Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

QUAN ĐIỂM CỦA NAM CAO VỀ SÁNG TÁC NGHỆ THUẬT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (520.72 KB, 48 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
QUAN ĐIỂM CỦA NAM CAO
VỀ SÁNG TÁC NGHỆ THUẬT
TP.HCM, 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
QUAN ĐIỂM CỦA NAM CAO
VỀ SÁNG TÁC NGHỆ THUẬT
CHUYÊN NGÀNH: Văn học và Ngôn ngữ
Người hướng dẫn khoa học: Th.S Bùi Thị Thu Hiền
Nhóm sinh viên thực hiện:
1.Trần Lê Khánh Ngân – 1356010081
2.Bùi Việt Phương – 1356010096
3.Lâm Ninh Quốc Hương – 1356010055
4.Đặng Thị Thúy Hồng – 1356020016
5.Lê Thúy Hà – 1356020014
6.Phạm Thị Ngọc Chi – 1356020006
7.Bùi Ngọc Duyên – 1356010019
8.Trần Thị Xuân Trang – 1356010134
9.Phạm Lê Nhả Trúc – 1356020061
10.Nguyễn Thị Ngọc Tuyền – 1356010148
MỤC LỤC
3
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Thế kỉ XX là thời kì phát triển rực rỡ của văn học Việt Nam. Mở đầu cho
thế kỉ XX ta có những ngòi bút mang đậm niềm khắc khoải với tình yêu đất
nước thời Pháp thuộc như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc
Kháng tiếp theo là sự xuất hiện những tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, Hoàng
Ngọc Phách , truyện ngắn của Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, thơ của Tản


Đà, Trần Tuấn Khải. Rồi kế đến là những hồn thơ của phong trào Thơ Mới: Huy
Cận, Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, và những tiểu thuyết của nhóm Tự lực văn
đoàn mang đầy cảm hứng lãng mạng, đề cao cái tôi của con người và muốn giải
phóng cá nhân Đặc biệt nổi bật nhất văn học thời kì này là dòng văn học hiện
thực phê phán như lưỡi cày sâu lật lên mặt trái của xã hội với những cây bút nổi
bật như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng Và
trong đó không thể không nhắc đến một ngòi bút độc đáo, được xem như một
nhà văn lớn của văn học hiện đại Việt Nam thế kỉ XX, là cây bút xuất sắc của
Văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930 -1945: nhà văn Nam Cao.
Không phải không có lý do mà người ta tôn vinh ông là nhà văn hiện thực
phê phán xuất sắc giai đoạn 1930 - 1945, là nhà văn hàng đầu của văn học Việt
Nam thế kỉ XX. Nam Cao bắt đầu sáng tác những tác phẩm đầu tiên vào năm
1936 và ông đã hy sinh trên đường đi công tác vào năm 1951 Dù chỉ cầm bút
ngắn ngủi trong khoảng 15 năm, dù sự nghiệp sáng tác của ông để lại tuy không
nhiều nhưng lại có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều thế hệ độc giả và ngày càng
khẳng định giá trị sâu sắc của nó trong đời sống văn học dân tộc. Nhiều tác
phẩm của ông cho đến nay vẫn còn sống mãi với thời gian. Quan điểm nghệ
thuật của Nam Cao trong những tác phẩm của ông đã trở thành tuyên ngôn nghệ
thuật cho những tác giả Văn học hiện thực đương thời. Những yêu cầu về nghệ
thuật của Nam Cao đã trở thành thước đo của những tác phẩm Văn học hiện đại.
Thạc sĩ Lê Tiến Dũng trong cuốn “Nam Cao MỘT ĐỜI VĂN” đã từng viết
rằng: “ Tạo được những trang viết như thế chứng tỏ bút lực của Nam Cao có
sức sống mãnh liệt. Đó là bút lực của một nhà văn có quan niệm nghệ thuật
đúng đắn và sâu sắc. Nam Cao không viết thành hệ thống lí luận tư tưởng nghệ
thuật của mình. Nhưng những tư tưởng ấy được bộc lộ khá rõ nét trong nhiều
tác phẩm của ông, đặc biệt như trong truyện ngắn Trăng sáng, Đời thừa, Những
truyện không muốn viết Chính vì thế, nhiều người xem những tác phẩm này là
những tuyên ngôn nghệ thuật của Nam cao. Đọc những tác phẩm này của Nam
Cao, người đọc có thể tìm thấy nhiều quan niệm nghệ thuật sâu sắc ẩn chứa
trong đó ”

4
Về mặt thực tiễn ta lại nhận thấy rõ, xã hội ngày nay đang có những quan
niệm thẩm mỹ lệch lạc, những sáng tác văn học hiện nay chạy theo thị hiếu của
số đông mà bỏ qua những chuẩn mực về nghệ thuật. Ta thấy trên thị trường hiện
nay có những tác phẩm mang nội dung không lành mạnh, cách viết rất cẩu tả,
lời văn thô tục. Làm cho các bạn trẻ đọc sách không định hướng được tác phẩm
nào hay, tác phẩm nào không hay. Dần dần khiến quan niệm thẩm mỹ lệch lạc
hoặc xấu hơn là đi theo cách tiêu cực, chỉ đọc những tác phẩm văn học rẻ tiền
và suy nghĩ theo hướng tiêu cực. Chính vì thế quan điểm nghệ thuật của Nam
Cao mang tính định hướng đúng đắn trong việc sáng tác và tiếp nhận văn học
hiện nay.
2.Tổng quan tình hình nghiên cứu
Nam Cao là một cây bút hiện thực xuất sắc trên văn đàn Việt Nam thế kỷ
XX. Không ít những nhà văn cùng thời, những nhà phê bình trong giới chuyên
môn đã tốn bao nhiêu bút mực để bàn luận về văn chương của con người tài hoa
này. Có nhiều công trình nghiên cứu về tác gia Nam Cao, từ vi mô đến vĩ mô.
Những khía cạnh mà những công trình này nghiên cứu cũng hết sức đa dạng và
phong phú. Chúng tôi tạm chia những công trình này theo hai hướng chính:
nghiên cứu về nội dung trong tác phẩm của Nam Cao và nghiên cứu về nghệ
thuật trong tác phẩm của Nam Cao.
Có rất nhiều công trình nghiên cứu theo hướng thứ nhất. Trong đó, tiêu
biểu là những công trình: Cái đói và miếng ăn trong truyện Nam Cao, Nguyễn
Đăng Mạnh (Chân dung và phong cách, NXB Trẻ, 2000); Chủ nghĩa hiện thực
Nam Cao, Trần Đăng Suyền (Nxb. Khoa học Xã hội, 2002); Nam Cao một đời
văn, Lê Tiến Dũng (Nxb. Trẻ, 2001).
Cũng có không ít công trình nghiên cứu theo hướng thứ hai. Các công
trình tiêu biểu là: Nam Cao và đôi nét về nghệ thuật sáng tạo tâm lý, Hà Minh
Đức (Tạp chí Văn học số 6, 1982); Một vài đặc điểm thi pháp truyện ngắn Nam
Cao, Vũ Thăng (Nxb. Quân đội nhân dân Hà Nội, 2001); Nghệ thuật kể chuyện
trong tác phẩm Nam Cao, Vũ Khắc Chương (Nxb. Văn học, 2000).

Nhìn chung, những công trình trên đã nghiên cứu rất công phu và tỉ mỉ về
Nam Cao. Những tác giả trên đã có những nhận định khá xác đáng về những tác
phẩm của Nam Cao trên phương diện nội dung và nghệ thuật. Với đề tài “Quan
điểm của Nam Cao về sáng tác nghệ thuật”, chúng tôi mong muốn đóng góp
vào những công trình nghiên cứu về Nam Cao một hướng nghiên cứu mới:
nghiên cứu về giá trị quan điểm nghệ thuật của Nam Cao đối với văn học đương
đại.
3.Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
5
Mục tiêu của đề tài
Qua quan điểm nghệ thuật của Nam Cao, chúng tôi góp phần định hướng
sáng tác cho những nhà văn đương đại cũng như định hướng tiếp nhận văn học
cho độc giả hiện nay.
Nhiệm vụ của đề tài
Thứ nhất: tìm hiểu về hoàn cảnh, xuất thân, bối cảnh thời đại của tác giả,
từ đó tìm ra những yếu tố tác động đến sự hình thành quan điểm nghệ thuật của
Nam Cao.
Thứ hai: làm rõ quan điểm nghệ thuật của Nam Cao để chỉ ra sự tiến bộ
của quan điểm nghệ thuật của ông so với những quan điểm nghệ thuật từ trước
đến nay.
“Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy, nó đòi hỏi người sáng tác
phải có phong cách nổi bật, tức là phải có cái gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện
trong phong cách của mình. “Trong giai đoạn 1930 _1945 xuất hiện ba dòng
văn học hiện thực, lãng mạn và cách mạng. Nam Cao đã từng theo dòng văn
học lãng mạn trong giai đoạn tìm đường sáng tác nhưng ông đã nhanh chóng từ
chối thứ văn chương “nghệ thuật vị nghệ thuật” để đi theo con đường “nghệ
thuật vị nhân sinh”.
Thứ ba: chỉ ra sai lầm của một số quan điểm nghệ thuật hiện nay, từ đó
phần nào định hướng đúng đắn cho tác giả và độc giả văn học đương đại, dựa
trên quan điểm nghệ thuật của Nam Cao.

