣơng.
Trong nhà trƣờng Việt Nam, việc dạy tác phẩm văn chƣơng theo
đặc trƣng thể loại là một vấn đề đã và đang đƣợc chú trọng. Bởi vì, thể loại
chính là đơn vị cơ sở để giảng dạy tác phẩm văn chƣơng. Trong các chuyên
đề giáo dục sinh viên sƣ phạm ở các trƣờng Sƣ phạm và trong các chuyên đề
bồi dƣỡng thƣờng xuyên cho giáo viên Ngữ văn, các nhà sƣ phạm đã luôn
coi việc dạy học tác phẩm văn chƣơng theo đặc trƣng thể loại là một hƣớng
dạy học quan trọng. Nắm vững thi pháp thể loại, ngƣời dạy không chỉ hiểu
đúng, hiểu sâu hơn tác phẩm văn học mà còn có khả năng thiết kế có hiệu
quả hệ thống hoạt động, thao tác để hƣớng dẫn học sinh cách thức đọc – hiểu
tác phẩm, giúp ngƣời học có khả năng “giải mã” những tác phẩm cùng thể
loại. Trong cuốn Phân tích tác phẩm văn học trung đại Việt Nam từ góc nhìn
thể loại, PGS.TS Lã Nhâm Thìn cũng khẳng định việc phân tích tác phẩm
văn học từ góc nhìn thể loại là một trong những hƣớng khoa học nhất, hiệu
quả nhất, vừa có ý nghĩa về khoa học cơ bản, vừa thiết thực về khoa học sƣ

9
phạm, là “một công đôi việc”, là “mũi tên đạt được hai đích”, là cần thiết
với nhà nghiên cứu đồng thời cần thiết với ngƣời giảng dạy.
1.3. Chƣơng trình môn Ngữ văn THPT đƣợc xây dựng theo tinh thần đổi
mới nội dung và phƣơng pháp dạy học. Về nội dung, hƣớng đến việc dạy học
“toàn diện” nên ngoài việc đƣa vào nhiều văn bản mới, chƣơng trình còn phát
huy kinh nghiệm vốn có của ngƣời học về các kiểu văn bản. Về phƣơng pháp,
dạy học trên tinh thần tích cực hóa hoạt động của ngƣời học trong giờ dạy học

tác phẩm văn chƣơng và dạy đọc hiểu văn bản, trong đó nhấn mạnh việc dạy
học tác phẩm văn chƣơng theo đặc trƣng thể loại. Tiếp tục thực hiện quan
điểm dạy học, chƣơng trình môn Ngữ văn phân hóa thành Chƣơng trình
chuẩn và Chƣơng trình nâng cao. Có điều nếu chƣơng trình chuẩn đáp ứng
đƣợc khả năng tiếp nhận của học sinh đại trà thì chƣơng trình nâng cao “còn
nhằm đáp ứng nhu cầu nâng cao hiểu biết, phát huy khả năng tìm tòi, sáng
tạo về ngôn ngữ và văn học của những học sinh có thiên hướng ngữ văn, qua
đó góp phần phát hiện, bồi dưỡng học sinh có năng khiếu, tạo nguồn cho các
ngành khoa học xã hội và nhân văn.”. (Tài liệu bồi dƣỡng giáo viên thực hiện
chƣơng trình, sách giáo khoa lớp 10 Trung học phổ thông môn Ngữ văn, Nxb
Giáo dục). Một trong những điểm mới là chƣơng trình đã đƣa vào nội dung
dạy học nhiều kiểu tác phẩm văn học theo các thể loại khác nhau. Riêng phần
Văn học dân gian đã cho thấy khá đầy đủ diện mạo văn học dân gian. Sách
giáo khoa Ngữ văn 10, chƣơng trình nâng cao còn đƣa thêm nhiều trích đoạn
tiêu biểu cho đặc trƣng từng thể loại. Chèo là thể loại sân khấu dân gian mới
đƣợc đƣa vào Sách giáo khoa Ngữ văn 10 chƣơng trình nâng cao. So với các
thể loại sân khấu dân gian truyền thống nhƣ múa rối, tuồng thì chọn Chèo là
phù hợp nhất, bởi xét ở góc độ văn bản văn học thì Chèo có tích truyện hoàn
chỉnh; xét về nghệ thuật trình diễn thì Chèo là loại hình sân khấu đậm bản sắc
dân tộc, rất nên đƣợc dành thời gian giới thiệu.

10
Trong Chƣơng trình Ngữ văn 10 nâng cao thể loại Chèo đƣợc giảng dạy
thông qua trích đoạn “Xúy Vân giả dại” trong vở “Kim Nham”. Việc giảng
dạy một trích đoạn Chèo trong nhà trƣờng hiện nay cho đối tƣợng học sinh
lớp 10, là điều khó khăn. Vở “Kim Nham” lại là Chèo cổ. Những đặc trƣng
riêng biệt của thể loại Chèo cổ đã tạo nên một khó khăn về khoảng cách tiếp
nhận văn bản. Số phận các nhân vật trong Chèo, ngôn ngữ nhân vật trong
Chèo gắn với đặc điểm văn hóa nông thôn Việt Nam thời kì phong kiến đã
trở nên xa lạ với thị hiếu thẩm mĩ của thời đại. Với trích đoạn “Xúy Vân giả

