i
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
TRẦN TRỌNG BÌNH
HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ THU THUẾ
NHẬP KHẨU TẠI CHI CỤC HẢI QUAN KHU KINH TẾ
CỬA KHẨU CẦU TREO
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Khánh Hòa – 2014
ii
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
TRẦN TRỌNG BÌNH
HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ THU THUẾ
NHẬP KHẨU TẠI CHI CỤC HẢI QUAN KHU KINH TẾ CỬA
KHẨU CẦU TREO
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành : QUẢN TRỊ KINH DOANH
Mã số : 60 34 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HỒ HUY TỰU
Khánh Hòa - 2014
iii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu trong Luận văn này là chính xác và có nguồn gốc rõ
ràng.
Bản luận văn: “Hoàn thiện công tác quản lý và thu thuế nhập khẩu tại Chi cục
Hải quan Khu kinh tế cửa khẩu Cầu Treo” là đề tài nghiên cứu của bản thân, chưa được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
iv
LỜI CẢM ƠN
Xin trân trọng cảm ơn quí Thầy, Cô đã giảng dạy chúng tôi tại Trường đại học
Nha Trang - Cơ sở tại Trường Cao đẳng nghề du lịch thương mại Nghệ An.
Đặc biệt chân thành cảm ơn Tiến sĩ Hồ Huy Tựu đã tận tình hướng dẫn tôi hoàn
thành bản luận văn này.
Cảm ơn những đồng nghiệp của tôi cũng như những chuyên gia trong và ngoài
ngành Hải quan đã hỗ trợ, tư vấn cho tôi rất nhiều điều bổ ích cho nội dung Luận văn đạt
kết quả như mong muốn.
Học viên: Trần Trọng Bình
v
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT vii
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU viii
DANH MỤC CÁC HÌNH, SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ ix
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ NHẬP KHẨU 6
1.1. TỔNG QUAN THUẾ NHẬP KHẨU 6
1.1.1. Khái niệm thuế nhập khẩu 6
1.1.2. Vai trò của thuế nhập khẩu 8
1.1.2.1. Huy động nguồn lực cho Ngân sách Nhà nước 8
1.1.2.2. Kiểm soát hàng hóa nhập khẩu 9
1.1.2.3. Thực hiện chính sách quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế, đảm bảo
công bằng xã hội 10
1.1.2.4. Bảo hộ sản xuất trong nước 10
1.1.2.5. Thực hiện các chính sách đối ngoại 11
1.1.3. Đặc điểm của thuế nhập khẩu 11
1.1.4. Các yếu tố cơ bản của thuế nhập khẩu 12
1.1.4.1. Thuế suất và biểu thuế suất nhập khẩu 12
1.1.4.2. Trị giá tính thuế hàng nhập khẩu 13
1.2. TỔNG QUAN VỀ HẢI QUAN 13
1.2.1. Lịch sử ra đời, quá trình tổ chức hoạt động của Hải quan Việt Nam 13
1.2.2. Nhiệm vụ của Hải quan 16
1.2.3. Phạm vi địa bàn hoạt động của Hải quan 16
vi
1.2.4. Nội dung quản lý của Hải quan đối với thuế nhập khẩu trong giai đoạn
hiện nay 16
1.2.4.1. Khái niệm 16
1.2.4.2. Khuôn khổ pháp lý điều chỉnh hoạt động quản lý thuế nhập khẩu của
cơ 17
1.2.4.3. Nội dung quản lý thuế 18
1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác quản lý thuế 29
1.2.5.1. Cam kết ràng buộc trong hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa kỳ
(BTA) 30
1.2.5.2. Cam kết ràng buộc trong AFTA 30
1.2.5.3. Cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu trong APEC 30
1.2.5.4. Cam kết trong khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc 31
1.2.5.5. Cam kết về thuế khi gia nhập WTO 31
1.2.6. Sự cần thiết phải quản lý thuế nhập khẩu 32
1.3. TỔNG QUAN VỀ KHU KINH TẾ CỬA KHẨU 33
1.3.1. Khái niệm 33
1.3.2. Những điểm giống và khác nhau giữa khu kinh tế cửa khẩu với các khu
kinh tế khác 34
1.3.3. Vai trò và vị trí của các khu kinh tế cửa khẩu tại Việt Nam 36
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ THU THUẾ NHẬP KHẨU
TẠI CHI CỤC HẢI QUAN KHU KINH TẾ CỬA KHẨU CẦU TREO 41
2.1. Đặc điểm kinh tế xã hội của Khu kinh tế cửa khẩu Cầu Treo 41
2.1.1. Đặc điểm kinh tế xã hội của tỉnh Hà Tĩnh 41
2.1.2. Đặc điểm kinh tế xã hội của Khu kinh tế cửa khẩu Cầu Treo 45
2.2. Thực trạng công tác quản lý và thu thuế tại Chi cục Hải quan Khu kinh tế cửa
khẩu Cầu Treo 47
vii
2.2.1. Giới thiệu về Chi cục Hải quan Khu kinh tế cửa khẩu Cầu Treo thuộc Cục
Hải quan Hà Tĩnh 47
2.2.2.Thực trạng công tác quản lý và thu thuế tại Chi cục Hải quan Khu kinh tế
cửa khẩu Cầu Treo 49
2.2.2.1. Quản lý khai thuế 50
2.2.2.2. Quản lý nộp thuế 53
2.2.2.3. Công tác hoàn thuế, miễn thuế, không thu thuế 56
2.2.2.4. Thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế nhập khẩu 56
2.2.2.5. Công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại và xử lý vi phạm pháp
luật về thuế nhập khẩu 57
2.2.2.6. Các hình thức gian lận trong công tác quản lý và thu thuế nhập khẩu58
2.2.3. Những kết quả đạt được 62
2.2.4. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân: 65
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ THU THUẾ NHẬP KHẨU TẠI CHI CỤC HẢI
QUAN KHU KINH TẾ CỬA KHẨU CẦU TREO 71
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện và nâng cao hiệu quả quản lý và thu thuế nhập khẩu
tại Chi cục Hải quan Khu kinh tế cửa khẩu Cầu Treo 71
3.2. Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thuế nhập khẩu
tại Chi cục Hải quan Khu kinh tế cửa khẩu Cầu Treo 72