Trong đời thừa tác giả viết: “Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên
trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người.
Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi.
Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình ….nó làm cho con người gần
con người hơn!”
4.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Bất cứ công trình nghiên cứu khoa học nào cũng phải dựa trên một sơ sở lý
luận. Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác
– Lênin kết hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Từ cơ sở lý
luận trên, chúng tôi triển khai từng bước cụ thể để hoàn thành đề tài.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã vận dụng kết hợp nhiều phương
pháp nghiên cứu để hoàn thành công trình nghiên cứu của mình. Những phương
pháp chúng tôi vận dụng chủ yếu bao gồm: đọc và ghi chép tài liệu, phân tích,
lý giải, so sánh, đối chiếu… Ngoài ra chúng tôi còn vận dụng thêm những
phương pháp khác.
5.Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
6
Về ý nghĩa khoa học, Nam Cao là một nhà văn lớn của văn học hiện đại
thế kỉ XX, cho nên đã không ít nhà nghiên cứu tốn bút mực vì cuộc đời và sự
nghiệp văn học của ông. Và công trình nghiên cứu này sẽ đóng góp một phần
nhỏ giúp định hướng rõ hơn về quan điểm nghệ thuật của Nam Cao về sáng tác
nghệ thuật, là một phương diện hoàn toàn mới khi nghiên cứu về Nam Cao. Đề
tài cũng là một đóng góp quan trọng trong việc nghiên cứu về văn học nói
chung và về nhà văn Nam Cao nói riêng.
Về ý nghĩa thực tiễn, đề tài nhằm góp phần giúp mọi người có cái nhìn rõ
ràng và đúng đắn hơn về nghệ thuật trong văn chương, giúp định hướng sáng
tác cho những nhà văn hiện nay để có thể cho ra đời những tác phẩm hay đúng
nghĩa cũng như giúp cho bạn đọc có cái nhìn đúng đăn trong việc đọc và nghiên
cứu các tác phẩm văn học.
6.Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết
cấu thành 2 chương, 4 tiết.
7
Chương 1
CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA NAM CAO
1.1. CUỘC ĐỜI VÀ CON NGƯỜI CỦA NAM CAO
1.1.1. Cuộc đời của Nam Cao
Nhắc đến nền văn học Việt Nam thời kỳ 1930-1945 chúng ta không thể
không nói đến cái tên Nam Cao, một ngòi bút tiêu biểu thuộc phái văn học hiện
thực phê phán đương thời. Nam Cao, đã dần khẳng định mình qua các đề tài về
người nông dân nghèo ở xã hội cũ với cuộc sống chật vật, khốn khổ bởi ách đàn
áp của chế độ thực dân –bán phong kiến, ông phanh phui và tái hiện trọn vẹn
những câu chuyện rất đời thường, rất gần gũi nhưng vô cùng sinh động và sâu
sắc. Hay là đề tài về người tiểu tư sản trí thức cũ, những nhân vật chính là
những con người đầy đam mê, đầy chất bút nhưng cũng phải lầm lũi, chật vật
với cái khốn khó mà xã hội cay nghiệt ấy đưa đẩy, để rồi nghệ thuật chỉ là
những đổi chát, những giằn xé và bế tắt. Và cuộc đời của ông là một hành trình
gắn liền với nghệ thuật, cháy bỏng trong nghệ thuật , chân thật và tài hoa để làm
nên những tác phẩm xuất sắc , những nhân vật kinh điển trong lòng độc giả qua
bao năm tháng.
Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri (có nguồn ghi là Trần Hữu Trí) sinh năm
1915, nhưng theo giấy khai sinh ghi thì là ngày 29 tháng 10 năm 1917.Quê ông
tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lí Nhân (nay là xã
Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, Hà Nam). Ông đã ghép hai chữ của tên tổng và
huyện làm nên bút danh: Nam Cao, ngoài ra ông còn các bút danh khách như:
Thúy Rư, Xuân Du, Nhiêu Khê, Nguyệt Sinh ra trong một gia đình đông anh
em, cha ông tên Trần Hữu Huệ là một thợ mộc và hành thêm nghề làm thuốc,
mẹ là bà Trần Thị Minh làm ruộng và dệt vải. Nam Cao là con cả và là người
duy nhất được ăn học tử tế. Nam Cao học sơ học ở trường làng, đến cấp tiểu
học và trung học ông được gia đình gửi xuống Nam Định học ở trường Cửa Bắc

rồi Thành Chung, vì thể chất yếu học chưa xong Thành Chung thì ông đã phải
về nhà chữa bệnh và cứơi vợ năm 18 tuổi. Sau đó, Nam Cao tìm đến mảnh đất
Sài Gòn xa lạ, bắt đầu với vai trò thư ký cho một hiệu may của người cậu và sau
đó ông sống ba năm tại đây. Ông có cơ hội tiếp xúc với nhiều tầng lớp khác
nhau trong xã hội như: công nhân, lính thủy, học sinh Bắt đầu làm văn, viết
thơ và mơ ước được đi xa đến những miền đất mới nhưng vì ốm yếu ông phải
trở lại quê nhà và rơi vào tình trạng thất nghiệp. Tiếp sau đó, Nam Cao đi dạy
tại trường tư thục Công thành ở ngoại ô Hà Nội. Do hoàn cảnh lịch sử khi Nhật
xâm lược Đông Dương, trường bị đóng cửa, Nam Cao sống chật vật bằng nghề
viết văn, làm gia sư, và lắm khi là về quê ăn nhờ vợ.
8
Năm 1941, ông tham gia nhóm văn hóa cứu quốc. Bị khủng bố gay gắt ,
Nam Cao về làng tham gia phong trào Việt minh ở địa phương.Năm 1945, Cách
mạng tháng 8 thành công, Nam Cao tham gia cướp chính quyền ở phủ Lý Nhân,
rồi ông được cử làm chủ tịch xã của chính quyền mới ở địa phương. Năm 1946,
ông đi theo đoàn quân Nam tiến vào Nam trung bộ và hoạt động ở đây một thời
gian với tư cách là phóng viên. Năm 1948, ông lên chiến khu Việt Bắc, làm
công tác báo chí cũng trong thời gian này ông được chỉ định vào tiểu ban văn
nghệ của Đảng. Năm 1950, theo bộ đội trong chiễn dịch biên giới. Tháng
11/1951 trên đường vào công tác vùng địch hậu liên khu ba, Nam cao và những
người cùng đi đã bị một toán địch phục kích bắn giết gần bốt Hoàng Đang,
Ninh Bình. Nam Cao hy sinh ngày 30 tháng 11 năm 1951 khi những hoài bão
vẫn còn dang dở, ấp ủ cuốn tiểu thuyết lớn về quê hương nghèo khó đang vùng
dậy cuả mình, trong chuyến về thăm làng lần này, nhà văn định lấy thêm tài liệu
để hoàn thành nhưng không có cơ hội.
Trong cuộc đời thường nhật, Nam Cao là người có tính cách hiền lành,
trầm lặng, nhút nhát đến vụng về và có vẻ như lạnh lùng khó gần. Những ai
không hiểu ông thì chắc rằng không thể nào làm thân với "cái mặt không chơi
được" [Tên một truyện ngắn của Nam Cao năm 1942] , Nam cao là một người
bạn giản dị hay đỏ mặt thỉnh thoảng lại cười chua chát trước những sự đời. Một

vài dây dướng của ảnh hưởng Pháp, một thái độ dè dặt, đắn đo đến nghi kỵ, ít
nói đến lạnh lùng. Lạnh lùng chỉ là cái cốt tướng của một con người trí thức,
Nam Cao kì thực là con người có một tâm hồn chan chứa yêu thương. Ông sống
gần gũi với bà con làng quê, lớn lên trong sự đùm bọc của những người nông
dân nghèo khổ ruột thịt ông hiểu rõ và thấm thía với cảnh sống khó khăn, túng
quẫn của họ. Cuộc sống của cá nhân gia đình Nam Cao cũng không lấy gì là
khá giả, bản thân ông cũng không giúp đỡ được gì cho gia đình, vợ con, lắm khi
ông còn là gánh nặng cho họ. Bởi thế, các tác phẩm của Nam Cao viết về đề tài
người nông dân "là bản kể khổ cảm động và đầy ân tình" của một người con của
quê hương thời chiến.
Là một trí thức nghèo, lại sống giữa xã hội đầy rẫy những điều xấu xa, ít
nhiều Nam Cao không thể không tiêm nhiễm những cái tiêu cực, dù vậy điều
đáng quý ở ông là luôn tự đấu tranh nghiêm khắc với bản thân để vượt qua
những hạn hẹp, thiếu sót của cuộc sống tầm thường, nhỏ nhen, đê tiện tiểu tư
sản để vươn tới cái đúng đắn, cái tốt đẹp.Và có lẽ cũng vì vị trí là một người
tiểu tư sản trí thức như thế mà Nam Cao đã có cách nhìn thấu đáo để vẽ nên bức
tranh chân thật về cuộc đời buồn thảm sống dở chết dở của tầng lớp tiểu tư sản
trí thức nghèo và cả những đau đớn, quằn quại trong tâm hồn họ.
9
Là một nhà văn hiện thực xuất sắc, một Đảng viên có tinh thần và ý chí,
một người bạn hiền lành, một con người tài hoa, Nam Cao đã viết và chỉ viết về
những điều ông muốn viết, từ bỏ những ảnh hửơng của thứ văn chương lãng
mạn tiêu cực, non nớt để đạt thẳng tới đỉnh cao của chủ nghĩa hiện thực phê
phán trước 1945. Nam Cao đã cho sự nghiệp văn chương của mình có một lối đi
riêng và mạnh dạn bước đi trên con đường ấy, ông đã đem cho văn chương một
làn gió mới sâu xa, chua chát và tàn nhẫn, thứ tàn nhẫn của con người biết tin ở
tài mình, ở thiên chức của mình.
1.1.2. Con người của Nam Cao
Có rất nhiều yếu tố từ cuộc sống của ông đã hình thành nên một Nam Cao
độc đáo. Nam Cao vốn xuất thân từ một gia đình trung nông ở Hà Nam giữa

