Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NGHIỆP vụ THỊ TRƯỜNG mở của mỹ GIAI đoạn 2011 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (707.86 KB, 29 trang )

Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn: TANGGIAP.VN
ĐỀ TÀI
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ
CỦA MỸ GIAI ĐOẠN 2011-2013
(Lần 1)
Nhóm: Future Bank
Lớp: thứ 6 ca 1
1
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn: TANGGIAP.VN
Danh mục các từ viết tắt
S
TT
Tên đầy đủ Tên
viết tắt
Dịch nghĩa
1 Federal reserve bank FED Cục dự trữ liên
bang Mỹ
2 Federal open market
committee
FOMC Ủy ban thị trường
mở liên bang
3 Open market committee OMC Ủy ban thị trường
mở
4 System open market
account
SOMA Tài khoản hệ
thống thị trường mở
5 Permanent open market
operation
Perma
nent OMO


OMO dài hạn
6 Temporary open market
operation
Tempo
rary OMO
OMO tạm thời
7 The trading desk Desk Chi nhánh giao
dịch thị trường mở New
York
8 Personal consumption
expenditure
PCE Chỉ số tiêu dùng
cá nhân
9 Mortgage – backed
securities
MBS Chứng khoảng
đảm bảo bằng tài sản thế
chấp
1
0
Large – scale assets
purchase
LSAP Kế hoạch mua
giấy tờ có giá với số
lượng lớn
2
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn: TANGGIAP.VN
I. TỔNG QUAN NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ CỦA MỸ
1.1. Lịch sử phát triển Nghiệp vụ thị trường mở tại Mỹ
Như một ngân hàng trung ương của quốc gia, Cục dự trữ Liên bang Mỹ (Fed)

chịu trách nhiệm xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ. Việc xây dựng các chính
sách tiền tệ liên quan đến việc phát triển một kế hoạch nhằm theo đuổi các mục tiêu
của giá cả ổn định, việc làm đầy đủ và tổng quát hơn, một môi trường tài chính ổn
định cho nền kinh tế. Trong việc thực hiện kế hoạch đó, Fed sử dụng các công cụ của
chính sách tiền tệ để tạo ra thay đổi lãi suất, số lượng tiền và tín dụng trong nền kinh
tế từ đó đạt được các mục tiêu đề ra.
Nghiệp vụ thị trường mở, một trong những công cụ chính của chính sách tiền tệ
tại Mỹ, được tìm ra một cách bất ngờ và là bước tiến lớn nhất trong quá trình phát
triển của FED từ một tổ chức thụ động sang chủ động. Sau chiến tranh thế giới thứ
nhất, chủ tịch Fed Benjamin Strong nhận ra rằng vàng không còn đóng vai trò trung
tâm trong việc kiểm soát tín dụng nữa. Hành động quyết liệt của ông nhằm ngăn chặn
sự suy thoái năm 1923 thông qua việc mua 1 lượng trái phiếu chính phủ đã trở thành
bằng chứng rõ ràng về sức mạnh của hoạt động thị trường mở tác động đến tính sẵn
sàng của tín dụng trong hệ thống thị trường mở. Đồng thời các quan chức của Fed
cũng nhận ra rằng khi Fed mua chứng khoán sẽ làm tăng dự trữ NHTM và nới lỏng
tín dụng, do đó ảnh hưởng đến các điều kiện tín dụng chung trong cả nước. Từ đó Fed
đã bắt đầu sử dụng nghiệp vụ này như 1 công cụ của chính sách tiền tệ.
Tháng 5 năm 1922 một ủy ban được thành lập để phối hợp chính sách đầu tư
thông qua một địa điểm tập trung, các Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York, tiếp
theo đó Ủy ban thị trường mở liên bang Mỹ FOMC ra đời thay thế cho OMIC và trở
thành cơ quan hoạch định chính sách mạnh nhất của Fed. FOMC chịu trách nhiệm
thực hiện CSTT của Mỹ, quản lý các tài khoản SOMA tại Ngân hàng dự trữ liên bang
NewYork thông qua ủy quyền. Desk thực hiện nghiệp vụ thị trường mở thay cho toàn
bộ hệ thống dự trữ liên bang.
Ngày nay nghiệp vụ này càng trở nên hiệu quả khi nó thể hiện tính linh hoạt,
chủ động của Fed trong việc tác động trực tiếp vào dự trữ của các ngân hàng và lãi
suất thông qua việc mua bán các loại chứng khoán.
3
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn: TANGGIAP.VN
1.2 Đặc điểm nghiệp vụ thị trường mở

Thứ nhất, chủ thể giao dịch: Giao dịch trên thị trường mở được thực hiện bởi các
chủ thể là FED và các đại lý kinh doanh chính (primary dealers) -các đại lý chứng
khoán chính phủ những đại lý mà thiết lập mối quan hệ kinh doanh với FED. Hoạt
động này dựa trên cơ sở các đại lý chính có tài khoản tại các ngân hàng thanh toán bù
trừ, đó là các tổ chức lưu ký.
Thứ hai, hàng hóa giao dịch: Fed sử dụng 3 loại hàng hóa chính trên thị trường
mở là trái phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ và chứng khoán có đảm bảo bằng tài
sản thế chấp MBS.
Thứ ba, phương thức giao dịch: giao dịch trên thị trường mở diễn ra thông qua
hoạt động đấu giá. DESK bắt đầu quá trình này bằng cách thông báo thông qua một hệ
thống đấu giá điện tử được gọi là FedTrade, mời các đại lý nộp hồ sơ dự thầu hoặc
chào hàng cho phù hợp. Phương thức giao dịch được sử dụng là mua kỳ hạn và mua
hẳn:
• Hoạt động mua kỳ hạn sử dụng hợp đồng mua lại (repo) và hợp đồng mua lại ngược
(repo ngược) để tạm thời ảnh hưởng đến các giao dịch hàng ngày tại thị trường liên
bang từ đó ảnh hưởng đến kích thước của danh mục đầu tư của hệ thống dự trữ liên
bang. Repo là một hình thức cho vay thế chấp mà Fed cho các đại lý chính vay tiền và
các đại lý cung cấp các chứng khoán có chất lượng cao cho Fed như tài sản thế chấp
chung đối với các khoản vay. Có 2 loại repo là repo dài hạn và repo ngắn hạn. Trong
đó repo ngắn hạn có kỳ hạn ngắn hơn 14 ngày, chủ yếu là các hợp đồng mua qua đêm
với chức năng chính là điều chỉnh mức dự trữ ngân hàng cần thiết trong ngày hôm đó.
Loại thứ hai, repo dài hạn có kỳ hạn 14 ngày được sử dụng để bù đắp sự biến động
theo từng giai đoạn.
Trái ngược với các giao dịch repo là repo ngược. Trong khi các hoạt động repo
dùng để bù đắp các thiếu hụt tạm thời trong dự trữ của hệ thống ngân hàng thì repo
ngược nhằm làm giảm bớt dư thừa tạm thời. Thay vì cho các đại lý vay tiền, các quầy
giao dịch vay mượn tiền từ các đại lý bằng tài sản thế chấp từ hệ thống tài khoản thị
trường mở.
4
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn: TANGGIAP.VN