3.2.1. Giải pháp về xây dựng tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực, phẩm chất của
đội ngũ cán bộ công chức Hải quan 72
3.2.1.1. Giải pháp đổi mới công tác tuyển dụng, bổ sung nguồn nhân lực 72
3.2.1.2. Giải pháp tăng cường công tác quản lý và sử dụng nguồn nhân lực 73
3.2.1.3. Giải pháp nâng cao năng lực đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực 74
3.2.1.4. Giải pháp tăng cường thực hiện liêm chính hải quan đối với đội ngũ
công chức làm công tác quản lý thuế 75
viii
3.2.2. Giải pháp tăng cường công tác thu thập xử lý thông tin quản lý rủi ro,
kiểm tra sau thông quan; kiểm tra xác định trị giá tính thuế (GATT) 76
3.2.2.1. Giải pháp đẩy mạnh công tác thu thập xử lý thông tin quản lý rủi ro,
kiểm tra sau thông quan đối với hàng nhập khẩu 76
3.2.2.2. Giải pháp tăng cường công tác kiểm tra xác định trị giá tính thuế đối
với hàng nhập khẩu 78
3.2.3. Giải pháp về chống gian lận thương mại, tăng cường kiểm tra, kiểm soát
chống buôn lậu qua biên giới 80
3.2.4. Giải pháp về tăng cường và hiện đại hoá cơ sở vật chất của ngành Hải
quan 81
3.2.5. Các giải pháp khác 82
3.2.5.1. Tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền, phổ biến chính sách
thuế nhập khẩu 82
3.2.5.2. Tăng cường mối quan hệ phối hợp với các cơ quan liên quan trong
công tác quản lý thuế nhập khẩu 83
3.2.6. Các kiến nghị 84
KẾT LUẬN 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 90
ix
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. AFTA : Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
2. APEC : Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á Thái Bình Dương
3. ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
4. BTA : Hiệp định thương mại song phương
5. CEPT : Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung
6. ĐTNT : Đối tượng nộp thuế
7. GATT : Hiệp định chung về thương mại và thuế quan
8. GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
9. NSNN : Ngân sách nhà nước
10. WTO : Tổ chức thương mại thế giới
x
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1: Kim ngạch xuất nhập khẩu qua các cửa khẩu từ năm 2005-2012 37
Bảng 1.2: Danh sách các Khu kinh tế cửa khẩu 38
Bảng 2.1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh Hà Tĩnh từ năm 2007 đến 2013 43
Bảng 2.2. Kim ngạch xuất nhập khẩu của Hà Tĩnh từ năm 2007 đến 2013 44
Bảng 2.3: Kết quả thu thuế của Chi cục Hải quan Khu kinh tế cửa khẩu Cầu Treo năm
2010 -2013 54
Bảng 2.4: Số liệu miễn thuế, hoàn thuế, không thu thuế tại Chi cục Hải quan Khu kinh tế
cửa khẩu Cầu Treo từ 2010 đến 2013 56
Bảng 2.5: Số vụ vi phạm được phát hiện, lập biên bản và xử lý tại Chi cục Hải quan Khu
kinh tế cửa khẩu Cầu Treo từ năm 2010 đến năm 2013 58
xi
DANH MỤC CÁC HÌNH, SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ giữa Doanh nghiệp và Hải quan trong quy trình quản lý thuế 19
Sơ đồ 1.2: Sơ đồ quản lý khai thuế 20
Sơ đồ 1.3: Tiếp nhận khai báo thuế của Doanh nghiệp 22
Sơ đồ 1.4. Quy trình thủ tục HQ đối với hàng hóa xuất nhập khẩu thương mại 25
Sơ đồ 1.5. Quy trình thông quan hải quan điện tử 27
Hình 1.1. Tờ khai Hải quan điện tử 27
Biểu đồ 2.1. Tăng trưởng kinh tế của tỉnh Hà Tĩnh từ năm 2007 - 2013 43
Biểu đồ 2.2. Kim ngạch xuất nhập khẩu của tỉnh Hà Tĩnh từ 2007-2013 44
Sơ đồ 3.1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức Chi cục Hải quan Khu kinh tế cửa khẩu Cầu Treo 48
Biểu đồ 2.3: Biểu đồ kết quả thu thuế vào NSNN của Chi cục Hải quan Khu kinh tế cửa
khẩu Cầu Treo năm 2010-2013 54
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Đối với bất kỳ một quốc gia, vùng lãnh thổ nào trên thế giới, thuế luôn là một công
cụ để thể hiện quyền lực nhà nước của quốc gia, vùng lãnh thổ đó. Đồng thời, thuế còn là
nguồn tài chính chủ yếu để phục vụ nhu cầu chi tiêu của toàn xã hội. Tại Việt Nam, số thu
thuế từ hoạt động xuất nhập khẩu của ngành Hải quan đóng góp một phần đáng kể vào
nguồn thu ngân sách của cả nước. Tỷ trọng thu từ hải quan từ 2008 đến 2011 chiếm trên
dưới 22% tổng thu, con số này trong năm 2012 là 17,7%; tính đến hết tháng 10 năm 2013
là khoảng 19%[35]. Trong đó, thuế nhập khẩu chiếm tới 25% tỉ trọng thu thuế của quốc
gia[17].
Năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế
giới (WTO). Điều này bắt buộc nước ta phải tiếp tục thực hiện chính sách mở của nền
kinh tế để đáp ứng yêu cầu hội nhập, và thực hiện các cam kết với các nước, khu vực
trong việc cắt giảm thuế quan. Điều này đã gây khó khăn rất lớn đối với công tác thu của
ngành Hải quan Việt Nam vì thực tế là thuế nhập khẩu hàng hóa luôn bị giảm mạnh theo
các cam kết trong hội nhập. Bên cạnh đó, các chính sách thuế (đặc biệt là chính sách thuế
nhập khẩu), công tác quản lý và thu thuế nhập khẩu vần còn tồn tại nhiều bất cập như: các
văn bản pháp quy thường xuyên thay đổi, tình trạng gian lận thuế xảy ra khá phổ biến,
tình trạng trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế vẫn còn tồn tại ở nhiều nơi trong khi nhà nước ta
chưa tìm ra được biện pháp thực sự có hiệu quả để giải quyết triệt để những vấn đề trên.
