Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

ảnh hưởng của mật độ, thức ăn đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá chiên (bagarius rutilus ng & kottelat, 2001) giai đoạn từ cá bột lên cá hương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 68 trang )



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG






TRẦN VĂN GIANG

ẢNH HƢỞNG CỦA MẬT ĐỘ, THỨC ĂN ĐẾN
SINH TRƢỞNG VÀ TỶ LỆ SỐNG CỦA CÁ CHIÊN
(Bagarius rutilus Ng & Kottelat, 2001)
GIAI ĐOẠN TỪ CÁ BỘT LÊN CÁ HƢƠNG






LUẬN VĂN THẠC SĨ







NHA TRANG THÁNG 7 – 2011









BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG






TRẦN VĂN GIANG

ẢNH HƢỞNG CỦA MẬT ĐỘ, THỨC ĂN ĐẾN
SINH TRƢỞNG VÀ TỶ LỆ SỐNG CỦA CÁ CHIÊN
(Bagarius rutilus Ng & Kottelat, 2001)
GIAI ĐOẠN TỪ CÁ BỘT LÊN CÁ HƢƠNG



LUẬN VĂN THẠC SĨ


Chuyên ngành: NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
Mã số: 60.62.72


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. HOÀNG THỊ BÍCH ĐÀO




NHA TRANG THÁNG 7 - 2011






i
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
của tôi. Kết quả nghiên cứu này chưa được sử dụng cho bất cứ luận văn cùng cấp
nào khác.
Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã
được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả



Trần Văn Giang


















ii
LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, tôi xin được trân trọng cảm ơn tới Ban giám hiệu Trường Đại học
Nha Trang, Trường Cao Đẳng Thủy sản IV

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo hướng dẫn TS. Hoàng Thị Bích
Đào, người đã định hướng và chỉ dẫn tận tình trong suốt quá trình thực hiện đề tài
và hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc, các đồng nghiệp của Trung tâm
quốc gia giống Thuỷ sản nước ngọt Miền Bắc - Phú Tảo - Hải Dương đã tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi thực hiện đề tài nghiên cứu này.
Sau cùng xin cảm ơn tới gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã động viên
suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành chương trình
cao học.
Nha Trang, ngày 10 tháng 07 năm 2011
Tác giả




Trần Văn Giang



iii
MỤC LỤC

Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các từ viết tắt v
Danh mục các bảng vi
Danh mục các hình vii
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Một số đặc điểm sinh học của cá Chiên 3
1.2 Sản xuất giống nhân tạo 9
1.3. Tình hình khai thác và tiềm năng phát triển nghề nuôi cá Chiên ở
Việt Nam 10
CHƢƠNG 2. VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 13
2.1 Thời gian và đối tượng nghiên cứu 13
2.2. Vật liệu nghiên cứu 13
2.3. Phương pháp nghiên cứu 14
2.3.1 Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu 14
2.3.2 Bố trí thí nghiệm 15
2.3.3 Phương pháp theo dõi thí nghiệm 18
2.3.4 Phương pháp xử lý số liệu 19
CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 20

3.1 Ảnh hưởng của mật độ đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá Chiên
khi ương từ cá bột lên cá hương 20
3.1.1 Biến động một số yếu tố môi trường trong thí nghiệm về mật độ
nuôi 20



iv
3.1.2 Ảnh hưởng của mật độ ương nuôi đến sinh trưởng của cá Chiên
khi ương từ bột lên hương 23
3.1.2.1 Sinh trưởng về khối lượng của cá 23
3.1.2.2 Sinh trưởng về chiều dài của cá 26
3.1.3 Ảnh hưởng của mật độ ương đến tỷ lệ sống của cá 29
3.1.4 Ảnh hưởng của mật độ ương đến hệ số phân đàn của cá 30
3.1.5 Ảnh hưởng của mật độ ương đến tập tính sống và hoạt động bất mồi
của cá 30
3.2 Ảnh hưởng của thức ăn đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá Chiên
khi ương từ cá bột lên cá hương 31
3.2.1 Biến động một số yếu tố môi trường trong thí nghiệm về thức ăn 31
3.2.2 Ảnh hưởng của thức ăn đến sinh trưởng của cá Chiên khi ương
từ bột lên hương 34
3.2.2.1 Sinh trưởng về khối lượng của cá 34
3.2.2.2 Sinh trưởng về chiều dài của cá 37
3.2.3 Ảnh hưởng của thức ăn đến tỷ lệ sống của cá 40
3.2.4 Ảnh hưởng của thức ăn đến hệ số phân đàn của cá 41
3.2.5 Ảnh hưởng của thức ăn ương đến tập tính sống và hoạt động bất
mồi của cá 41
CHƢƠNG 4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 43
4.1 Kết luận 43
4.2 Đề xuất 44

TÀI LIỆU THAM KHẢO 45
PHỤ LỤC 48







v
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT





ANOVA
Phân tích phương sai
CT
Công thức
CTV
Cộng tác viên
AGR
Tốc độ tăng trưởng bình quân ngày
TB
Trung bình
Sd
Độ lệch chuẩn
TN
Thí nghiệm