dại” (Trích trong vở “Kim Nham”), giáo viên giảng dạy còn lúng túng trong
việc lựa chọn phƣơng pháp để giúp học sinh hiểu, cảm, rung động với niềm
vui, nỗi buồn và những khát vọng của nhân vật trong Chèo, một loại hình
sân khấu dân gian.
Từ những lí do trên đây, chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Dạy Chèo
theo đặc trưng thể loại cho học sinh lớp 10, chương trình nâng cao, trung
học phổ thông”. Hy vọng, sự thành công của đề tài này sẽ góp một tiếng nói
vào việc giảng dạy văn học theo đặc trƣng loại thể, cũng nhƣ tìm ra một
hƣớng đi mới cho việc dạy kịch bản văn học trong nhà trƣờng phổ thông,
nhất là dạy một trích đoạn sân khấu dân gian với ý nghĩa gìn giữ và lƣu
truyền vốn văn hóa cổ truyền của dân tộc một cách tích cực.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU
2.1. Những năm gần đây do yêu cầu đổi mới phƣơng pháp dạy học giáo viên
Ngữ văn các cấp đã đƣợc bồi dƣỡng nhiều tri thức các thể loại văn học và dạy
học tác phẩm văn chƣơng theo đặc trƣng thể loại. Bên cạnh đó cũng có rất
nhiều các công trình nghiên cứu, các tài liệu hƣớng dẫn phân tích tác phẩm
văn chƣơng theo thể loại. Trên cơ sở những thành tựu về loại thể văn học và
thi pháp học, nhiều nhà nghiên cứu, nhà giáo đã đề xuất những cách thức, con
đƣờng dạy HS cảm thụ, tiếp nhận TPVC nói chung, TPVHDG nói riêng, theo
thể loại. Các tác giả trong chuyên luận của mình khi nói về vấn đề giảng dạy

11
và phân tích tác phẩm văn chƣơng đều không bỏ qua đặc thù thẩm mỹ của thể
loại tác phẩm cần phân tích. Vấn đề dạy học tác phẩm văn chƣơng thể loại
đƣợc đề cập đến trong các công trình của các tác giả: Trần Thanh Đạm – Vấn
đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể, tập 1, 1969; tập 2, 1970; Phan
Trọng Luận – Phân tích tác phẩm văn học trong nhà trường (1977), Cảm thụ
văn học - giảng dạy văn học (1983), Phương pháp dạy học văn học (1993),
Xã hội – Văn học – Nhà trường (1996); Nguyễn Thanh Hùng – Văn học -
Tầm nhìn - biến đổi (1996), Hiểu văn, dạy văn (2000), Đọc và tiếp nhận văn

chương (2002).
Một số công trình viết sâu về phƣơng pháp tiếp nhận TPVC trong nhà
trƣờng từ đặc trƣng thể loại, nhƣ: công trình của Hoàng Tiến Tựu (Mấy vấn
đề phương pháp giảng dạy nghiên cứu văn học dân gian – 1983); Bình giảng
ca dao Việt Nam – 2001; của Đỗ Bình Trị (Phân tích tác phẩm văn học dân
gian – 1996); của Chu Xuân Diên (Văn hoá dân gian - Mấy vấn đề phương
pháp luận và nghiên cứu thể loại – 2006); Vũ Ngọc Khánh (Bình giảng Thơ
ca - Truyện dân gian – 2001; của Nguyễn Viết Chữ (Phương pháp dạy học
tác phẩm văn chương – Theo loại thể - 2003); của Nguyễn Thị Thanh Hƣơng
(Phương pháp tiếp nhận tác phẩm văn chương – 1998); của Hoàng Ngọc
Hiến – (Năm bài giảng về thể loại – 1999),…
Điểm chung của các công trình này là: các tác giả đã khái quát đƣợc
những định hƣớng chung về dạy học tác phẩm văn chƣơng theo đặc trƣng thể
loại. Chúng tôi xin điểm qua nội dung một số công trình, chuyên luận, bài viết
nghiên cứu cụ thể về những vấn đề cơ bản của thể loại văn học dân gian,
phƣơng pháp phân tích, cảm thụ tác phẩm văn học dân gian theo thể loại rất
có giá trị với ngƣời nghiên cứu, ngƣời dạy văn học dân gian.
Trƣớc hết là công trình Mấy vấn đề phương pháp giảng dạy nghiên cứu
văn học dân gian (NXB Giáo dục, H, 1983) của tác giả Hoàng Tiến Tựu đặt
vấn đề vận dụng các thuộc tính cơ bản của VHDG – tính tập thể, tính dị bản,

12
tính truyền miệng, tính nguyên hợp – vào việc giảng dạy và nghiên cứu, trong
đó, tính nguyên hợp đƣợc đặc biệt coi trọng. Trong cuốn sách này, Hoàng
Tiến Tựu cũng đã đề xuất các phƣơng pháp tìm hiểu, phân tích một số thể loại
văn học dân gian nhƣ truyện dân gian, tục ngữ, ca dao… Những đề xuất và
quan niệm của tác giả là định hƣớng đúng, song vẫn cần nghiên cứu hệ thống
hơn vấn đề dạy học tác phẩm văn học dân gian theo đặc trƣng thể loại. Vì
vậy, sau đó, Hoàng Tiến Tựu đã bổ sung phần nào hạn chế trên bằng công
trình Bình giảng truyện dân gian (NXB Giáo dục, H, 2001) với những minh