• Hoạt động mua hẳn: Mua hoặc bán hẳn chứng khoán trên cơ sở tăng hoặc giảm dự trữ
và thay đổi kích thước hoặc thành phần SOMA. Danh mục đầu tư là một trong những
công cụ được sử dụng bởi FED để thực hiện CSTT.
II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ CỦA MỸ
GIAI ĐOẠN 2011-2013
2.1. Thực trạng hoạt động nghiệp vụ thị trường mở
2.1.1. Năm 2011
a) Bối cảnh kinh tế
Tốc độ tăng trưởng thấp hơn kì vọng: Mặc dù đã cho thấy nhiều dấu hiệu
khả quan vào cuối năm 2010 với tốc độ tăng trưởng 3% vào quý IV, nhưng
kinh tế Mỹ đã chững lại trong suốt năm 2011, với tốc độ tăng trưởng trung
bình chỉ ở mức 1,8%. Điều này đã dẫn đến những lo ngại rằng sự phục hồi
của kinh tế Mỹ chỉ là nhất thời và không đáng kể. Trong khi đó, lạm phát vẫn
giữ ở mức ổn định 3,2%.
Khủng hoảng nợ công: sau hàng tháng đứng trước mối đe dọa ngừng
hoạt động chính phủ, với mức thâm hụt ngân sách lên tới mức kỉ lục 9% GDP,
hai viện của Mỹ đã đi đến một thỏa thuận nâng mức trần nợ công lên 400 tỉ $,
đồng thời cắt giảm chi tiêu công ,chỉ 24h trước khi Mỹ chính thức rơi vào cảnh
vỡ nợ.
Mức tín nhiệm hạ: S&P 500 lần đầu tiên trong lịch sử hạ mức tín nhiệm
của Mỹ từ AAA xuống AA+ do những rắc rối về nợ công xảy ra.
Tỉ lệ thất nghiệp cao: Tình trạng thất nghiệp cao ở Mỹ vẫn tiếp tục kéo
dài và giữ ở mức 9%, bất chấp sự ra đời của đạo luật việc làm Mỹ (American
Jobs Act) do sự tăng trưởng không mấy tích cực của nền kinh tế, cũng như
sự thoái hóa kĩ năng do phải nghỉ lao động quá lâu.
5
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn: TANGGIAP.VN
Kì vọng của người dân và doanh nghiệp vào nền kinh tế vẫn ở mức thấp,
các doanh nghiệp chần chừ trong việc đầu tư nhằm đợi cơ hội tốt hơn.
b) Định hướng hoạt động thị trường mở

Mục tiêu thực hiện OMO trong năm: thay đổi kích cỡ cũng như thành
phần danh mục giấy tờ có giá nắm giữ trong tài khoản SOMA, nhằm tiến hành
áp lực giảm đối với lãi suất dài hạn (giữ cố định ở mức từ 0 đến 0,25%) và
tạo ra các điều kiện tài chính thuận lợi nhằm thúc đẩy nền kinh tế.
Trong nửa đầu năm 2011, FED tiếp tục thực hiện và hoàn tất kế hoạch
mua giấy tờ có giá với số lượng lớn (LSAP – Large-scale assets purchase) đã
đề ra vào tháng 11/2010 bằng việc mua vào số trái phiếu kho bạc trị giá 600
tỉ$ từ cuối năm 2010 đến cuối tháng 6/2011. Mục tiêu chính của hoạt động
này là làm giảm số lượng tín phiếu kho bạc nắm giữ bởi khu vực tư, tạo ra áp
lực giảm với lãi suất dài hạn.
Trong nửa sau của năm 2011, hoạt động đáng chú ý nhất của FOCC
diễn ra vào tháng 9/2011. Trong hội nghị này, FOMC đã quyết định (1) thay
đổi hoạt động tái đầu tư từ trái phiếu chính phủ và trái phiếu đảm bảo bằng
thế chấp (MBS) sang chỉ còn MBS, (2) kéo dài kì hạn trung bình của trái phiếu
kho bạc (hay còn gọi với cái tên là Operation Twist) bằng việc mua 400 tỉ $ trái
phiếu kho bạc dài hạn hơn (từ 6 năm trở lên) và bán lượng tương tự trái
phiếu kho bạc ngắn hạn hơn (từ 3 tháng đến 3 năm). Mục tiêu của hoạt động
này là làm triệt tiêu những ảnh hưởng dẫn đến tăng lãi suất dài hạn, cũng như
hỗ trợ thị trường bất động sản.
c) Thực trạng hoạt động nghiệp vụ thị trường mở
Trước tình hình nền kinh tế phục hồi chậm chạp, tăng trưởng ở mức thấp, tín
dụng bị trì trệ do lãi suất ở mức cao thì ngay từ đầu năm 2011, Fed đã định hướng
hoạt động thị trường OMO theo 2 giai đoạn: nửa đầu năm 2011 Fed tiếp tục thực hiện
và hoàn tất kế hoạch mua giấy tờ có giá với số lượng lớn; nửa cuối năm là việc tập
6
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn: TANGGIAP.VN
trung vào hoạt động gia tăng kỳ hạn trung bình cho các chứng khoán. Năm 2011, đánh
dấu một năm OMO của Mỹ hoạt động sôi nổi trên tất cả các công cụ:
Thứ nhất, về trái phiếu kho bạc. Chương trình mua giấy tờ có giá với số lượng
lớn (LSAP) từ tháng 11/2010 đến tháng 3/2011 đã nâng tổng khối lượng chứng khoán

