PHÒNG GD-ĐT NINH SƠN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM
TRƯỜNG MẪU GIÁO MỸ SƠN Độc Lập – Tự
Do – Hạnh Phúc
Tên đề tài:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ GIẢM TỶ LỆ TRẺ SUY DINH DƯỠNG
Ở CÁC LỚP BÁN TRÚ
Họ và tên tác giả: NGUYỄN THỊ HÀ
Chức vụ: Hiệu trưởng
I. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến kinh nghiệm:
Trong bất cứ thời kỳ lịch sử nào và dưới mọi chế độ xã hội thì việc
đào tạo con người cũng đều vô cùng quan trọng, đặc biệt là việc chăm
sóc, giáo dục khi còn nhỏ, bởi vì trẻ em là tài sản và là công dân tương
lai của đất nước, những con người sau này sẽ kế tục sự nghiệp của cha
ông.
1
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là:”Bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết” mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn toàn Đảng, toàn dân ta trong Di chúc của
Người.
Đảng ta đã chỉ rõ:”Các em thiếu niên, nhi đồng ngày nay sẽ là lớp
người xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa và chủ nghĩa Cộng sản sau này.
Quan tâm đến thiếu niên, nhi đồng là quan tâm đến việc đào tạo, bồi
dưỡng một lớp người mới không những phục vụ cho sự nghiệp Xã Hội
Chủ Nghĩa hiện nay mà còn chính là cho sự nghiệp xây dựng Chủ Nghĩa
Cộng Sản sau này”.
Đất nước ta đang hội nhập thực hiện CNH – HĐH, nguồn nhân lực
là chiến lược quan trọng mà Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm. Làm thế
nào để tạo nên một thế hệ tương lai: khỏe mạnh, thông minh, cơ thể phát
triển hài hòa, cân đối. Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục tốt trẻ em là chuẩn
bị một nguồn lực bổ sung liên tục, lực lượng lao động mới có phẩm chất,
năng lực, trình độ và thể lực ngày càng cao hơn phục vụ cho sự nghiệp
xây dựng đất nước.
Từ 0 – 5 tuổi là thời kỳ hoàn chỉnh hệ thống thần kinh trung ương
và vỏ não, quyết định năng lực trí tuệ tương lai của trẻ. Dinh dưỡng hợp
lý, chăm sóc giáo dục có khoa học sẽ tạo điều kiện tốt cho trẻ phát triển
và trưởng thành, góp phần quan trọng trong việc tạo ra một thế hệ mầm
2
non khỏe mạnh, thông minh xây dựng đất nước trong tương lai. Đây là
trách nhiệm cao cả mà toàn xã hội, gia đình, giáo viên mầm non đặc biệt
là cán bộ quản lý trường mầm non, mẫu giáo phải thực hiện tốt.
Trong nhiều năm quản lý đơn vị, tôi nhận thấy hiện nay cùng với
kinh tế địa phương phát triển, bậc học mầm non cũng phát triển theo,
chất lượng chăm sóc và giáo dục trẻ được nâng dần, các lớp bán trú
được hình thành tuy nhiên số trẻ học mẫu giáo vẫn còn bị suy dinh
dưỡng khoảng 10%. Đây là điều làm tôi băn khoăn, suy nghĩ làm thế
nào giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng trong trường tiến đến xóa tình trạng
suy dinh dưỡng cho trẻ khi đạt trường chuẩn quốc gia vào năm 2015.
Hình ảnh những cháu khỏe mạnh, tích cực trong học tập, hồn
nhiên tung tăng vui đùa trong giờ chơi, tự tin khi trả lời hoặc đặt câu hỏi
để hỏi cô giáo về những hiện tượng, sự vật xung quanh thôi thúc tôi phải
phấn đấu giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng trong đơn vị mà trước tiên là
giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng ở các lớp bán trú. Tôi đã chọn: “Một số
biện pháp để giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng ở các lớp bán trú” thực hiện
trong năm học 2011 – 2012.
