Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo ở huyện khánh vĩnh tỉnh khánh hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 119 trang )

i


BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
  





TRẦN MINH THUẬN




PHÂN TÍCH NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN ĐÓI NGHÈO Ở HUYỆN KHÁNH VĨNH
TỈNH KHÁNH HÒA




LUẬN VĂN THẠC SĨ




Khánh Hòa - 2014

ii





BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
  




TRẦN MINH THUẬN




PHÂN TÍCH NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN ĐÓI NGHÈO Ở HUYỆN KHÁNH VĨNH
TỈNH KHÁNH HÒA


Chuyên ngành: Kinh tế Nông nghiệp
Mã số : 60 62 01 15

LUẬN VĂN THẠC SĨ


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM XUÂN THỦY
THS NGUYỄN THU THỦY




Khánh Hòa - 2014
i


LỜI CAM ĐOAN
Để thực hiện luận văn “Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo ở
huyện Khánh Vĩnh tỉnh Khánh Hòa”, tôi đã tự nghiên cứu tìm hiểu vấn đề vận dụng
kiến thức đã học và trao đổi với giáo viên hướng dẫn, bạn bè đồng nghiệp.
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết
quả trình bày trong luận văn này là trung thực.

Nha Trang, tháng 10 năm 2014
Tác giả



Trần Minh Thuận


















ii

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
MỤC LỤC ii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT v
DANH MỤC BẢNG, BIỂU vi
DANH MỤC HÌNH vii
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VỀ ĐÓI NGHÈO 6
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGHÈO 6
1.1.1. Khái niệm nghèo đói 6
1.1.2. Đo lường nghèo 7
1.2. MỘT SỐ NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐÓI NGHÈO 8
1.2.1. Một số nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo trên thế giới 8
1.2.2. Một số nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo tại Việt Nam 10
1.3. ĐÓI NGHÈO TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIÊT NAM 15
1.3.1. Tình hình đói nghèo trên thế giới. 15
1.3.2. Kinh nghiệm các tổ chức quốc tế và các nước về xóa đói giảm nghèo 19
1.3.3. Tình hình nghèo đói ở Việt Nam 24
1.4. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ ĐÓI NGHÈO TRÊN THẾ GIỚI VÀ
VIỆT NAM. 29
1.4.1. Các công trình nghiên cứu về đói nghèo trên thế giới 29
1.4.2. Nghiên cứu trong nước 31

CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 38
2.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 38
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên và xã hội 38
2.1.2. Đặc điểm nhận thức hộ nghèo: 38
2.2. MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ NGHỊ 39
2.2.1. Nhóm các nhân tố thuộc đặc tính của hộ gia đình 39
2.2.2. Nhóm nhân tố liên quan đến khả năng tiếp cận các nguồn lực xã hội 41
2.2.3. Nhóm nhân tố phát sinh trong nghiên cứu hiện tại 41
2.2.4. Mô hình nghiên cứu đề nghị 41
2.3. LÝ THUYẾT CỦA MÔ HÌNH HỒI QUY BINARY LOGISTIC 43
iii

2.4. QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU 45
2.5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 46
2.5.1. Đo lường các biến trong mô hình nghiên cứu 46
2.5.2. Phương án lấy mẫu và quy trình phân tích dữ liệu 47
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 52
3.1. Điều kiện tự nhiên-kinh tế -xã hội và tình hình đói nghèo tại huyện Khánh Vĩnh 52
3.1.1. Điều kiện tự nhiên 52
3.1.2. Điều kiện kinh tế 57
3.1.3. Đặc điểm xã hội 57
3.1.4. Tình hình đói nghèo tại huyện Khánh Vĩnh: 59
3.2. MÔ TẢ MẪU ĐIỀU TRA 61
3.3. PHÂN TÍCH CHÍNH THỨC 64
3.3.1. Ước lượng hàm hồi quy Binary Logistic 64
3.3.2. Phân tích phụ trợ 70
3.4. HÀM Ý NGHIÊN CỨU 71
3.5. KẾT LUẬN 71
CHƯƠNG 4: ĐỀ XUẤT MỘT CHÍNH SÁCH GIÚP XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO 74
4.1. MỘT SỐ CHỦ TRƯƠNG CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC 74

4.1.1. Đào tạo nghề, giảm số người phụ thuộc 74
4.1.2. Giáo dục – Đào tạo 76
4.1.3. Chính sách dân tộc 76
4.1.4. Chính sách đất đai 77
4.2. ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHÈO 77
4.3 CÁC CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO BÊN VỮNG TẠI HUYỆN
KHÁNH VĨNH: 77
4.3.1. Nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành giảm nghèo bền vững 78
4.3.2. Lồng ghép các chương trình đầu tư phát triển cơ sở vật chất - kỹ thuật nhằm
đảm bảo phục vụ nhu cầu sản xuất và dân sinh: 79
4.3.3. Đảm bảo sử dụng có hiệu quả, đúng đối tượng, công bằng, công khai, minh bạch
các nguồn lực do Nhà nước đầu tư: 80
4.3.4. Tạo điều kiện cho người nghèo phát triển sản xuất, tăng thu nhập nhằm thoát
nghèo, hướng đến có tích lũy vươn lên trung bình, khá 81
iv

4.3.5. Đảm bảo dịch vụ xã hội cơ bản 83
4.3.6. Các hoạt động nâng cao nhận thức cho người nghèo nhằm tạo lập ý thức vươn
lên thoát nghèo. 83
4.4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HUYỆN KHÁNH VĨNH XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
MỘT CÁCH BỀN VỮNG: 83
4.5. GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO 92
PHỤ LỤC



v

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


ABCDE: Annual Bank Conference on Development Economics
ADB: Asian Development Bank
Aus AID: Australian Agency for International Development
BCPTVN: Báo cáo phát triển Việt Nam
GDP: Gross Domestic Product
MDPA: Dự án phân tích hiện trạng nghèo đói ở Đồng bằng sông Cửu Long
PPP: Purchasing Power Parity (Ngang giá sức mua)
VHLSS: Vietnam Household Living Standards Survey (Điều tra mức sống hộ
gia đình Việt Nam)
WB: World Bank
vi

DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Bảng 1.1: Nghèo đói theo thu nhập, phân theo vùng của thế giới, năm 1990 – 2005 15
Bảng 1.2: Tỷ lệ hộ nghèo theo vùng của thế giới, năm 2005 16
Bảng 1.3: Tỷ lệ và khoảng cách nghèo ở Việt Nam, năm 1993-2008 25
Bảng 1.4: Tỷ lệ nghèo giữa các vùng ở Việt Nam, năm 1993-2008 26
Bảng 1.5: Tỷ lệ chi tiêu của các nhóm ngũ vị phân trong dân số ở Việt Nam Năm
1999-2006 26
Bảng 1.6: Tỷ lệ so sánh GDP tính trên đầu người của Việt Nam với một số quốc gia
trên thế giới 28
Bảng 2.1: Các nhân tố tác động tới biến phụ thuộc và dấu kỳ vọng 42
Bảng 2.2: Tên biến và biểu hiện của các hệ số hồi quy 46
Bảng 3.1: Hiện trạng sử dụng đất tại huyện Khánh Vĩnh, năm 2012 55
Bảng 3.2: Thống kê một số con sông chính trong huyện Khánh Vĩnh 56
Bảng 3.3: Danh sách các xã, thị trấn thuộc huyện Khánh Vĩnh 58
Bảng 3.4: Thống kê hộ nghèo tại huyện Khánh Vĩnh, năm 2011 - 2012 60
Bảng 3.5: Thống kê số hộ nghèo toàn tỉnh Khánh Hòa, năm 2013 61
Bảng 3.6: Phân bổ mẫu điều tra theo dân tộc 62

Bảng 3.7: Phân bổ mẫu điều tra theo Xã (thị trấn) 62
Bảng 3.8: Phân bổ mẫu điều tra theo nghề nghiệp chủ hộ 63
Bảng 3.9: Phân bổ mẫu điều tra theo diện nghèo của chủ hộ 63
Bảng 3.10: Ma trận hệ số tương quan 64
Bảng 3.11: Phân tích biến trong mô hình lần 1 65
Bảng 3.12: Phân tích biến trong mô hình lần 2 65
Bảng 3.13: Độ phù hợp tổng quát 66
Bảng 3.14: Mức độ giải thích của mô hình 66
Bảng 3.15: Mức độ chính xác của dự báo 66
Bảng 3.16: Khả năng rơi vào ngưỡng nghèo của một hộ gia đình trong một số trường
hợp giả định 68
Bảng 3.17: Phân tích phụ trợ dựa trên mẫu quan sát 70
Bảng 3.18: Các nhân tố tác động tới nghèo tại tỉnh Thái Nguyên và huyện Khánh Vĩnh 72
vii


DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1: Tỷ lệ những người nghèo sống thấp hơn 1,25 USD/ngày theo khu vực trên
thế giới 17
Hình 2.1: Mô hình nghiên cứu đề nghị 43
Hình 2.2: Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu 45
Hình 3.1: Mô hình kết quả 73




1

MỞ ĐẦU
1. SỰ CẦN THIẾT CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Khánh Vĩnh là huyện miền núi của tỉnh Khánh Hòa, diện tích tự nhiên
1.165km
2
, trong đó đất lâm nghiệp chiếm 72,2%, đất sản xuất nông nghiệp chiếm
9,5% và các diện tích đất khác chiếm 18,3%. Do địa hình tự nhiên có nhiều đồi núi và
sông suối có độ dốc lớn nên việc khai thác tiềm năng đất đai chủ yếu là phục vụ sản
xuất lâm nghiệp, trồng rừng, riêng đối với sản xuất nông nghiệp còn gặp nhiều khó
khăn, chủ yếu khai thác các diện tích đất sản xuất nông nghiệp có độ cao so với mực
nước biển dưới 100m.
Dân số toàn huyện có 34.886 người, gồm 15 dân tộc anh em cùng sinh sống.
Nguồn nhân lực lao động dồi dào, chiếm 52,3% nhưng do mặt bằng dân trí và điều
kiện kinh tế-xã hội còn hạn chế nên chủ yếu là lao động trong lĩnh vực sản xuất nông-
lâm nghiệp, lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật chiếm tỉ lệ rất thấp trong tổng
nguồn lao động của huyện và chủ yếu làm việc trong các cơ quan nhà nước, doanh
nghiệp. Đến cuối năm 2012, tổng giá trị nền kinh tế theo giá hiện hành đạt 338.300
triệu đồng, trong đó ngành nông - lâm nghiệp đạt 111.122 triệu đồng, chiếm tỉ trọng
32,85%, ngành công nghiệp-xây dựng đạt 81.810 triệu đồng, chiếm tỉ trọng 24,18% và
ngành dịch vụ đạt 145.368 triệu đồng, chiếm tỉ trọng 42,97% trong cơ cấu các ngành
kinh tế. Thu nhập bình quân đầu người đạt 9,66 triệu đồng/người/năm. Tăng trưởng
kinh tế giai đoạn 2011-2012 đạt 7,45%.
Trong những năm qua Đảng và Nhà nước từ cấp Trung ương (TW) đến cấp
Tỉnh đã ban hành các chính sách ưu tiên miền núi như: Chương trình định canh định
cư, Chương trinh hỗ trợ xã đặc biệt khó khăn, Chương trình kinh tế hộ (Chương trình
132), Chương trình 134, Chương trình 135, Chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu
số theo Quyết định số 289/QĐ-TTg ngày 13/3/2008 của Thủ tướng Chính Phủ và
chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số khai hoang phát triển sản xuất lúa nước
theo Quyết định số 4268/2001/QĐ-UBND ngày 30/11/2001 của UBND tỉnh Khánh
Hòa; Đồng thời đã hỗ trợ về kinh phí để chuyển giao và áp dụng những tiến bộ khoa
học kỹ thuật một cách trực tiếp và gián tiếp cho huyện Khánh Vĩnh.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, huyện Khánh Vĩnh đã tập trung

nhiều nguồn lực đầu tư phát triển KTXH vùng dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi,
đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở, lựa
2

chọn những vấn đề trọng tâm, trọng điểm các giải pháp để thực hiện có hiệu quả mục
tiêu giảm nghèo, nâng cao đời sống cho đồng bào DTTS, tỷ lệ hộ nghèo giảm. Nhờ
vậy, bộ mặt nông thôn miền núi đã có sự khởi sắc đáng kể, đời sống vật chất và tinh
thần của đồng bào DTTS được cải thiện, từng bước được nâng lên. Tuy nhiên kinh tế
xã hội vùng DTTS và miền núi vẫn còn nhiều khó khăn thách thức, đó là trình độ dân
trí, trình độ phát triển, nhất là chất lượng nguồn nhân lực còn rất thấp, tỷ lệ hộ nghèo
theo chuẩn mới còn cao chiếm tỷ lệ 25,9% (cuối năm 2012), hiệu quả giáo dục đào
tạo, chăm sóc sức khỏe còn nhiều hạn chế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động
còn chậm, đời sống của vùng đồng bào DTTS và miền núi còn gặp nhiều khó khăn,
chưa ổn định, thiếu tính bền vững, nguy cơ tái nghèo cao. Vì vậy, việc thực hiện đề tài:
“Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo ở huyện Khánh Vĩnh tỉnh
Khánh Hòa”, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp giúp huyện Khánh Vĩnh xóa đói
giảm nghèo bền vững là cần thiết.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU VÀ Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chung:
Mục tiêu của đề tài là trên cơ sở phân tích tình trạng đói nghèo và tìm hiểu
nguyên nhân gây ra đói nghèo để đề xuất một số giải pháp nhằm xóa đói giảm nghèo
một cách bền vững cho huyện Khánh Vĩnh.
Mục tiêu cụ thể:
- Phân tích hiện trạng nghèo của các hộ dân thuộc huyện Khánh Vĩnh, tỉnh
Khánh Hòa.
- Xác định các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng rơi vào ngưỡng nghèo của các
hộ dân sống ở huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa.
- Đề xuất các giải pháp giúp huyện Khánh Vĩnh xóa đói giảm nghèo một cách
bền vững