W
Khối lượng
ĐVPD
Động vật phù du

Mật độ
NT
Nghiệm thức
N
Số lượng mẫu



vi
DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 3.1: Nhiệt độ, DO và pH trong thí nghiệm về mật độ nuôi 20
Bảng 3.2 Khối lượng trung bình của cá (g/con) khi thí nghiệm ở các mật độ
khác nhau 24
Bảng 3.3. Ảnh hưởng của mật độ nuôi đến tốc độ sinh trưởng về khối lượng
của cá Chiên giai đoạn từ bột lên hương 26
Bảng 3.4: Chiều dài trung bình của cá (cm/con) khi nuôi ở các mật độ khác nhau 26
Bảng 3.5: Ảnh hưởng của mật độ nuôi đến tốc độ sinh trưởng về chiều dài của
cá Chiên giai đoạn bột lên hương 28
Bảng 3.6: Tỷ lệ sống của cá khi ương nuôi ở các mật độ khác nhau 29
Bảng 3.7: Hệ số phân đàn của cá ương nuôi ở các mật độ khác nhau 30
Bảng 3.8: Nhiệt độ, DO và pH trong thí nghiệm về thức ăn 31
Bảng 3.9: Khối lượng trung bình của cá (g/con) khi thí nghiệm ở các công
thức thức ăn khác nhau 35
Bảng 3.10: Ảnh hưởng của thức ăn đến tốc độ sinh trưởng về khối lượng của

cá Chiên giai đoạn bột lên hương 37
Bảng 3.11: Chiều dài trung bình của cá (cm/con) khi nuôi ở các công thức
thức ăn khác nhau 37
Bảng 3.12: Ảnh hưởng của thức ăn đến tốc độ sinh trưởng về chiều dài của cá
Chiên giai đoạn bột lên hương 39
Bảng 3.13: Tỷ lệ sống của cá khi ương nuôi ở các công thức thức ăn khác nhau 40
Bảng 3.14 Hệ số phân đàn của cá ương nuôi ở các thức ăn khác nhau 41



vii
DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 1.1: Cá Chiên Bagarius rutilus Ng & Kottelat, 2001 3
Hình 1.2: Bản đồ phân bố cá Chiên ở khu vực phía Bắc Việt Nam 5
Hình 2.1: Cá Chiên thí nghiệm 13
Hình 2.2: Thí nghiệm về ảnh hưởng của mật độ đến sinh trưởng và tỷ lệ sống
cá Chiên bột 16
Hình 2.3: Thí nghiệm về ảnh hưởng của thức ăn đến sinh trưởng và tỷ lệ
sống của cá Chiên bột 17
Hình 3.1: Biến động nhiệt độ trong quá trình theo dõi thí nghiêm về mật độ nuôi 21
Hình 3.2: Biến động DO trong quá trình theo dõi thí nghiêm về mật độ nuôi 22
Hình 3.3: Biến động pH trong quá trình theo dõi thí nghiêm về mật độ nuôi 23
Hình 3.4: Khối lượng trung bình của cá ở các mật độ nuôi khác nhau 25
Hình 3.5: Chiều dài trung bình của cá ở các mật độ nuôi khác nhau 27
Hình 3.6: Biến động nhiệt độ trong quá trình theo dõi thí nghiêm về thức ăn 32
Hình 3.7: Biến động DO trong quá trình theo dõi thí nghiệm về thức ăn 33
Hình 3.8. Biến động pH trong quá trình theo dõi thí nghiệm về thức ăn 34
Hình 3.9: Khối lượng trung bình của cá ở các công thức thức ăn khác nhau 36
Hình 3.10: Chiều dài trung bình của cá ở các công thức thức ăn khác nhau 39




1
MỞ ĐẦU
Ở Việt Nam, cá Chiên Bagarius rutilus Ng & Kottelat, 2001 là một trong năm
loài cá quý thuộc hệ thống sông Hồng bao gồm: Cá Chiên, cá Lăng, cá Rầm xanh, cá
Anh vũ và cá Bỗng. Cá ưa thích sống trong môi trường nước chảy xiết ở vùng Nam
Á (vùng phân bố kéo dài từ Ấn Độ qua Myanmar, Thái Lan, Bắc Việt Nam,
Indonexia). Con lớn nhất có thể đạt 50kg, cỡ cá khai thác trung bình ngoài tự nhiên
là 5-7kg hoặc nhỏ hơn. Ở nước ta, cá thường thấy nhiều trong các sông suối ở các
tỉnh phía Bắc, nhất là ở vùng trung và thượng lưu: Sông Lô, sông Gâm, sông Hồng,
sông Đà, sông Chảy và một số tỉnh miền trung như Nghệ An, Thanh Hoá. Đây là
loài cá sống chủ yếu ở tầng đáy, ưa những nơi có khe nước chảy, đáy là cát đá. Hiện
nay ngư dân vẫn khai thác được cá Chiên cỡ 0,05 – 40 kg trên sông Lô, sông Gâm,
sông Hồng thuộc địa phận các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Lai Châu. Cá
Chiên có thể biến đổi theo màu nước và đặc điểm của từng loài: Ở môi trường nước
trong, cá có màu nâu đen, trong môi trường nước đục cá có màu vàng nâu. Cá Chiên
là loài cá được người tiêu dùng ưa chuộng. Giá cá Chiên bán trên thị trường hiện
nay thường dao động từ 400.000 – 450.000 đồng/kg. Thịt cá Chiên ngon. Cá Chiên
được coi là cá đặc sản của các vực nước nhiệt đới.
Các công trình nghiên cứu về cá Chiên ở trên thế giới chưa nhiều và cũng
chỉ chủ yếu tập trung nghiên cứu về đặc điểm phân loại và điều tra đặc điểm sinh
thái của loài này ngoài tự nhiên như: Đặc điểm sống, tập tính ăn, mùa vụ sinh
sản, đặc điểm sinh học sinh sản. Nhất là chưa có nghiên cứu chuyên sâu về sản
xuất giống nhân tạo. Ở nước ta, nghiên cứu gần đây (2008) đã thành công trong
việc nuôi vỗ cá bố mẹ nhân tạo, kích thích rụng trứng, ấp nở thành cá bột và
ương nuôi lên cá hương [7].
Việc đánh bắt quá mức cá Chiên trên các sông suối, đặc biệt là ở các vùng
thượng nguồn các sông Hồng, Đà, Lô, Gâm bằng đủ các loại ngư cụ, trong đó có cả

biện pháp mang tính hủy diệt nguồn lợi cá tự nhiên như kích điện, hóa chất và việc
phá hoại điều kiện sinh sản tự nhiên cũng như môi trường sống của loài cá này, đã đẩy
chúng vào tình trạng sắp tuyệt chủng. Sách đỏ Việt Nam đã xếp cá Chiên vào diện dễ