II/ Quá trình thực hiện và các giải pháp :
Theo kế hoạch khi thực hiện “Một số biện pháp để giảm tỷ lệ trẻ
suy dinh dưỡng ở các lớp bán trú” tôi cần phải thực hiện các bước sau:
- Cần có đội ngũ giáo viên, cấp dưỡng nhiệt tình, yêu nghề, có
năng lực, kiến thức trong việc chăm sóc, giáo dục trẻ.
- Làm tốt công tác vận động, tuyên truyền về dinh dưỡng.
3
- Thực hiện tốt việc chăm sóc (nuôi) và dạy trẻ.
- Thực hiện tốt xã hội hóa giáo dục.
- Quản lý chặt chẽ công tác chăm sóc giáo dục trẻ trong đơn vị.
Để thực hiện sáng kiến đạt hiệu quả bản thân tôi làm hiệu trưởng
không trực tiếp chăm sóc, giáo dục trẻ nên mục tiêu giảm tỷ lệ trẻ suy
dinh dưỡng thật khó, do vậy các biện pháp tôi làm là:
*Chọn giáo viên dạy lớp bán trú:
Tôi chọn những giáo viên có năng lực nhiệt tình yêu nghề, chịu
thương, chịu khó cùng với một số giáo viên có con trong độ tuổi mẫu
giáo như thế sẽ có lợi vì họ đã tìm hiểu, nắm bắt cách nuôi dạy trẻ sâu
sắc, khoa học. tôi phân công chủ nhiệm, quán triệt về chức năng, nhiệm
vụ của họ trong việc thực hiện nhiệm vụ năm học, nhiệm vụ trồng người
mà Bác Hồ, Đảng, Nhà nước, toàn dân tin tưởng giao phó.
*Thực hiện công tác vận động tuyên truyền về dinh dưỡng:
Nội dung đầu tiên tôi tuyên truyền với cha mẹ trẻ là dinh dưỡng.
Phân tích cho cha mẹ trẻ biết dinh dưỡng là nhu cầu sống hằng ngày của
con người, người lớn cần dinh dưỡng để duy trì sự sống và làm việc, trẻ
em cần dinh dưỡng để phát triển thể lực và trí lực hay nói cách khác
dinh dưỡng quyết định sự tồn tại và phát triển của con người để từ đó
cha mẹ trẻ quan tâm đến việc phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ.
Tôi chọn các nội dung cho từng chủ đề để tuyên truyền vận động
phụ huynh: chăm sóc sức khỏe cho trẻ, lịch sinh hoạt của trẻ trong một
ngày, lịch tiêm chủng, vệ sinh cá nhân, vệ sinh trong ăn uống, mối liên
4
quan giữa thực phẩm và bệnh tật, biết giá trị dinh dưỡng của các loại
thực phẩm thông thường sẵn có ở địa phương, các nhóm thức ăn, cách
chọn mua thực phẩm ,những điều cơ bản về vệ sinh an toàn thực phẩm,
tháp dinh dưỡng, nuôi con theo khoa học, mô hình cho con uống sữa
hằng ngày…trên bảng tuyên truyền của nhà trường, của lớp, trong các
buổi họp phụ huynh, khi đón trả trẻ, trong buổi tọa đàm với phụ huynh
trẻ suy dinh dưỡng.