họa rất cụ thể, thuyết phục, bổ ích với ngƣời dạy và ngƣời học, có giá trị với
ngƣời nghiên cứu truyện dân gian. Ông nêu lên những thuận lợi, khó khăn
trong việc tìm hiểu truyện dân gian và quan niệm: cần phải lấy đặc trƣng thể
loại làm điểm xuất phát khi tìm hiểu phƣơng pháp học Tác phẩm văn chƣơng.
Đặc trƣng thể loại sẽ chi phối cách xây dựng, tổ chức thế giới nghệ thuật của
tác phẩm, bao hàm cả cách xây dựng và thể hiện nhân vật, cách quan niệm về
con ngƣời của mỗi thể loại. Tác giả nhấn mạnh: “Sự chú ý đến đặc điểm thể
loại rất cần thiết và có lợi cho công việc bình giảng truyện dân gian. Nó giúp
cho ngƣời bình giảng có định hƣớng đúng trong việc khai thác nội dung và
nghệ thuật tác phẩm (tr.5).
Bên cạnh công trình của Hoàng Tiến Tựu, cuốn Phân tích tác phẩm văn
học dân gian (Đỗ Bình Trị, Tài liệu bồi dƣỡng thƣờng xuyên chu kì 1992 –
1996, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1995) đã trình bày tƣơng đối hệ thống bản
chất, đặc trƣng của VHDG và vấn đề phân tích TPVHDG. Tác giả cho rằng:
“Văn học dân gian chỉ tồn tại trong đời sống thực tế dƣới dạng tác phẩm cụ
thể thuộc thể loại cụ thể. Thể loại là đơn vị cơ sở mà việc nghiên cứu văn học
dân gian phải xuất phát từ đấy”. Ông còn khẳng định: “Điều kiện tiên quyết
để đi vào công việc phân tích tác phẩm văn học dân gian là nắm đƣợc những
đặc trƣng thể loại của tác phẩm đƣợc phân tích” (Tlđd, tr.48). Tác giả còn
trình bày thuyết phục và khá cụ thể những thao tác, kỹ năng giáo viên dạy văn

13
cần sử dụng khi phân tích TPVHDG theo thể loại (truyền thuyết, cổ tích,
truyện cƣời). Trong cuốn Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học
dân gian, trong đó, tác giả trình bày tỉ mỉ, tƣờng tận về thi pháp của từng thể
loại. Có thể nói, từng thể loại VHDG và đặc trƣng thi pháp của từng thể loại
đã đƣợc tác giả đặt ra và lí giải một cách khoa học, lôgic, mạch lạc và sáng rõ.
Mỗi đặc điểm thi pháp thể loại đƣợc phân tích với các dẫn chứng thuyết phục,
cách viết thấu đáo, nhuần nhị. Cuốn sách cũng xác định hƣớng đi đúng đắn về
thể loại của VHDG đối với việc dạy học TPVHDG theo đặc trƣng thi pháp

thể loại.
Ngoài ra, còn có một số sách phân tích tác phẩm văn chƣơng theo đặc
trƣng thể loại nhƣ: Nguyễn Văn Long: Phân tích tác phẩm văn học hiện đại
Việt Nam từ góc nhìn thể loại, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2009; Lã Nhâm Thìn:
Phân tích tác phẩm văn học trung đại Việt Nam từ góc nhìn thể loại, Nxb
Giáo dục Việt Nam, 2009.
Nhƣ vậy, những công trình nghiên cứu về giảng dạy và phân tích tác
phẩm văn chƣơng theo đặc trƣng thể loại là những tiền đề cho những công
trình nghiên cứu về hoạt động cảm thụ TPVH nói chung, TPVHDG nói riêng
theo đặc trƣng thể loại.
2.2. Chèo là một loại hình sân khấu dân gian mang đậm bản sắc dân tộc Việt
Nam. Nghiên cứu về Chèo, có nhiều tác giả sƣu tầm, biên soạn, tuyển chọn và
nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu đều nhìn nhận Chèo nhƣ một di sản
sân khấu truyền thống truyền tải đạo đức, một di sản văn hóa mang bản sắc
dân tộc đậm nét. Một số công trình nghiên cứu chất dân gian và chất bác học
trong kịch bản Chèo; Nghệ thuật Chèo…) nhƣ: của Hà Văn Cầu – Chèo cổ.
Nxb Văn hóa, 1967, Tuyển tập Chèo cổ. Nxb Văn hóa, H.1975, Mấy vấn đề
trong kịch bản Chèo. Nxb Văn hóa, H. 1977; của Nguyễn Cát Điền - Vai trò
của VHDG với sân khấu truyền thống: Luận án PTS KH Ngữ văn: 5.04.07/. –
H., 1996; của Trần Đình Ngôn - Yếu tố dân gian và yếu tố bác học trong kịch

14
bản Chèo: Luận án TS, Nguyên tắc cơ bản trong nghệ thuật Chèo – H.: Sân
khấu, 2005; của Hồng Hạnh - Nghệ thuật Chèo cổ bảo tồn và phát huy/ (Bài
trích 2005.Số 1 – Tr62 – 67 – Văn hóa nghệ thuật); của Tất Thắng - Sân khấu
truyền thống từ chức năng giáo huấn đạo đức/ – H: Khoa học xã hội, 2002;
của TS. Đào Mạnh Hùng (Chủ biên) cùng nhiều tác giả: VS.PGS.TS Hồ Sĩ
Vịnh, PGS. Tất Thắng, TS. Trần Đình Ngôn, TS. Xuân Yến - Sân khấu truyền
thống bản sắc dân tộc và sự phát triển. Nxb Sân khấu.
Hầu hết các công trình đều đi sâu vào nghiên cứu những vấn đề thuộc về