2
bị ảnh hưởng, cần được đặc biệt chú ý [4].
Trước thực trạng về nguồn lợi cá Chiên giảm sút ở các sông suối tự nhiên của
nước ta, yêu cầu cần thiết phải phục hồi, bảo tồn, khai thác nguồn gen và bổ xung loài
mới có giá trị kinh tế cho người nuôi. Năm 2008, Trung tâm quốc gia giống thuỷ sản
nước ngọt miền Bắc đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu xây dựng quy trình công nghệ
sản xuất nhân tạo giống cá Chiên”, bước đầu đã cho một số kết quả khả quan. Cá bố
mẹ thành thục tốt trong điều kiện nuôi nhân tạo và bước đầu đã cho sinh sản nhân tạo
thành công. Tuy nhiên, những kết quả nghiên cứu đạt được trong năm 2008 còn rất
hạn chế, tỷ lệ thành thục 15-20%, tỷ lệ sống của giai đoạn từ cá bột lên cá hương
tương đối thấp, trung bình chỉ đạt 9,69%. Năm 2009 tỷ lệ thành thục 46,2%, tỷ lệ sống
của cá bột lên hương đạt 69%. So với các kết quả nghiên cứu đạt được từ các loài cá
khác, kết quả nghiên cứu kỹ thuật ương từ cá bột lên cá hương đối với cá Chiên còn
thấp.
Để từng bước góp phần nâng cao tỷ lệ sống và tốc độ tăng trưởng, cũng như
tiến tới xây dựng quy trình sản xuất giống cá Chiên, chúng tôi thực hiện đề tài “Ảnh
hưởng của mật độ, thức ăn đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá Chiên Bagarius
rutilus Ng & Kottelat, 2001 giai đoạn từ cá bột lên cá hương”.
Các nội dung chủ yếu của đề tài là:
- Ảnh hưởng của mật độ đến tỷ lệ sống và sinh trưởng của cá Chiên ương nuôi
từ giai đoạn cá bột lên cá hương.
- Ảnh hưởng của thức ăn đến tỷ lệ sống và sinh trưởng của cá Chiên ương nuôi
từ giai đoạn cá bột lên cá hương.
Đề tài đƣợc thực hiện sẽ có ý nghĩa khoa học và thực tiễn:

- Kết quả của đề tài sẽ cung cấp những thông tin về mật độ và công thức thức
ăn phù hợp cho giai đoạn ương cá Chiên từ bột lên hương.
- Là cơ sở khoa học để nghiên cứu và hoàn thiện quy trình sản xuất giống cá
Chiên trong điều kiện nhân tạo.





3
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Một số đặc điểm sinh học của cá Chiên
1.1.1. Vị trí phân loại
Theo Nguyễn Văn Hảo (2005), cá Chiên thuộc bộ cá Nheo (Siluriformes) và họ
cá Chiên (Sisoridae). Ở Việt Nam, họ cá Chiên gồm 6 giống, giống Bagarius bao
gồm 4 loài, trong đó có loài cá Chiên Bagarius rutilus Ng & Kottelat, 2001 và có hệ
thống phân loại như sau:
Ngành động vật có xương sống Vertebrata
Lớp cá xương Oisteichthyes
Phân lớp cá vây tia Actinoperygii Ianopteryga
Bộ cá Nheo Siluriformes
Họ cá Chiên Sisoridae
Giống cá Chiên Bagarius
Loài cá Chiên Bagarius rutilus Ng & Kottelat, 2001[6].

Hình 1.1: Cá Chiên Bagarius rutilus Ng & Kottelat, 2001
1.1.2 Hình thái cấu tạo của cá Chiên
Theo Nguyễn Văn Hảo (2005) loài Bagarius rutilus có tên tiếng Việt là cá
Chiên, tiếng địa phương vùng Nghệ An, Thanh Hoá gọi là Chiên bắc, cá Ghé. Tên
tiếng Mường gọi là cá Căl, tên tiếng Tày gọi là Pia và Thái gọi là cá Pa Khể [6].

Cá Chiên B. rutilus có thân hình trụ, thon dần về phía đuôi. Đầu rất to và bản
rộng nhưng dẹp. Hàm dưới hơi nhô ra, răng hàm nhỏ và rất sắc, 2 đôi râu cằm dài và
nhỏ, râu ngoài kéo dài đến đường thẳng đứng của viền sau mắt, râu trong tương đối