2.2. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu sẽ là tài liệu hữu ích giúp các nhà quản lý đề xuất các giải
pháp góp phần nâng cao hiệu quả công cuộc xóa đói giảm nghèo ở huyện Khánh Vĩnh,
tỉnh Khánh Hòa.
Kết quả của nghiên cứu có thể giúp các hộ dân sống trên địa bàn huyện Khánh
Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa khắc phục một số nhân tố có ảnh hưởng tới khả năng rơi vào
ngưỡng nghèo của các hộ gia đình tại địa phương.
3

Riêng với tác giả, đây là nghiên cứu đầu tay, vì vậy sau khi hoàn tất nghiên cứu
này sẽ có nhiều bài học kinh nghiệm trong nghiên cứu khoa học, làm nền tảng cho các
nghiên cứu tiếp theo.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp điều tra thống kê: thống kê tổng hợp, mô tả, so sánh, phân tích.
Với những mục tiêu đặt ra, đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính,
kết hợp sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng với dữ liệu thu thập trên cơ sở
bảng câu hỏi điều tra các hộ dân sống ở huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa.
a) Phương pháp thu thập thông tin
Thu thập nguồn dữ liệu thứ cấp:
Để đánh giá tình hình các hộ dân nghèo trên địa bàn nghiên cứu, tác giả sử
dụng bộ nguồn số liệu thứ cấp từ Ủy ban nhân dân huyện Khánh Vĩnh, Phòng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn, Chi cục Thống kê huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh
Hòa, và các sách báo xuất bản có liên quan. Tác giả cũng tham khảo những nghiên cứu
của các tác giả, các cơ quan tổ chức đã được công bố trên các tạp chí chuyên ngành
liên quan đến kinh tế, đời sống và phương pháp nhằm xóa đói giảm nghèo, các đề tài
nghiên cứu trong và ngoài nước. Nguồn tài liệu trên được sử dụng chủ yếu để nghiên
cứu những vấn đề mang tính chất hệ thống và tổng quan về kinh tế, xác định khái niệm
nghèo đói đặc biệt là tại các địa phương có điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế xã
hội tương đồng với huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa.

Thu thập nguồn dữ liệu sơ cấp:
Điều tra, phỏng vấn và tìm hiểu thực tế tình hình các hộ nghèo ở huyện Khánh
Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa, có tham khảo mẫu nghiên cứu của các cuộc điều tra mức sống
hộ dân cư Việt Nam (VHLSS) do Tổng cục thống kê ban hành.
Quy trình thực hiện điều tra:
Xác định đơn vị điều tra: liên hệ Ủy ban Nhân dân Huyện, Thị trấn và Xã trên
địa bàn huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa; Phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn huyện, Chi cục Thống kê huyện nhằm thu thập dữ liệu về số lượng hộ nghèo thực
tế hiện nay của từng đơn vị hành chính.
Phương pháp chọn mẫu và quy mô mẫu:
Dùng phương pháp chọn mẫu thuận tiện có phân tầng theo địa bàn, dựa trên
danh sách hộ nghèo tại huyện Khánh Vĩnh. Số lượng mẫu sẽ được xác định sau khi
4

thực hiện nghiên cứu sơ bộ (quy tắc số đơn vị mẫu phải lớn hơn số biến độc lập cộng
thêm 30).
b) Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu sơ bộ
Nghiên cứu này được thực hiện thông qua phương pháp nghiên cứu định tính
bằng cách phỏng vấn các chuyên gia trong lĩnh vực nghiên cứu kinh tế và điều hành
công tác xóa đói giảm nghèo và các hộ nghèo để nắm được sơ bộ về các nguyên nhân
dẫn đến tình trạng đói nghèo của các hộ dân trên địa bàn nghiên cứu. Trên cơ sở đó xem
xét, điều chỉnh lại bảng câu hỏi cho phù hợp với mô hình nghiên cứu đề nghị ban đầu.
Nghiên cứu chính thức
Dùng phương pháp phân tích định lượng: thiết kế bảng câu hỏi để thu thập dữ
liệu sau đó dùng phương pháp thống kê mô tả, mô hình hồi quy để phân tích số liệu.
Bảng câu hỏi sẽ được thu thập bằng cách phỏng vấn trực tiếp các chủ hộ trên địa bàn
nghiên cứu để thu thập dữ liệu. Các phương pháp định lượng cụ thể bao gồm:
Phương pháp thông kê mô tả: So sánh các nhóm liên quan nhằm làm nổi bật
những đặc trưng của mỗi nhóm về các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng rơi vào

ngưỡng nghèo của hộ dân thuộc huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa.
Lập mô hình hồi quy: Thể hiện mối quan hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng đến xác
suất rơi vào ngưỡng nghèo của các hộ dân trên địa bàn nghiên cứu, từ đó xác định các
nhân tố tác động có ý nghĩa đến khả năng nghèo của các hộ gia đình tại địa phương.
3.2. Đối tượng, phạm vi và thời gian nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Các hộ gia đình thuộc diện nghèo theo quy định hiện nay trên địa bàn huyện
Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa.
Phạm vi nghiên cứu
Người nghiên cứu thực hiện khảo sát tại tất cả 14 đơn vị hành chính của huyện
Khánh Vĩnh (bao gồm 1 Thị trấn và 13 Xã) để đảm bảo kết quả có ý nghĩa trên toàn bộ
địa bàn nghiên cứu.
Thời gian nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu được thực hiện trong hai năm: 2013 và 2014.
5

4. BỐ CỤC LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, luận văn được cấu
trúc thành 4 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan các vấn đề nghiên cứu về đói nghèo.
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu.
Chương 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận.
Chương 4: Đề xuất một số giải pháp giúp huyện Khánh Vĩnh tỉnh Khánh Hòa xóa
đói giảm nghèo 1 cách bền vững.