đồng bằng Bắc Bộ. Trong các tiểu thuyết và truyện ngắn của ông luôn xuất hiện
cái làng lam lũ ở ven song, quanh năm gần như không có tiếng hát, nhà nọ cách
xa nhà kia, rải rác trong những khu vườn “hẻo lánh tựa bãi tha ma”. Dần dần,
ông bắt đầu suy nghĩ một cách sâu xa sự hà hiếp của bọn cường hào. Quê hương
ông là làng Đại Hoàng, hoặc trong tác phẩm “Chí Phèo” thì đó chính là làng Vũ
Đại với những tay địa chủ ác ôn. Nam Cao đã thấy những “ông Bá Kiến sai trói
một lúc mười bảy người và đánh một người lòi một mắt”, những cảnh thuế mà
bóp hầu bóp cổ mỗi năm lại diễn ra, và những người dân cùng khổ càng ngày
càng khổ mãi. Đang đi học, lại bị bệnh phù và đau tim, ông bỏ học vào miền
Nam. Mấy năm sau trở về quê, ông đã khánh kiệt, túng đói, vất vả. Nam Cao ra
Hà Nội dạy học tư, tuy nhiên cuộc đời túng thiếu, tù hãm vẫn quấn chặt lấy ông,
không buông tha lúc nào. Ông chính thức bước vào nghề văn khi bối cảnh đất
nước hoàn toàn rối ren giữa chiến tranh, khi bọn thống trị phát xít chỉ cho tồn
tại những thứ văn chương lãng mạn cuối mùa. Tuy nhiên ông đã không chịu
khuất phục cái chế độ ngạt thở ấy đễ viết nên những câu chuyện đầy hiện thực
và cay đắng của cuộc đời…
Trước tiên, Nam Cao là con người với bề ngoài khiêm nhường, lạnh lùng,
ít nói nhưng lại có đời sống nội tâm vô cùng phong phú.Nhà văn Tô Hoài đã
viết rằng : “Những người bạn mới gặp Nam Cao thường nói : anh ta lạnh lùng
quá. Kéo mép lên mới nẻ được một nụ cười khó nhọc. Chính Nam Cao cũng đã
tả mặt mình trong một truyện ngắn “Cái mặt không chơi được”. Và tự giễu một
cách mỉa mai là “chẳng may trời chỉ phú cho mình cái mặt không chơi được ấy
thì mình phải chịu”. Thật ra thì, mặt anh ta lạnh, nhưng long anh rất sôi nổi. Sự
trái ngược trong con người Nam Cao, thể hiện ở cả những việc nhỏ bé như vậy.
Vốn là một người yếu đuối về cả thể xác lẫn tâm tính, sợ thay đổi, sợ cái gì
khỏe quá, nhưng chống những cái sợ đó, bao giờ Nam Cao cũng tìm cách tạo
cho mình một tính nết ngược lại, một thói quen mới…” . Nam Cao như một cái
10
phích nước nóng, lớp vỏ kim loại bên ngoài lạnh buốt, nhưng nước bên trong lại
rất nóng. Điều này có thể thấy được qua giọng văn lạnh lùng với cái nhìn khách

quan của ông, nhưng đằng sau giọng văn lạnh lùng tưởng chừng dửng dưng ấy
là cả một tấm lòng yêu thương và đồng cảm đối với những con người bị áp bức,
bóc lột. Nam Cao làm chúng ta ngạc nhiên về cái vốn hiểu biết những người
nghèo nông dân và tiểu tư sản, sinh hoạt và nhất là tâm trạng họ như người
trong cuộc : “Khi người ta phải rỏ từng giọt máu ra để kiếm đồng tiền, thì lẽ tự
nhiên là người ta phải quý đồng tiền ngang với maú…”, “Cơm của nhà giàu khó
nuốt. Ăn của họ mà không làm lợi cho họ được thì họ làm cho đến phải mửa ra
mà giả họ…”, “Con người ta có cơm ăn là có da có thịt ngay…”. Nam Cao
cũng nhìn thấu ruột gan bọn cường hào hương lý đè đầu cưỡi cổ nhân dân, và
đã trút lên đầu bọn chúng tất cả sức căm thù của những người bị áp bức. Nhà
văn mảnh khảnh thư sinh, ăn nói ôn tồn nhiều khi đến rụt rè, mỗi lúc lại đỏ mặt,
mà kỳ thực mang trong lòng một sự phản kháng mãnh liệt.
Thứ hai, Nam Cao thường hay day dứt, trăn trở về cuộc sống, phận người.
Ông luôn nghiêm khắc đấu tranh với bản thân để thoát khỏi lối sống tầm
thường, vị kỉ để hướng tới cuộc sống tốt đẹp. Ông rất có ý thức về quan điểm
nghệ thuật của mình phải gắn liền với đời sống lầm than của người lao động. Vì
thế Nam Cao đã không mất nhiều thời gian để tìm đến với thứ văn chương “tả
chân” mà sau này các nhà lý lý luận phê bình gọi là dòng văn chương hiện thực
phê phán. Ông cho rằng thứ văn chương “tô hồng” cuộc đời, không dám nhìn
thẳng vào sự thật như dòng văn học lãng mạn đương thời là thứ văn chương ru
ngủ, làm người ta quên đi không dám đấu tranh tự giải phóng mình. Sự thật,
hiển nhiên bao giờ cũng là “tàn nhẫn”, nhưng người ta cần phải nhìn thẳng vào
đấy để mà vượt thoát ra, tìm cho mình con đường sống khác tốt đẹp hơn. Trong
truyện ngắn “Đời thừa”, ông khẳng định “Một tác phẩm văn học phải vượt lên
trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người.
Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa
phấn khởi; ca tụng tình yêu, bác ái, công bằng” và “Văn chương không cần đến
sự khéo tay, làm theo một cái khuôn mẫu. Văn chương chỉ dung nạp những
người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo ra
cái gì chưa có”. Tô Hoài đã từng viết : “Mỗi sáng tác của anh đều là tiếng nói

một thái độ của ngòi bút. Không ngủ gật hoặc ừ hử che màn với cuộc sống bấy
giờ, mà anh đã quăng ra vấn đề cho bạn đọc suy nghĩ. Những cái bất công bạo
ngược mà anh cảm, anh viết nó lên. Những cái bạc nhược, hên yếu, vẩn vơ,
bệnh thời đại, bệnh của chính Nam Cao, mà anh đã viết, nghĩa là vạch trần,
chống lại nó, trước nhất ngay ở trong con người mình” - chỉ bấy nhiêu đó cũng
11
đã khắc họa trước mắt chúng ta một Nam Cao khác người, nghiêm khắc với bản
thân, luôn thấu hiểu, ý thức được con người, cuộc sống bấy giờ. Ông đòi hỏi
nhà văn phải có lương tâm, có nhân cách xứng với nghề; và cho rằng sự cẩu thả
trong văn chương chẳng những là bất lương mà còn là đê tiện. Sau 1945, từ khi
tham gia kháng chiến chống Pháp, những mong đem văn chương phục vụ lợi
ích dân tộc là trên hết. “Nhật ký ở rừng” là tác phẩm có giá trị của văn xuôi thời
kỳ đầu kháng chiến chống Pháp, thể hiện quan niệm “sống đã rồi hãy viết” và
“góp sức vào công việc không nghệ thuật lúc này là chính để sửa soạn cho tôi
một nghệ thuật cao hơn” của nhà văn tài ba này. Lối sống của con người và vấn
đề sáng tác của Nam Cao biểu hiện một cách sâu sắc sự nhất trí của thực tế cuộc
đời và tác phẩm, sự thống nhất giữa tư tưởng và nghệ thuật. Một lúc nào trệch
ra ngoài khuôn thước đó, nhất định ngã. Chính ông là người đặt những mảnh
mầu cuối hoàn chỉnh bức tranh của văn học hiện thực cả về mặt phản ánh xã hội
cũng như khả năng biểu hiện nghệ thuật.
Thứ ba, Nam Cao luôn gắn bó sâu sắc với quê hương và cuộc sống của
người dân nghèo. Ông luôn bị ám ảnh bởi cái cảnh tượng cuộc sống vô lý,
những con người bị tha hóa, bị biến chất, biến thành cái ngược lại với nó.
Những Chí Phèo, Thị Nở, Lão Hạc và bà cụ gìa chỉ có cái tên chung là “Bà cái
đĩ” trong truyện “Một bữa no” mà Nam Cao để lại cho cuộc sống, chính là hình
ảnh sinh động của một số nông dân ngoi ngóp trong cảnh nghèo đói. Họ đã bị
áp bức, bóc lột đến cùng kiệt, và cũng bị phá hoại đến cùng kiệt về thể chất
cũng như tinh thần, dưới cái chế độ thống trị của bọn cường hào phong kiến.
Những hình ảnh như Thị Nở, Lão Hạc… cùng với bao nhiêu hình ảnh sáng tạo
khác đã để cho ta thương yêu thêm, hiểu sâu sắc thêm những con người bất