4
ngắn. Màng nắp mang chuyển dời không liền với eo mang.
Vây lưng có một gai chất xương cứng, mé sau trơn bóng, mút mềm mại, kéo
dài thành sợi, khởi điểm xa mút mõm hơn tới vây mỡ. Vây mỡ ngắn, vây hậu môn
có khởi điểm tương ứng với khởi điểm vây mỡ hoặc hơi lùi về phía sau. Vây ngực
mở rộng theo chiều ngang, mé sau gai cứng có dải răng mềm, mút sau cứng là
những tia mềm dạng tơ kéo dài và có thể kéo dài tới mút sau của vây bụng. Vây đuôi
phân chạc sâu, mút của các thuỳ kéo dài dạng tơ. Phía lưng của phần đầu và bề mặt
của thân có nhiều nốt sần nhỏ hướng dọc, phía bụng và ngực trong bóng. Xương
chẩm trên và phía lưng của gốc vây lưng không có lườn nhô dạng eo, đường bên
hoàn toàn [6].
Toàn thân cá có màu vàng xám. Ở gốc vây lưng, vây mỡ và phía trước vây
đuôi đều có một đốm ngang màu nâu đen. Toàn thân và các vây có các đốm nhỏ
màu đen phân tán. Vây lưng, vây hậu môn và vây đuôi đều có một vân đốm có ranh
giới không rõ ràng [6]
1.13 Đặc điểm phân bố
Trên thế giới, cá Chiên phân bố ở Ấn Độ, Miến Điện, Thái Lan, Lào,
Campuchia, Indonesia, Trung Quốc [4]. Nơi sống của các loài trong giống Bagarius
là Nam và Đông Nam Á. Chúng phân bố ở vùng sông nước của Ấn Độ và Pakistan,
ở phía Đông (bao gồm cả bán đảo Ấn Độ) đến sông Hồng của Việt Nam và phía
Nam là toàn bộ Đông Dương bao gồm cả bán đảo Malaysia và Indonesia. B.
bagarius được biết đến từ sông Hằng, Chao Phraya, vùng sông nước Mekong, cũng
như cả ở bán đảo Malaysia và vùng sông nước Salween và Mae Klong, sông
Brahmaputra và sông Ayeyarwady. B. suchus có nguồn gốc từ lưu vực sông

Mekong và Chao Phraya. B. rutilus sống ở sông Hồng và sông Mã của Bắc Việt
Nam. Loài B. Rutilus Ng& Kottelat, 2001 phân bố rộng ở vùng Nam và Đông Nam
Á [24].
Ở Việt nam, theo Mai Đình Yên (1978 ) [15] cá Chiên sống ở đáy của những
nơi nước chảy xiết, có nhiều ghềnh thác. Ban ngày cá trú ở những hang hốc của các



5
thác nước, ban đêm mới ra hoạt động, bắt mồi ở những vùng nước xung quanh. Cá
Chiên phân bố rộng trong hệ thống sông Hồng, giới hạn hạ lưu xuống tận Hưng Yên
nhưng có nhiều ở khu vực thượng lưu và trung lưu các con sông, suối. Hiện nay,
vùng phân bố của cá Chiên bị thu hẹp chỉ còn chủ yếu ở vùng thượng lưu, nơi có
nhiều ghềnh thác hiểm trở như Lai Châu trên sông Đà, Lào Cai trên sông Thao, Hà
Giang trên sông Lô, ở sông Hồng vẫn còn gặp cá Chiên nhưng rất hiếm. Nơi có
nhiều cá Chiên hơn cả là thượng nguồn sông Gâm từ Na Hang tới Bắc Mê. Trên các
hồ thuỷ điện Hoà Bình và Thác Bà bắt gặp cá Chiên ở khu vực đầu hồ.


Hình 1.2: Bản đồ phân bố cá Chiên ở khu vực phía Bắc Việt Nam
(Nguồn: Phòng nguồn lợi và Trung tâm quan trắc cảnh báo môi trường - Viện Thủy
Sản I)
Theo Phạm Báu và ctv (2000), ở Việt Nam B.rutilus sống ở các hệ thống sông
suối thuộc các tỉnh phía Bắc. Giới hạn thấp nhất là sông Thu Bồn (Nguyễn Văn Hảo,



6
2005). Ban ngày cá trú trong các hang hốc của thác nước, ban đêm mới ra hoạt
động. Hiện nay, vung phân bố của cá Chiên bị thu hẹp chỉ còn chủ yếu ở vùng

thượng lưu, nơi có nhiều ghềnh thác, hiểm trở như sông Đà, sông Nậm Mu, Than
Uyên – Lai Châu, sông Thao ở Lào Cai, Sông chảy ở Yên Bái và nhiều nhất ở Sông
Gâm thuộc khu vực Na Hang, Chiêm Hoá và thị xã Tuyên Quang. Trên sông Hồng
vẫn còn bắt gặp nhưng số lượng đã rất ít và kích cỡ cá rất nhỏ hiếm gặp cá to. Hiện
nay ở Than Uyên, Lai Châu vẫn còn đánh bắt được cá cỡ 40 kg. Khu vực các tỉnh
Miền trung như Nghệ An, Thanh Hoá vẫn bắt gặp nhưng số lượng ít trên hệ thống
sông Lam, sông Mã [15].
1.1.4 Đặc điểm dinh dưỡng
Cá Chiên có bộ máy tiêu hoá đặc trưng của loài ăn động vật điển hình: Miệng
cá rộng, răng cá sắc nhọn. Tỷ lệ chiều dài ruột/chiều dài thân (Li/Lo) thấp. Tỷ lệ
Li/Lo = 124,8%, chiều dài của dạ dày/Lo = 18,9%. Tỷ lệ chiều rộng miệng/chiều dài
đầu gần bằng 47,7%. Điều đáng chú ý là tỷ lệ Li/Lo không phụ thuộc vào chiều dài
của cá một cách rõ ràng, điều này chứng tỏ là trong giai đoạn trưởng thành thức ăn
của cá không thay đổi, và chủ yếu phụ thuộc vào nơi sống [1]
Phạm Báu và ctv (2000) cho biết thức ăn của cá biến động theo mùa một cách rõ
rệt. Trong tháng 5, do thức ăn nghèo nàn nên thức ăn chính của cá Chiên là côn trùng
dưới nước (Ephenrmeroptera, Pleucoptera, Trichoptera, Tendipedidae). Trong hệ tiêu
hoá còn có các tổ côn giung Trichoptera xây bằng các loại sơ gỗ. Vào tháng 7 - 9, khi
mức nước ngập nhiều vùng, ở thời gian này thức ăn chính của cá Chiên là tôm, cua, cá
với tỉ lệ tương ứng là tôm (70%), cua (20%), cá (10%). Trong thời gian tháng 11 năm
trước đến tháng 2 năm sau khi mực nước cạn, cá chuyển sang ăn các chủng quần bám đá
(Aphelochrinus, nestevalis) hoặc Cimicoides trong họ Hemiptera và họ Heteroptera.
Cá Chiên lúc còn nhỏ ăn các loại côn giung sống dưới nước, khi lớn lên chúng
ăn chủ yếu là cá. Theo Mai Đình Yên (1983), cá Chiên từ 7cm đã bắt đầu ăn cá con.
Trong nuôi dưỡng thử nghiệm trong lồng, cá Chiên ăn mạnh các loại thức ăn như:
Giun đất, tôm, cá, bì lợn luộc [15]