đặc trƣng thể loại Chèo. Chẳng hạn, trong cuốn Mấy vấn đề trong kịch bản
Chèo, Giáo sƣ Hà Văn Cầu cũng đi sâu vào tìm hiểu ngôn ngữ đối thoại trong
Chèo, nhân vật trong Chèo. Tác giả cho rằng: “Ngôn ngữ trong một vở chèo
là phƣơng tiện để xác định thân phận nhân vật đồng thời lại là sự thể hiện
hành động của nhân vật đó. Một câu đối thoại hay luôn luôn là câu nói vừa
giải thích đƣợc những đặc điểm riêng của nhân vật đồng thời lại vừa nói lên
đƣợc hành động của nhân vật đó”. Tìm hiểu ngôn ngữ trong Chèo tác giả đi
vào tìm hiểu việc thơ ca vận dụng vào chèo, các biến cách tu từ trong chèo,
các lối nói có tuyền luật: câu nói sử và các bài hát trong chèo. Tìm hiểu về
nhân vật trong Chèo, tác giả đi vào tìm hiểu đặc điểm nhân vật, phân loại
nhân vật và mối quan hệ giữa tác giả và nhân vật. Còn với tác giả Trần Đình
Ngôn trong cuốn Kịch bản Chèo từ dân gian đến bác học lại quan tâm nhiều
hơn đến sự kết hợp yếu tố dân gian và yếu tố bác học trong kịch bản chèo.
Tác giả Trần Việt Ngữ trong cuốn Về Nghệ thuật Chèo lại đi sâu vào đặc
điểm cơ bản của nghệ thuật Chèo cổ. Ông nêu lên 6 đặc điểm cơ bản về nghệ
thuật của chèo cổ là: “một, Chèo thuộc loại sân khấu khuyến giáo đạo đức;
hai, Chèo thuộc loại kịch hát dân tộc, một dạng hát – múa – nhạc – kịch mang
tính tổng hợp; ba, chèo thuộc loại kịch hát bi – hài dân tộc; bốn, chèo thuộc
loại sân khấu kể chuyện Việt Nam (còn gọi là sân khấu tự sự dân tộc); năm,
chèo thuộc loại sân khấu ƣớc lệ và cách điệu; sáu, đặc điểm chuyên dùng và

15
đa dùng nghệ thuật bộc lộ quy luật phát triển của chèo cổ” (Trần Việt Ngữ.
Về Nghệ thuật Chèo, Viện Âm nhạc Việt Nam, 1996). Đây là những công
trình nghiên cứu chuyên sâu về đặc trƣng của Chèo cổ, là những tiền đề quan
trọng giúp ngƣời nghiên cứu về Chèo và ngƣời giảng dạy Chèo có cơ sở để
tìm hiểu, phân tích và đánh giá.
2.3. Việc đƣa Chèo vào chƣơng trình Sách giáo khoa Ngữ văn 10, chƣơng
trình nâng cao, trung học phổ thông là một điểm mới mẻ dẫn đến việc giảng
dạy Chèo trong nhà trƣờng phổ thông cũng đang trên con đƣờng tìm kiếm

một phƣơng pháp giảng dạy hợp lí, đạt hiệu quả giáo dục. Cùng với những
phƣơng pháp đã thử nghiệm, dạy Chèo theo đặc trƣng thể loại cho học sinh
cũng là một vấn đề mới, gần nhƣ chƣa có công trình nghiên cứu nào đề cập
đến vấn đề này.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Mục đích của luận văn này là vận dụng lý luận về tiếp nhận và cảm thụ
tác phẩm văn chƣơng, về đặc trƣng thi pháp thể loại văn học dân gian, đề xuất
các phƣơng pháp, biện pháp cụ thể của việc dạy Chèo ở lớp 10 theo đặc trƣng
thể loại nhằm nâng cao chất lƣợng dạy học tác phẩm VHDG, góp phần khẳng
định ƣu điểm và tính khả thi của hƣớng dạy tác phẩm theo đặc trƣng thể loại.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu là việc giảng dạy Chèo cho học sinh lớp 10,
chƣơng trình nâng cao, Trung học phổ thông.
4.2. Khách thể nghiên cứu là Học sinh lớp 10, giáo viên dạy Ngữ văn 10,
chƣơng trình nâng cao ở một số trƣờng THPT trên địa bàn Tỉnh Nam
Định.
5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn là đặc trƣng thi pháp thể loại và cách tổ
chức hoạt động dạy học trích đoạn Chèo cổ “Xuý Vân giả dại” theo đặc
trƣng thể loại cho học sinh lớp 10, chƣơng trình nâng cao, THPT

16
- Tại Trƣờng THPT Lê Quý Đôn, Huyện Trực Ninh và một số trƣờng THPT
thuộc địa bàn Tỉnh Nam Định.
6. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Luận văn đƣợc xây dựng với giả thuyết: Nếu có những giải pháp tổ
chức hoạt động dạy một trích đoạn Chèo cổ cho học sinh lớp 10 theo đặc
trƣng thể loại và theo hƣớng học sinh là bạn đọc sáng tạo thì việc giảng dạy
thể loại Chèo ở THPT sẽ đạt đƣợc hiệu quả.
7. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

- Vận dụng lý thuyết dạy học tác phẩm văn chƣơng theo đặc trƣng thi
pháp thể loại vào dạy chèo cho HS lớp 10, chƣơng trình nâng cao, trung học
phổ thông ở một số trƣờng THPT địa bàn tỉnh Nam Định.
- Đề xuất những phƣơng pháp, biện pháp cụ thể vận dụng đặc trƣng thể
loại vào dạy Chèo cho học sinh lớp 10.
- Thiết kế bài dạy Chèo cho HS lớp 10 theo đặc trƣng thể loại. Thực
nghiệm sƣ phạm để kiểm chứng kết quả nghiên cứu.
8. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu
- Phƣơng pháp khảo sát, thực nghiệm, thống kê, phân tích
- Phƣơng pháp khái quát, hệ thống hóa; nghiên cứu tiếp thu có chọn lựa
các công trình, tài liệu có liên quan đến luận văn.
9. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
- Về lý luận: Khẳng định hƣớng đổi mới đúng đắn của phƣơng pháp
dạy học tác phẩm văn chƣơng theo đặc trƣng thể loại. Đề xuất những
phƣơng pháp, biện pháp dạy Chèo theo đặc trƣng thể loại cho học sinh lớp 10,
Chƣơng trình nâng cao, trumg học phổ thông.
- Về thực tiễn:

17
+ Đánh giá thực trạng dạy học trích đoạn Chèo cổ “Xuý Vân giả dại”
cho học sinh lớp 10 nhằm tìm hiểu kết quả hiện thực hoá tinh thần dạy
TPVHDG theo đặc trƣng thể loại của SGK Ngữ văn 10 (Nâng cao).
+ Đánh giá tính khả thi của phƣơng pháp, biện pháp dạy học trích đoạn
Chèo cổ “Xuý Vân giả dại” góp phần hoàn thiện mô hình giờ dạy TPVHDG
theo đặc trƣng thể loại, giúp đồng nghiệp có thêm tƣ liệu tham khảo soạn
giảng, nâng cao chất lƣợng dạy học Ngữ văn 10.
10. CẤU TRÚC LUẬN VĂN:
- Phần Mở đầu
- Phần Nội dung: Gồm 3 chƣơng:

+ Chƣơng I: Cơ sở lý luận và thực tiễn
+ Chƣơng II: Giải pháp dạy chèo theo đặc trƣng thể loại
+ Chƣơng III: Thực nghiệm.
- Phần Kết luận.
- Phụ lục.










18
NỘI DUNG
CHƢƠNG I
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Thể loại và dạy học tác phẩm văn chƣơng theo đặc trƣng thi pháp
thể loại.
1.1.1. Thể loại văn học:
Trong Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục do Lê Bá Hán, Trần
Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Đồng chủ biên) xác định thể loại văn học nhƣ
sau:
Thể loại văn học là dạng thức của tác phẩm văn học, đƣợc hình thành và
tồn tại tƣơng đối ổn định trong quá trình phát triển lịch sử văn học, thể hiện ở
sự giống nhau về cách thức tổ chức tác phẩm, về đặc điểm của các loại hiện
tƣợng đời sống đƣợc miêu tả và về tính chất của mối quan hệ của nhà văn đối

với các hiện tƣợng đời sống ấy.
Trong quá trình sáng tác, các nhà văn thƣờng sử dụng những phƣơng
pháp chiếm lĩnh đời sống khác nhau, thể hiện những quan hệ thẩm mĩ khác
nhau đối với hiện thực, có những cách thức xây dựng hình tƣợng khác nhau.
Các phƣơng thức ấy ứng với những hình thức hoạt động nhận thức khác nhau
của con ngƣời - hoặc trầm tƣ, chiêm nghiệm, hoặc qua biến cố liên tục, hoặc
qua xung đột,… làm cho tác phẩm văn học bao giờ cũng có sự thống nhất quy
định lẫn nhau về các loại đề tài, cảm hứng, hình thức nhân vật, hình thức kết
cấu và hình thức lời văn. Ví dụ: nhân vật kịch, kết cấu kịch, hành động kịch
với lời văn kịch; hoặc nhân vật trữ tình, kết cấu thơ trữ tình với lời thơ, luật
thơ,… Ngƣời ta có thể tập hợp thành từng nhóm những tác phẩm văn học
giống nhau về phƣơng thức miêu tả và hình thức tồn tại chỉnh thể ấy. Đó là cơ

19
sở khách quan tồn tại thể loại văn học và cũng là điểm xuất phát để xây dựng
nguyên tắc phân chia thể loại văn học.
Thể loại văn học trong bản chất phản ánh những khuynh hƣớng phát triển
vững bền, vĩnh hằng của văn học, và các thể loại văn học tồn tại để gìn giữ,
đổi mới thƣờng xuyên các khuynh hƣớng ấy. Do đó mà thể loại văn học luôn
luôn vừa cũ, vừa mới, vừa biến đổi, vừa ổn định.
Lí luận văn học dựa vào yếu tố ổn định mà chia tác phẩm văn học thành
các loại và thể (hoặc thể loại, thể tài). Loại rộng hơn thể, thể nằm trong loại.
Bất kì tác phẩm nào cũng thuộc một loại nhất định và quan trọng hơn là có
một hình thức thể nào đó. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng có ba loại: tự sự,
trữ tình, kịch. Mỗi loại lại bao gồm một số thể.
Thể loại là dạng thức tồn tại chỉnh thể của tác phẩm. Cùng một loại
nhƣng các thể khác nhau rất sâu sắc. Ngoài đặc trƣng của loại, các thể còn
phân biệt nhau bởi hình thức lời văn (thơ và văn xuôi), dung lƣợng (truyện
dài, truyện ngắn,…), loại nội dung cảm hứng (bi kịch, hài kịch, thơ trào
phúng, thơ ca ngợi,…). Một số nhà nghiên cứu còn đề xuất cách chia thể theo

loại đề tài, chủ đề, chẳng hạn: thơ tình, thơ điền viên, truyện lịch sử, truyện
tâm lí xã hội, truyện phong tục,… Điều này cho thấy thể loại văn học là sự
thống nhất giữa một loại nội dung và một dạng hình thức văn bản và phƣơng
thức chiếm lĩnh đời sống. Các thể loại văn học “là một phạm trù lịch sử. Nó
chỉ xuất hiện vào một giai đoạn phát triển nhất định của văn học và sau đó
biến đổi và đƣợc thay thế.” (D.Li-kha-chốp), vì vậy khi tiếp cận với các thể
loại văn học cần tính đến thời đại lịch sử của văn học và những biến đối, thay
thế của chúng.
Nguyễn Văn Long trong cuốn “Phân tích tác phẩm văn học hiện đại
Việt Nam từ góc nhìn thể loại”, Nxb Giáo dục Việt Nam cũng chỉ rõ:
Thể loại là một phạm trù cơ bản và phổ biến của văn học, chi phối cả
sáng tác, lƣu truyền, tiếp nhận văn học.