hạnh này. Và cái thế giới của những Bá Kiến, Đội Tảo, của cái àng Vũ Đại hẻo
lánh dưới một quyền hành cho ai sống được sống, bắt ai chết phải chết kia, càng
làm ta thêm suy nghĩ và thấy phải có một trách nhiệm gì trước với những con
người bị đè nán, bóc lột ở trong đó. Bân cạnh những con người nông dân cùng
cực mà Nam Cao tạo nên kia, còn có thêm những con người cũng túng thiếu,
cũng giày vò, cũng quằn quại nhưng ở một tầng lớp khác : tầng lớp tiểu tư sản.
Đọc những tác phẩm “Trăng sáng”, “Đời thừa”, “Nước mắt”, “Mua nhà”, ta
mới thấy những cảnh đời mà nhờ đọc Nam Cao, ta mới thấy thật hơn, sâu sắc
hơn. Ta bàng hoàng đau xót vì thấy bao nhiêu ước vọng mê say, thương yêu, tha
thiết nhất của những con người họ, của chính chúng đã bị giập nát, tất cả chỉ vì
nghèo khổ!
Cuối cùng, ông luôn suy tư về bản thân, cuộc sống, đồng loại, từ kinh
nghiệm thực tế, ông thích đề lên những khái quát triết lí sâu sắc và đầy tâm
huyết. Ông yêu cầu văn chương phải có sự trau chuốt và sáng tạo cái mới,
12
không lặp lại cái cũ. Là một nhà văn hiện thực nhưng Nam Cao không chấp
nhận thứ văn chương chỉ “tả được cái bề ngoài của xã hội”, thứ văn chương “tả
chân” dung tục tầm thường, mà muốn sang tác được những tác phẩm “vượt lên
trên tất cả các bờ cõi và giới hạn” để trở thành “chung cho cả loài người”
(truyện “Đời thừa”). Xuất phát từ quan niệm đó, ông đã “khơi những nguồn
chưa ai khơi, sáng tạo những gì chưa có” (truyện “Đời thừa”) trong văn học dân
tộc. Nam Cao khinh ghét mọi sự giả dối, mọi thứ tô son điểm phấn trong cuộc
đời cũng như trong văn chương, vô tình hay cố ý muốn bợ đỡ cho cái xã hội mà
anh căm giận. Ví như “Truyện tình” đã trút tất cả cái lố bịch và buồn cười vào
thói lãng mạn rẻ mạt và vô trách nhiệm. Nam Cao xa lạ với mọi thứ thoát ly dễ
dãi, mọi thứ sầu mộng nhẹ nhàng, man mác, u hoài. Nam Cao đã sáng tạo trong
những tác phẩm của ông một kiểu thời gian hiện thực hàng ngày lẩn quẩn với
những lo âu về sinh kế, mòn mỏi về tinh thần, góp phần tạo nên hình ảnh một
cuộc “Sống mòn” bế tắc, ngột ngạt khá điển hình. Lý tưởng thẩm mỹ của Nam
Cao không phải là ở “cái ánh trăng xanh huyền ảo nó làm đẹp đến cả những

cảnh thật ra chỉ tầm thường, xấu xa.”. Ông làm toát ra cái đẹp của chính cuộc
đời. Ông bám chặt lấy hiện thực, và bằng một nghệ thuật sắc cạnh, không chút
ảo tưởng đã gieo cho người đọc cái mầm bất bình, phản khàng, buộc người đọc
không thể buông xuôi lơ đễnh, mà phải có thái độ, phải quan tâm hơn nữa đến
hạnh phúc và đau khổ của con người. Văn Nam Cao là phức hợp, là tổng hòa
những cái đối nghịch : bi và hài, trữ tình và triết lý, cụ thể và khái quát. Ông có
những tâm niệm của riêng mình về nghệ thuật : “Cứ đứng trong lao khổ, mở
hồn ra đón lấy tất cả những vang động của cuộc đời”, “ngồi viết giữa tiếng con
khóc, tiếng vợ gắt gỏng, tiếng léo xéo đòi nợ ngoài đầu xóm” (truyện “Trăng
sáng”) hay phát biểu rất gan ruột về yêu cầu tìm tòi, sang tạo của văn chương :
“Văn chương không càn đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu
mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết
tìm tòi, khơi những gì chưa có…” Mỗi nhà văn có một hoàn cảnh sống, có
những tâm tư ước vọng riêng, một tâm tính riêng. Tất cả những những yếu tố ấy
chi phối và làm nên phong cách nhà văn mà Nam Cao là một ví dụ tiêu biểu.
Tóm lại, các hoàn cảnh sống như trên đã tác động rất lớn vào cuộc đời sự
nghiệp văn chương của Nam Cao. Nó là nền tảng để Nam Cao viết nên những
câu chuyện, những tiểu thuyết xoáy vào tim người đọc về kiếp người. Cuộc đấu
tranh khi quyết kiệt, khi âm thầm của con người với hoàn cảnh và chính bản
thân mình để tìm lối ra, vươn tới ánh sang, giữ gìn các giá trị nhân bản ngay
trong những hoàn cảnh sống tưởng như không thể nào chịu đựng nổi, niềm tin
của tác giả vào thiện căn của con người, khát khao của ông về một cuộc sống
xứng đáng lương thiện, tất cả những điều này đã làm cho những trang viết của
13
Nam Cao bao giờ cũng thấm đượm, lan tỏa sự ấm áp của tình người, của hi
vọng.
1.2. SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG VÀ TÁC PHẨM CỦA NAM CAO
1.2.1. Sự nghiệp văn chương của Nam Cao
Văn học nước ta có những thời kỳ rực rỡ nhất định, trong số đó không thể
không nhắc đến giai đoạn văn học hiện đại Việt Nam mà chủ nghĩa hiện thực

phê phán luôn là tính cốt lõi. Cương lĩnh “Nghệ thuật vị nhân sinh” luôn là nỗi
trăn trở và ăn sâu vào tư tưởng của những nhà văn giai đoạn này- giai đoạn mà
“nơi tiếng kêu từ mặt đất vang lên”. Suốt những năm 1930-1945 nhắc đến chủ
nghĩa hiện thực phê phán là ta nhắc đến những cái tên quen thuộc như Ngô Tất
Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao v.v… Trong số đó, Nam Cao là một đại diện
tiêu biểu và trở thành gương mặt ưu tú của trào lưu văn học này.
Nam Cao xuất hiện trên văn đàn khi các trào lưu văn học đã định hình và
phát triển, những cây bút dần khẳng định tên tuổi và có chỗ đứng vững vàng.
Nhưng cách mà ông bước chân vào làng văn đều không giống và trùng lập với
bất cứ ai, ông không nói những cái người ta đã nói, ông không tả những cái
người ta từng tả, ông đến với những cạnh sắc và “tiếng lòng” của riêng mình.
Có thể nói ông là một trong những nhà văn lớn của thế kỉ XX, chỉ vỏn vẹn
mười lăm năm gắn bó với văn nghiệp, nhưng khối lượng đồ sộ tác phẩm mà ổng
để lại không chỉ lớn ở số lượng mà còn lớn ở mặt tinh thần. Ông chính là biểu
tượng xuyên suốt mà nhiều người yêu văn theo đuổi, trở thành đối tượng nghiên
cứu của giới phê bình văn học nghệ thuật và hàng lớp thế hệ độc giả.
Lúc sinh thời, Nam Cao luôn suy nghĩ về vấn đề “sống và viết”. Những
ngày sôi nổi của tuổi trẻ, ông chịu ảnh hưởng của trào lưu văn học lãng mạn
đương thời. Đặc điểm chính của trào lưu này là sự đào sâu vào cái tôi nội cảm,
diễn tả ước mơ, khát vọng của cá nhân, đề cập đến những số phận cá nhân với
thái độ bất hòa, bất lực trước hiện thực tầm thường, tù túng. Ông làm một số
thơ lãng mạn và viết truyện tình yêu thơ mộng. Thơ của ông nặng nề nỗi buồn
vu vơ. Với những cảnh ngộ đau khổ trong xã hội, kiếm ăn bằng việc mua vui
cho người khác. Một cô đào hát, chết gục trên sân khấu giữa tiếng tiếng hát thê
lương của chính mình trong “Cảnh cuối cùng” (bút danh Thúy Rư, in trên Tiểu
thuyết thứ bảy số 123, ngày 21/10/1936) hay một diễn viên xiếc nghèo bị tình
phụ đã giết chết người tình rồi kết liễu khi biểu diễn trong “Hai cái xác” (Thúy
Rư, in trên Tiểu thuyết thứ bảy số 133, ngày 12/12/1936)
Và từ mạch nguồn ban đầu ấy, các sáng tác tiếp theo của nhà văn, kể cả thơ
và truyện cho thiếu nhi lần lượt ra mắt bạn đọc với những bút hiệu Xuân Du,