*Thực hiện tốt công tác dạy và chăm sóc trẻ:
Đầu năm học tôi thống kê số liệu trẻ suy dinh dưỡng trong trường,
nắm chắc số liệu trẻ suy dinh dưỡng ở các lớp bán trú cụ thể:
Tổng số trẻ ăn bán trú: 85
Trẻ ở kênh A: 72 trẻ tỷ lệ: 84%
Trẻ ở kênh B: 10 trẻ tỷ lệ: 11,76%
Trẻ ở kênh C: 3 trẻ tỷ lệ: 3,52%
Tôi tìm ra nguyên nhân trẻ bị suy dinh dưỡng: vì ăn uống thiếu
chất (nhà nghèo) và sự chăm sóc trẻ còn hạn chế từ đó tôi vạch ra kế
hoạch trong công tác giảng dạy và chăm sóc trẻ. Cụ thể:
Về giảng dạy:
Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, đồ dùng, đồ chơi là điều kiện
để nâng cao chất lượng dạy và học vì trẻ mẫu giáo học mà chơi – chơi
mà học. do đó đầu năm tôi vận động cha mẹ trẻ ủng hộ kinh phí để mua
sắm trang thiết bị: bảng chức năng, giá tạo hình, giá khăn, phương tiện
nghe nhìn, đồ dùng, đồ chơi đầy đủ cho trẻ.
Tổng số tiền phụ huynh đóng góp: 67.309.500đ
5
Lồng ghép giáo dục dinh dưỡng trên tiết học: tôi chỉ đạo cho giáo
viên xây dựng kế hoạch chăm sóc nuôi dưỡng trẻ phù hợp với độ tuổi,
phù hợp với chủ đề. Ví dụ: chủ đề bản thân: giáo dục trẻ biết giữ gìn vệ
sinh cá nhân, vệ sinh trong ăn uống, giới thiệu các món ăn cung cấp dinh
dưỡng.
Tùy chủ đề mà giáo viên chọn đề tài để dạy trẻ: biết tên các loại thực
phẩm , biết được các nhóm thực phẩm giàu chất bột đường, nhóm thực
phẩm giàu chất béo, nhóm thực phẩm giàu chất đạm, nhóm thực phẩm
giàu vitamin và muối khoáng…
Qua tiết học trẻ biết được công dụng của các loại thực phẩm, cách
chế biến các loại thực phẩm thành các món ăn đủ dinh dưỡng cho sức
khỏe con người hằng ngày. Nội dung các bài hát, bài thơ, câu đố, chuyện
kể cung cấp thêm kiến thức về dinh dưỡng, biết cách chăm sóc và bảo
vệ sức khỏe cho bản thân.
Lồng ghép giáo dục dinh dưỡng trong giờ hoạt động ngoài trời:
cho trẻ quan sát, trò chuyện về những cây, con cung cấp thực phẩm,
cung cấp dinh dưỡng cho bữa ăn.
Lồng ghép giáo dục dinh dưỡng trong giờ hoạt động góc: tôi đã tạo
điều kiện như duyệt kinh phí mua sắm thêm đồ chơi cho các lớp, khuyến
khích giáo viên làm thêm nhiều đồ chơi cho từng chủ đề, vận động phụ
huynh ủng hộ đồ chơi cho các lớp. bản thân tôi thường xuyên kiểm tra
việc làm đồ dùng dạy học, đồ chơi của giáo viên, chỉ đạo, dự giờ để theo
6
dõi giáo viên lồng ghép giáo dục dinh dưỡng vào các trò chơi ở các góc
chơi đóng góp ý kiến bổ sung điều chỉnh kịp thời thiếu sót:
+ Góc chơi học tập: chọn ra thực phẩm theo yêu cầu, phân loại các
nhóm thực phẩm qua tranh lôtô dinh dưỡng, giải câu đố về các loại thực
phẩm (rau, củ, quả,…).