20
Bất kì tác phẩm văn học nào cũng đều tồn tại trong một dạng thức nhất
định. Đó là sự thống nhất mang tính chỉnh thể của một loại nội dung với
những phƣơng thức biểu đạt và hình thức tổ chức tác phẩm, tổ chức lời văn.
Thể loại văn học chính là sự phân chia loại hình tác phẩm theo những căn cứ
nêu trên. Thể loại văn học là sự thống nhất giữa một loại nội dung với một
dạng hình thức văn bản và phƣơng thức tái hiện đời sống.
Từ xa xƣa, ở Phƣơng Tây và phƣơng Đông đã xuất hiện nhiều cách phân
chia thể loại văn học. Trong lý luận văn học hiện nay, phổ biến hơn cả là cách
phân chia tác phẩm văn học thành loại và thể.
Từ thời cổ đại ở Hy Lạp, Arixtốt trong công trình Nghệ thuật thơ ca đã đề
xuất cách chia văn học thành ba loại, theo thuật ngữ ngày nay là : tự sự, trữ
tình, kịch. Sự phân loại này có khả năng bao quát rộng rãi các tác phẩm văn
học, nhƣng mới dừng lại ở sự phân loại khái quát nhất. Cần có sự phân loại ở
cấp độ cụ thể hơn, bởi vì mỗi tác phẩm văn học không chỉ thuộc về một loại
nhất định, mà còn tồn tại trong những dạng cụ thể của các thể. Thể (còn đƣợc
gọi là thể loại) là những dạng tồn tại của tác phẩm văn học, đã từng có (và sẽ

có) trong lịch sử văn học thế giới, mang tính đặc thù của mỗi thời đại văn học,
mỗi nền văn học dân tộc hay khu vực. Thể loại vừa có tính ổn định lại vừa có
sự vận động, biến đổi trong tiến trình văn học. Mỗi thể loại đƣợc sinh ra ở
một thời kì nhất định, rồi đƣợc duy trì, biến đổi hoặc mất đi trong các thời đại
văn học khác, đƣợc thay thế bằng những thể loại khác. Thể loại cũng gắn liền
với đặc thù của từng nền văn học dân tộc hoặc khu vực. Nhƣng trong quá
trình giao lƣu giữa các nền văn học, nhiều thể loại từ một nền văn học hoặc
một khu vực đã đƣợc du nhập vào các nền văn hcọ khác, để trở nên những thể
loại mang tính quốc tế, tuy vẫn có ít nhiều nét riêng ở mỗi nền văn học.
Đọc và phân tích một tác phẩm văn học không thể không quan tâm đến
đặc điểm thể loại của tác phẩm ấy. Bởi vì thể loại chính là cơ sở tạo nên tính
thống nhất chỉnh thể của một tác phẩm, tổ chức liên kết các yếu tố nội dung

21
và hình thức, từ đề tài, chủ đề, cảm hứng đến hệ thống nhân vật, kết cấu và lời
văn nghệ thuật. Thể loại không những quy định cách thức tổ chức tác phẩm
mà còn định hƣớng cho việc tiếp nhận của độc giả, tạo nên kênh giao tiếp
giữa tác phẩm và ngƣời đọc. Thể loại của tác phẩm vừa có tính kế thừa, tính
liên tục, lại vừa có tính độc đáo, tính biến đổi do sự sáng tạo của tác giả. Vì
thế, phân tích tác phẩm theo đặc trƣng thể loại không thể chỉ dừng lại ở những
đặc điểm chung của một thể loại thể hiện trong tác phẩm, mà còn cần phải chỉ
ra nét riêng biệt, độc đáo, thể hiện sự sáng tạo không lặp lại của tác giả.
Các tác giả trong cuốn “Lý luận văn học” (tập 2); Phƣơng Lựu, Trần
Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam quan niệm: “Thể loại tác phẩm văn học là khái
niệm chỉ quy luật, loại hình của tác phẩm, trong đó ứng với một nội dung nhất
định có một hình thức nhất định, tạo cho tác phẩm một hình thức tồn tại chỉnh
thể”.
Từ những điều trên, chúng tôi cùng thống nhất cách hiểu về khái niệm
thể loại văn học nhƣ sau:
Thể loại văn học là phƣơng thức tái hiện đời sống và thể thức cấu tạo

văn bản
Tên gọi thể loại của tác phẩm cho ta biết: phạm vi và phƣơng thức tiếp
xúc, tái hiện đời sống; hệ thống các phƣơng tiện, phƣơng pháp thể hiện tƣơng
ứng.
Phân loại tác phẩm văn chƣơng chủ yếu dựa vào phƣơng thức tái hiện
đời sống; cấu tạo tác phẩm; loại đề tài; chủ đề; thể văn: Tác phẩm văn học
đƣợc chia ra làm ba loại chính: loại tác phẩm tự sự, loại tác phẩm trữ tình, loại
tác phẩm kịch.
Tác phẩm tự sự (nghĩa đen là kể việc) loại tác phẩm dùng lời kể tái hiện
lại những việc làm biến cố nhằm dựng lại một dòng đời nhƣ đang diễn ra một
cách khách quan, qua đó bày tỏ một cách hiểu và một thái độ nhất định. Tác
phẩm tự sự bao giờ cũng có lời kể, lời miêu tả (của ngƣời kể chuyện đang