Nguyệt, Nhiêu Khê.
14
Ở thời kì này ngòi bút của Nam Cao đang dò dẫm tìm một lối đi riêng cho
mình, tâm hồn ông dần dần thay đổi, có được một cái nhìn đúng đắn về cuộc
sống. Những áng mây xốp bồng bềnh trôi nổi, ánh trăng xanh huyền ảo, ngọn
gió mát lành thơm tho thoảng qua từ những mái tóc, tà áo thiếu nữ, những cuộc
hẹn hò, trang sức Tất cả chất liệu ấy có lần đến với ngòi bút Nam Cao, mang
theo nhiều mơ ước xa xôi và những nỗi buồn vẩn vơ của lứa tuổi học sinh chịu
ảnh hưởng của sách báo lãng mạn. Nam Cao trong tuổi trẻ không khỏi có lúc
“Tâm hồn tan tác làm trăm mảnh. Vương vấn theo ai bốn góc trời.”
Song hành trình vào đời văn tuy mang hơi hướng lãng mạn nhưng đâu đó
trong những sáng tác ấy vẫn đâu đó sự trần trụi của hiện thực được phơi bày.
Dần dần, ông nhận ra rằng: văn chương lãng mạn có phần xa lạ với cuộc sống
đầy lầm than của người lao động, ông nhanh chóng trở về với đời thực, khước
từ mọi âm điệu ão não, thất tình tràn đầy các trang sách.
Là một thanh niên sống trong thời kì loạn lạc, không phải ông không tiêm
nhiễm nhiều thứ tiêu cực song cái đáng quý của ông là tự mình nghiêm khắc
đấu tranh, vượt khỏi cuộc sống tầm thường, nhỏ nhen, vươn tới cái đẹp, cái cao
thượng. Sau bao trăn trở, đau đớn trước nỗi đau của con người, ông đã đến với
những cuộc đời bị chà đạp, vùi dập, bị “áo cơm ghì sát đất”.
Thời kì này, khuynh hướng phê phán xã hội đã trở nên rõ nét ở Nam Cao
trong truyện ngắn “Nghèo”, “Đui mù”, “ Một bà hào hiệp”…
Nhưng phải đến tác phẩm “Đôi lứa xứng đôi” (là tập truyện gồm 7 truyện
ngắn, trong đó có truyện Đôi lứa xứng đôi, trước có tên là Cái lò gạch cũ sau
đổi tên thành Chí Phèo) thì tên tuổi Nam Cao mới thực sự để lại dấu ấn và chính
thức bước vào đội ngũ các nhà văn đã nổi danh như : Nguyễn Công Hoan, Ngô
Tất Tố, Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng…
Sự nghiệp sáng tác của Nam Cao có thể chia làm hai giai đoạn chính đó là
trước Cách Mạng tháng 8 (giai đoạn đã định được con đường sáng tác) và sau
Cách Mạng tháng 8.

Trước Cách mạng tháng 8, Nam Cao là một nhà văn hiện thực xuất sắc.
Ông tập trung vào hai mảng đề tài chính: tầng lớp nông dân bần cùng và tri thức
tiểu tư sản.
Ở đề tài thứ nhất (tầng lớp nông dân nghèo), Nam Cao viết chừng hai
mươi truyện ngắn phản ánh cuộc đời tăm tối, số phận bi thảm của người nông
dân; tiêu biểu là: Chí Phèo , Lão Hạc, Một bữa no, Một đám cưới…
Mỗi tác phẩm của nhà văn là một lời tố khổ chân thực, cảm động về cuộc
sống tối tăm, thê thảm của người nông dân.
15
Nông thôn trong tác phẩm Nam Cao là nông thôn Việt Nam vốn triền miên
trong bần cùng, giờ đây đang tiến tới thảm họa khủng khiếp 1945 :
Cảnh lão Hạc ăn bả chó tự tử đế tránh chết đói (Lão Hạc).
Bà cái Tí chết vì một bữa quá no sau những bữa tưởng chừng chết đói
(Một bữa no).
Một đám cưới của Dần trong cảnh lầm than, không đón đưa, không may
mặc, không cỗ bàn, chỉ có “sương lạnh và bóng tối như một gia đình xẩm lẳng
lặng dắt nhau đi tìm chỗ ngủ”.
Trong số những tác phẩm đó, “Chí Phèo” xứng đáng là kiệt tác. Viết về đề
tài này, Nam Cao khắc họa bức tranh chân thực về nông thôn Việt Nam xơ xác ,
bần cùng trong khoảng thời gian 1940 -1945. Đề cập đến bi kịch của một con
người sinh ra là người nhưng không được làm người đó là nhận vật "Chí Phèo",
Nam Cao kết án đanh thép xã hội thực dân phong kiến đã huỷ hoại nhân hình,
sói mòn nhân tính của những con người lương thiện. Không “bôi nhọ” nông
dân, ông đi sâu vào nội tâm nhân vật để phát hiện, khẳng định nhiều phẩm chất
cao cả của những người bị xã hội dập vùi.
"Chí Phèo" được giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh nhận định:
"Đó là một mảnh vườn hoang, trong mảnh vườn hoang ấy vắng tiếng chim
ca, vắng hương hoa quả chín. Chỉ còn lại trên mảnh vườn ấy là quả thối, quả
điếc, con sâu con bọ".
Đến với đề tài thứ hai (tri thức tiểu tư sản) , ấn tượng hơn cả là các tác

phẩm Đời thừa, Sống mòn…
Hầu hết các nhân vật giống nhau về cảnh ngộ, tính cách ít nhiều họ đều
là hình ảnh bản thân Nam Cao. Ðó là những học sinh thất nghiệp, những viên
chức hạngbét, những giáo khổ trường tư, những nhà văn nghèo bất đắc chí họ
"phải bán dần sự sống để giữ cho mình khỏi chết" (Quên điều độ).
Nam Cao là một trong những nhà văn có trách nhiệm với ngòi bút của
mình nhất, ông luôn nhìn đời bằng nước mắt, bằng tình thương. Gương mặt ưu
tú cuả trào lưu văn học này đã từng thốt lên qua lời nhân vật của mình rằng:
“nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối,
nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ thoát ra từ những kiếp lầm than ”
(Giăng sáng), “một tác phẩm có giá trị phải ca ngợi tình thương, lòng bác ái,
sự công bình ”,“nó làm cho người gần người hơn”. và “nhà văn phải luôn mở
hồn ra để đón những vang động của cuộc đời ” (Đời thừa).
Nếu phải chọn ra một tác phẩm tiêu biểu nhất cho đề tài trí thức tiểu tư sản
có lẽ nhiều người sẽ chọn tiểu thuyết "Sống Mòn". "Sống Mòn" kể về cuộc đời
của người trí thức trong xã hội cũ sống mốc lên, rỉ ra, chết mòn Nhưng trong
16
quy mô của một truyện ngắn với dăm bảy trang truyện mà Nam Cao đã thâu
tóm được cả một tấm bi kịch của tầng lớp trí thức nghèo trong xã hội cũ. Một
thầy giáo nghèo như Thứ mơ ước một nền giáo dục đổi mới làm cho con người
có tri thức để xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ hơn. Thứ khao khát một
cuộc sống hữu ích, cao cả. Thứ mong muốn giữa người với người có sự cảm
thông, yêu thương. Anh muốn trân trọng mọi người và có ý thức gần gũi nhân
phẩm của mình. Nhưng "chất độc ở ngay trong sự sống" thấm vào máu từng
người. Chất độc ấy vùi dập những gì tốt đẹp, kích thích những gì nhỏ nhen xấu
xa trong con người. Thứ đã khóc "khóc cho cái chết của tâm hồn y". Cả cuốn
"Sống mòn" là tiếng khóc lặng lẽ mà đau đớn về "cái chết của tâm hồn".
“Sống mòn” không trực tiếp phản ánh trên bình diện đấu tranh giai cấp
nhưng Nam Cao thấy rõ tình trạng bất công phổ biến trong xã hội đương thời.
Tác phẩm kết thúc bế tắc, nhưng tia sáng mong manh đó vẫn le lói như hứa hẹn

một bình minh xa xôi sẽ tới.
Qua đề tài này, Nam Cao phê phán xã hội cũ giết chết tài năng, tàn phá tâm
hồn nghệ sĩ. Ông cũng thể hiện thành công quá trình người trí thức tự đấu tranh,
khắc phục mặt hạn chế, vươn lên giữ lối sống đẹp nhưng ông vẫn chưa vươn tới
được tư tưởng Cách mạng, các nhân vật của ông vẫn bất lực và chưa thể thoát
khỏi suy nghĩ suông mà không hành động.
Viết về nông dân hay trí thức, sáng tác của Nam Cao luôn luôn thể hiện nỗi
băn khoăn day dứt trước số phận con người và thường lấy nguyên mẫu từ quê
hương, bản thân. Sáng tác của ông luôn chứa đựng nội dung triết học sâu sắc.
Và điều xuyên suốt ta có thể thấy được đó chính là nghệ thuật vị nhân sinh luôn
đau đáu hiện thân và tư tưởng nhân đạo, hiện thực đã thấm nhuần qua những
trang văn của ông.
Sau Cách Mạng, Nam Cao vẫn tiếp tục viết về nông dân, trí thức với “đôi
mắt” mới. Đó là “ đôi mắt “ đã tìm thấy con đường lý tưởng và thái độ đúng
đắn của nhà văn đối với nhân dân và Cách mạng.
Giai đoạn này ông viết văn với tư cách ngòi bút là một cán bộ làm báo,
làm văn. Do đó ông đôi lúc “ lo lắng viết như vậy có thể làm hỏng lối văn tiểu
thuyết đã có ít nhiều người thích “ trước đây của ông.
Truyện ngắn “ Đôi Mắt”, nhật kí “ Ở rừng” , bút kí “ Biên giới” …là
những tác phẩm nổi trổi giai đoạn này nhưng nó lại là “những phác thảo dở
dang” của một tác phẩm lớn. Dù số lượng khá ít nhưng vẫn đạt được độ chín về
nghệ thuật. Nhất là qua “Đôi mắt” hay nhật kí “Ở rừng”,người ta nhận thấy
trong tinh thần nhà văn đang diễn ra một cuộc đấu tranh tư tưởng gay gắt để
vượt qua cái mà Nam Cao gọi là “ thằng nghệ sỹ cũ trong người tôi “.
17
Gần như qua hai giai đoạn chính của con người đa tài nhưng bạc mệnh đó,
ta đều thấp thoáng thấy đâu đó những cái nhỏ nhặt, nhỏ nhặt nhưng lại không
tầm thường mà còn chứa đựng những vấn đề xã hội có ý nghĩa triết lý sâu sắc
về con người, cuộc sống bằng một giọng điệu riêng : giọng điệu buồn thương,
chua chát. Và quan niệm “nghệ thuật vị nhân sinh” của ông luôn có nhiều đóng