7

1.15 Đặc điểm sinh trưởng
Theo Phạm Báu và ctv (2000), cá Chiên tăng nhanh khối lượng từ sau năm thứ
3. Cá từ 3 - 7 tuổi trung bình tăng trưởng đạt từ 700 – 1200g/năm. Khi cá được13
tuổi đạt 30 kg. Cá Chiên bắt mồi thụ động, ít di chuyển xa [2].
Phạm Báu và ctv (2000), do thuỳ trên của vây đuôi cá Chiên kéo dài về phía sau
thành dạng sợi, khó xác định chính xác chiều dài cá, nên đã tính tốc độ sinh trưởng
của cá Chiên theo chiều dài thân (Lo). Cá Chiên có tốc độ tăng trưởng khá nhanh.
Trong ba năm đầu cá đực và cái tăng trưởng chênh lệch nhau không nhiều. Cá Chiên
đực lớn nhanh hơn, sau đó cá cái lớn nhanh hơn. Cá Chiên tăng chiều dài chủ yếu là từ
năm thứ nhất đến năm thứ tư từ 14,2 – 17,6 cm/năm. Sau đó chậm dần đều, năm thứ 8
đến năm thứ 13 cá tăng từ 7,5 – 8,2 cm/năm [2].
1.1.6 Phân biệt cá đực và cá cái
Khi cá chưa đến giai đoạn truởng thành, cá còn non thì việc phân biệt đực cái
rất khó vì chưa có sự khác biệt về hình thái giữa con đực và con cái. Khi cá đến giai
đoạn trưởng thành, đặc điểm về hình thái con đực và con cái có sự khác biệt tương
đối rõ ràng: con đực thân thuôn dài hơn con cái, con cái thân ngắn hơn. Lỗ sinh dục
con đực dài hơn và nhỏ, nhọn hơn con cái, cá cái có đặc điểm ngắn hơn và tù hơn,
có hình ô van và có dãnh dọc ở giữa.
Theo Phạm Báu và ctv (2000), khi giải phẫu bên trong, quan sát cá cái có
buồng trứng gồm hai dải hình quả nhót, cá đực có hai dải tinh và có các túi tinh kiểu
răng lược [2].
Trần Vũ Hùng (2008), cho rằng hình thái ngoài của tuyến sinh dục cá Chiên
tương tự như một số loài cá xương khác: Tuyến sinh dục là tuyến kép, khi còn nhỏ
(giai đoạn cá giống) rất khó phân biệt được đực cái. Khi cá trưởng thành tinh sào có
dạng chữ Y [8].
1.1.7 Tuổi phát dục và hệ số thành thục
Tuổi thành thục của cá Chiên
Phạm Báu và ctv (2000) cho biết cá Chiên thành thục trong tự nhiên muộn và




8
trong quá trình nghiên cứu đã gặp nhiều khó khăn trong việc thu mẫu. Ông đã thu được
16 mẫu cá Chiên, có tuổi từ 4 - 13 tuổi trên tổng số 148 mẫu vật và chưa gặp trứng cá
Chiên thành thục ở tuổi 4 - 5. Cá Chiên thành thục ở lứa tuổi thấp nhất đã gặp là 6,
chiếm tỉ lệ 25%, ở lứa tuổi 7 chiếm 66% trên tổng số cá trong lứa tuổi đã gặp [1].
Nguyễn Anh Hiếu và ctv (2008), cho rằng trong quá trình nuôi vỗ nhân tạo
thực tế cá 3
+
tuổi đã thành thục phát dục và cho sinh sản [7].
Hệ số thành thục
Theo Phạm Báu và ctv (2000), cá Chiên có hệ số thành thục thấp, với 7 mẫu cá
thu được và nghiên cứu cá có chiều dài Lo từ 64 - 120cm, khối lượng từ 4,1 – 32,0 kg,
trứng thành thục ở giai đoạn 4. Hệ số thành thục của cá biến đổi từ 1,5 đến 4,7%.
Kiểm tra bằng lát cắt tế bào của cá có hệ số thành thục 4,7% thấy trứng đã đạt giai
đoạn IVb [2].
Nguyễn Anh Hiếu và ctv (2008), cũng cho rằng hệ số thành thục của cá Chiên tương
đối thấp từ 0,34 - 6,57%, trung bình đạt 4,01% ± 2,08. Sức sinh sản tuyệt đối dao động từ
9444 - 16511 trứng/cá cái, trung bình đạt 13314 ± 2584 trứng [7]. Giai đoạn phát triển
tuyến sinh dục cá Chiên được xác định theo kiểu IV – II. Khi quan sát trên tiêu bản
tổ chức học, ngoài các noãn bào giai đoạn IV còn thấy xuất hiện noãn bào giai đoạn
II và III, vì vậy có thể cá Chiên là đối tượng sinh sản nhiều lần trong năm. Cá đẻ rải
rác từ tháng 5 - 8.
Sức sinh sản
Phạm Báu và ctv (2000), tiến hành nghiên cứu trên 4 mẫu trứng thu được ở giai
đoạn IV và thấy cá Chiên có sức sinh sản thấp, sức sinh sản tuyệt đối từ 31.000 đến
48.000 trứng đối với cá cái, cỡ cá 32 kg. Sức sinh sản tương đối dao động từ 9,94 -
11,70 trứng/g cá cái, trung bình đạt 10,19 ± 1,11 trứng [2].
Theo Mai Đình Yên (1983) [16], cá Chiên cỡ 4kg có sức sinh sản tuyệt đối là
100.000 trứng trong mùa đẻ.