+ Góc nghệ thuật: làm sách, vẽ, tô màu tranh các loại thực phẩm,
nặn các loại thực phẩm, hát, đóng kịch những bài hát như: Bắp cải xanh,
Hoa kết trái, chuyện: Củ cải trắng, Sự tích cây khoai lang…
+ Góc xây dựng: xây dựng vườn cây, cao cá, trang trại chăn nuôi,
…
+ Góc phân vai: nấu các món ăn, bé làm nội trợ, đi siêu thị, quầy
giải khát, quầy bán hoa quả, các loại rau, quầy bán các món ăn (ẩm thực)
được chế biến từ các loại thực phẩm qua đó giáo dục trẻ biết mối liên
quan giữa các loại thực phẩm đối với sức khỏe con người, giúp trẻ biết
ăn đủ 4 nhóm thực phẩm trong mỗi bữa ăn, không kén ăn, không kiên
khem, biết ăn hết suất, ăn uống hợp vệ sinh…
* Giáo dục sức khỏe cho trẻ:
+ Hằng ngày giáo viên đều theo dõi và giáo dục sức khỏe cho trẻ
như dạy trẻ giữ gìn vệ sinh thân thể áo quần sạch sẽ, biết chải tóc gọn
gàng, biết dùng khăn, bát, ca uống nước riêng, biết rửa tay khi tay bẩn,
sau khi đi vệ sinh, trước và sau khi ăn…Đọc cho trẻ nghe những bài thơ,
câu chuyện giáo dục bảo vệ sức khỏe.
7
+ Theo dõi thể lực trẻ trên biểu đồ hằng quý, hằng tháng để biết
tiến triển sức khỏe của trẻ trao đổi kịp thời với phụ huynh và có hướng
điều chỉnh thực đơn, cách chăm sóc trẻ.
+ Quan tâm đến trẻ sức khỏe yếu bằng cách phối hợp cách nuôi
dạy con cho các bậc cha mẹ trong các buổi họp cha mẹ trẻ theo định kỳ
và những buổi tọa đàm riêng đối với cha mẹ có trẻ suy dinh dưỡng trong
giờ đón trả trẻ, trong cuộc họp phụ nữ.
+ Tham mưu y tế xã khám sức khỏe định kỳ cho trẻ 2 lần/năm.
Trao đổi với một số cha mẹ trẻ khi phát hiện trẻ có dấu hiệu một số bệnh
do y tế cung cấp thông tin để điều trị kịp thời.
+ Thực hiện tốt bảo vệ môi trường và giáo dục trẻ biết bảo vệ môi
trường:
Môi trường ảnh hưởng rất lớn trong việc bảo vệ sức khỏe cho trẻ nhất là
trẻ học bán trú. Nếu môi trường bị ô nhiễm sẽ gây nhiều mầm bệnh cho
trẻ vì thế trong năm học tôi đã mua sắm đầy đủ đồ dùng vệ sinh cho các
lớp, chỉ đạo giáo viên thực hiện tốt việc bảo vệ môi trường, giáo dục trẻ
biết bảo vệ môi trường như cho trẻ xem tranh ảnh, kể cho trẻ nghe
những câu chuyện, đọc những bài thơ nội dung giáo dục trẻ biết giữ sạch
môi trường, giáo viên đã dạy trẻ biết bỏ rác vào thùng rác có nắp đậy,
tuyên dương những trẻ biết giữ vệ sinh môi trường, động viên những trẻ
chưa thực hiện tốt phải làm theo gương tốt của bạn. Trong những giờ
hoạt động ngoài trời, giờ lao động giáo viên đã dạy trẻ biết cùng cô nhặt
8
lá cây, nhổ cỏ, tưới nước hoa, các lớp thi đua trồng và chăm sóc những
bồn hoa của lớp, vườn hoa của trường ngày càng thêm đa dạng về chủng
loại và đẹp.
Hằng ngày giáo viên cùng với công nhân viên quét dọn sân trường sạch
sẽ, rác được xử lý theo đúng quy trình, hợp vệ sinh.
Bác hồ đã dạy “Trẻ em như búp trên cành biết ăn, ngủ, biết học
hành là ngoan”. Song song với việc giáo dục dinh dưỡng cho trẻ, việc
chăm sóc trẻ cũng rất quan trọng vì trẻ học bán trú được nuôi ăn ở
trường.
* Công tác nuôi, chăm sóc trẻ:
Chế biến thức ăn: để có bữa ăn ngon, đầy đủ chất dinh dưỡng
ngoài vấn đề thực phẩm sạch, an toàn cần phải có phương tiện để nấu
ăn, tôi đã vân động phụ huynh đóng góp mua thêm tủ lạnh, nồi cơm
điện, xoang, chão, thau, chén,… đầy đủ. Sử dụng nguồn nước sạch để
nấu ăn.