góp quan trọng trong nền văn học nước nhà nói riêng hay quá trình hiện đại hóa
ở nửa đầu thế kỉ XX nói chung.
Những tác phẩm văn chương của Nam Cao đã trở thành những tuyên ngôn
nghệ thuật cho giới nghệ sĩ đương thời.
"Trăng sáng" là một tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao: "Chao ôi! Chao
ôi! Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối,nghệ thuật không nên là ánh trăng
lừa dối, nghệ thuật có thế chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm
than".
1.2.2.Tác phẩm của Nam Cao
Khi nhắc đến những tác phẩm của Nam Cao, người ta không chỉ thấy cuộc
sống của những con người được lột tả trần trụi, mà đâu đó còn đượm lại những
giọt nước mắt xót xa và niềm cảm thương sâu sắc cho thân phận một kiếp
người. Tác phẩm của Nam Cao không chỉ phô ra cái bề nổi của xã hội mà còn
lật tung những mảng lẩn khuất, xấu xa bên trong nó. Điều đó khiến cho phong
cách của Nam Cao và những sáng tác của ông trở thành một hiện tượng trong xã
hội đương thời; và cho đến tận ngày nay, rất nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn
học đã tìm hiểu về cuộc sống của ông, phân tích các tác phẩm lớn của ông để
tìm ra được điều cốt lõi để tạo nên một nhà văn thời đại như ông là gì, và để làm
sao mà hầu hết các sáng tác của ông vẫn luôn để lại những dấu ấn thiết tha trong
lòng những người yêu nghệ thuật. Đối với Nam Cao cùng những tác phẩm của
ông, đã có một số đánh giá đầy kính trọng như:
GS-TS. Trần Đình Sử: “Suốt từ năm 1960 đến nay, các nhà văn, nhà
nghiên cứu, các học trò của chúng ta luôn yêu mến Nam Cao, luôn thấy ở các
tác phẩm của ông còn một cái gì đầy bí ẩn, chưa hiểu hết…Theo tôi, việc
nghiên cứu Nam Cao có ý nghĩa lớn đối với tiền đồ phát triển của văn học
chúng ta” [28, 570].
GS. Phong Lê: “Nếu mà nói từ Nam Cao đến giờ thì… có cái tiểu thuyết
nào đã vượt được “Sống mòn”? Có cái truyện ngắn nào đã vượt được “Chí
Phèo” hay không?” [17].
18

Có thể đi sâu vào phân tích một số tác phẩm tiêu biểu của Nam Cao, ta
mới nhận định rõ được vấn đề, dù là các sáng tác của ông khai thác đa dạng về
nhiều mảng trong xã hội, nhưng suy cho cùng, hầu hết chúng đều làm nổi bật
lên một xu hướng chung đó là chủ nghĩa hiện thực phê phán – một con đường
không dễ đi mà tác giả đã lựa chọn.
Khảo sát sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám, kể từ sau
Chí Phèo, có tới 35/38 tác phẩm (bao gồm cả truyện ngắn, truyện dài và tiểu
thuyết) đề cập tới cuộc sống người nông dân ở các làng quê. Có tới 17 tác phẩm
ít nhiều mô tả đời sống thành thị thì nhân vật chính đều là những trí thức nghèo.
(Kết quả khảo sát dựa trên Tuyển tập Nam Cao – Nxb Văn học, Hà Nội, 1999).
Không phải vì cảm hứng tự phát mà Nam Cao viết về hai tầng lớp này mà trong
thực tế xã hội đương thời thì nông dân và trí thức là hai lớp người phải chịu
gánh nặng về nỗi lo cơm áo gạo tiền nhiều hơn cả.
Trong một số tác phẩm độc đáo của Nam Cao viết về người nông dân
trước Cách mạng tháng Tám thì không thể bỏ qua hai tác phẩm tiêu biểu là “Chí
Phèo” và “Lão Hạc”. Ra đời năm 1941, Chí Phèo là tác phẩm thể hiện được đầy
đủ nhất về bước chuyển mình của Nam Cao theo dòng chủ nghĩa hiện thực phê
phán,nó tạo một dấu mốc vững chắc cho cả một mạch dòng chảy trong các tác
phẩm sau này của ông. Chí Phèo là một nhân vật điển hình cho sự nghèo túng,
cùng đường, không lối thoát của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám,
ngay từ khi sinh sinh ra đã không may mắn khi là một tầng lớp thấp kém của xã
hội đương thời,từ đó dẫn đến những bi kịch trong cuộc sống, bị cái nghèo đày
đọa, bị số phận trêu ngươi, nhưng đau khổ nhất nào có phải là chuyện cuộc sống
bất công giam cầm thể xác,làm cho con người bị tha hóa mà là khi tâm hồn
được gột rửa bằng những tình cảm thiêng liêng, trong trẻo, hiếm gặp được với
một thằng như Chí, Chí muốn tự mình vươn lên để thoát ra khỏi cái sự bế
tắc này, muốn sống cho khác với cuộc sống của một con quỷ dữ thì bị xã hội đó
chen chân xô ngã, tước hết những hy vọng mong manh, ít ỏi của Chí, đưa hắn đi
vào một ngõ cụt mà chắc rằng mãi mãi không còn lối thoát. Nếu như Chí không
chết thì hắn còn cách nào để hóa kiếp cuộc đời đen tối của mình, hắn còn cách

nào để trở thành “người lương thiện” như hắn muốn. Lão Hạt cũng là một ví dụ
tương tự, cho thân phận người nông dân bị cái nghèo làm cho tù túng, là hình
ảnh của một người cha già luôn mặc cảm vì cái nghèo mà làm con mình phải bỏ
đi biệt xứ. Cuối cùng, lão Hạc cũng chọn cho mình một cái chết, một cái chết
dữ dội, chết cái chết của một con chó, không phải vì lão muốn mà vì lão đã lỡ
mang một món nợ lớn với thằng con trai của lão, và vì lão đã trót lừa một con
19
chó, cậu Vàng là cả một nỗi ám ảnh đối với lão Hạc.Các tác phẩm hiện thực của
Nam Cao không mới,trước đó cũng đã có những nhà văn lớn như Nguyễn Công
Hoan, Ngô Tất Tố…nhưng ở Nam Cao vẫn có những nét riêng không lẫn vào
đâu được. Và tuy tác phẩm về người nông dân của Nam Cao không khắc họa rõ
nét vẻ đẹp nào của họ nhưng đã vạch trần một cách trần trụi và gai gốc những
mảng tối của xã hội đương thời. “Ngòi bút lạnh lùng của Nam Cao đã chạm tới
cái bờ giáp ranh giữa yêu thương và khinh bạc, hiện thực và tự nhiên chủ
nghĩa….để cực tả cái khốn nạn của kiếp người trong xã hội thực dân nửa phong
kiến” [22,159].
Nam Cao là nhà văn của những người trí thức nghèo, của những kiếp
“Sống mòn” có hoài bão, có tâm huyết, tài năng, muốn vươn lên cao nhưng lại
bị chuyện áo cơm ghì sát đất. Nếu như mỗi tác phẩm viết về đề tài người nông
dân của Nam Cao đều là sự trả ơn, gửi gắm ân tình với người nghèo khổ thì mỗi
trang viết về đề tài người trí thức đều chứa đựng tâm sự, nỗi đau và niềm khát
khao cháy bỏng của chính nhà văn.
Trong mảng sáng tác của Nam Cao viết về người trí thức tiểu tư sản thì tác
phẩm “ Đời thừa”, “Sống mòn” hay “ Trăng sáng” cũng đều là những tác phẩm
có giá trị đặc biệt. Đời thừa là truyện về một nhà văn nghèo bất đắc dĩ.
Đề tài ấy không thật mới nhưng tất cả đều đã nói thấm thía về cảnh
nghèo túng đáng thương của người cầm bút. Đời thừa cũng như một số
sáng tác của Nam Cao gần gũi với nó về đề tài, giọng điệu, tư tưởng: Trăng
sáng, Nước mắt,Sống mòn đã ghi lại chân thật hình ảnh buồn thảm của người
tri thức tiểu tư sản nghèo tuy không đến nỗi quá đen tối. Giá trị của Đời