Theo Trần Vũ Hùng (2008), sức sinh sản tuyệt đối dao động từ 9.444 - 16.511
trứng/con cái, trung bình đạt 13.314 ± 2.584 trứng, sức sinh sản tương đối dao động



9
từ 8,26 - 11,70 trứng/g cá cái. Sức sinh sản thực tế của cá Chiên là thấp, dao động từ
4.773 trứng/kg cá cái cho đến 11.070 trứng/kg cá cái [9].
1.1.8 Mùa vụ sinh sản
Cá Chiên có hệ số thành thục cao nhất vào tháng 4 - 5, sau đó giảm thấp. Điều
này cho ta thấy mùa đẻ cá Chiên bắt đầu trong tự nhiên từ tháng 4 giung với mùa lũ
và với mùa đẻ của các loại cá khác. Tháng 7 và tháng 8 đã thu được cá con cỡ 4 -
5cm tại chân cầu Nông Tiến, Tuyên Quang. Tập tính đẻ chưa nắm được rõ ràng,
nhưng theo quan sát của ngư dân sống ven các sông, suối thì cá Chiên đẻ trong hang,
trong bãi đá ngầm. Các bãi đẻ nổi tiếng như: Chân cầu Cốc Lếu, cửa Ngòi Bo (Lào
Cai), Quệch (Yên Bái) (Hoàng Duy Hiệp, 1964) nay không còn nữa. Hiện nay chỉ
thấy xuất hiện cá nhỏ rất ít ở khu vực Thị xã Tuyên Quang, Na Hang, Chiêm Hoá
(Tuyên Quang), Sông Hồng khu vực Thị xã Yên Bái, Bắc Mê (Hà Giang) thỉnh
thoảng ngư dân còn bắt được cá nhỏ [1].
Theo Nguyễn Anh Hiếu và ctv (2008), trong sản xuất giống nhân tạo, mùa vụ
sản xuất từ tháng 5 kéo dài đến tháng 7 [7].
1.2 Sản xuất giống nhân tạo
1.2.1 Nuôi vỗ cá bố mẹ
Nguyễn Anh Hiếu và ctv (2008), đã tiến hành nghiên cứu nuôi vỗ cá bố mẹ
trong bể xây xi măng có nước chảy thường xuyên, cỡ cá đưa vào nuôi vỗ từ tuổi 3
+
,
cho ăn bằng cá băm nhỏ khối lượng cho ăn bằng 4% khối lượng cá đã cho kết quả
thành thục tốt nhất đạt tỷ lệ 40,7% [7].
1.2.2 Kích thích sinh sản

Thử nghiệm của Nguyễn Anh Hiếu và ctv (2008) khi sử dụng kích dục tố kích
thích sinh sản nhân tạo bằng LRH-a + Dom, não thuỳ thể cá chép, HCG. Kết quả
cho thấy sử dụng công thức 30µg LRH-a + 7mg Dom/kg cá cái, cho kết quả rụng
trứng tốt nhất (100%) trong điều kiện nhiệt độ 23,5 – 25
0
C [7].



10
1.2.3 Thụ tinh nhân tạo và ấp trứng
Theo Phạm Báu và ctv (2000), trứng cá Chiên có noãn hoàng nhỏ, khi thụ tinh
xong trứng trương nước và có xoang bao trứng lớn, đường kính trứng từ 3 - 4mm,
trứng không dính, trứng thuộc dạng bán trôi nổi [2].
Nguyễn Anh Hiếu và ctv (2008) cho biết phương pháp thụ tinh khô cho tỉ lệ
nở cao nhất đạt 62% ở nhiệt độ nước dao động từ 23,5 - 26,8
0
C. Khi nhiệt độ nước >
29
0
C tỉ lệ nở chỉ đạt từ 0 - 2%. Khi ấp trứng cá trong bể có nước chảy nhẹ và có sục
khí tỉ lệ nở đạt cao nhất > 42,0%, tuy nhiên tỉ lệ cá bị dị hình từ 12,4 – 13,8%. Khi ấp
trứng trong khay cá rô phi tỷ lệ bị dị hình 19,1 – 23,0% [7].
1.3. Tình hình khai thác và tiềm năng phát triển nghề nuôi cá Chiên ở Việt
Nam
Trước nhu cầu về sản phẩm cá Chiên thương phẩm hiện nay, sản lượng nuôi
không đáp ứng đủ nhu cầu cho thị trường, nên hoàn toàn dựa vào khai thác trong tự
nhiên. Vì vậy, nguồn lợi cá Chiên đã cạn kiệt đi rất nhiều. Nguyên nhân do việc khai
thác quá mức cho phép, khai thác mang tính huỷ diệt, khai thác vào mùa sinh sản,
kích cỡ cá chưa đủ tuổi khai thác đánh bắt và môi trường bị ô nhiễm ,việc tác động