trong SOMA từ 2.2 nghìn tỷ USD tại thời điểm đầu năm lên 2.6 nghìn tỷ USD vào
cuối năm; trong đó khối lượng trái phiếu kho bạc cũng tăng lên 64% tổng khối lượng
vào cuối năm so với tỷ lệ 47% hồi đầu năm. Sau đó tỷ lệ trái phiếu kho bạc này tiếp
tục tăng Fed quyết định tái đầu tư phần vốn gốc của các trái phiếu chính phủ và
chứng khoán MBS vào trái phiếu kho bạc (xem hình 2.1 )
Hình 2.1: Khối lượng các tài sản trong danh mục SOMA giai đoạn 2007-2011
Như vậy, trong suốt giai đoạn 2007-2011 thì trái phiếu kho bạc luôn chiếm một
khối lượng lớn trong tổng danh mục đầu tư, cho thấy vai trò quan trọng của loại hàng
hóa này. Trong đó tổng quy mô của trái phiếu kho bạc tăng từ 1 nghìn tỷ USD cuối
năm 2010 lên 1.7 nghìn tỷ vào tháng 9/2011 và duy trì tại mức này cho đến hết năm.
Có được kết quả này là do trong năm 2011 Ủy ban thị trường mở đã mua vào tổng
cộng 773 tỷ USD trái phiếu kho bạc từ thị trường thứ cấp. Trong đó có 480 tỷ là để
hoàn tất chương trình LSAP từ cuối năm 2010. Trong suốt tháng 9, trái phiếu kho bạc
vẫn tiếp tục mua để thay thế cho 40 tỷ USD trái phiếu chính phủ và 120 tỷ USD
chứng khoán MBS (xem hình 2.2)
Hình 2.2: Khối lượng mua và bán trái phiếu kho bạc năm 2011
7
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn: TANGGIAP.VN
Sau khi hoàn tất chương trình LSAP vào tháng 6 thì trong nửa sau của năm,
hoạt động đáng chú ý nhất của FOMC đó là việc mua vào 400 tỷ USD trái phiếu kho
bạc dài hạn (có thời gian đáo hạn từ 6-30 năm) và bán ra lượng tương đương trái
phiếu ngắn hạn hơn (thời gian đáo hạn từ 3 tháng – 3 năm) để gia tăng kỳ hạn trung
bình cho các trái phiếu này. Trước đây, các trái phiếu kho bạc thường có kỳ hạn ngắn,
sau một loạt các nghiệp vụ xử lý bảng CĐKT của Fed được tiến hành từ năm 2007 đã
làm tăng tỷ lệ trái phiếu dài hạn. Kết quả là, cuối năm 2011 số trái phiếu có kỳ hạn
hơn 3 năm chiếm 1 tỷ lệ phần trăm trong danh mục cao hơn so với năm 2010. Cụ thể,
Fed đã mua vào 133 tỷ trái phiếu kho bạc có kỳ hạn từ 6-30, đồng thời bán ra 1 lượng
tương đương loại trái phiếu kỳ hạn từ 3 tháng – 3 năm trong quý 4/2011 (hình 2.3)
Hình 2.3: Khối lượng mua bán trái phiếu kho bạc cho 3 mục tiêu: LSAP, tái đầu
tư và mở rộng kỳ hạn

8
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn: TANGGIAP.VN
Bảng 2.1: Hoạt động mua bán trái phiếu kho bạc trong năm 2011
LSAP
(tháng 1
– tháng 6)
Tái đầu tư
(tháng 7 –
tháng 9)
Chương trình mở rộng
kỳ hạn
(tháng 10- tháng 12)
Mua Bán
Số hoạt động
trong tháng
20 17 19 6
Khối lượng
trung bình hàng
tháng
$100 tỷ $13 tỷ $44 tỷ $44
tỷ
Số lượng các
loại kỳ hạn
8 7 4 6
Phân loại kỳ
hạn
1.5 đến
30 năm
1,5 đến 30
năm

6 đến
30 năm
3
tháng đến 3
năm

Kết quả cơ cấu kỳ hạn của trái phiếu kho bạc thay đổi một cách đáng kể: tỷ lệ
trái phiếu có kỳ hạn dưới 3 năm giảm mạnh qua các năm từ hơn 60% năm 2007 xuống
còn 25% năm 2011; trong khi đó tỷ lệ trái phiếu có kỳ hạn dài hơn từ 3 năm trở lên
tăng đáng kể qua các năm; đặc biệt trái phiếu kho bạc kỳ hạn 3-6 năm đã chiếm tới
30% tổng khối lượng trái phiếu vào năm 2011. (xem hình 2.4)
Hình 2.4: Cơ cấu kỳ hạn của trái phiếu kho bạc
9
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn: TANGGIAP.VN
Mục đích của việc kéo dài thời hạn của các trái phiếu kho bạc này là để bẻ các
đường cong lãi suất trái phiếu, làm giảm áp lực lên lãi suất dài hạn. Thông thường
đường cong lãi suất trái phiếu có chiều hướng lên trên, tức là lợi suất kỳ hạn ngắn
thấp, lợi suất kỳ dạn dài cao hơn. Nhưng thông qua hành động “bán ngắn mua dài” sẽ
làm giá của trái phiếu chính phủ dài hạn có xu hướng gia tăng (do Fed mua) trong khi
lãi suất dài hạn không đổi sẽ làm cho lợi tức của trái phiếu này giảm đi, lợi tức của trái
phiếu ngắn hạn tăng lên. Kết quả là sẽ giúp lãi suất vay của Mỹ về lâu dài sẽ giảm;
đồng thời hành động này không làm tăng cung tiền nên sẽ không làm gia tăng lạm
phát và ngăn cản đà mất giá của USD.
Thứ hai, về chứng khoán đảm bảo bằng tài sản thế chấp (MBS). Trong danh
mục SOMA thì chứng khoán MBS chiếm một tỷ trọng khá lớn, tuy nhiên khối lượng
MBS đã giảm từ 992 tỷ USD vào cuối năm 2010 xuống còn 871 tỷ USD vào cuối
tháng 9 năm 2011.Từ tháng 10 đến cuối năm 2011, Ủy ban thị trường mở tái đầu tư 77
tỷ USD của việc thanh toán vốn gốc trái phiếu chính phủ và chứng khoán MBS vào
MBS, trong quý 4 tập trung vào chứng khoán có kỳ hạn 30 năm với mức lãi suất 3.5%
đến 4% (xem hình 2.5)