Do đó đã làm hạn chế tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển quan hệ kinh tế đối
ngoại, thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và các nước. Vì thế, công tác quản lý và thu
thuế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế cần phải được điều chỉnh linh hoạt, phù hợp
với thông lệ quốc tế, đồng thời cũng thể hiện được vai trò bảo hộ sản xuất trong nước, tạo
nguồn thu cho NSNN. Công tác quản lý và thu thuế cần phải được hiện đại hóa một cách
toàn diện về phương pháp quản lý, thủ tục hành chính, bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ, áp
dụng rộng rãi công nghệ tin học…[17].
Cùng với xu thế hội nhập của cả nước, khu kinh tế cửa khẩu quốc tế Cầu Treo
đang nỗ lực phấn đấu đến năm 2020 sẽ trở thành một khu kinh tế tổng hợp đa ngành, đa
2
lĩnh vực; là một khu đô thị miền núi khang trang, là trung tâm kinh tế, thương mại, du
lịch, khu trung tâm hành chính cửa khẩu và giao lưu quốc tế, hoạt động sôi động và hiệu
quả; là trung tâm sản xuất nông - lâm nghiệp theo công nghệ tiên tiến, tạo được giá trị
hàng hóa cao, có thể kết hợp sản xuất công nghiệp, chế biến, có giá trị cảnh quan sinh thái
nông lâm nghiệp, kết hợp bền vững với các hoạt động dịch vụ du lịch[28].
Khu kinh tế cửa khẩu quốc tế Cầu Treo nằm ở phía Tây tỉnh Hà Tĩnh sở hữu một
vị trí chiến lược đặc biệt đối với tỉnh Hà Tĩnh nói riêng và cả nước nói chung, được quy
hoạch thành trọng điểm của khu vực Bắc Trung bộ Việt Nam. Khu kinh tế này gắn liền
với cửa khẩu quốc tế Cầu Treo (sang cửa khẩu Nậm Pao, huyện Khamkheuth, tỉnh
Bolykhamxai, Lào), nằm trên Quốc lộ 8A qua biên giới Việt – Lào, có vị trí chiến lược
trong phát triển Hành lang kinh tế Đông – Tây, trung tâm của nhiều mối liên kết giao
thông Hành lang Đông – Tây và xuyên đại dương nhiều tiềm năng, đóng vai trò quan
trọng trong hợp tác Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng. Đây là vùng kinh tế quá cảnh cho
8 tỉnh của 3 nước sử dụng Quốc lộ 8A. Ngoài ra, Cầu Treo còn kết nối với đường Hồ Chí
Minh, đường sắt Bắc - Nam chạy qua, rất thuận lợi cho việc giao thương hàng hóa, có khả
năng xây dựng vùng hấp dẫn đầu tư thương mại, dịch vụ, du lịch và công nghiệp chế biến
lắp ráp. Nhờ vị trí chiến lược đó, những năm qua các hoạt động thương mại tại Cửa khẩu
quốc tế Cầu Treo đã diễn ra sôi động (chủ yếu là hàng hóa của Việt Nam, Lào, Thái Lan).
Việt Nam xuất sang Lào và Thái Lan các sản phẩm như hải sản đông lạnh, nông sản, tơ
tằm, vật liệu xây dựng. Đồng thời, Việt Nam nhập khẩu từ Lào và Thái Lan một lượng
tương đối lớn các sản phẩm như gỗ, khoáng sản, hàng tiêu dùng như đồ điện, nước giải
khát, nông sản … Quy hoạch Phát triển các khu kinh tế cửa khẩu của Việt Nam đến năm
2020 đã xác định, Khu kinh tế Cửa khẩu quốc tế Cầu Treo là một trong 9 cửa khẩu quốc
tế trong cả nước sẽ được Chính phủ đầu tư xây dựng đồng bộ về kết cấu hạ tầng, mô hình
tổ chức quản lý, cơ chế, chính sách[28].
Mặc dù có nhiều thuận lợi nhưng thực trạng công tác quản lý và thu thuế nhập
khẩu trên địa bàn khu kinh tế của Chi cục Hải quan Khu kinh tế cửa khẩu Cầu Treo thuộc
Cục Hải quan tỉnh Hà Tĩnh trong những năm qua vẫn còn nhiều bất cập, hiệu quả đạt
được từ công tác quản lý thuế nhập khẩu chưa cao. Do đặc điểm địa lý, xã hội của khu
3
kinh tế cửa khẩu Cầu Treo, hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa ngày càng
tinh vi, diễn biến hết sức phức tạp. Bên cạnh đó, tình trạng lợi dụng chính sách quản lý
thuế nhập khẩu của các đối tượng nộp thuế để gian lận thương mại, trốn thuế vẫn thường
xuyên xảy ra như: cố tình khai sai mã số hàng hóa để được áp mức thuế suất thấp hơn,
khai thấp giá trị thực tế hàng hóa, khai sai số lượng, chủng loại… nhằm làm giảm số tiền
thuế phải nộp dẫn đến gây thất thu cho NSNN[14].
Xuất phát từ những lý do đó, việc đi sâu nghiên cứu những vấn đề liên quan đến
công tác quản lý và thu thuế nhập khẩu, đánh giá tình hình quản lý và thu thuế nhập khẩu
của Việt Nam nói chung và Chi cục Hải quan Khu kinh tế cửa khẩu Cầu Treo nói riêng
trong giai đoạn hiện nay từ đó đề ra giải pháp đồng bộ, mang tính chiến lược cho hoạt
động quản lý và thu thuế nhập khẩu đang là một đòi hỏi cấp thiết. Do đó, việc chọn đề tài
“Hoàn thiện công tác quản lý và thu thuế nhập khẩu tại Chi cục Hải quan Khu kinh tế
cửa khẩu Cầu Treo” vừa có ý nghĩa về mặt lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn đối với sự
phát triển kinh tế của tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục tiêu của luận văn:
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả quản lý và thu thuế nhập khẩu tại Chi cục Hải quan Khu kinh tế cửa khẩu Cầu Treo
nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế trên lĩnh vực thuế và Hải quan; khuyến
khích và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư, hoạt động xuất nhập khẩu phát
triển mạnh mẽ và đúng hướng, tạo sự công bằng, bình đẳng cho các đối tượng khi tham
gia các hoạt động sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu.