từ con người như xây đập thuỷ điện làm ảnh hưởng đến bãi đẻ tự nhiên, đã làm sụt
giảm sản lượng cá Chiên một cách nhanh chóng.
Trước đây cá Chiên phổ biến khá nhiều trên sông Hồng. Sản lượng khai thác,
những năm 1960 – 1970 ở tỉnh Lào Cai đạt tới 16,25 tấn/năm, chiếm 50% sản lượng
khai thác nhưng hiện nay chỉ còn 2 - 3 tấn/năm và còn giảm dần [16]. Hiện nay một
số nơi còn xuất hiện là Na Hang, Chiêm Hoá trên sông Gâm thuộc tỉnh Tuyên
Quang. Quỳnh Nhai, trên Sông Đà thuộc Hoà Bình. Sông chảy thuộc Yên Bái, Than
Uyên thuộc Lai Châu và một số trên sông Lam thuộc Nghệ An và Sông Mã tỉnh
Thanh Hoá [16].
Với đặc điểm sống đáy, rất phàm ăn và có giá trị kinh tế cao, cá Chiên đã bị khai
thác mang tính “huỷ diệt” ở mọi nơi. Hiện nay vùng phân bố đã hạn hẹp đi rất nhiều,
hiếm gặp cỡ khai thác to như trước và chủ yếu cỡ cá nhỏ dưới 1kg. Sản lượng khai
thác được khoảng 8 – 9 tấn trong năm 1999 [1]. Qua thực tế điều tra cho thấy sản



11
lượng khai thác hiện nay chỉ còn 1/2 sản lượng như trên và ngày càng ít dần đi.
Trước nguy cơ sản lượng khai thác cá Chiên ngoài tự nhiên dần cạn kiệt, trong
những năm gần đây, người dân đã đầu tư hình thành nghề nuôi cá Chiên ở qui mô
nhỏ lẻ. Khởi đầu của nghề nuôi cá Chiên bắt đầu từ những ngư dân khai thác cá này
trên các con sông, suối. Ban đầu khi khai thác được những cá nhỏ, cá được nhốt vào
các lồng nuôi, sau thời gian nuôi với thức ăn là cá tạp và thức ăn khác đến khi cá đạt
cỡ thương phẩm, từ đó nghề nuôi cá Chiên đã hình thành.
Hiện nay nghề nuôi cá Chiên bằng lồng đã phát triển khá nhiều ở các vùng
như: Chiêm Hoá thuộc thị xã Tuyên Quang (Tuyên Quang), Bắc Mê (Hà Giang),
Lục Yên (Yên Bái), Bá Thước – Cẩm Thuỷ - Vĩnh Lộc (Thanh Hoá). Nguồn giống
chủ yếu dựa vào đánh bắt theo mùa vụ từ tự nhiên.
Năm 2005 Trung tâm thuỷ sản Yên Bái đã thử nghiệm nuôi cá Chiên bằng lồng
trên hồ Thác Bà, cho ăn bằng cá tạp sẵn có trên hồ, cá tăng trọng từ 300 – 600

g/con/năm. Sau đó năm 2007, tại Hà Giang đã triển khai dự án giúp nông dân nuôi cá
Chiên thử nghiệm trên sông Lô. Những kết quả bước đầu cho thấy việc nuôi cá Chiên
trong lồng, cho ăn bằng thức ăn cám trộn với giun đất, giun quế đã giúp Chiên có tốc
độ tăng trưởng khá nhanh và cho hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên khó khăn nhất trong việc
nuôi cá Chiên hiện nay là: Không có nguồn cá giống cung ứng kịp thời, con giống
hiện nay hoàn toàn dựa vào thu gom tự nhiên, bằng các hình thức khai thác lưới mắt
nhỏ, kích điện, câu. Nên chất lượng cá không đảm bảo, kích cỡ không đồng đều,
không chủ động mùa vụ nuôi và số lượng ngày càng ít, do cá bố mẹ bị khai thác tự
nhiên cạn kiệt. Vì vậy nhiều lồng nuôi hiện nay không có cá giống để nuôi [1].
Việc nuôi cá Chiên trong ao đất đã được Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I
nghiên cứu thử nghiệm. Kết quả cho thấy cá có thể sống trong ao nước tĩnh tuy nhiên
kết quả tăng trưởng gần như không đáng kể. Điều này chứng tỏ rằng cá Chiên có thể
nuôi được trong ao đất, cần tạo môi trường sinh thái, như ao có nước chảy, nhất là tận
dụng các ao nước chảy trên các vùng miền núi.
Như vậy có thể khẳng định được rằng nuôi cá Chiên trên lồng là hoàn toàn có
thể. Tuy nhiên cần có các nghiên cứu và thử nghiệm về kỹ thuật nuôi, phương thức



12
nuôi từ đó dần xây dựng được quy trình và chuyển giao công nghệ nuôi cho nhân
dân. Song Phạm Báu & ctv (2001) cũng cho biết cá Chiên có tốc độ tăng trưởng
không cao khi nuôi trong lồng và rất chậm khi nuôi trong ao. Tốc độ tăng trưởng nuôi
trong lồng chỉ đạt 100 - 200 g/con/năm. Cá Chiên có sức chịu rét không cao và hay bị
chết vì bệnh [1].
Việc nuôi cá Chiên sẽ góp phần giảm áp lực khai thác tự nhiên, đồng thời góp
phần bảo tồn nguồn gen, đa dạng sinh học và phát triển đối tượng cá quý hiếm này,
đặc biệt là loại bỏ được đối tượng ra khỏi danh sách có nguy cơ bị tuyệt chủng.


