Hình 2.5: Cơ cấu MBS theo lãi suất năm 2010 và 2011
Để thực hiện được các hoạt động đó thì ngay sau phiên họp vào tháng 9/2011
của FOMC, Ủy ban thị trường mở đã lên kế hoạch định hướng việc mua chứng khoán
MBS bằng cách công bố chính xác khối lượng sẽ mua trong giai đoạn từng tháng tiếp
10
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn: TANGGIAP.VN
theo, được xác định bằng tổng thanh toán vốn gốc từ trái phiếu chính phủ và MBS kỳ
vọng sẽ nhận được trong giai đoạn đó. Để điều hành các hoạt động đó, Ủy ban thị
trường mở đã nhận được lời chào hàng cạnh tranh từ các nhà giao dịch sơ cấp và lựa
chọn cách rao bán hấp dẫn nhất là thông qua hệ thống sàn giao dịch điện tử. Hệ thống
này cho phép người mua cố định các đề nghị cho tối đa 4 bên tham gia. Do hệ thống
giới hạn số đối tác mõi giao dịch nên Uỷ ban đã phải xoay vòng giữa những đối tác
giao dịch sơ cấp. Nhờ vậy, hoạt động mua vào của MBS trở nên thường xuyên hơn
những giao dịch mua trái phiếu kho bạc có hệ thống cho phép tất cả mọi nhà mua sơ
cấp có thể tham gia vào từng hoạt động.
Thứ ba, về trái phiếu chính phủ. Trong năm 2011, không diễn ra hoạt động mua
hay bán trái phiếu chính phủ. Khoảng 44 tỷ USD trái phiếu chính phủ trong danh mục
SOMA đã đến hạn vào năm 2011, giảm tổng khối lượng xuống còn 104 tỷ USD vào
cuối năm 2011. Đến cuối tháng 9 năm 2011, việc thanh toán vốn gốc các trái phiếu
chính phủ đến hạn được tái đầu tư vào trái phiếu kho bạc với khối lượng là 40 tỷ USD
và thêm 4 tỷ USD được đầu tư vào MBS từ tháng 9 đến tháng 12 năm 2011. Ngược lại
với việc gia tăng nắm giữ các trái phiếu kho bạc có kỳ hạn dài thì Fed lại tập trung vào
các trái phiếu chính phủ có kỳ hạn ngắn hơn 5 năm có ngày đáo hạn là cuối năm 2011,
và chi có 16 tỷ USD là có ngày đáo hạn sau năm 2016.
2.1.2. Năm 2012
a) Bối cảnh kinh tế
Nửa đầu năm 2012, tỉ lệ tăng trưởng GDP của Mỹ giảm so với nửa cuối
năm 2011, chỉ đạt mức 2%, lý do là từ hệ quả của cuộc khủng hoảng nợ công
châu Âu. Bên cạnh đó, sự khó khăn trong việc tiếp cận tín dụng đối với hộ gia
đình và doanh nghiệp vừa và nhỏ, kết hợp với chính sách tài khóa thắt chặt

cũng là những yếu tố kìm hãm phát triển kinh tế Mỹ.
Thị trường lao động giai đoạn này vẫn phát triển yếu, tỉ lệ thất nghiệp giữ
ở mức 8,25%. Mặc dù đầu năm chịu tác động tăng từ giá xăng dầu, nhưng
chỉ số giá tiêu dùng vẫn giảm trong giai đoạn này, và lạm phát dài hạn vẫn
11
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn: TANGGIAP.VN
được giữ ổn định. Trên thị trường tài chính, lợi tức từ trái phiếu kho bạc dài
hạn giảm mạnh, hệ quả từ chính sách kéo dài kì hạn của FED, rủi ro trái
phiếu doanh nghiệp giữ ở mức ổn định hoặc thấp hơn. Thị trường bất động
sản tiếp tục phục hồi do lãi suất thế chấp giảm, một phần của kế hoạch Tái
cấp vốn mua nhà của chính phủ Mỹ
Nửa cuối năm 2012, GDP Mỹ tăng ở mức khiêm tốn – 1,5% - tương
đương với mức tăng GDP nửa đầu năm, do các điều kiện bất lợi kìm hãm sự
tăng trưởng.Tuy nhiên điều kiện tài chính đã có sự nới lỏng do hiệu quả từ
các chính sách tiền tệ do FOMC thực hiện. Cho dù vậy, điều kiện tín dụng cho
các doanh nghiệp và hộ gia đình vẫn bị thắt chặt, thêm vào đó, chi tiêu chính
phủ bị cắt giảm mạnh, nhu cầu nước ngoài yếu làm giảm lượng xuất khẩu,
dẫn đến sự chững lại của nền kinh tế Mỹ. Mặc dù gặp phải những yếu tố như
trên, thị trường lao động vẫn tăng trưởng, dù rất thấp, nhưng ổn định. Tỉ lệ
thất nghiệp vào tháng 1/2012 là dưới 8%.
Lạm phát vẫn được giữ ở mức ổn định, chỉ số giá tiêu dùng tăng 1,5%
trong năm. Triển vọng giữ được lạm phát ở mức thấp là rất khả quan.
b) Định hướng hoạt động thị trường mở
Mục tiêu thực hiện hoạt động thị trường mở trong năm 2012: FED tiếp
tục tiến hành điều chỉnh cơ cấu cũng như kích cỡ danh mục giấy tờ có giá
mình đang nắm giữ, từ đó (1) áp đặt xu hướng giảm lên lãi suất dài hạn, (2)
hỗ trợ thị trường bất động sản, (3) tạo các điều kiện tài chính thuận lợi nhằm
thúc đẩy quá trình phục hồi nền kinh tế.
Điểm đáng chú ý trong hoạt động OMO cùa FED năm 2012, đó là sự tiếp
diễn và mở rộng thời hạn của chương trình Mở rộng kì hạn trái phiếu (đã bắt