6

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VỀ ĐÓI NGHÈO


1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGHÈO
1.1.1. Khái niệm nghèo đói
Nghèo và đói là hai vấn đề xã hội khác nhau. Đói là tình trạng một người hoặc
hộ dân không đủ nhu cầu về lương thực. Nghèo là nói đến tình trạng không có khả
năng đáp ứng các nhu cầu cơ bản, chủ yếu là các nhu cầu về phi lương thực, thực
phẩm như nhà ở, mặc, y tế, giáo dục văn hoá, đi lại và giao tiếp xã hội. Các nghiên cứu
quốc tế thường sử dụng thuật ngữ tình trạng Nghèo (Poverty) hơn là tình trạng nghèo đói.
WB qua thời gian cũng có những cách tiếp cận khác nhau về nghèo trong các
báo cáo của mình. Năm 1990 định nghĩa Nghèo của tổ chức này bao gồm tình trạng
thiếu thốn các sản phẩm và dịch vụ thiết yếu như giáo dục, y tế, dinh dưỡng. Đến năm
2000 và 2001 WB đã thêm vào khái niệm tình trạng bị gạt ra bên lề xã hội hay tình
trạng dễ bị tổn thương.
Như vậy, Nghèo là trạng thái khó khăn cả về vật chất lẫn tinh thần của con
người. Do đó, rất khó để xác định thế nào được coi là nghèo. Có 2 dạng nghèo: nghèo
tương đối và nghèo tuyệt đối.
Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng người dân hoặc hộ dân không có khả năng thỏa
mãn những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống như: ăn mặc, ở, đi lại… mà những nhu cầu
đó đã được thừa nhận trong điều kiện kinh tế xã hội hiện tại.
Khi nghiên cứu về các vấn đề của các nước đang phát triển, Robert McNamara
(1973) khi còn là giám đốc của Ngân hàng thế giới đã cho rằng nghèo tuyệt đối là sống
ở ranh giới ngoài cùng của tồn tại. Những người nghèo tuyệt đối là những người phải
đấu tranh để sinh tồn trong các thiếu thốn tồi tệ và trong tình trạng bị bỏ bê và mất
phẩm cách vượt quá sức tưởng tượng mang dấu ẩn cảnh ngộ may mắn của giới trí thức
chúng ta.
Nghèo tương đối: là tình trạng người dân hoặc hộ dân có mức sống dưới mức
sống trung bình của địa phương hoặc quốc gia đang xem xét. Theo định nghĩa trên
trong bất kỳ xã hội nào luôn có người nghèo vì nghèo là một khái niệm tương đối và
được đánh giá thay đổi vào những thời kỳ khác nhau. Đấy là những người có mức
sống dưới mức trung bình và có cơ hội cải thiện mức sống của mình.
7


1.1.2. Đo lường nghèo
Khi đề cập đến vấn đề nghèo, mỗi tổ chức, mỗi quốc gia đều đưa ra những nhận
định, tiêu chuẩn khác nhau về nó. Chính vì vậy ngưỡng nghèo của mỗi quốc gia, mỗi
vùng lãnh thổ đều được quy định riêng. Tuy nhiên chúng ta có thể nhận thấy các quan điểm
thường dựa trên hai tiêu chuẩn đó là tiêu chuẩn tiền tệ và tiêu chuẩn điều kiện sống.
Theo tiêu chuẩn tiền tệ:
Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tổ chức tại Copenhangen Đan
Mạch và tháng 3 năm 1995, Ngân hàng thế giới (WB) [38] đã đưa ra khái niệm về nghèo
cụ thể hơn như sau: “Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn 1 USD mỗi
ngày cho một người, số tiền được coi như đủ để mua những sản phẩm thiết yếu để tồn tại”.
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cũng định nghĩa nghèo theo mức thu nhập. Theo
đó một người là nghèo khi thu nhập hàng năm ít hơn một nửa mức thu nhập bình quân
trên đầu người hàng năm của quốc gia.
Ngày 28/08/2008, Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) đã đưa ra mức chuẩn
thu nhập mới để phân định người nghèo tại Châu Á [24]. Theo tiêu chuẩn mới của
ADB, thu nhập dưới 1,35 USD/ngày được xem là nghèo.(tham khảo tiếng Việt tại:
)
Tại Việt Nam, để quy định về hộ nghèo, Chính phủ ban hành một mức thu nhập
nhất định và điều chỉnh chỉ tiêu này theo thời gian. Theo Quyết định số 170/2005/QĐ-
TTg ngày 08/07/2005 của Thủ tướng Chính Phủ [21] được ban hành về việc chuẩn
nghèo được áp dụng cho giai đoạn 2006 – 2010 như sau:
- Khu vực nông thôn: Những hộ có thu nhập bình quân từ 200.000 đồng/người/tháng
(2.400.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
- Khu vực thành thị: Những hộ có mức thu nhập bình quân từ 260.000
đồng/người/tháng (dưới 3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Hiện nay, theo Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg ngày 30/01/2011 của Thủ
tướng Chính Phủ [22] được ban hành về việc chuẩn nghèo được áp dụng cho giai đoạn
2011 – 2015 như sau:
- Khu vực nông thôn: Những hộ có thu nhập bình quân từ 400.000 đồng/người/tháng

(4.800.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
- Khu vực thành thị: Những hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000
đồng/người/tháng (dưới 6.000.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
8

Khi phân tích hộ nghèo trong điều tra mức sống dân cư ở Việt Nam giai đoạn
1993 – 1998 Tổng cục Thống kê đã sử dụng phương pháp “ngũ phân vị” để xác định
hộ nghèo. Theo đó, chi tiêu hộ gia đình được chia thành năm nhóm từ thấp nhất đến
cao nhất. Những hộ có chi tiêu cao nhất được xem như là hộ giàu.
Theo tiêu chuẩn điều kiện sống:
Hội nghị chống đói nghèo ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương do ESCAP tổ
chức tại Bangkok, Thái Lan (tháng 9/1993) [29] xác định: “Nghèo là tình trạng một bộ
phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người được
xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán
chung của địa phương”. Vì vậy, theo khái niệm này, không có chuẩn nghèo chung cho
mọi quốc gia, chuẩn nghèo cao hay thấp phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi nước
và thay đổi theo thời gian không gian.
Theo nhà kinh tế học người Mỹ Galraith: “Con người bị coi là nghèo khổ khi
mà thu nhập của họ ngay dù khi thích đáng để họ tồn tại rơi xuống rõ rệt dưới mức thu
nhập của cộng đồng. Khi đó họ không thể có những gì mà đa số trong cộng đồng coi
như là cái cần thiết để sống một cách đúng mức.” (Bộ LĐ TB XH 2003) [2].
Theo WB (2006) [40], nghèo là đói, thiếu nhà, bệnh tật không được đến bác sĩ,
không được đến trường, không biết đọc, biết viết, không có việc làm, lo sợ cho cuộc
sống tương lai, mất con do bệnh hoạn, ít được bảo vệ quyền lợi và tự do. Cũng theo
WB nghèo đói không chỉ đơn thuần là vấn đề túng thiếu vật chất mà còn liên quan đến
rủi ro, tính dễ bị tổn thương, vấn đề xã hội và các cơ hội.
Tổ chức Phát triển Quốc tế của Úc (AusAID) nhận định nghèo đói theo nghĩa
sự thiếu hụt hoặc hạn chế về nhu cầu cơ bản, về khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế và
giáo dục; về trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước và xã hội dân sự; về khả
năng ứng phó với các cú sốc và bất định (AusAID, 2001 [26]) (Bộ Tài nguyên môi trường