Để đạt được mục tiêu chung nêu trên, luận văn đã đề ra một số mục tiêu cụ thể như
sau:
- Xác định một số vấn đề lý luận cơ bản về thuế nhập khẩu, nội dung quản lý nhà
nước về Hải quan đối với công tác quản lý thuế nhập khẩu của Hải quan Việt Nam .
- Xác định được những ưu, nhược điểm và nguyên nhân của công tác quản lý và
thu thuế nhập khẩu tại Chi cục Hải quan Khu kinh tế cửa khẩu Cầu Treo trực thuộc Cục
Hải quan Hà Tĩnh.
4
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý và thu thuế nhập khẩu tại
Chi cục Hải quan Khu kinh tế cửa khẩu Cầu Treo trực thuộc Cục Hải quan tỉnh Hà Tĩnh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: công tác quản lý và thu thuế nhập khẩu
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: công tác quản lý và thu thuế nhập khẩu tại Chi cục Hải quan Khu
kinh tế cửa khẩu Cầu Treo thuộc Cục Hải quan tỉnh Hà Tĩnh.
+ Về thời gian: thực hiện nghiên cứu, phân tích, đánh giá công tác quản lý và thu
thuế nhập khẩu tại Chi cục Hải quan Khu kinh tế cửa khẩu Cầu Treo trong 5 năm qua từ
2009-2013 và đề ra giải pháp trong thời gian tới.
4. Quan điểm nghiên cứu:
Việc nghiên cứu của đề tài dựa trên quan điểm luận duy vật biện chứng, trong đó
vận dụng các quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử khi xem xét các vấn đề cụ thể;
đồng thời dựa trên các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà
nước về những vấn đề liên quan.
Trên cơ sở đó, luận văn đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như:
- Nguồn dữ liệu thứ cấp: dữ liệu từ các website, phần mềm trị giá tính thuế GTT01;
báo cáo tổng kết năm của Chi cục Hải quan Khu kinh tế cửa khẩu Cầu Treo và của Cục
Hải quan Hà Tĩnh, số liệu thống kê của cơ quan quản lý, sách báo, tạp chí…
- Phương pháp thu thập: Thu thập thông tin dữ liệu từ nguồn dữ liệu thứ cấp
- Phương pháp phân tích: phương pháp kết hợp nghiên cứu với thực tiễn, phương
pháp tổng hợp và so sánh…
5. Đóng góp của luận văn:
Về mặt lý luận: luận văn góp phần hệ thống hóa lý luận cơ bản về thuế, quản lý
thuế, vai trò của thuế trong tiến trình hội nhập…. Ngoài ra, trong phần đề xuất, luận văn
cũng đã đề xuất các biện pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả công tác quản lý và thu
thuế của ngành Hải quan nói chung và Chi cục Hải quan Khu kinh tế cửa khẩu Cầu Treo
nói riêng.
Về ý nghĩa thực tiễn: Nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý và thu thuế nhập
5
khẩu nhằm góp phần đảm bảo nguồn thu cho NSNN, phát huy vai trò bảo hộ sản xuất
trong nước và thực hiện tốt các cam kết trong hội nhập, góp phần thực hiện tốt các chính
sách đối ngoại của đất nước trong từng thời kỳ.
6. Dự kiến kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các phụ biểu,
luận văn gồm có 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về công tác quản lý thuế nhập khẩu
Chương II: Thực trạng công tác quản lý và thu thuế nhập khẩu tại Chi cục
Hải quan Khu kinh tế cửa khẩu Cầu Treo
Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả quản lý
và thu thuế nhập khẩu tại Chi cục Hải quan Khu kinh tế cửa khẩu Cầu Treo
6
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ
CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ NHẬP KHẨU
1.1. TỔNG QUAN THUẾ NHẬP KHẨU
1.1.1. Khái niệm thuế nhập khẩu
Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc mà các tổ chức, cá nhân thực hiện quyền lợi
và nghĩa vụ theo luật định cho nhà nước với mức độ, thời hạn cụ thể để nhà nước thực
hiện chức năng, nhiệm vụ[26].
Trong cấu trúc hệ thống thuế của một quốc gia thì thuế nhập khẩu có vai trò quan
trọng và có ý nghĩa hết sức thiết thực. Thuế nhập khẩu không chỉ tạo nguồn thu cho
NSNN hàng năm mà còn là công cụ hữu hiệu để nhà nước kiểm soát hoạt động nhập khẩu
hàng hóa từ nước ngoài, bảo hộ sản xuất trong nước và thực hiện các mục tiêu đối ngoại
của quốc gia đó trong từng thời kỳ. Do vậy, dù xuất hiện muộn hơn so với một số sắc thuế
nội địa nhưng thuế nhập khẩu đã nhanh chóng khẳng định được vai trò, tác dụng to lớn
của mình đối với nền kinh tế quốc gia. Ngày nay, xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế đang
từng bước ảnh hưởng đến thuế nhập khẩu theo hướng hạn chế vai trò của loại thuế này ở
mỗi quốc gia. Nhưng về cơ bản, thuế nhập khẩu vẫn là giải pháp quản lý vĩ mô có hiệu
quả đối với nền kinh tế trong nước, đặc biệt là đối với vai trò kiểm soát hoạt động nhập
khẩu hàng hóa từ nước ngoài và bảo hộ sản xuất trong nước. Hiện vẫn còn tồn tại nhiều
cách hiểu khác nhau về thuế nhập khẩu, tuỳ thuộc vào từng góc độ tiếp cận[17].