đầu từ cuối năm 2011), với tổng trị giá trái phiếu dài hạn (có kì hạn từ 6 năm
trở lên) đã mua là 667 tỉ $. Song song với đó, FED đã gần như xóa sổ hẳn
lượng trái phiếu kho bạc ngắn hạn (có kì hạn còn lại từ 3 tháng đến 3 năm)
mà mình đang nắm giữ thông qua việc bán ra với giá trị tương đương.
12
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn: TANGGIAP.VN
FED cũng đồng thời tiếp tục tiến hành hoạt động tái đầu tư vào trái phiếu
chính phủ và trái phiếu đảm bảo bằng tài sản của các tổ chức trực thuộc
chính phủ, với tổng lượng mua vào cố định hàng tháng ở mức 85 tỉ $. Điển
hình cho hoạt động này chính là sự kiện cho vay cứu cánh Maiden Lane 1,2,3
đối với tập đoàn Bear Stearn và AIG.
c) Thực trạng hoạt động thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở trong năm 2012 tiếp tục cố gắng mang lại sự hồi phục
cho nền kinh tế qua việc điều chỉnh cơ cấu và khối lượng của bảng cân đối tài sản của
Fed. Những tác động này nhằm hạ thấp mức lãi suất dài hạn, kích thích thị trường cầm
cố thế chấp, và giúp nới lỏng các điều kiện tài chính.
Tổng quy mô của tài khoản hệ thống thị trường mở (SOMA) hầu như không thay
đổi trong phần lớn của năm, tuy nhiên lại có một sự thay đổi đáng kể trong cơ cấu
giấy tờ có giá, đặc biệt là cơ cấu về kì hạn. Sự thay đổi về kì hạn các giấy tờ có giá là
kết quả của “chương trình mở rộng kì hạn” hay thường được biết đến với tên gọi QE
2.5. Ngoài ra, vào tháng 10/2012 một chương trình nới lỏng định lượng mới được đưa
ra (QE3) với tốc độ mua vào 40 tỷ USD MBS mỗi tháng. Cho đến hết năm 2012, dưới
tác động của 2 chương trình này, quy mô giấy tờ có giá nắm giữ tại SOMA đạt mức
2.8 nghìn tỷ USD.
Hình 2.6 : Quy mô và cơ cấu của SOMA
13
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn: TANGGIAP.VN
Thứ nhất, về trái phiếu kho bạc. Trong suốt năm 2012, quy mô trái phiếu kho
bạc nắm giữ bởi SOMA giữ ổn định ở mức 1,7 nghìn tỷ USD (xem hình 2.6) tuy
nhiên về cơ cấu kì hạn thì có sự thay đổi đáng kể. Điều này là do trong chương trình

MEP, FED sẽ tiến hành mua những trái phiếu kho bạc có kì hạn dài và tương ứng với
đó là bán những giấy tờ có giá kì hạn ngắn. Cho đến cuối năm, 61% lượng trái phiếu
kho bạc nắm giữ của SOMA có kì hạn từ 6 năm trở lên (xem hình 2.7) trong khi đó,
chứng khoán kì hạn thấp hơn 3 năm hầu như bị loại bỏ khỏi danh mục đầu tư. Kì hạn
trung bình của SOMA vào thời điểm cuối năm 2012 đã đạt 10,4 năm tăng 3 năm so
với thời điểm đầu năm 2012.
Hình 2.7: Cơ cấu kì hạn trái phiếu kho bạc của SOMA
14
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn: TANGGIAP.VN
Trong suốt năm 2012, Fed đã mua vào tổng cộng 534 tỷ USD giá trị mệnh giá
của chứng khoán kho bạc trên thị trường thứ cấp, trong đó có 267 tỷ USD mua từ
tháng 1 đến tháng 6 nhằm hoàn thiện gói 400 tỷ của MEP như đã công bố vào cuối
năm 2011, thêm vào đó là 267 tỷ tỷ từ tháng 7 cho đến hết năm nhằm mở rộng gói
MEP. Những chứng khoán kho bạc mua vào có kì hạn từ 6 cho đến 30 năm, với tốc độ
là 45 tỷ USD mỗi tháng. Giá trị mệnh giá của khối lượng chứng khoán kì hạn dài mua
vào gần như tương đương với giá trị mệnh giá bán ra của trái phiếu kho bạc kì hạn
ngắn. Trong năm này, Fed đã bán tổng cộng 500 tỷ chứng khoán thường và trái phiếu
điều lạm phát điều chỉnh. (Bảng 2.2)
Bảng 2.2: thống kê nghiệp vụ trong chương trình MEP
Thứ hai, chứng khoán có đảm bảo bằng thế chấp (MBS). Khối lượng MBS nắm
giữ bởi SOMA tăng 165 tỷ USD trong năm 2012, đạt mức 1 nghìn tỷ vào thời điểm
cuối năm. Đây là kết quả của gói nới lỏng định lượng thứ 3 (QE3) được FOMC đưa ra
vào 13 tháng 9, gói QE 3 này sẽ mua vào MBS ở tốc độ 40 tỷ USD mỗi tháng. Tương
tự đối với chứng khoán kho bạc, Fed chủ trương mua vào MBS kì hạn dài nhằm làm
giảm rủi ro kì hạn và rủi ro thanh toán trước hạn thông qua đó giảm phần bù rủi ro và
cuối cùng lãi vay thế chấp sẽ giảm. Điều này sẽ kích thích nhu cầu về nhà ở và những
hoạt động tái tài trợ.
15
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn: TANGGIAP.VN
Hình 2.8: Cơ cấu MBS năm 2012