và chương trình phát triển Liên hợp quốc 2007 – Lắng nghe tiếng nói của người nghèo) [3]
1.2. MỘT SỐ NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐÓI NGHÈO
1.2.1. Một số nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo trên thế giới
Đói nghèo là một hiện tượng kinh tế xã hội phức tạp chịu tác động bởi nhiều
nguyên nhân. Nghiên cứu của WB (2007) [40] đã chỉ ra những nhân tố tác động đến
nghèo:
9

1.2.1.1. Cấp độ vùng:
- Sự cách biệt vị trí địa lý/xã hội do thiếu cơ sở hạ tầng; hạn chế trong việc tiếp
cận các loại thị trường và các dịch vụ xã hội.
- Nguồn lực cơ bản như đất đai và chất lượng đất đai.
- Điều kiện tự nhiên.
- Quản lý Nhà nước.
- Bất bình đẳng.
1.2.1.2. Cấp độ cộng đồng:
- Hạ tầng cơ sở (điện, nước, đường giao thông…).
- Phân bổ đất đai.
- Khả năng tiếp cận các hàng hóa, dịch vụ công (y tế, giáo dục).
1.2.1.3. Cấp độ hộ gia đình:
- Quy mô hộ.
- Tỷ lệ phụ thuộc (phần trăm số người trưởng thành không có hoạt động tạo thu nhập).
- Giới tính của chủ hộ.
- Tài sản của hộ gia đình: đất đai, phương tiện sản xuất, nhà cửa…
- Tỷ lệ có việc làm của những thành viên trưởng thành trong hộ, loại việc làm
chính, tự làm hay làm thuê… và theo nguồn thu nhập chính của hộ.
- Trình độ học vấn trung bình của hộ.
1.2.1.4. Đặc điểm cá nhân:
- Tuổi.
- Giáo dục (số năm đi học, bằng cấp cao nhất).

- Việc làm (tình trạng việc làm, loại công việc).
- Dân tộc (có hay không có thuộc nhóm dân tộc thiểu số).
Theo CIEM và ADB (2008), Dự án RETA 6171 [25] – Tổng quan tác động
của hội nhập kinh tế tiểu vùng sông Mê Kông đến đói nghèo (Chương 5 – Xác định
người nghèo ở khu vực biên giới) cho rằng tại các địa bàn khảo sát cho thấy có 3 cấp
độ nguyên nhân dẫn đến nghèo của những người nghèo ở các tỉnh biên giới:
- Thứ nhất: những người nghèo do hạn chế về phong tục, tập quán trình độ năng lực.
- Thứ hai: những người nghèo do không có vốn không có những nguồn lực cần
thiết (đất đai đủ rộng, sức khỏe đủ tốt, vốn đủ để đầu tư, trình độ đủ để tiếp nhận sự
thay đổi) để có thể thoát khỏi tình trạng nghèo.
10

- Thứ ba: những người hội tụ cả hai nguyên nhân trở thành người nghèo nhất
trên địa bàn nghiên cứu.
1.2.2. Một số nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo tại Việt Nam
Một số công trình nghiên cứu về đói nghèo tại Việt Nam đã chỉ ra một số nhân
tố ảnh hưởng tới đói nghèo của người dân. Cụ thể các nhân tố đó bao gồm:
1.2.2.1. Nghề nghiệp của chủ hộ
Theo BCPTVN (2000) [4] nghèo đói là một hiện tượng mang tính đặc thù của
nông thôn các tính toán về tỷ lệ nghèo theo nghề nghiệp và theo loại chủ lao động
cũng chỉ ra rằng những người sống ở dưới ngưỡng nghèo thường là thành viên của
những hộ có chủ hộ là nông dân tự do. Trong năm 1998 gần 80% người nghèo làm
việc trong nông nghiệp và là những người lao động tự do.
Theo Sarah Bales (2001) [34] tỷ lệ người nghèo năm 1998 trong ngành nông
nghiệp ở mức cao 47% đối với lao động tự làm trong nông nghiệp và 55,4% đối với
lao động làm thuê trong nông nghiệp. Các ngành có tỷ lệ nghèo đói thấp nhất là dịch
vụ đặc biệt là ngành thương mại khách sạn – nhà hàng và công việc nhà nước. Các chỉ
số về khoảng cách nghèo đói P1 (biểu hiện mức độ thiếu hụt) và chỉ số bình phương
khoảng cách nghèo P2 (mức độ nghiêm trọng của vấn đề nghèo đói) cho thấy nghèo
đói của những người làm thuê trong nông nghiệp là lớn nhất, kế đến là những người tự

làm nông nghiệp. Như vậy với tỷ trọng lao động trong nông nghiệp chiếm nhiều nhất và có
tỷ lệ nghèo cao nhất, người nghèo là nông dân vẫn chiếm phần lớn người nghèo ở Việt Nam.
Vũ Hoàng Đạt và các tác giả (2006) [8] phát hiện thấy việc chuyển đổi trong
nghề nghiệp của chủ hộ gia đình từ nông nghiệp sang sản xuất phi nông nghiệp hoặc
kinh doanh thương mại làm giảm nguy cơ hộ gia đình rơi vào nghèo đói.
Theo MDPA (2004) [7] nghèo đói có gắn chặt với nông nghiệp và lưu ý rằng
phần lớn các hộ nghèo sống ở nông thôn và chỉ trồng lúa. Một vài nghiên cứu cũng
cho thấy rằng tỷ lệ nghèo đói cấp tỉnh thường có tương quan tỷ lệ thuận với số dân
hoạt động nông nghiệp của tỉnh đó. Theo CIEM và ADB (2008) tại Quảng Trị có tới
44,4% người nghèo làm nông nghiệp và chỉ có 3% làm việc khác; trong khi đó khoảng
23% người không nghèo làm nông nghiệp và 25,5% thực hiện các công việc khác.
Cũng theo nghiên cứu này người nghèo biên giới Quảng Trị chủ yếu là những người tự
làm nông nghiệp trong khi người nghèo biên giới Tây Ninh ngoài tự làm nông nghiệp
còn làm thuê nông nghiệp cho gia đình khác.
11