thừa không phải chỉ ở chỗ đã miêu tả chân thật cuộc sống nghèo khổ, bế tắc của
người trí thức tiểu tư sản nghèo, đã viết về người tiểu tư sản không phải với
ngòi bút vuốt ve, thi vị hoá, mà còn vạch ra cả những thói xấu của họ.Với Đời
thừa (sau đó là Sống mòn), Nam Cao đã đề cập gần như trực diện tới vấn đề cá
nhân, nói lên yêu cầu được khẳng định và phát triển của cá nhân - vấn đề mà lâu
nay, người ta tưởng đâu chỉ đặt ra trong văn học lãng mạn đương thời. Có lẽ
trong văn học thời kì đó,không ai ngoài Nam Cao đã đặt ra vấn đề cá nhân một
cách đúng đắn và tiến bộ như vậy.
Qua những nhân vật trí thức tâm huyết của mình, những Điền, những Hộ,
những Thứ , Nam Cao thể hiện niềm khao khát, một lẽ sống lớn, khao khát
một cuộc sống sâu sắc mãnh liệt, có ích và có ý nghĩa. Hộ trong Đời thừa hằng
tâm niệm: “Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thoả mãn lòng
ích kỉ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai của mình” và mơ ước
20
viết được “một tác phẩm thực sự có giá trị ( ) làm cho người gần người hơn”.
Thứ trong Sống mòn đã từng “thích làm một việc gì có ảnh hưởng đến xã hội
ngay” và mong muốn đem “những sự đổi thay lớn lao đến cho xứ sở mình”.
Hơn một lần Thứ mơ ước: “Mình cũng là một vĩ nhân, một anh hùng, vượt lên
trên sự tầm thường để chỉ nghĩ đến một cái gì vĩ đại thôi. Ý nghĩ đến những
phương kế để xoay ngược lại, đồng thời xếp đặt cho người với người ổn thoả
hơn”. Những con người mang hoài bão lớn ấy khi chạm trán với cuộc đời đều
nếm trải đắng cay, đau đớn, đều lâm vào tình trạng “sống mòn”. Nhưng dẫu bị
“áo cơm ghì sát đất”, tuy “sống mòn” nhưng họ chưa hoàn toàn cạn kiệt hết
niềm tin, niềm hi vọng, vẫn khao khát được sống, được cống hiến, được phát
triển; vẫn khao khát mỗi cá nhân được phát triển “đến tận độ” để góp vào “công
việc tiến bộ chung” của loài người.
Có thể nói, tư tưởng nhân đạo thấm nhuần trong sáng tác của Nam Cao,
nhưng ông dùng ngòi bút của mình không phải để trau xuốt nhân vật của mình
thành hình tượng chuẩn mực hay xin sự thương hại nhỏ nhoi của người đọc mà
là phê phán cái hiện thực khốn nạn,cay nghiệt đẩy con người vào những ranh

giới sinh – tử, thiện – ác, thậm chí là quay lưng chối bỏ nhân vật của mình để
độc giả có thể tự cảm nhận và sẵn sàng nhận thấy con người trong các tác phẩm
của ông, dù đã bị tha hóa hay biến tính thì đó vẫn đều là những con người có
bản chất lương thiện, muốn sống một cuộc đời lương thiện đúng với tư cách của
một con người.Ông là nhà văn đồng tình với khát vọng sống lương thiện và khát
vọng được phát huy đến tận độ tài năng của con người. Tư tưởng nhân đạo mới
mẻ, phong phú và sâu sắc đó cho thấy nhà văn không chỉ dừng lại ở chỗ tố cáo
những thế lực tàn bạo chà đạp quyền sống của con người mà còn đòi hỏi xã hội
tạo những điều kiện để con người được sống một cuộc sống thực sự có ý nghĩa.
Từ những câu chuyện kể trên, người đọc dễ dàng nhận thấy chủ nghĩa hiện thực
in đậm trong cách viết của Nam Cao.
21
Chương 2
QUAN ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA NAM CAO
2.1.NỘI DUNG CHÍNH CỦA QUAN ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA NAM CAO
2.1.1.Yêu cầu về nội dung của Nam Cao
Văn chương phải có tính hiện thực
Văn chương Nam Cao tái hiện rõ hiện thực bối cảnh xã hội. Xã hội Việt
Nam thời kì trước cách mạng tháng Tám. Trước mắt người đọc hiện lên đời
sống của nông dân ở nông thôn cũng như của các tầng lớp trung gian ở thành thị
đều khổ cực về mọi mặt. Đằng sau lũy tre xanh, không phải là những mái rạ
vàng nên thơ, những cuộc đời êm ả, bình dị, mà là những kiếp sống đắng cay,
cơ cực đang chết dần chết mòn, chết một cách thảm thê đau đớn. Sưu thuế, tô
tức, nợ nần, tạp dịch, đè nặng lên đầu lên cổ người nông dân, họ sống hôm nay
không biết đến ngày mai. Có những cuộc đời sa sút đến chỗ không còn cái bát
ăn (Cái bát), có những số phận kết thúc trong cái chết bi thảm (Lão Hạc, Một
bữa no), bọn cường hào hương lý hoành hoành đè nén, bóc lột con em trong
làng, đẩy người dân lương thiện vào con đường cùng quẫn, liều lĩnh (Chí Phèo,
Đôi móng giò).
Ở thành thị, bên kia khoảng ánh sáng phù hoa, giả dối của một số người rất

nhỏ, là cả một biển người đói rách, nheo nhóc, tù hãm. Có những người con gái
trong trắng lương thiện sa vào con đường trụy lạc (Một đời người), nhiều gia
đình êm ấm rơi vào cảnh tan cửa nát nhà (Chuyện người hàng xóm). Đó là bộ
phận lớn của xã hội đang bị xô đẩy đến bên vực thẳm. Nam Cao đã phản ánh
chân thực thực trạng xã hội đó. Với một ngòi bút sắc Nam Cao thẳng tay rạch
vào cơ thể xã hội đầy ung nhọt ấy, phơi bày mọi sự thối rữa, mục nát của xã hội
ấy ra ánh sáng. Nam Cao đã nghiêm khắc tố cáo và nguyền rủa cuộc sống lầm
than tối ư vô lý của xã hội lúc bấy giờ.
Sau cách mạng tháng Tám, ông viết truyện Đôi mắt. Ông muốn nói, nhà
văn phải có đôi mắt như thế nào đấy để nhìn đúng được bản chất cao cả của
nhân dân mình, đặc biệt là nhân dân lao động. Sự giác ngộ cách mạng và vai trò
quần chúng trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám và cuộc kháng chiến chống
Pháp đã giúp ông biết đặt vấn đề một cách chính xác và tự giác như thế. Nhưng
đọc kĩ những tác phẩm khác của ông, ta thấy, vấn đề “đôi mắt” , vấn đề nhìn
nhận và đánh giá đúng bản chất của người lao động, vốn là một điều Nam Cao
băn khoăn day dứt từ lâu. Có thể nói, vấn đề “đôi mắt” là vấn đề cơ bản của chủ
nghĩa hiện thực Nam Cao: Trong xã hội cũ, ông đi tìm nhân phẩm và tình yêu
thương chân thật ở những người cùng khổ, bị giày xéo và khinh bỉ. Khi Chí
Phèo ngất ngưởng bước ra từ những trang sách của Nam Cao thì người ta liền
22
nhận ra rằng, đây mới là hiện thân đầy đủ những gì gọi là khốn khổ, tủi nhục
nhất của người dân cùng ở một nước thuộc địa: bị giày đạp, bị cào xé, bị hủy
hoại từ nhân tính đến nhân hình. Chị Dậu bán chó, bán con, bán sữa,… nhưng
chị còn được gọi là con người. Chí Phèo phải bán cả diện mạo và linh hồn của
mình đi để trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Đi vào chủ đề phức tạp này,
ngòi bút của Nam Cao có lúc tưởng như ngả nghiêng, chao đảo, thực ra ông vẫn
đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa hiện thực.
Tác phẩm của Nam Cao nêu rõ thực trạng con người đang kêu cứu lấy
nhân cách, nhân phẩm , nhân tính đang bị cái đói và miếng ăn làm cho tiêu mòn
đi, thui chột đi, hủy diệt đi. Một bữa no là một tiếng kêu như thế, một tiếng kêu