Trong năm này, Fed đã tiến hành mua vào tổng cộng 489 tỷ USD MBS trong đó
71% là khoản đầu tư lại và 29% là phần mua mới thông qua gói QE3. Hoạt động tái
đầu tư và mua thêm của Fed tập trung vào các MBS kì hạn dài và có mức lãi suất
thấp, cụ thể, Fed chủ yếu tập trung ở chứng khoán có kì hạn 30 năm và mức lãi suất
3.0 đến 3.5%/năm. Nhờ vậy, cho đến cuối năm, cơ cấu MBS chủ yếu tập trung vào kì
hạn 30 năm và cơ cấu MBS có mức lãi suất từ 3.5% trở xuống chiểm 40%. Mức lãi
suất này đã giảm khá mạng so với những năm trước (xem hình 2.9)
Hình 2.9: cơ cấu MBS theo lãi suất giai đoạn 2010-2012
16
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn: TANGGIAP.VN
Thứ ba, trái phiếu chính phủ. Trong năm 2012, Fed không có giao dịch mua hay
bán đối với trái phiếu chính phủ. Trong năm này, có 27 tỷ trái phiếu chính phủ nắm
giữ bởi SOMA đáo hạn làm giảm tổng khối lượng nắm giữ trái phiếu chính phủ về
còn 77 tỷ USD vào cuối năm 2012. Những trái phiếu đáo hạn này được tái đầu tư vào
MBS.
2.1.3. Năm 2013
a) Bối cảnh kinh tế
Trong nửa đầu năm 2013, nền kinh tế Mỹ vẫn tăng trưởng chậm trong
quý 1, bất chấp những dự đoán cho rằng sự tăng trưởng kinh tế Mỹ là tạm
thời và không ổn định. Trong giai đoạn này, các chính sách tài khóa thắt chặt
đã kìm hãm tăng trưởng kinh tế Mỹ, cộng thêm với việc nhu cầu hàng hóa Mỹ
tại các nước khác tiếp tục giảm.
Các yếu tố bất lợi đã dần được loại bỏ thông qua việc thực hiện chính
sách tiền tệ hợp lý, đặc biệt đối với lãi suất dài hạn. Thị trường bất động sản
có dấu hiệu hồi phục ổn định, nhờ vào giá nhà đất tăng nhẹ, điều kiện việc
làm được cải thiện hơn. Lượng nhân công làm việc được trả lượng tăng nhẹ,
tuy nhiên tỉ lệ thất nghiệp giai đoạn này vẫn cao, giữ ở mức 7,5%. Trong khi
đó, lạm phát có xu hướng giảm, nhờ vào giá nhập khẩu và giá năng lượng
giảm, và giữ ở dưới mức 2%.
17

Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn: TANGGIAP.VN
Trong nửa sau năm 2013, tình hình thị trường lao động tiếp tục được cải
thiện. Kể từ tháng 6/2013, trung bình mỗi tháng có thêm 175000 người có
việc làm, và tỉ lệ thất nghiệp đã giảm từ 7,5 % xuống còn 6,6 % vào đầu năm
nay, dù vẫn cao hơn mức ước tính của FOMC. Lạm phát vẫn giữ ổn định, chỉ
số giá tiêu dùng tăng 1% trong 6 tháng của giai đoạn này. Tỉ lệ tăng trưởng
GDP giai đoạn này đạt tới 3,75%, cao hơn con số 1,75%của nửa đầu năm.
Chính sách tài khóa được nới lỏng hơn, tín dụng thông thoáng hơn trong khi
lãi suất giữ ở mức thấp, các nền kinh tế khác trên thế giới được cải thiện,
chính là những nhân tố giúp nền kinh tế Mỹ tăng trưởng mạnh trong giai đoạn
này. Tuy nhiên, thị trường bất động sản lại chững lại trong giai đoạn này, kết
quả của việc lãi suất cho hợp đồng thế chấp tăng trong nửa đầu năm.
b) Định hướng hoạt động thị trường mở
Mục tiêu thực hiện hoạt động thị trường mở: tiếp tục ổn định lãi suất dài
hạn thông qua việc điều chỉnh cơ cấu và quy mô danh mục SOMA, tiến tới
thúc đẩy kinh tế trong nước, giữ lạm phát đạt mục tiêu 2%.
Các hoạt động đáng chú ý của FED trong năm 2013 gồm :
• Bắt đầu từ tháng 1 năm 2013, FED tiến hành mua trái phiếu kho bạc hàng tháng với trị
giá lên tới 45 tỉ$/tháng, tiếp nối chương trình Mở rộng kì hạn trái phiếu năm 2012.
• Tháng 12/2013, cuộc họp của Ủy ban thị trường mở liên bang (FOMC) đã quyết định
giảm mức tái đầu tư vào trái phiếu chính phủ và trái phiếu đảm bảo bằng hợp đồng thế
chấp (MBS) nếu nền kinh tế cho thấy dấu hiệu tiến triển, nhất là trên thị trường lao
động, cũng như lạm phát tiến gần tới mức 2% như đã đề ra trong kế hoạch.
c) Thực trạng hoạt động thị trường mở
Sau tốc độ mua vào 40 tỷ MBS mỗi tháng từ cuối tháng 10 năm 2012, bước sang
năm 2013, trước những dự báo về mức tăng trưởng trong năm 2013 có thể chậm lại
nhưng lạc quan vể tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm, Fed vẫn giữ nguyên lãi suất ở gần mức
0% và cam kết tiếp tục mua 85 tỷ USD trái phiếu hàng tháng. Khối lượng trái phiếu
Fed mua vào trong năm 2013 được cắt giảm từ 85 tỷ USD mỗi tháng xuống 75 tỷ từ
18

Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn: TANGGIAP.VN
tháng 1/2014 Động thái này được Fed kỳ vọng là sẽ tiếp tục đẩy lãi suất dài hạn đi
xuống, giảm áp lực cho thị trường và thúc đẩy tăng trưởng.
Thứ nhất, trái phiếu kho bạc
Tiếp diễn chương trình mở rộng kỳ hạn để kéo dài kỳ hạn trung bình cho các trái
phiếu thì một lượng lớn trái phiếu kho bạc có kỳ hạn dài vẫn tiếp tục được mua vào.
Theo đó từ tháng 1/2013 mỗi tháng 45 tỷ USD trái phiếu kho bạc sẽ được mua vào,
vào rút xuống còn 40 tỷ USD mỗi tháng bắt đầu từ tháng 12/2013 (xem hình 2.10).
Với việc tập trung vào các trái phiếu có kỳ hạn dài trên 6 năm thì tỷ lệ loại trái phiếu
này đã lên tới hơn 70% còn trái phiếu kỳ hạn nhỏ hơn 3 năm thì gần như bị loại bỏ.
Kỳ vọng sẽ giảm tiếp áp lực lên lãi suất dài hạn, khuyến khích nhà đầu tư mua các trái
phiếu ngắn hạn với lợi suất tốt hơn. Từ đó khuyến khích cho vay dài hạn ra nền kinh
tế với mức lãi suất thấp hơn, từng bước ổn định tăng trưởng.
Hình 2.10: Khối lượng các loại trái phiếu được giao dịch trong năm 2013
Nguồn: tổng hợp của nhóm từ số liệu của Fed
Thứ hai, chứng khoán có đảm bảo bằng tài sản thế chấp (MBS). MBS là công
cụ được Fed tập trung thực hiện trong gói nới lỏng định lượng QE3. Bằng việc mỗi
tháng tiến hành mua số lượng MBS trị giá 40 tỷ USD qua phát hành tiền và mua lại tài
sản của các ngân hàng, giá trị các công cụ này sẽ bị đẩy lên cao, từ đó lợi suất trái
phiếu giảm xuống, các nhà đầu tư sẽ tìm kiếm những tài sản khác như trái phiếu công
ty. Khi các nhà đầu tư mua trái phiếu công ty, lợi suất trái phiếu giảm xuống, các nhà
doanh nghiệp có thể vay mượn với chi phí thấp hơn, kinh tế đi lên và tỷ lệ thất nghiệp
sẽ giảm.
Trước những diễn biến lạc quan của thị trường như kinh tế đang có chiều
hướng đi lên và thị trường lao động được cải thiện rõ rệt biểu hiện tỷ lệ thất nghiệp đã
giảm xuống 7%, mức thấp nhất kể từ 5 năm qua thì Fed đã tuyên bố cắt giảm khối
lượng MBS từ 40 tỷ USD mỗi tháng xuống còn 35 tỷ USD.
19
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn: TANGGIAP.VN
Thứ ba, trái phiếu chính phủ. Khối lượng trái phiếu chính phủ trong danh mục

SOMA không có biến động nhiều trong năm 2013, khoảng 70 tỷ trái phiếu chính phủ
đáo hạn được tập trung để tái đầu tư vào MBS. Đa số trái phiếu chính phủ Mỹ nằm
trong tay các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt là Trung Quốc, Nhật Bản và Nga.
III. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
3.1. Dự báo của FED cho giai đoạn 2011-2013 và dài hạn
Ngày 25-26/1/2011, Ủy ban thị trường mở của FED đã họp và trình dự
báo tăng trưởng sản lượng thực tế , tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát trong những
năm 2011-2013 và trong dài hạn thay thế cho dự báo hồi tháng 11 năm 2010
khi điều kiện tài chính được cải thiện. FED khẳng định mục tiêu của chính
sách tiền tệ là ổn định giá cả và tạo công ăn việc làm tối đa.
Bảng 3.1: Dự báo kinh tế Mỹ của FED vào tháng 1 năm 2011
20
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn: TANGGIAP.VN
Thứ nhất, về tốc độ tăng trưởng (GDP) sẽ tiếp tục tăng trưởng với tốc
độ kiêm tốn và trong dài hạn tốc độ tăng trưởng sẽ giảm xuống còn khoảng
2,5 – 2,8%, và theo ý kiến của toàn bộ đại biểu trong phiên họp thì GDP dài
hạn sẽ trong khoảng 2,4 – 3,0%. Tốc độ tăng trưởng thấp nhưng FED khẳng
định tỷ lệ này vẫn đủ để hạ thấp dần tỷ lệ thất nghiệp.
Thứ hai, về tỷ lệ thất nghiệp thì vẫn sẽ có xu hướng giảm, đến năm
2013 sẽ chỉ dao động trong khoảng 6,8 – 7,2%, tuy nhiên nhiều ý kiến cho
rằng tỷ lệ thất nghiệp sẽ không được như dự kiến và tổng hợp ý kiến của toàn
bộ đại biểu thì tỷ lệ thất nghiệp sẽ dao động trong khoảng 6,0 – 7,9%. Dự báo
trong dài hạn, tỷ lệ thất nghiệp sẽ chỉ ở mức 5,0 – 6,0%.
Thứ ba, về tỷ lệ lạm phát thì dường như không phải mối lo lắng của
FED và đa số mọi người đều cho rằng lạm phát có xu hướng tăng nhẹ tuy
nhiên vẫn thấp hơn mức được cho là phù hợp với nền kinh tế Mỹ.
3.2. Những kết quả đạt được.
a. Tăng trưởng kinh tế
Từ sau cuộc khủng hoảng tài chính thế giới từ năm 2007, tăng trưởng
kinh tế của Mỹ đã có nhiều sự biến động, nhìn vào biểu đồ 1 ta có thể thấy

sau sự tăng trưởng đáng kể trong năm 2010 thì tốc độ tăng trưởng của Mỹ có
xu hướng giảm và phải đến cuối năm 2013 mới có sự xoay chuyển ngoạn
mục. Nguyên nhân được đánh giá là kết quả cho hàng loạt gói kích cầu và
hoạt động mạnh mẽ trên thị trường OMO trong giai đoạn 2011 – 2013.
Hình 3.1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) của Mỹ giai đoạn 2007 – 2013
(%)
21
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn: TANGGIAP.VN
Năm 2011
Sau khi tăng trưởng mạnh mẽ trong quý IV năm 2010 thì đến quý I năm
2011 tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) chỉ đạt 1,9% và phục hồi mạnh mẽ vào
quý II. Và nguyên nhân có được sự phục hồi đó được đánh giá chủ yếu là từ
trận động đất của Nhật Bản khiến giá lương thực và năng lượng tăng trong
ngắn hạn và tạm thời. Mặc dù FED đã thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng
thông qua các giao dịch trên thị trường OMO, tạo ra điều kiện tài chính hỗ trợ
vào tăng trưởng kinh tế nhưng dường như đã không có nhiều tác động tích
cực và mạnh mẽ tới GDP.
Những tác động của FED tới tăng trưởng kinh tế trong nửa cuối năm
2011 cũng không đạt nhiều hiệu quả khi GDP chỉ tăng ở mức 2,5%, giảm
0,75% so với nửa đầu năm. Nguyên nhân như đã nêu ở trên, tác động thực
sự để có được sự tăng trưởng mạnh mẽ trong quý II không phải là do các
chính sách của FED mà do các yếu tố tạm thời gây ra tăng giá lương thực và
năng lượng trong ngắn hạn.
Nguyên nhân dẫn đến các chính sách của FED không đạt hiệu quả như
dự báo ở mức 3,4 - 3,9% được đánh giá là: Mặc dù FED đã nới lỏng CSTT
nhưng điều kiện tín dụng với nhiều hộ gia đình và doanh nghiệp nhỏ còn khá
chặt chẽ, và hạn chế tín dụng đối với một số lĩnh vực đặc biệt là lĩnh vực BĐS
22
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn: TANGGIAP.VN
khiến thị trường nhà đất trầm cảm, kèm theo các chính sách tài khóa chặt