Vậy giả thuyết ảnh hưởng của biến nghề nghiệp của chủ hộ đến xác suất rơi vào
ngưỡng nghèo của hộ dân là: H1: Hộ có chủ hộ lao động trong lĩnh vực nông nghiệp
có khả năng nghèo cao hơn hộ có chủ hộ lao động ở lĩnh vực phi nông nghiệp.
1.2.2.2. Trình độ học vấn
Trình độ học vấn của các thành viên trong hộ nói chung và của chủ hộ nói riêng
có ảnh hưởng đến khả năng thoát nghèo của hộ gia đình. Nhiều kết quả nghiên cứu đã
chỉ ra điều đó:
Theo BCPTVN (2000), người nghèo thường có học vấn tương đối thấp gần
90% người nghèo chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn. Trong số người
nghèo tỷ lệ người chưa bao giờ đi học chiếm 12%, tốt nghiệp tiểu học chiếm 39%, phổ
thông cơ sở chiếm 37%. Chi phí cho giáo dục đối với người nghèo còn lớn gây không
ít khó khăn cho họ trong việc tiếp cận với giáo dục nhiều hơn. Học vấn thấp buộc chặt
người nghèo với những công việc có thu nhập thấp trong nông nghiệp và hạn chế khả
năng tìm được việc trong các ngành phi nông nghiệp nhưng công việc mang lại thu

nhập cao hơn hay ít ra là ổn định hơn.
Cũng theo BCPTVN (2000) các nghiên cứu đói nghèo có sự tham gia của người
dân (PPA) cho thấy bản thân các hộ nghèo cũng hiểu được rằng trình độ học vấn là
chìa khóa quan trọng để thoát khỏi nghèo đói. Các PPA cũng cho thấy những hộ thuộc
nhóm khá giả là những hộ thường xuyên tiếp xúc với cán bộ khuyến nông quan hệ với
những người ở ngoài cộng đồng tiếp cận với thông tin và với các phương tiện truyền
thông đại chúng.
Đỗ Thiên Kính và các tác giả (2001) [14] khi nghiên cứu Mức sống dân cư Việt
Nam 1993 – 1998 cho rằng hộ ở nhóm giàu có trình độ giáo dục cao hơn hộ nghèo. Số
năm đi học trung bình của những thành viên (trên 5 tuổi) của hộ thuộc nhóm giàu là
8,2 năm so với 4,4 năm của nhóm nghèo. Đối với những hộ mà chủ hộ có trình độ đại
học hoặc cao đẳng trở lên thì có tới 3/4 số hộ thuộc nhóm giàu và có dưới 1% số hộ
thuộc nhóm nghèo.
Vũ Hoàng Đạt và các tác giả (2006) phát hiện thấy các hộ gia đình có chủ hộ
đạt trình độ giáo dục cấp phổ thông cơ sở có nhiều cơ hội thoát nghèo hơn so với hộ
gia đình có đặc điểm tương tự song chủ hộ không có trình độ học vấn.
Vậy giả thuyết ảnh hưởng của biến trình độ học vấn và các thành viên trong hộ
đến xác suất rơi vào ngưỡng nghèo của hộ dân là: H2: Hộ có số năm đi học trung bình
cao hơn thì có khả năng thoát nghèo cao hơn.
12

1.2.2.3. Giới tính của chủ hộ.
Giới tính của chủ hộ cũng ảnh hưởng đến xác suất rơi vào ngưỡng nghèo của hộ
gia đình ở Việt Nam. Điều này cũng được dẫn chứng bởi những nghiên cứu sau:
Theo BCPTVN (2000) phần lớn những hộ có chủ hộ là nữ là những hộ nghèo.
Hộ gia đình có chủ hộ là nữ thường bị các cán bộ nhà nước phân biệt đối xử. Điều đó
chứng tỏ hộ có chủ hộ là nữ thường gặp nhiều khó khăn hơn so với hộ có chủ hộ là nam.
Đỗ Thiên Kính và các tác giả (2001) khi nghiên cứu mức sống dân cư Việt
Nam 1993 – 1998 cho rằng những hộ có chủ hộ là nữ dường như thuộc nhóm nghèo
nhiều hơn là những hộ có chủ hộ là nam. Phát hiện này cũng tương tự như ở cuộc khảo

sát VHLSS (2002) cho thấy phụ nữ ở vùng nông thôn Việt Nam phải chịu đựng nhiều
thiệt thòi. Phụ nữ chủ yếu làm nghề nông. Tiền công của nữ chỉ bằng 62% của nam
giới. Dù chiếm 50% lực lượng lao động nhưng phụ nữ chỉ kiếm được 40% tổng tiền
công. Phụ nữ ít có tiếng nói hay cơ hội tham gia trong việc ra quyết định tại địa
phương (WB, 2003).
Theo Nguyễn Trọng Hoài (2005) [11] tại Ninh Thuận những hộ có chủ hộ là nữ
có khả năng nghèo lớn hơn so với những hộ có chủ hộ là nam (35,6% so với 27 1%)
nhóm hộ này cũng có xác suất được xếp vào nhóm chi tiêu trung bình trở lên thấp hơn.
Tương tự, ở Bình Phước tỷ lệ hộ có chủ hộ là nữ sống trong cảnh nghèo là 42,9% cao
hơn nhiều khi so với tỷ lệ nghèo của hộ có chủ hộ là nam giới chỉ có 20,2%.
Vậy giả thuyết ảnh hưởng của biến giới tính của chủ hộ đến xác suất rơi vào
ngưỡng nghèo của hộ dân là: H3: Hộ có chủ hộ là nữ thì khả năng nghèo cao hơn hộ
có chủ hộ là nam.
1.2.2.4. Quy mô hộ và số người sống phụ thuộc
Quy mô hộ và số người phụ thuộc là biến số ảnh hưởng đến đói nghèo của hộ
gia đình. Thông thường hộ gia đình có số lượng nhân khẩu càng cao thì càng dễ rơi
vào vòng luẩn quẩn của đói nghèo “ Đông con – Đói nghèo – Đông con”. Một số
nghiên cứu đã chỉ ra điều đó:
Đỗ Thiên Kính và các tác giả (2001) khi nghiên cứu Mức sống dân cư Việt
Nam 1993 – 1998 cho rằng quy mô hộ gia đình nghèo thường có xu hướng lớn hơn do
vậy mỗi lao động phải nuôi dưỡng số trẻ em và người già nhiều hơn so với hộ giàu.
Theo Nguyễn Trọng Hoài (2005), ở Ninh Thuận, nhóm nghèo có quy mô trung
bình lên tới 5,72 người thì nhóm giàu chỉ có 3,88 người, tức quy mô hộ nghèo cao hơn
13

hộ giàu khoảng 1,8 người. Ở Bình Phước, quy mô hộ nghèo còn cao hơn nhiều so với
nhóm giàu, trung bình nhiều hơn khoảng 2,7 người.
Vậy giả thuyết ảnh hưởng của biến quy mô hộ đến xác suất rơi vào ngưỡng nghèo
của hộ dân là: H4: Hộ có quy mô hộ càng cao thì khả năng thoát nghèo càng khó.
1.2.2.5. Diện tích đất đai