thật thê thảm, không phải trước cái chết sinh vật của bà cái Tý, mà trước cái
chết tinh thần của bà lão. Ngòi bút Nam Cao tưởng như lạnh lùng đến tàn nhẫn
khi tả tỷ mỷ cách ăn của bà cụ ở nhà mụ phó Thụ, cái cách ăn thật khốn khổ
diễn ra ngay trước mắt của cái đĩ cháu vốn rất yêu kính bà nó: bà ăn nhanh, ăn
vội, cố theo kịp người ta vì sợ người ta ăn mất hết. Bà già lập cập ăn vội nên rớt
cả mắm ra ngoài… Sau đó lại còn cạo nồi sồn sột… Đúng là bà cụ đói quá nên
mới phải đến nỗi thế. Nhưng cái điều Nam Cao muốn nhấn mạnh ở đây là cái
nhục mà con người phải chấp nhận vì đói. Con người phải chịu nhục có nghĩa là
phải từ bỏ nhân phẩm, từ bỏ tính chất người của mình để chấp nhận cái sống
của con vật.
Vậy miếng ăn là thử thách ghê gớm đã phân hóa các tính cách theo hai
cực: hoặc mất cả nhân cách, nhân tính như những nhân vật trong Một bữa no,
Trẻ con không biết ăn thịt chó, Chí Phèo, Quên điều độ, hoặc trở thành những
bậc chí thiện như Lão Hạc,… Cái đói và miếng ăn là cái gông cùm nặng nề đã
đè dùi dụi anh trí thức nghèo xuống sát mặt đất để biến tất cả những ước mơ,
những triết lý của anh ta trở thành huênh hoang, vớ vẩn, giả dối và khôi hài,…
Nó là thứ thần định mệnh quái ác chi phối toàn bộ thế giới nhân vật của cuốn
tiểu thuyết Sống mòn, đẩy tất cả vào tình trạng “ sống mòn” bi thảm, không lối
thoát. Ông quan niệm vấn đề nhân phẩm của con người phải được giải quyết ở
cả hai mặt vật chất và tinh thần. Nhưng mặt khác, về mặt tinh thần, phải có học
vấn để sống có ý thức, đồng thời phải trút bỏ được tính ích kỷ và thói tham lam.
Có tâm hồn, nhưng suốt đời chỉ lo đói thì làm sao tâm hồn có thể bay bổng lên
được ? Nhưng thoát khỏi miếng cơm manh áo mà đầu óc vẫn đen tối nặng nề,
nghĩa là tâm hồn không có cánh thì làm sao có thể bay lên được !
Nhưng làm thế nào để có được hai điều kiện nói trên ? Hướng giải quyết
của Nam Cao, về căn bản mang tính duy vật chủ nghĩa. Nhân vật Thứ trong
Sống mòn không hề đưa ra giải pháp giáo dục đạo đức một chiều hay quay về
tư tưởng tôn giáo một cách duy tâm chủ nghĩa. Ông đặt vấn đề phải cải tạo môi
23
trường sống, cải tạo chế độ xã hội. Thứ nói: “Chất độc ở ngay trong sự sống” và

“ chế độ đẻ ra lòng người”. Anh tiểu tư sản nghèo khổ nhưng giàu suy tư này
thấy nhất thiết phải cải tạo lại mối quan hệ giữa người và người cho hợp lý hơn,
dựa trên nguyên tắc lao động bình đẳng và phân phối công bằng: “ Theo ý tôi
thì phải diệt cho hết những kẻ ngồi không, hưởng những thứ của kẻ khác làm ra
mà chẳng làm ra được cái gì. Ai cũng phải làm , ai làm cũng phải được no đủ, tự
do”. Lý tưởng xã hội ấy của tác giả Sống mòn rất phù hợp với những điều mà
chúng ta mong muốn thực hiện hôm nay. Trên con đường còn dài tới chủ nghĩa
xã hội tốt đẹp.
Văn chương Nam Cao tái hiện rõ hiện thực bi kịch tinh thần của người trí
thức tiểu tư sản. Những sáng tác của Nam Cao viết về chủ đề tiểu tư sản bao
gồm cả hai thể truyện ngắn và truyện dài. Có thể kể các truyện ngắn như: Cái
chết của con Mực, Quên điều đô, Xem bói, Mất mẹ, Cái mặt không chơi được,
Cười, Nước mắt, Giăng sáng, Đời thừa, Mua nhà v.v… Và truyện dài: Một đời
người, Truyện người hàng xóm, Sống mòn. Tiêu biểu cho những sáng tác về
chủ đề tiểu tư sản là tác phẩm Sống mòn. Thời kỳ Nam Cao viết Sống mòn là
thời kỳ tập trung nhất của mọi bế tắc và u uất trong cuộc sống xã hội. Chưa bao
giờ vấn đề sống mòn lại đặt ra một cách nặng nề gay gắt khiến mọi người luôn
phải lo lắng về chuyện cơm áo sinh nhai, chưa bao giờ con người lại thấy đời
sống bấp bênh và bị đe dọa về chiến tranh, vì sự đàn áp của giai cấp thống trị
ghê gớm như thời kỳ này. Khung cảnh xã hội đó có lúc mở ra như những triều
sóng dữ dội, phũ phàng xô đẩy nhiều lớp người khác nhau đến bên vực thẳm, có
lúc lại bị vây hãm, chật chội, đọng chết, thít chặt lấy mọi người.
Trong các sáng tác của Nam Cao, Sống mòn là tác phẩm miêu tả tập trung
về người trí thức nghèo. Qua Sống mòn Nam Cao đã xây dựng khá đậm nét và
có ý nghĩa tổng hợp hàng loạt tính cách nhân vật trong thế giới của Đời thừa,
Giăng sáng, Nước mắt, Mua nhà v.v… Nhân vật Thứ tập hợp được nhiều vẻ
người ở nhiều cảnh ngộ khác nhau. Tâm trạng của Thứ ít nhiều cũng là tâm
trạng chung của cả một lớp người. Lý tường và ước mơ của anh như đọng lại và
chết dần trong cuộc sống nhỏ nhen, chật vật, tù hãm. Nhưng ở tính cách Thứ
luôn có một sự chống đối, không thỏa hiệp. Thứ chống đối cái hoàn cảnh luôn

đẩy con người vào vòng trụy lạc, sa đọa. Thứ chống đối lại nếp sống quen thuộc
tầm thường của những con người han gỉ. Sự chống đối của Thứ còn thể hiện ở
chỗ có ước mơ vươn tới một lý tưởng cao đẹp hơn. Cái lý tưởng mà Thứ hằng
ôm ấp, nâng niu là lý tưởng tốt đẹp của một cá nhân. Lý tưởng ấy bắt nguồn từ
một bản tính thẳng thắn nhiều tự trọng, do gia đình và tầng lớp giai cấp mình
góp phần xây dựng nên. Thứ chán ghét cuộc sống nhỏ nhen xung quanh mình,
bất bình với những cảnh hà hiếp, bất công. Trong Thứ, cái thiện và cái ác không
24
một chút nào thôi giằng xé nhau. Ở những giờ phút đen tối nhất, trong lòng
nhân vật này vẫn sáng lên niềm hy vọng: “Ở bên kia những cánh đồng bùn lầy
là rừng xanh, cuộc sống tự do, cỏ ngập rừng. Con trâu có lẽ cũng biết vậy
nhưng chẳng bao giờ nó dám đi, chẳng bao giờ nó dám dứt đứt sợi dây thừng.
Cái gì giữ con trâu lại đồng bằng và ngăn người ta đến một cuộc đời rộng rãi
hơn, đẹp đẽ hơn ? Ấy là thói quen, lòng sợ hãi, sợ đổi thay, sợ hãi những cái gì
chưa tới. Ấy thế mà trên đời này chẳng có cái gì tới hai lần. Sống tức là thay
đổi”.
Lòng hy vọng thay đổi cuộc sống hiện tại, vươn tới xã hội tốt đẹp hơn là
một nhận thức tích cực và chủ yếu của nhân vật Thứ cũng như của một số nhân
vật khác. Lý tưởng đó không hạn chế ở phạm vi hạnh phúc cá nhân mà có sự
gần gũi gắn liền với hạnh phúc chung của xã hội. Giá trị của Sống mòn không
chỉ bó hẹp trên mặt trận nhận thức tư tưởng của nhân vật chính mà còn tỏa rộng
trên nhiều mặt khác, đặc biệt trên mặt phản ánh sâu sắc bộ mặt xã hội. Qua
Sống mòn, người đọc thấy như hiện lên trước mắt tất cả cuộc sống khó khăn
nghẹt thở của xã hội Việt Nam trong thời kỳ Pháp – Nhật thuộc, thời kỳ của
những điều lớn lao – thời kỳ đang chuyển mình tiến tới khởi nghĩa giành lại
quyền sống cho con người.
Văn chương Nam Cao phản ánh chân thật cuộc sống thông qua cái chân
thật của tư tưởng, của nội tâm nhân vật. Xét cho tới cùng, cái quan trọng nhất
trong tác phẩm không phải là bản thân sự kiện, biến cố tự thân mà là con người
trước sự kiện, biến cố. Như một nguyên tắc, các sự kiện, biến cố tình tiết chỉ giữ

vai trò “khiêu khích” các nhân vật, để cho nhân vật bộc lộ những nét tâm lý,
tính cách của mình. Ví dụ như các tác phẩm: Đời thừa cũng không hướng ngòi
bút vào việc miêu tả nỗi khổ áo cơm mà tập trung thể hiện phản ứng tâm lý của
con người trước gánh nặng áo cơm làm mai một tài năng và xói mòn nhân cách.
Cho nên, trước khi bán một con chó mà lão Hạc phải trải qua biết bao khó khăn,
day dứt, dằn vặt và khi buộc phải bán nó thì lão vô cùng ân hận, tột cùng đau
đớn, tuổi già mà khóc hu hu như con nít. Nam Cao chẳng những miêu tả sinh
động những chi tiết, những biểu hiện tâm lý nhỏ nhặt mà còn theo dõi, phân tích
quá trình tích tụ của chúng dẫn tới sự nảy sinh những phẩm chất mới trong tâm
hồn con người. Không chỉ dừng lại ở những khoảnh khắc, Nam Cao đã miêu tả
thành công những quá trình tâm lý của nhân vật. Ngòi bút của ông tỏ ra có biệt
tài trong khi miêu tả những trạng thái tâm lý phức tạp, những hiện tượng lưỡng
tính dở say, dở tỉnh, dở khóc dở cười, mấp mé ranh giới giữa thiện và ác, giữa
hiền với dữ, giữa con người với con vật… Nam Cao đã khắc phục được tính
phiến diện, đơn giản trong việc miêu tả tâm lý nhân vật. Qua ngòi bút của ông,
25

×