Hợp đồng thực phẩm, hợp đồng 02 cấp dưỡng, cấp dưỡng khám
sức khỏe định kỳ, được cung cấp trang phục, khẩu trang, găng tay để
phục vụ khi nấu ăn. Vì cấp dưỡng chưa được đào tạo tôi thường xuyên
theo dõi cung cấp những nội dung cần thiết như an toàn vệ sinh thực
phẩm, cách chế biến các món ăn đảm bảo hợp vệ sinh, giữ được vitamin
khi chế biến thức ăn, 10 nguyên tắc vàng của người nội trợ. Tổ chức cho
chị em tham dự thi cấp dưỡng giỏi do sở giáo dục tổ chức đạt giải ba,
9
qua hội thi chị em học hỏi thêm nhiều kinh nghiệm trog việc lựa chọn,
sơ chế, chế biến các món ăn cho trẻ. Ngoài ra cán bộ, giáo viên cũng
đóng góp ý kiến xây dựng cho chị em khi chế biến, phân chia thức ăn
đảm bảo vệ sinh, đúng quy trình. Động viên chị em học hỏi cách chế
biến thức ăn trên chương trình sức sống mới, trên mạng (giáo viên sung
cấp).
Trường chưa có hiệu phó phụ trách công tác nuôi, hiệu phó đang
theo học lớp trung cấp lý luận chính trị tập trung nên tôi cũng gặp nhiều
khó khăn trong công tác quản lý, giáo dục và chăm sóc trẻ, tôi phải sắp
xếp thời gian khoa học hơn mới có thể quản lý việc nuôi trẻ ở các lớp
bán trú chặt chẽ, tôi lên thực đơn thay đổi món ăn hằng ngày, phù hợp
theo mùa, tôi quan tâm theo dõi việc chọn mua thực phẩm của cấp
dưỡng trao đổi cách chọn các loại thịt, cá, rau, củ, quả,…để chị em có
thêm kiến thức khi chọn lựa thực phẩm nhờ đó mà thực phẩm mua luôn
luôn được tươi đảm bảo vệ sinh an toàn. Khi sơ chế, chế biến thức ăn tôi
cũng phải tranh thủ thời gian có ý kiến giúp họ để họ có thêm kinh
nghiệm. Phân chia thức ăn từng lớp tôi đề nghị cấp dưỡng phải cân đảm
bảo theo số lượng trẻ từng lớp, thức ăn phải có nắp đậy và có đồ đựng
thức ăn cho trẻ ăn chậm, phải lưu mẫu thức ăn hằng ngày vào tủ lạnh.
* Tổ chức cho trẻ ăn:
10
Tôi đã hướng dẫn và thường xuyên theo dõi việc tổ chức bữa ăn
cho trẻ ở các lớp như trước khi ăn cho trẻ rửa mặt, tay sạch sẽ, chuẩn bị
bàn ghế đủ cho trẻ ngồi ăn, khăn trải bàn, khăn lau tay đĩa đựng thức ăn
khi bị rơi vãi, chén thìa đầy đủ cho mỗi trẻ. Cô giáo phải rửa tay sạch,
đầu tóc, quần áo gọn gàng sạch sẽ khi chia thức ăn cho trẻ. Phân chia
thức ăn cho trẻ đảm bảo tính công bằng, giới thiệu món ăn và dinh
dưỡng trong các món ăn, động viên trẻ ăn hết suất, ăn không để rơi vãi,
không kén ăn, giúp trẻ ăn chậm, ăn yếu. Thức ăn cho trẻ vừa ấm phải
cho trẻ ăn ngay không để trẻ chờ đợi, tuyệt đối không được quát mắng
khi trẻ ăn.