Theo BCPTVN (2000) các hộ nghèo coi diện tích đất và chất lượng đất là yếu
tố quan trọng đến mức sống. Không có đất đai hoặc hầu như không có đất đai đồng
nghĩa với nghèo đói. Các hộ này được mô tả như những hộ đặc biệt dễ bị tổn thương.
Trong năm 1998, 10% hộ ở nông thôn được đánh giá là không có đất.
Theo BCPTVN (2000), diện tích đất trồng cây hàng năm của các hộ thuộc
nhóm giàu nhất lớn hơn của các hộ ở nhóm thấp nhất tới 1,4 lần. Sự khác biệt còn lớn
hơn nhiều ở diện tích trồng cây lâu năm tính trên đầu người là 6 lần.
Theo MDPA (2004) một khi nông dân không còn sở hữu đất họ dễ rơi vào cảnh
nghèo khó. Hầu hết các nông hộ nghèo bán đất hay cầm cố đất do gặp rủi ro trắc trở
trong thu hoạch trong kinh doanh và trong cuộc sống hàng ngày. Những rủi ro thất bát
này dẫn đến việc thu nhập của gia đình kém đi, chi phí cuộc sống tăng lên; vì vậy
khiến họ dễ bị lâm nợ, buộc họ phải dùng đất đai như cứu cánh cuối cùng để thanh
toán nợ nần và tiếp tục sống.
Theo Nguyễn Trọng Hoài (2005) khi nghiên cứu ở các tỉnh Đông Nam Bộ, ở
các tỉnh Ninh Thuận, Bình Phước tỷ lệ sở hữu đất thấp cho thấy nhiều hơn sự phụ
thuộc vào nông nghiệp của các hộ dân ở đây. Chênh lệch diện tích đất sử dụng giữa
các nhóm chi tiêu là khá cao. Ở Bình Phước hộ nghèo trung bình chỉ có 1,75 ha đất các
loại thì hộ giàu có đến 4,96 ha.
Theo CIEM và ADB (2008), khi nghiên cứu Tổng quan về đói nghèo các tỉnh
hành lang biên giới ở các tỉnh Quảng Trị và Tây Ninh, các hộ giàu có sử dụng hàng chục
hecta đất, trong khi nhiều hộ chỉ có vài hecta còn hộ nghèo thì gần như không có đất.
Vậy giả thuyết ảnh hưởng của biến sở hữu đất đai đến xác suất rơi vào ngưỡng
nghèo của hộ dân là: H5: Hộ sở hữu diện tích đất đai càng nhiều thì khả năng thoát
nghèo càng cao.
1.2.2.6. Khả năng tiếp cận tín dụng
Một hạn chế lớn nhất của nông dân là khả năng tiếp cận các nguồn vốn tín dụng
do khả năng chi trả thấp, tài sản đảm bảo không có gi trị lớn. Do đó nông dân khó có
cơ hội tiếp cận nguồn tín dụng đủ lớn để cải thiện đời sống.
14


Theo Nguyễn Trọng Hoài (2005) không có sự khác biệt lớn trong khả năng
được vay hay không giữa nhóm giàu và nhóm nghèo nhưng nơi vay và số tiền được
vay là rất khác nhau giữa các nhóm chi tiêu. Chẳng hạn ở Ninh Thuận nhóm hộ giàu
và khá giàu cũng được vay nhiều hơn (trung bình 15 triệu) trong khi hộ nghèo được
vay rất ít (trung bình chỉ có 2,8 triệu). Ở Bình Phước trung bình một hộ nghèo chỉ
được vay 8,8 triệu đồng ở ngân hàng trong khi một hộ giàu trung bình có thể vay 28,7
triệu đồng.
Vậy giả thuyết ảnh hưởng của biến khả năng tiếp cận tín dụng đến xác suất rơi
vào ngưỡng nghèo của hộ dân là: H6: Hộ có khả năng vay tiền càng nhiều thì khả năng
thoát nghèo càng cao.
1.2.2.7. Dân tộc
Thông thường dân tộc nào định cư ở những địa bàn có khả năng tiếp cận hệ
thống cơ sở hạ tầng xã hội tốt thì mức sống của người dân càng được nâng cao. Ở Việt
Nam dân tộc Kinh là những dân tộc sống phân bố nhiều ở khu vực đồng bằng nơi có
hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển so với trung du và miền núi. Do đó những dân tộc
này có khả năng thoát nghèo cao hơn.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra điều đó:
Đỗ Thiên Kính và các tác giả (2001) cho rằng yếu tố dân tộc ảnh hưởng chính
đến nghèo đói khi nghiên cứu Mức sống dân cư Việt Nam 1993 – 1998. Các tác giả
cho rằng năm 1993 với điều kiện các biến khác như học vấn nơi cư trú không thay đổi,
các hộ thuộc nhóm dân tộc thiểu số (không phải người Kinh) có xác suất trở thành hộ
nghèo là 32% và xác suất trở thành hộ giàu chỉ là 8%.
Theo Báo cáo cập nhật nghèo (Viện Khoa học xã hội Việt Nam, 2006) [23],
nhóm đồng bào các dân tộc thiểu số bị tụt hậu khá nhiều so với nhóm đồng bào Kinh
về các chỉ số xã hội. Năm 2004 chỉ có 4% đồng bào dân tộc thiểu số được tiếp cận
điều kiện vệ sinh so với 36% người Kinh và 19% đồng bào dân tộc thiểu số được tiếp
cận nước sạch so với 63% người Kinh. Vũ Hoàng Đạt và các tác giả (2006) cho rằng
hộ gia đình thuộc nhóm Kinh có khả năng thoát nghèo hơn hộ gia đình có đặc điểm
tương tự thuộc nhóm dân tộc thiểu số và nhóm dân tộc thiểu số có tốc độ giảm nghèo
chậm hơn so với nhóm người Kinh ở tại tất cả các vùng nơi có người dân tộc thiểu số