chẽ, hiệu ứng lan tỏa từ thị trường tài chính Châu Âu và các thị trường tài
chính khác. Điểm qua về cuộc khủng hoảng tài chính Châu Âu nửa cuối năm
2011 và đầu năm 2012, nó thực sự là trọng tâm của thị trường tài chính và
ảnh hưởng mạnh mẽ tới giá trị tài sản và thị trường tài chính của nhiều nước
trong đó có Mỹ.
Năm 2012:
Quý I năm 2012, GDP vẫn tiếp tục chậm lại và đạt tốc độ khiêm tốn chỉ
2%, giảm 0,5% so với nửa cuối năm 2011. Và tiếp tục giảm trong quý II.
Nguyên nhân của việc suy giảm này giống với nửa cuối năm 2011 do sự ảnh
hưởng bởi thị trường tài chính nước ngoài và đặc biệt là chính sách của FED
không thực sự cải thiện nhiều đến điều kiện tín dụng, môi trường tài chính vẫn
thiếu sự linh hoạt, các doanh nghiệp thận trọng trong việc mở rộng quy mô
đầu tư. Tuy nhiên, vào nửa đầu năm 2012, thời tiết mùa đông nhưng ấm áp
hơn đã khiến cho thị trường BĐS có chút cải thiện nhỏ. Nửa cuối năm 2012,
GDP vẫn tiếp tục giảm và cả năm 2012 chỉ đạt mức 1,75%, một con số báo
động và cách biệt với dự báo là 3,5 – 4,4% đã khiến cho Mỹ lo ngại về sự
phục hồi chậm chạp của nền kinh tế.
Năm 2013:
GDP vẫn tiếp tục tăng với tốc độ vừa phải trong đầu năm 2013, chỉ đạt
mức 1,75% trong quý I, bằng với tốc độ trung bình năm 2012, tuy nhiên lại có
xu hướng giảm trong quý II. Mặc dù đã kết hợp chính sách tài khóa, FED nới
lỏng CSTT thông qua hoạt động trên thị trường OMO, hỗ trợ mức lãi suất thấp
kỷ lục, tác động đến giá nhà ở đã tăng và lòng tin của người tiêu dùng được
cải thiện nhưng nhìn vào tốc độ tăng trưởng GDP ở mức báo động như vậy
dường như đã làm tiêu tan kì vọng phục hồi kinh tế của Mỹ.
Cuối năm 2013 đã có sự đảo ngược dòng đột phá khi tăng trưởng GDP
ước tính trong nửa cuối năm đạt khoảng 3,75% từ mức 1,75% trong nửa đầu
23
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn: TANGGIAP.VN
năm, và tính tổng cả năm tăng 1% so với năm 2012, đạt mức 2,75%. Kết quả

này đáng để FED ăn mừng vì nó là một dấu hiện cho sự phục hồi kinh tế Mỹ,
và dường như đây là thành quả của hàng loạt các gói kích cầu và các chính
sách táo bạo của FED.
b. Thị trường lao động
Nhìn chung trong giai đoạn 2010 – 2013 tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng
giảm (hình 3.2), tuy nhiên vẫn cao hơn so với trước khủng hoảng. Tỷ lệ số lao
động trên tổng dân số lại có xu hướng tăng, nguyên nhân do Mỹ có số lượng
lớn dân cư ngoài độ tuổi lao động, điều này cho thấy Mỹ đang bị già hóa dân
số. Bên cạnh đó điểm đáng chú ý trong giai đoạn này đó là mặc dù tỷ lệ thất
nghiệp đã giảm từ 9% trong đầu năm 2011 xuống còn 6,6% tính đến tháng 1
năm 2014 nhưng tỷ lệ thất nghiệp dài hạn (thất nghiệp trên 6 tháng) vẫn ở
mức cao, vẫn còn nhiều lao động bán thời gian do không thể tìm được việc
làm toàn thời gian. Như vậy thị trường lao động đã phục hồi nhưng vẫn là mối
lo ngại lớn của FED.
Hình 3.2: Tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ giai đoạn 2002 – 2014 (%)
Năm 2011:
24
Xin chào!!. Rất vui khi được chia sẻ tài liệu với bạn. Nguồn: TANGGIAP.VN
Nửa đầu năm 2011, với những ảnh hưởng từ trận động đất tại Nhật
Bản và các thị trường tài chính khác trong khi các chính sách của FED không
đạt nhiều hiện quả trong tăng trưởng kinh tế, thị trường lao động được cải
thiện song không đều, 4 tháng đầu năm số việc làm được hưởng lương tăng
trung bình khoảng 200.000 việc làm mỗi tháng từ mức 125.000 việc làm mỗi
tháng trong cuối năm 2010, đến tháng 5 và tháng 6 con số đó đã biến động
đột ngột khi chỉ tăng ở mức 65.000 việc làm mỗi tháng. Tỷ lệ thất nghiệp theo
đó đã tăng từ 9% hồi đầu năm 2011 lên 9,2% tại thời điểm tháng 6. Ngoài ra
có tới 44% lao động thất nghiệp dài hạn trong tổng số người thất nghiệp. Dựa
vào các chỉ số khác cho thấy thị trường lao động thời điểm này vẫn còn yếu
kém.
Nửa cuối năm 2011, tỷ lệ thất nghiệp giảm đáng kể, số việc làm được

trả lương tăng trung bình 165.000 việc làm mỗi tháng, đặc biệt tăng mức
240.000 việc làm trong tháng 12. Tỷ lệ thất nghiệp dao động quanh mức 9%
trong nhiều năm qua đã di chuyển xuống, đến tháng 1 năm 2012 ở mức
8,25%. Mặc dù vậy thì tỷ lệ thất nghiệp và thất nghiệp dài hạn vẫn ở mức cao,
số lao động làm việc bán thời gian gấp khoảng 2 lần so với trước khủng
hoảng.
Hình 3.3: Sự thay đổi trong số việc làm được trả lương (Nghìn việc làm)
25

×