Sau khi ăn cô nhắc trẻ cất chén thìa vào rổ, vệ sinh tay, mặt, uống
nước. khen những trẻ ăn hết suất, gọn gàng. Nhờ sự quan tâm chu đáo
của giáo viên nên đa số trẻ đều ăn hết suất đảm bảo đủ calo theo quy
định cho mỗi trẻ.
*Tổ chức cho trẻ ngủ:
Chuẩn bị phòng ngủ thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông,
không bị chói bởi ánh sáng, không có tiếng ồn có đủ vạt giường, chiếu,
gối cho từng trẻ. Cô nhắc nhở trẻ đi vệ sinh trước khi đi ngủ để trẻ khỏi
bị mất giấc ngủ và ảnh hưởng đến giấc ngủ của trẻ khác. Quan tâm đến
trẻ khó ngủ, hát những bài hát dân ca, vỗ về trẻ để trẻ dễ đi vào giấc ngủ.
11
Khi trẻ ngủ cô phải quan tâm không để trẻ nằm sấp hoặc trẻ gác tay chân
lên người bạn.
*Sau khi trẻ ngủ dậy:
Những trẻ tỉnh giấc trước cô nhẹ nhàng nhắc nhở trẻ vệ sinh, cô tết
tóc lại cho trẻ, tập trẻ các thói quen cất gối, cô giáo dọn cất vạt giường.
*Tổ chức cho trẻ ăn xế:
Cô cùng trẻ kê dọn bàn ghế chuẩn bị khăn lau tay, bát thìa…phân
chia thức ăn cho trẻ, giới thiệu món ăn xế, khi trẻ ăn cô theo dõi, quan
tâm đến trẻ ăn chậm. Trẻ ăn xong tự cất bát thìa vào rổ vệ sinh, uống
nước.
* Tổ chức mô hình uống sữa hằng ngày:
Thực hiện mô hình cho trẻ uống thêm 1 hộp sữa mỗi ngày: tôi
cùng giáo viên vận động phụ huynh mỗi ngày cho trẻ thêm 1 hộp sữa để
giáo viên cho trẻ uống dặm và phụ huynh tích cực thực hiện.
* Tổ chức họp cha mẹ trẻ các lớp bán trú:
Công khai tài chính, xin ý kiến đóng góp về việc giáo dục và chăm
sóc trẻ bán trú ở đơn vị để bổ sung, điều chỉnh những thiếu sót: phụ
huynh rất tin tưởng và hài lòng khi trẻ được phát triển tốt về thể lực tiến
bộ trong học tập, trong giao tiếp, giáo viên chăm sóc giáo dục chu đáo.
Hằng tháng họp hội đồng và sinh hoạt chuyên môn tổ chức cho
giáo viên tự nhận xét, đánh giá việc chăm sóc và giáo dục trẻ để nhân
điển hình những gương tốt và góp ý những hạn chế, thiếu sót.
II. Đánh giá hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm:
12
Qua 1 năm học tôi đã chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra giáo viên thực hiện
một số biện pháp nêu trên để giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng ở các lớp bán
trú. Kết quả theo dõi xếp loại thể lực cuối năm của trẻ như sau:
Tổng số trẻ ăn bán trú: 101 trẻ. Số trẻ ăn bán trú tăng hơn học kỳ 1:
16 trẻ
Kênh A: 98 đạt tỷ lệ 97% tăng 13 % so với đầu năm.
Kênh B: 3 tỷ lệ 2,97% giảm 8,79% só với đầu năm.
Kênh C: 0; xóa 3 trẻ ở kênh C so với đầu năm.
Đạt hiệu quả:
- Về giáo dục:
+ Trẻ khỏe, đạt được kết quả theo chuẩn phát triển của trẻ em 5 tuổi
do bộ giáo dục đào tạo ban hành, giảm được tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng
trong các lớp bán trú.