13
CHƢƠNG 2. VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Thời gian và đối tƣợng nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 04/2010 đến 08/2010
- Địa điểm nghiên cứu: Trung tâm Quốc gia giống thủy sản nước ngọt Miền
Bắc, xã Thạch Khôi – Gia Lộc – Thành phố Hải Dương.
- Đối tượng nghiên cứu: Cá Chiên Bagarius rutilus Ng & Kottelat giai
đoạn từ cá bột lên cá hương.
2.2. Vật liệu nghiên cứu
2.2.1 Cá thí nghiệm
Cá Chiên bột thí nghiệm thu được từ sinh sản nhân tạo vào tháng 5 và tháng
6 năm 2010 tại Trung tâm quốc gia giống thủy sản nước ngọt Miền Bắc.

Hình 2.1: Cá Chiên thí nghiệm
Cá Chiên bột được ương nuôi 05 ngày tuổi thì bắt đầu tiến hành các thí

nghiệm trong thời gian 30 ngày.



14
2.2.2 Vật liệu thí nghiệm
- Thức ăn:
+ Động vật phù du được vớt ở các bể và ao của trung tâm vào lúc sáng sớm và chiều
mát. Động vật phù du được lọc rửa qua nước sạch, loại bỏ tạp chất rồi cho cá ăn.
+ Giun chỉ: Giun chỉ được thu mua ở Đông Anh – Hà Nội. Giun được nuôi giữ ở
trong các thùng xốp có nguồn nước chảy tuần hoàn, hằng ngày tiến hành thay nước
và vệ sinh loại bỏ giun chết.
+ Bột đậu tương: Sau khi được rang lên rồi cho vào máy xay, được bảo quản nơi khô
ráo, thoáng mát.
+ Trứng gà (vịt) được luộc chín, bóc lấy phần lòng đỏ. Khi cho ăn dùng vợt vớt phù
du bóp nhuyễn rồi hòa tan với nước, tạt đều khắp bể.
- Bể: Gồm 9 bể thí nghiệm composite loại 1m
3
/bể.
- Các dụng cụ khác: Cân điện tử 4 số, thước chia vạch (mm), máy đo pH, DO,
Nhiệt kế thủy ngân (100
0
C)
Nước thí nghiệm: Nước được bơm từ bể chứa qua hệ thống lọc cơ học, sau đó được
sử dụng cho các bể thí nghiệm.
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.3.1 Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu




15


2.3.2 Bố trí thí nghiệm
2.3.2.1 Thí nghiệm về ảnh hưởng các mật độ nuôi khác nhau
- Thí nghiệm được bố trí với 3 mật độ (nghiệm thức) cá Chiên bột 05 ngày tuổi
khác nhau: MĐ I (1200con/m
3
), MĐ II (1600con/m
3
), MĐ III (2000con/m
3
) . Các
nghiệm thức về mật độ cá được bố trí trong bể composite 1 m
3
. Mỗi nghiệm thức
được lặp lại 3 lần (Hình 2.2).
- Chăm sóc và quản lý:
- Thí nghiệm được thực hiện trong hệ thống nước xả tràn liên tục và tuần hoàn, cứ 8
giờ được thay 100% nước.
- Thức ăn cho cá trong các nghiệm thức là Động vật phù du và giun chỉ, giun chỉ
được cắt nhỏ (phù hợp với cỡ mồi của cá) và được ngâm trong dung dịch nước muối
Ảnh hƣởng của mật độ, thức ăn đến sinh trƣởng và tỷ lệ sống của cá Chiên
giai đoạn từ cá bột lên cá hƣơng
Ảnh hƣởng của mật độ

Ảnh hƣởng của thức ăn
Các chỉ tiêu đánh giá:
Các chỉ tiêu chất lƣợng nƣớc trong hệ thống thí nghiệm.
Tốc độ tăng trƣởng về khối lƣợng và chiều dài

Tỷ lệ sống
Mức độ phân đàn
Tập tính sống và hoạt động bắt mồi.


Phân tích, đánh giá và kiến nghị



16
15% (nhằm tiêu diệt các mầm bệnh) trước khi làm thức ăn cho cá.
- Cách cho ăn: Cá được cho ăn đồng thời ĐVPD và giun chỉ, ngày cho ăn 7 lần vào
lúc (7h, 10h, 14h, 17h, 21h, 23h và 1h). Khi cho cá ăn tắt sục khí.
- Trong thời gian ương nuôi thường xuyên vệ sinh bể nuôi, xi phông thức ăn dư
thừa, theo dõi các yếu tố môi trường và duy trì chế độ chăm sóc và quản lý như nhau
ở tất cả các nghiệm thức.













Hình 2.2: Thí nghiệm về ảnh hưởng của mật độ đến sinh trưởng và tỷ lệ sống cá

Chiên bột
2.3.2.2 Thí nghiệm về ảnh hưởng của các công thức thức ăn khác nhau
- Cá Chiên bột 05 ngày tuổi được nuôi với mật độ tối ưu thu được từ thí
nghiệm thứ nhất (1200 con/m
3
) với 3 công thức thức ăn khác nhau (NT): CT I (50%
ĐVPD + 50% giun chỉ), CT II (50% bột cá+ 50% bột đậu tương), CT III (100% giun
chỉ). Mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần (Hình 2.3).
- Chăm sóc và quản lý:
- Thí nghiệm được thực hiện trong hệ thống nước xả tràn liên tục và tuần hoàn, cứ 8
Cá bột 05 ngày tuổi
MĐ I
1200 con/m
3
MĐ II
1600 con/m
3

MĐ III
2000 con/m
3

Chăm sóc, quản lý bể ƣơng và thu số liệu
Nhận xét và đánh giá
B1
B2
B3
B4
B5
B6

B7
B8
B9

×