22
chứng kiến, kể ra theo một điểm nhìn) với một giọng điệu nhất định; có cốt
truyện chính là cái biến cố xảy ra liên tiếp, sau cái này là cái kia hoặc là cái
này làm nảy sinh cái kia, xô đẩy nhau tới một đỉnh cao buộc phải giải quyết,
giải quyết xong thì truyện dừng lại; có nhân vật và có rất nhiều loại hình thức
ngôn ngữ nhƣ trần thuật, đối thoại, độc thoại…
Tác phẩm trữ tình (nghĩa đen là chứa đựng tình cảm) là loại tác phẩm
qua lời lẽ thể hiện nỗi niềm tâm trạng, những ảnh tƣợng trông thấy mà thể
hiện các cảm xúc, thái độ chủ quan của con ngƣời với thế giới
Tác phẩm kịch (nghĩa đen là biểu hiện những căng thẳng đột ngột khác
thƣờng) là loại tác phẩm qua việc tái hiện những hành động xung đột kịch để
làm tái hiện lên bản chất đời sống và bảy tỏ thái độ.
Nói tóm lại, mỗi loại tác phẩm văn học lại có một phƣơng thức kết cấu
hình tƣợng văn học để phản ánh cuộc sống và biểu hiện tƣ tƣởng của nhà văn.
Nếu hình tƣợng thiên nhiều về phản ánh cuộc sống, với con ngƣời, sự việc, sự
vật trong tính khách quan ta sẽ có những tác phẩm tự sự, nếu hình tƣợng thiên
nhiều về biểu hiện tƣ tƣởng, tình cảm… của con ngƣời, hiện thực trực tiếp

biểu hiện ý nghĩ chủ quan của tác giả ta sẽ có tác phẩm trữ tình. Khi tác phẩm
tự sự tập trung, cô đọng đến mức bản thân các sự vật, sự việc có thể tự bộc lộ
độc lập trên sân khấu hoặc trong trang sách… khi đó ta có tác phẩm kịch.
Các tác giả trong cuốn “Lý luận văn học” (tập 2); Phƣơng Lựu, Trần
Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam quan niệm: “Thể loại tác phẩm văn học là khái
niệm chỉ quy luật, loại hình của tác phẩm, trong đó ứng với một nội dung nhất
định có một hình thức nhất định, tạo cho tác phẩm một hình thức tồn tại chỉnh
thể”.
1.1.2. Thi pháp thể loại và thi pháp thể loại văn học dân gian.
“Thi pháp thể loại là tổng thể các yếu tố thuộc về hình thức và thủ pháp
nghệ thuật mà các tác phẩm thuộc cùng một thể loại đều thống nhất sử dụng”
(Đỗ Bình Trị. Những đặc điểm thi pháp thể loại văn họ dân gian. Nxb Giáo

23
dục, Hà Nội, 1999, tr. 4). Theo Đỗ Bình Trị, những yếu tố này bao gồm: thể
văn, kết cấu, thủ pháp nghệ thuật. Nhà nghiên cứu ngƣời Nga V.Ia.Prốp cho
rằng: “Chừng nào những đặc trƣng của một thể loại chƣa đƣợc nghiên cứu
hoặc chƣa đƣợc chí ít là mô tả trên những nét đại cƣơng thì không thể tìm
hiểu đƣợc những tác phẩm cụ thể thuộc thể loại ấy”. (Dẫn theo Đỗ Bình Trị.
Phân tích tác phẩm văn học dân gian. Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1995, tr.54).
“Thi pháp VHDG” là thuật ngữ đƣợc dùng tƣơng đối muộn ở Việt
Nam. Trong cuốn sách Thi pháp ca dao, Nguyễn Xuân Kính cho rằng một
trong những ngƣời sử dụng đầu tiên thuật ngữ này là nhà giáo Lê Kinh Khiên,
giảng viên trƣờng Đại học Sƣ phạm Vinh (Nguyễn Xuân Kính. Thi pháp ca
dao, Sđd, tr. 38, 39). Tác giả Chu Xuân Diên giải thích: “Thi pháp văn học
dân gian là toàn bộ các đặc điểm về hình thức nghệ thuật, về phƣơng thức và
thủ pháp miêu tả, biểu hiện, về cấu tạo đề tài, cốt truyện và phƣơng thức xây
dựng hình tƣợng con ngƣời…” (Chu Xuân Diên. Về việc nghiên cứu văn học
dân gian. Tạp chí Văn học, số 5/1981). Tác giả cho rằng việc nghiên cứu thi
pháp VHDG bao gồm các nội dung sau: khảo sát đặc điểm thi pháp riêng lẻ

(ví dụ, phép so sánh thơ ca, biểu tƣợng, luật thơ, mô típ, cấu tạo cốt truyện,
cách mô tả diện mạo bên ngoài và tâm lý bên trong của nhân vật…); khảo sát
đặc điểm thi pháp chung của từng thể loại; nêu những đặc điểm phổ thông,
những đặc điểm dân tộc của thi pháp VHDG nói chung.
Tuy nhiên, việc tổng kết các đặc trƣng nghệ thuật của tác phẩm VHDG
nói chung thành “thi pháp VHDG” không phải là đơn giản vì VHDG tồn tại
trong đời sống thực tế không phải dƣới hình thức những tác phẩm chung
chung, “trung tính” về mặt thể loại, mà dƣới hình thức những tác phẩm thuộc
thể loại xác định, nhƣ: tục ngữ, truyện cổ tích, truyện cƣời, … Đỗ Bình Trị
quan niệm: “Mỗi thể loại văn học dân gian có cách phản ánh thực tại và thái
độ đối với thực tế riêng, mà một số nhà khoa học gọi là phƣơng pháp lịch sử
đặc thù của nó. Thể loại, do đó, đƣợc gọi là đơn vị cơ sở của văn học dân gian