+ Góp phần trong việc thực hiện chiến lược quốc gia về dinh
dưỡng giai đoạn 2001 – 2010 về triển khai công tác giáo dục dinh dưỡng
và phổ cập kiến thức dinh dưỡng cho toàn dân.
+ Đã đưa nội dung giáo dục dinh dưỡng sức khỏe vào giảng dạy
cho mẫu giáo là một việc làm rất cần thiết tạo ra sự liên thông về giáo
dục dinh dưỡng liên tục từ độ tuổi mẫu giáo đến lứa tuổi học đường.
+ Giáo dục dinh dưỡng cho trẻ mẫu giáo góp phần quan trọng
trong chiến lược con người, tạo ra một lớp người mới có sự hiểu biết đầy
đủ về vấn đề dinh dưỡng, sức khỏe, biết lựa chọn một cách thông minh
và tự giác cách ăn uống để đảm bảo sức khỏe cho mình.
13
+ Số học sinh bán trú đã tăng trong năm học: 16 trẻ, và sẽ tăng
thêm trong năm học tới vì hiện nay cha mẹ trẻ đến trường để đăng ký
cho trẻ học bán trú trong năm học tới 2011 – 2012.
+ Công tác xã hội hóa giáo dục được cha mẹ trẻ, cộng đồng tích
cực tham gia.
- Về kinh tế:
- Tạo điều kiện cho cha mẹ trẻ an tâm công tác, lao động sản xuất
tạo ra của cải vật chất cho xã hội, phát triển kinh tế gia đình.
- Giảm sự tốn kém để chăm sóc trẻ khi thuê người giữ trẻ ở gia
đình.
- Giảm chi tiêu về chế độ ăn cho trẻ hơn nếu trẻ ở nhà.
III. Kết luận:
Giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng ở các lớp mẫu giáo bán trú vùng
nông thôn là một vấn đề rất khó nhưng có thể thực hiện được nếu cán bộ
quản lý trường học, đội ngũ giáo viên công nhân viên đều tâm huyết
trong việc chăm sóc giáo dục trẻ, sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường,
gia đình và xã hội.
Thực hiện giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng đã góp phần trong việc
ươm mầm xanh cho Tổ quốc, thực hiện tốt công tác trồng người theo lời
dạy của Bác.
- Thực hiện đề tài “Một số biện pháp làm giảm tỷ lệ trẻ suy dinh
dưỡng ở các lớp bán trú” tôi rút ra được bài học kinh nghiệm sau:
Hiệu trưởng là người phải có tâm, có tầm nhìn, có mối liên hệ giao
tiếp tốt, có uy tín với đồng nghiệp, cha mẹ trẻ và cộng đồng.
14
Hiệu trưởng phải có trách nhiệm cao trong công tác chỉ đạo, đôn
đốc, theo dõi chặt chẽ việc chăm sóc giáo dục trẻ ở đơn vị, biết lắng
nghe ý kiến đóng góp xây dựng của giáo viên, cộng đồng, cha mẹ trẻ.
Thực hiện tốt công tác vận động tuyên truyền về cách chăm sóc giáo
dục trẻ theo chương trình mới.
Thực hiện tốt việc thu chi theo đúng nguyên tắc, công khai tài chính
rõ ràng.
Giáo viên phải thật sự yêu thương, chăm sóc trẻ “cô giáo như mẹ
hiền”, phải luôn học tập không ngừng để trao dồi tay nghề, phải gắn kết
tình cảm, trách nhiệm với phụ huynh.
*Những kiến nghị :
Để thực hiện đề tài” Một số biện pháp làm giảm tỷ lệ trẻ suy dinh
dưỡng ở các lớp bán trú” xin kiến nghị các cấp quan tâm đến việc đầu tư
xây dựng thêm cơ sở vật chất, biên chế đủ cán bộ, giáo viên, nhân viên
cho các trường mẫu giáo.
Ý kiến của Hội đồng khoa học: Mỹ Sơn, ngày 24 tháng 04năm
2011
Người viết
Nguyễn Thị Hà
15