sinh sống.
Hoàng Thanh Hương và các tác giả (2006) [13] cho rằng ngay cả khi các dân
tộc thiểu số sống cùng với người Kinh trong cùng một địa bàn nhỏ tức là ở cùng xã họ
15

vẫn khó theo kịp so với nhóm Kinh. Điều này chứng minh rằng khả năng thoát nghèo
của người dân tộc Kinh là cao hơn so với các dân tộc khác.
Hoàng Thanh Hương và các tác giả (2006) cho thấy có sự khác biệt đáng kể về
các đặc tính ở cấp hộ giữa hai nhóm hộ và sự khác biệt dường như có chiều hướng gia
tăng. Năm 2004 sự khác biệt và đặc tính cấp hộ giải thích 18% chênh lệch chi tiêu
dùng giữa hai nhóm ở trong toàn bộ vùng nông thôn Việt Nam, song tạo ra 51% chênh
lệch chi tiêu dùng ở những xã có cả đồng bào dân tộc thiểu số và đồng bào Kinh sinh
sống. Vậy giả thuyết ảnh hưởng của biến dân tộc đến xác suất rơi vào ngưỡng nghèo của
hộ dân là: H7: Dân tộc thiểu số được giả thuyết là khả năng nghèo cao hơn dân tộc Kinh.
1.3. ĐÓI NGHÈO TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIÊT NAM
1.3.1. Tình hình đói nghèo trên thế giới.
Trong số hơn 6 tỷ người trên Trái đất thì có 2,8 tỷ người sống dưới mức 2 USD
một ngày và 1,2 tỷ người sống dưới mức 1 USD, 44% số này sống ở khu vực Nam Á.
Trong khi ở các nước giàu, trung bình trong 100 đứa trẻ sinh ra chỉ có chưa đến một
trẻ không sống được đến tuổi thứ 5 thì ở những nước nghèo tỷ lệ này là gần 20 trẻ. Tỷ
lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng ở các nước phát đang phát triển lên tới 50% còn ở những
nước giàu có chưa đến 5%.
Bảng 1.1: Nghèo đói theo thu nhập, phân theo vùng của thế giới, năm 1990 – 2005
ĐVT: triệu người
Số người sống dưới 1 USD một ngày
Năm 1990 Năm 1996 Năm 1998 Năm 2005
Vùng
Triệu
người
Tỷ lệ

(%)
Triệu
người

Tỷ lệ

(%)

Triệu
người

Tỷ lệ
(%)
Triệu
người

Tỷ lệ
(%)
1. Đông Á và Thái Bình
Dương (trừ Trung Quốc)
452,45

27,6

265,1

14,9

287,3


15,3

2. Châu Á và Trung Á 7,1

1,6

23,8

5,1

24

5,1

3. Mỹ Latinh và Trung Á 73,8

16,8

76

15,6

78,2

15,6

4. Trung Đông và Bắc Phi 5,7

2,4


5,0

1,8

5,5

1,9

5. Nam Á 495,1

44

531,7

42,3

522

40,0

6. Nam Sahara Châu Phi 242,3

47,7

289

48,6

290


46,3

WB đưa ra
chuẩn nghèo
mới, thu nhập
dưới 1,25
USD/ngày
Nguồn: Ngân hàng thế giới
16

Bảng 1.2: Tỷ lệ hộ nghèo theo vùng của thế giới, năm 2005
Vùng
Số người thu nhập dưới
1,25 USD/ngày (%)
Số người thu nhập dưới
2 USD/ngày (%)
1. Đông Á và Thái Bình Dương 16,8 38,7
2. Châu Âu và Trung Á 3,7 8,9
3. Mỹ Latinh và Trung Á 8,2 17,1
4. Trung Đông và Bắc Phi 3,6 16,9
5. Nam Á 40,3 73,9
6. Nam Sahara Châu Phi 50,9 72,9
Nguồn: Ngân hàng thế giới
Qua bảng 1.2 ta thấy khu vực nghèo nhất thế giới đó là vùng Nam Sahara châu
Phi và Nam Á có số người sống dưới 2 USD/ngày lên trên 70%. Khu vực có tỷ lệ
nghèo ít nhất đó là Châu Âu và Trung Á có số người sống dưới 2 USD/ngày là 8,9%.
Nghèo đói ở những khu vực khác nhau cũng có những mức độ khác nhau (Hình
1.1). Theo nghiên cứu của ngân hàng thế giới (WB) thì với tỷ lệ 1,25 USD/ngày, châu
Phi – vùng Sahara là khu vực rộng lớn duy nhất, nơi tình trạng nghèo đói vẫn suy giảm
không đáng kể về tỷ lệ (50,9% vào năm 2005, thấp hơn so với 57,6% vào năm 1990 và

58% vào năm 1996) và tăng về số lượng (384 triệu người vào năm 2005 cao hơn so
với 202 triệu vào năm 1981).
Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, châu Phi là châu lục có tỉ lệ thanh niên thất
nghiệp cao nhất thế giới (25,6% ở khu vực Trung Đông và Bắc Phi). Thất nghiệp là
một trong những nguyên nhân cơ bản gây ra nạn nghèo đói của “Lục địa Đen”và ảnh
hưởng tiêu cực đến các chương trình và các kế hoạch phát triển, với tỉ lệ tăng 10% mỗi
năm, 32 trong số 38 nước nghèo nhất thế giới là thuộc châu Phi. Số tiền nợ của châu
Phi lên tới 425 tỉ USD. Tuổi thọ trung bình ở châu Phi thấp nhất thế giới, 45 tuổi. Chỉ
có 58% số người dân châu Phi được dùng nước sạch.
Từ vài thập kỷ nay, tỉ lệ mù chữ tại châu Phi gia tăng, chiếm khoảng 40% số
dân châu Phi ở độ tuổi 15 và chiếm hơn 50% số phụ nữ ở độ tuổi 25. Từ nhiều năm
nay, châu Phi đã phải gánh chịu một vấn đề kinh niên là vấn đề người tị nạn. Theo các
con số chính thức, tại châu Phi có hơn 7 triệu người tị nạn và hơn 20 triệu người không
có nhà cửa do hàng loạt các cuộc xung đột và nội chiến gây ra và đã để lại một hậu
quả nặng nề về nạn đói, nạn suy dinh dưỡng và kinh tế bị đình trệ.
Châu Phi đang phải đối mặt với nạn hạn hán kinh niên và bị thiếu nước sạch
thường xuyên, điều này đã và đang cản trở sự phát triển của châu lục này. Tình trạng

×