24
và là điểm xuất phát tất yếu của công việc nghiên cứu văn học dân gian”.
(Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian. Nxb Giáo dục,
1999, tr. 5). Vì vậy, để phù hợp với mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề
tài, trong công trình này, chúng tôi sử dụng thuật ngữ “thi pháp VHDG” theo
nghĩa đó là thi pháp của một thể loại VHDG cụ thể nhƣ chèo.
Khi nghiên cứu thi pháp VHDG, cần lƣu ý một số vấn đề sau:
- Thứ nhất, văn bản VHDG đƣợc sáng tác tập thể bằng phƣơng thức truyền
miệng nên nó không có hình thức cố định trong suốt thời gian tồn tại nhƣ văn
bản văn học viết. Vì vậy, có quan niệm cho rằng không có cái gọi là văn bản
VHDG; đồng thời, cũng có quan niệm thừa nhận loại văn bản này nhƣng nhấn
mạnh điểm khác biệt của nó với văn bản văn học nói chung. (Trần Hoàng. Bài
giảng mấy vấn đề thi pháp…, Sđd, tr.11).
Theo tác giả Trần Hoàng, văn bản văn học dân gian tồn tại dƣới hai dạng:
dạng văn bản truyền miệng – thực thể sống của tác phẩm VHDG – và dạng
văn bản cố định bằng chữ viết trên bản chép tay hoặc sách, báo,… Văn bản
VHDG đƣợc dạy trong nhà trƣờng là văn bản cố định bằng chữ viết. Vì vậy,

việc nghiên cứu thi pháp của nó cũng có những nét giống nghiên cứu thi pháp
văn học nói chung, đồng thời cũng có các đặc trƣng riêng biệt.
Theo chúng tôi, nếu hiểu thi pháp là hệ thống các phƣơng thức, phƣơng
tiện biểu hiện đời sống bằng hình tƣợng nghệ thuật trong sáng tác văn học,
bao gồm các đặc trƣng về cốt truyện, kết cấu tác phẩm, loại hình, thể tài, các
nguyên tắc và phƣơng pháp phản ánh thực tại và các phạm trù không gian
nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật của tác giả về thế giới
và con ngƣời,… thì vẫn có thể nghiên cứu thi pháp của VHDG qua văn bản
VHDG nếu ta căn cứ vào những cái ổn định nhất, ít biến dị nhất.
- Thứ hai, VHDG là một loại hình nghệ thuật biểu diễn, mang tính tổng hợp.
Đặc trƣng này ảnh hƣởng đến sự hình thành và vận động trên nhiều phƣơng

25
diện của các yếu tố thi pháp VHDG nên khi nghiên cứu, cần chú ý để hiểu
đúng thi pháp thể loại VHDG.
- Thứ ba, mỗi thể loại VHDG gắn với một hoặc một số chức năng nhất định.
Sự khác nhau về chức năng của các thể loại VHDG dẫn đến những khác nhau
về thi pháp và đây là sự khác nhau rất cơ bản.
Mỗi thể loại của VHDG chỉ khai thác, phản ánh và dựng lại một mảng nào
đó trong hiện thực đời sống. Chẳng hạn: Thần thoại chủ yếu phản ánh, lý giải
các hiện tƣợng tự nhiên. Truyền thuyết phản ánh, lý giải các hiện tƣợng, các
biến cố lịch sử của cộng đồng. Truyện cổ tích thì phản ánh, tái tạo hiện thực
đa dạng của cuộc sống đời thƣờng trong xã hội có phân chia giàu nghèo, sang
– hèn,… Truyện cƣời lại dùng tiếng cƣời để giải trí, giáo dục và phê phán cái
xấu,… Do chức năng khác nhau, mỗi thể loại đến với ngƣời đọc bằng con
đƣờng riêng, tác động đến cảm nhận của họ thông qua những phƣơng thức,
phƣơng tiện biểu đạt giá trị riêng ở cốt truyện, nhân vật, sự hƣ cấu, lời kể…
Con đƣờng riêng đó chính là thi pháp thể loại. Ngƣời dạy, trƣớc hết, cần nắm
đƣợc thi pháp từng thể loại để tự mình khám phá, cảm thụ đúng tác phẩm,
trên cơ sở đó thiết kế có hiệu quả hệ thống thao tác hƣớng dẫn HS biết cách

tiếp nhận, “giải mã” tác phẩm thuộc thể loại nhất định. Khi “giải mã” mỗi
truyện dân gian, cần xây dựng một hệ thống thao tác này cần phải đƣợc thực
hiện nhất quán đối với những tác phẩm thuộc cùng một thể loại. Nếu ngƣời
dạy nắm vững đặc trƣng thi pháp thể loại của mỗi TPVHDG thì sẽ hiểu đúng,
hiểu sâu hơn tác phẩm đó trong chƣơng trình, từ đó biết tự hoàn thiện hệ
thống thao tác phân tích tác phẩm để luyện tập cho HS biết cách tiếp nhận,
cảm thụ tác phẩm ngay trong quá trình các em khám phá, tìm hiểu tác phẩm
đó.
1.1.3. Dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại.
Vấn đề dạy học tác phẩm văn chƣơng theo đặc trƣng thể loại đã đƣợc các
nhà lí luận nghiên cứu phƣơng pháp quan tâm. Giáo sƣ Nguyễn Thanh Hùng

×