Tính đến thời điểm hiện nay, ở Việt Nam và trên thế giới chưa có một khái niệm
đồng nhất về thuế nhập khẩu. Ở một số nước trên thế giới như Mỹ, Anh, thuế nhập khẩu
có tên gọi chung là thuế quan (customs duty). Đây là một loại thuế mà các nước dùng để
đánh vào hàng hóa nhập khẩu tại cửa khẩu nhằm huy động nguồn thu cho NSNN, bảo hộ
sản xuất và can thiệp vào quá trình hoạt động ngoại thương, buôn bán, trao đổi hàng hóa
giữa các quốc gia[17].
Theo Từ điển Luật học: “Thuế nhập khẩu là một loại thuế gián thu đánh vào các
loại hàng hóa nhập khẩu qua biên giới”[30].
Theo Từ điển Kinh tế học (Anh-Việt) giải thích: “Thuế nhập khẩu (import duty) là
7
khoản thuế mà Chính phủ đánh vào sản phẩm nhập khẩu. Thuế nhập khẩu được sử dụng
để tăng nguồn thu cho Chính phủ và bảo vệ các ngành sản xuất trong nước với sự cạnh
tranh của nước ngoài”[30].
Các khái niệm nêu trên đều chưa thật sự đầy đủ. Khái niệm nêu tại Từ điển Luật
học chưa nêu được hết các đặc điểm, vai trò cũng như chưa bao quát hết đối tượng chịu
thuế của thuế nhập khẩu. Việc định nghĩa khái niệm thuế nhập khẩu như vậy mới chỉ nêu
được một đặc điểm của “nó”: đó là một loại thuế gián thu và đối tượng là thu vào các mặt
hàng nhập khẩu qua biên giới. Tuy nhiên, có một thực tế là hàng hóa từ các khu phi thuế
quan, khu chế xuất trong lãnh thổ của các quốc gia khi nhập khẩu vào thị trường nội địa
của quốc gia đó cũng được coi là hàng hóa nhập khẩu. Ngoài ra, thuế nhập khẩu còn có
một số đặc điểm khác: ví dụ thuế nhập khẩu chỉ đánh vào hàng hóa nhập khẩu, do đó
“nó” luôn gắn chặt với hoạt động ngoại thương; ngoài ra thuế nhập khẩu còn tạo nguồn
thu hàng năm cho NSNN.
Còn ở khái niệm nêu tại Từ điển Kinh tế học (Anh-Việt) tuy đã hàm chứa những
vai trò của thuế nhập khẩu nhưng lại chưa nêu được những đặc điểm đặc thù của thuế
nhập khẩu so với các loại thuế khác,… Do vậy, để đầy đủ, khái niệm về thuế phải hàm
chứa những nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, phải khẳng định thuế nhập khẩu là một loại thuế gián thu, một yếu tố cấu
thành trong giá cả hàng hóa.
Thứ hai, phải nêu rõ phạm vi áp dụng của thuế nhập khẩu là với hàng hóa được
phép nhập khẩu, bao gồm cả hàng hóa nhập khẩu từ khu chế xuất và từ nước ngoài vào
thị trường trong nước.
Thứ ba, phải nêu rõ những điểm khác biệt của thuế nhập khẩu với các loại thuế
khác là “nó” không áp dụng đối với hàng hóa sản xuất và được tiêu thụ ở thị trường trong
nước mà chỉ đánh vào hàng hóa nhập khẩu và luôn luôn gắn với hoạt động nhập khẩu để
quản lý hoạt động nhập khẩu. Do vậy, thuế nhập khẩu là một trong những công cụ thuộc
chính sách kinh tế thương mại quốc tế của một quốc gia.
Từ những nội dung trên đây, có thể định nghĩa: “Thuế nhập khẩu là một loại thuế
gián thu; một yếu tố cấu thành trong giá cả hàng hóa, do các tổ chức, cá nhân nhập khẩu
8
hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế, thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi đóng góp theo luật
định cho Nhà nước. Thuế nhập khẩu là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính
sách kinh tế tài chính, thương mại vĩ mô tổng hợp, gắn liền với cơ chế quản lý nhập
khẩu, và chính sách đối ngoại của một quốc gia”[30].
1.1.2. Vai trò của thuế nhập khẩu
Khi nhắc đến thuế nhập khẩu người ta thường nói đến chính sách thuế nhập khẩu.
Đây là một công cụ đặc biệt quan trọng mà bất kỳ nhà nước nào trên thế giới cũng đều sử
dụng để hoàn thành chức năng của mình. Vai trò của chính sách thuế nhập khẩu qua các
thời kỳ là như nhau. Tuy nhiên, hiện nay khi xu hướng toàn cầu hóa ngày càng rộng rãi,
hoạt động thương mại quốc tế ngày càng tăng trưởng mạnh mẽ thì vai trò là công cụ để
thực hiện các chính sách đối ngoại của thuế nhập khẩu ngày càng nổi bật[26].
1.1.2.1. Huy động nguồn lực cho Ngân sách Nhà nước
Các nhà kinh tế học thường đề cập vai trò của thuế đối với NSNN và đời sống xã
hội. Vì trên thực tế, thông qua hoạt động thu thuế, Nhà nước tập trung được một bộ phận
của cải xã hội mà từ đó hình thành nên quỹ NSNN và thực hiện các chính sách kinh tế, xã
hội[8].
Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Chính phủ, Nhà nước đóng vai trò
quan trọng trong việc kích thích tăng trưởng kinh tế thông qua việc sử dụng NSNN.
Nguồn thu quan trọng và chủ yếu là thuế chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu NSNN. Việc
thu ngân sách có một vị trí rất quan trọng nhằm bảo đảm cho sự tăng trưởng kinh tế của
quốc gia, xây dựng các công trình dân sinh phục vụ tốt cho đời sống kinh tế, xã hội.
Với tiến trình hội nhập kinh tế thế giới, từng bước cắt giảm thuế quan như hiện nay
thì vai trò của thuế nhập khẩu đối với nguồn thu ngân sách ngày càng giảm. Nhưng đối
với các nước đang phát triển như Việt Nam chúng ta thì thuế nhập khẩu vẫn là nguồn thu
quan trọng cho ngân sách quốc gia. Nếu chúng ta áp dụng mức thuế suất nhập khẩu ở
mức cao thì không những bảo hộ được sản xuất trong nước, mà còn đóng góp nguồn thu
đáng kể cho ngân sách. Ngược lại, nếu áp dụng mức thuế suất thuế nhập khẩu thấp, lập
tức khuyến khích nhập khẩu. Lúc này, nhìn bề ngoài số thu đóng góp cho ngân sách từ
9
thuế nhập khẩu thấp hoặc không đáng kể, nhưng xét trong tổng thể quy trình sản xuất xã
hội, thì thu ngân sách sẽ tăng lên ở khâu tiêu thụ sản phẩm bằng các loại thuế nội địa[17].
1.1.2.2. Kiểm soát hàng hóa nhập khẩu
Khi thị trường mở cửa, có thể nói rằng vì mục tiêu lợi nhuận mà việc mua bán hàng
hoá, dịch vụ có thể diễn ra ở bất kỳ nơi nào và bất kỳ hàng hoá gì. Có những hàng hóa
phục vụ nhu cầu cơ bản của con người, có những hàng hoá dịch vụ là tư liệu sản xuất để
sản xuất sản phẩm là động lực trực tiếp nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Nhưng bên
cạnh đó, cũng có những thứ hàng hoá một khi nhập khẩu vào thị trường trong nước, có
thể gây xáo động đến an ninh, trật tự, tệ nạn xã hội là mầm mống của nhiều tệ nạn xã hội
có thể phát sinh. Chính vì vậy, việc kiểm soát đối với hàng hóa nhập khẩu là nhiệm vụ hết
sức quan trọng đối với mỗi quốc gia, đặc biệt trong xu thế tự do hoá thương mại trên
phạm vi khu vực và thế giới như hiện nay.
Nhà nước sử dụng nhiều công cụ khác nhau như áp dụng hạn ngạch, quy định về
tiêu chuẩn kỹ thuật và thuế quan…để khuyến khích hay hạn chế việc nhập khẩu hàng
hóa. Trong đó thuế quan luôn là một trong những công cụ hiệu quả nhất. Thuế nhập khẩu
là một bộ phận cấu thành vào giá của hàng hóa nhập khẩu, nếu áp dụng mức thuế cao thì
giá thành hàng hóa nhập khẩu sẽ cao và ngược lại. Giá cả của hàng hóa ảnh hưởng rất lớn
đến sức tiêu thụ của loại hàng hóa đó trên thị trường nội địa. Do dó, nhà nước có thể kiểm
soát hàng hóa nhập khẩu thông qua chính sách thuế xuất khẩu. Cụ thể, những mặt hàng
có lợi, nhà nước khuyến khích nhập khẩu thì áp thuế suất thấp, ngược lại những mặt hàng
hạn chế nhập khẩu sẽ bị áp dụng mức thuế nhập khẩu cao[26].
Ví dụ: Hiện nay, trong điều kiện nền kinh tế chưa thực sự phát triển, đời sống nhân
dân còn thấp, hệ thống cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng kịp tốc độ tăng của phương tiện giao
thông, nước ta đã áp mức thuế suất thuế nhập khẩu lên tới 70% để hạn chế việc nhập khẩu
khẩu mặt hàng ô tô con dưới 9 chỗ ngồi[5].
Thông qua việc quản lý thu thuế nhập khẩu cơ quan nhà nước sẽ quản lý được số
lượng, loại hình hàng hóa thực nhập khẩu, từ đó kiểm soát được tất cả hàng hóa nhập
khẩu vào thị trường Việt Nam[26].
10
1.1.2.3. Thực hiện chính sách quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế, đảm bảo công
bằng xã hội
Ngoài việc huy động nguồn thu cho NSNN, thuế là công cụ quan trọng nhất để
phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân. Thuế là công cụ quan trọng để
góp phần ổn định trật tự xã hội, từ đó làm tiền đề cho việc phát triển bền vững, là công cụ
điều tiết vĩ mô của Nhà nước nhằm thể chế hoá và thực hiện chính sách ổn định kinh tế từ
đó tạo sự công bằng xã hội. Hệ thống pháp luật thuế được áp dụng thống nhất chung cho
các ngành nghề, các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư nhằm đảm bảo sự bình đẳng
và công bằng xã hội về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi thể nhân và pháp nhân[30].
Là một bộ phận của hệ thống pháp luật thuế của quốc gia, thuế nhập khẩu có vai
trò quan trọng trong việc điều chỉnh nền kinh tế. Thuế nhập khẩu có ảnh hưởng trực tiếp
đến giá cả hàng hóa. Vì vậy, căn cứ vào tình hình cụ thể mà nhà nước sử dụng công cụ
này để chủ động điều hành nền kinh tế. Lúc nền kinh tế quá thịnh thì việc gia tăng thuế có
tác dụng ức chế sự tăng trưởng của tổng nhu cầu làm giảm phát triển của kinh tế. Những
mặt hàng quan trọng như xăng dầu, sắt thép… khi có sự biến động giá cả trên thế giới, để
ổn định giá cả trong nước nhà nước thông qua công cụ thuế để ổn định giá cả. Như vậy,
qua việc xây dựng các chính sách thuế mà nhà nước có thể chủ động phát huy vai trò điều
hoà nền kinh tế. Dựa vào công cụ thuế, nhà nước có thể thúc đẩy hoặc hạn chế việc tích
luỹ đầu tư, khuyến khích xuất khẩu…[30].
1.1.2.4. Bảo hộ sản xuất trong nước
Ngoài chức năng tạo nguồn thu cho NSNN, thuế nhập khẩu còn có chức năng bảo
hộ nền sản xuất trong nước thông qua việc tác động vào giá cả hàng hóa xuất nhập khẩu
trên thị trường. Thực tế, rất khó có thể phân biệt rạch ròi giữa thuế quan tạo nguồn thu và
thuế quan bảo hộ bởi vì bản thân thuế quan đã chứa đựng hai yếu tố là bảo hộ và tạo
nguồn thu[30].
Chức năng bảo hộ nền sản xuất trong nước được thuế nhập khẩu thực hiện thông
qua việc tăng giá thành hàng hóa nhập khẩu. Do thuế nhập khẩu chỉ ảnh hưởng lên giá cả
chứ không làm giảm chất lượng hàng hóa nên xét đến cùng thì mục tiêu này không bền
vững, lâu dài và chỉ mang tính tình thế. Nói chung thuế quan bảo hộ được tính toán và
11
đưa ra khi người ta cho rằng ở mức thuế suất thấp hơn thì sản xuất trong nước sẽ gặp phải
sự cạnh tranh rất quyết liệt từ hàng nhập khẩu và thị phần về cơ bản sẽ nằm trong tay các
nhà nhập khẩu[26].
Bảo hộ sản xuất trong nước nhằm hỗ trợ nền sản xuất phát triển, tạo công ăn việc
làm và nguồn thu nội địa. Bảo hộ cũng làm giảm tính cạnh tranh, lãng phí nguồn nhân lực
gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Chính vì vậy, việc lựa chọn ngành nghề bảo hộ, thời
gian bảo hộ phù hợp là điều vô cùng quan trọng. Để mục tiêu bảo hộ mang tính bền vững,
lâu dài thì yếu tố quyết định đó là đầu tư đổi mới công nghệ, cải tiến phương thức quản lý
nhằm nâng cao chất lượng, hạ giá thành để sản phẩm có thể cạnh tranh được ở thị trường
trong nước cũng như quốc tế[9].
1.1.2.5. Thực hiện các chính sách đối ngoại
Hiện nay, Việt Nam đã thiết lập mối quan hệ thương mại với hơn 160 nước và
vùng lãnh thổ, tham gia 86 hiệp định thương mại, 46 hiệp định hợp tác đầu tư và 40 hiệp
định chống đánh thuế 2 lần, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của trên 70 nước, chính
thức là thành viên thứ 150 của WTO năm 2006[25]. Để xác định mức độ chịu thuế của
các hàng hóa khác nhau thì mỗi nước đều xây dựng một biểu thuế quan. Biểu thuế quan là
một bảng tổng hợp quy định một cách có hệ thống các mức thuế quan đánh vào các loại
hàng hóa chịu thuế khi xuất khẩu hoặc nhập khẩu. Biểu thuế quan có thể được xây dựng
dựa trên phương pháp tự định hoặc phương pháp thương lượng giữa các quốc gia. Việc áp
dụng các mức thuế suất thuế nhập khẩu đối với hàng hóa từ các nước, vùng lãnh thổ khác
nhau thể hiện chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với nước, vùng lãnh thổ đó[1].
1.1.3. Đặc điểm của thuế nhập khẩu
Thuế nhập khẩu có các đặc điểm sau:
- Một là, thuế nhập khẩu là loại thuế gián thu nhằm động viên một phần giá trị mới
nằm trong giá cả hàng hoá trao đổi qua biên giới một nước, người nộp thuế là các tổ chức,
cá nhân có hàng hoá nhập khẩu, còn người chịu thuế là người tiêu dùng các hàng hoá đó,
họ mua hàng hoá với giá cả trong đó có cả thuế. Với cơ chế này, người kinh doanh hàng
hoá nhập khẩu khi bán hàng hoá cũng là lúc họ thu hộ thuế nhập khẩu cho Nhà nước (qua
giá bán hàng hoá) và nộp khoản thuế nhập khẩu này cho Nhà nước, tức là nộp hộ người
12
tiêu dùng hàng hoá. Do đó, thuế nhập khẩu cũng là một loại thuế điều tiết vào thu nhập
của người tiêu dùng hàng hoá nhập khẩu, thông qua cơ chế giá hàng hoá và dịch vụ. Thuế
nhập khẩu “được che đậy” trong giá bán hàng hoá nên người chịu thuế (người tiêu dùng
hàng hoá nhập khẩu) ít có cảm giác mình bị Nhà nước đánh thuế[15].
- Hai là, thuế nhập khẩu là loại thuế gắn liền với hoạt động ngoại thương. Thuế
nhập khẩu là một công cụ quan trọng của nhà nước nhằm kiểm soát hoạt động ngoại
thương thông qua việc kê khai, kiểm tra, tính thuế đối với các hàng hoá nhập khẩu. Việc
đánh thuế thường căn cứ vào giá trị và chủng loại hàng hoá nhập khẩu. Giá trị của hàng
hoá được xác định làm căn cứ tính thuế nhập khẩu là giá trị của hàng hoá tại cửa khẩu
nhập đầu tiên. Thuế nhập khẩu thu vào các nhóm hàng, mặt hàng nhập khẩu. Đối với các
loại hàng hoá nhập khẩu khác nhau thì mã số khác nhau và có mức thuế suất thuế nhập
khẩu khác nhau và những điều này đã được quy định rõ trong Luật thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu[15].
- Ba là, thuế nhập khẩu là một khoản thu nhập của NSNN chịu sự tác động của các
yếu tố về chính trị và xã hội, kinh tế trong những thời kỳ nhất định[15].
Các yếu tố về chính trị, xã hội tác động đến thuế nhập khẩu như là: thể chế chính
trị của Nhà nước, tập quán tiêu dùng của các lớp dân cư, truyền thống văn hoá, xã hội của
dân tộc
Các yếu tố về kinh tế tác động đến thuế nhập khẩu là: tốc độ tăng trưởng kinh tế
quốc dân, thu nhập bình quân đầu người, giá cả, thị trường, sự biến động của các dòng
vốn đầu tư nước ngoài
1.1.4. Các yếu tố cơ bản của thuế nhập khẩu
1.1.4.1. Thuế suất và biểu thuế suất nhập khẩu
Thuế suất là yếu tố quan trọng nhất của một chính sách thuế. Thuế suất biểu hiện
quan điểm hạn chế hay khuyến khích việc nhập khẩu một loại hàng hoá nào đó của nhà
nước. Thuế suất các mặt hàng nhập khẩu được tập hợp thành “Biểu thuế nhập khẩu” và
được ban hành dưới dạng một văn bản pháp quy[25].
Biểu thuế nhập khẩu: Số lượng các mặt hàng nhập khẩu chịu thuế của một quốc gia
là rất nhiều nên các mặt hàng này sẽ được phân thành từng chương, nhóm, phân nhóm để
13
tiện cho việc tra cứu. Chính sách thuế nhập khẩu của một quốc gia không những ảnh
hưởng đến lợi ích của quốc gia đó mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của nước xuất khẩu. Vì
vậy, việc phân loại hàng hoá thống nhất giữa các quốc gia để xây dựng biểu thuế nhập
khẩu là một vấn đề hết sức quan trọng[5].
1.1.4.2. Trị giá tính thuế hàng nhập khẩu
Trị giá tính thuế hay trị giá hải quan của hàng hoá nhập khẩu được xác định nhằm
mục đích quản lý của cơ quan hải quan. Việc xác định đúng trị giá hải quan có vai trò hết
sức quan trọng vì nó là cơ sở cho việc tính thuế nhập khẩu và trực tiếp ảnh hưởng đến
nguồn thu ngân sách, chính sách bảo hộ cũng như ảnh hưởng đến quan hệ thương mại,
ngoại giao giữa các nước[30].
Thuế là khoản đóng góp của toàn dân nhằm hình thành nên ngân sách của một
quốc gia. Thông qua khoản đóng góp đó mà Nhà nước thực hiện các chức năng phân phối
và phân phối lại các nguồn thu từ thuế. Trong cơ cấu thuế của Việt Nam thì thuế nhập
khẩu chiếm tỉ trọng rất cao với vai trò quan trọng là tạo nguồn thu cho NSNN. Ngoài ra,
thuế nhập khẩu còn có vai trò trong việc kiểm soát hàng hóa nhập khẩu, bảo hộ nền sản
xuất trong nước và thực hiện những chính sách đối ngoại của đất nước. Tuy nhiên, khi hội
nhập vào nền kinh tế thế giới thì Việt nam phải tuân thủ nghiêm ngặt các cam kết trong
hội nhập và vai trò của thuế nhập khẩu sẽ ảnh hưởng theo chiều hướng hạn chế dần[17].
1.2. TỔNG QUAN VỀ HẢI QUAN
1.2.1. Lịch sử ra đời, quá trình tổ chức hoạt động của Hải quan Việt Nam
Các triều đại phong kiến Việt Nam với chính sách bế quan tỏa cảng cùng với nền
kinh tế tự cung, tự cấp đã kìm hãm sự phát triển của quan hệ kinh tế đối ngoại, do đó cũng
không tồn tại một chế độ thuế quan thống nhất của nhà nước. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX, khi xâm lược Đông Dương, thực dân Pháp đã đặt ra một chế độ thuế quan phục vụ
cho việc khai thác, bóc lột thuộc địa chủ yếu dựa trên các luật lệ hải quan chính quốc. Khi
nước ta giành được độc lập vào năm 1945, Hải quan Việt Nam – một tổ chức Hải quan
cách mạng chính thức được ra đời. Từ đây, lịch sử phát triển của Hải quan Việt Nam gắn
liền với sự phát triển của cách mạng nước ta[27,33].
14
Để bảo vệ chủ quyền kinh tế đất nước, chỉ sau 8 ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên
bố độc lập (02/9/1945), ngày 10/9/1945, theo Sắc lệnh số 27-SL của Chủ tịch Chính phủ
lâm thời Việt Nam dân chủ Cộng hòa, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyễn Giáp, thay mặt
Chính phủ ký thành lập “Sở Thuế quan và Thuế gián thu”, khai sinh ra ngành Thuế quan
cách mạng, tiền thân của Hải quan Việt Nam ngày nay. Khi đó, Sở Thuế quan và Thuế
gián thu được giao nhiệm vụ: Thu các quan thuế nhập cảnh và xuất cảnh, thu thuế gián
thu. Sau đó, Ngành được giao thêm nhiệm vụ chống buôn lậu thuốc phiện và có quyền
định đoạt, hoà giải đối với các vụ vi phạm về thuế quan và thuế gián thu[33].
Ngày 29/5/1946, theo Sắc lệnh số 75-SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tổ chức của
Bộ Tài chính, Sở Thuế quan và Thuế gián thu được đổi thành Nha Thuế quan và Thuế
gián thu thuộc Bộ Tài chính.
Ngày 4/7/1951, Bộ trưởng Bộ Tài chính Lê Văn Hiến đã ký Nghị định số 54/NĐ
quy định lại tổ chức của Bộ Tài chính, Nha Thuế quan và Thuế gián thu được đổi thành
Cơ quan Thuế Xuất nhập khẩu.
Ngày 14/12/1954, Bộ trưởng Bộ Công thương Phan Anh ký Nghị định số 136-
BCT/KB/NĐ thành lập Sở Hải quan thay thế Cơ quan Thuế Xuất nhập khẩu thuộc Bộ
Công thương.
Trước yêu cầu mới về phát triển kinh tế, Điều lệ Hải quan 1960 đã ra đời, đánh dấu
bước phát triển vượt bậc của Hải quan Việt Nam. Điều lệ này là văn bản pháp quy về Hải
quan đầu tiên tương đối hoàn chỉnh của nhà nước quy định nhiệm vụ quyền hạn của Hải
quan Việt Nam, thể lệ, thủ tục hải quan, chế độ kiểm tra giám sát, quản lý hải quan đối
với hoạt động xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh,…và ngăn ngừa đấu tranh chống buôn lậu
hàng hóa qua biên giới. Ngày 17/2/1962, để thực hiện Điều lệ Hải quan Thứ trưởng Bộ
Ngoại thương Lý Ban ký Quyết định số 490/BNT/QĐ-TCCB đổi tên Sở Hải quan thành
Cục Hải quan. Lúc này, Cục Hải quan trực thuộc Bộ Ngoại thương[33].
Khi cả nước ta bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ III (1981-1985) bên
cạnh những thuận lợi cơ bản đã có không ít những khó khăn. Kẻ địch và bọn phản động
đã tiến hành phá hoại nước ta về nhiều mặt. Tình hình buôn lậu diễn biến hết sức phức
tạp, không chỉ là hoạt động bình thường của bọn gian thương mà ngày càng lộ rõ âm mưu