Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

phân tích sự ảnh hưởng của các thuộc tính địa phương đến sự hài lòng của doanh nghiệp tại tỉnh phú yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 97 trang )





BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG




HỒ THỊ BẢO HOÀNG



PHÂN TÍCH SỰ ẢNH HƢỞNG CỦA CÁC THUỘC TÍNH
ĐỊA PHƢƠNG ĐẾN SỰ HÀI LÒNG CỦA DOANH NGHIỆP
TẠI TỈNH PHÚ YÊN



LUẬN VĂN THẠC SĨ
Ngành: Quản trị kinh doanh
Mã số: 60340102







Khánh Hòa, năm 2014





BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG




HỒ THỊ BẢO HOÀNG



PHÂN TÍCH SỰ ẢNH HƢỞNG CỦA CÁC THUỘC TÍNH
ĐỊA PHƢƠNG ĐẾN SỰ HÀI LÒNG CỦA DOANH NGHIỆP
TẠI TỈNH PHÚ YÊN



LUẬN VĂN THẠC SĨ
Ngành: Quản trị kinh doanh
Mã số: 60340102


NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ KIM LONG



Khánh Hòa, năm 2014

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn “Phân tích sự ảnh hưởng của các thuộc tính địa
phương đến sự hài lòng của doanh nghiệp tại tỉnh Phú Yên” là kết quả của quá trình
học tập, nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu trong luận văn này được thu thập từ thực tế, có nguồn gốc rõ ràng,
đáng tin cậy, được xử lý trung thực, khách quan. Kết quả nghiên cứu được trình
bày trong luận văn này không sao chép của bất cứ luận văn nào và cũng chưa được
trình bày hay công bố ở bất cứ công trình nghiên cứu nào khác trước đây.


Nha Trang, ngày 28 tháng 04 năm 2014
Tác giả luận văn





Hồ Thị Bảo Hoàng
ii


LỜI CẢM ƠN

Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn TS. Lê Kim Long đã có rất nhiều đóng
góp ý kiến, động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và thực
hiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô Khoa Đào tạo sau đại học - Trường Đại

học Nha Trang tham gia giảng dạy khóa học đã truyền đạt cho tôi những kiến thức
quý báu làm nền tảng cho việc thực hiện luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn Ông Bùi Đức Hùng – Phó giám đốc Trung tâm xúc tiến
đầu tư – Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Phú Yên, Ông Ngô Đức Toàn – Cục trưởng cục
Thuế tỉnh Phú Yên, Ông Hồ Văn Phước – Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật tỉnh
Phú Yên, Ông Trương Quốc Huy – Giám đốc Công ty TNHH cà phê Huy Tùng đã tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi được tiếp cận với các cơ quan, ban ngành của địa phương
và các tài liệu phục vụ cho nghiên cứu này.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn đại diện các doanh nghiệp, các đơn vị
đã giúp tôi trả lời bảng câu hỏi khảo sát.

Hồ Thị Bảo Hoàng
iii

MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA Trang
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT vi
DANH MỤC BẢNG vii
DANH MỤC HÌNH ix
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Sự cần thiết của đề tài: 1
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài: 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 4
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT 6
1.1 Tổng quan về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh cấp tỉnh: 6
1.1.1 Khái niệm cạnh tranh: 6
1.1.2 Năng lực cạnh tranh: 6

1.1.3 Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh: 7
1.1.4 Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI): 8
1.1.5 Mối quan hệ giữa năng lực cạnh tranh cấp tỉnh và marketing địa phương: 10
1.2 Thuộc tính địa phương và sự hài lòng của doanh nghiệp: 12
1.2.1 Thuộc tính địa phương: 12
1.2.2 Sự hài lòng của doanh nghiệp: 14
1.2.3 Các yếu tố tác động đến sự hài lòng của doanh nghiệp: 17
1.3 Tổng quan nghiên cứu liên quan: 19
1.4 Mô hình nghiên cứu đề xuất và giả thiết: 22
1.4.1 Mô hình nghiên cứu đề xuất: 22
1.4.2 Các giả thuyết nghiên cứu: 23
Chƣơng 2: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 24
2.1 Quy trình thực hiện: 24
2.2 Nghiên cứu định tính: 25
2.3 Nghiên cứu định lượng: 31
2.3.1 Mẫu nghiên cứu và phương pháp thu thập số liệu: 31
iv

2.3.2 Phương pháp phân tích số liệu: 31
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 35
3.1 Giới thiệu tổng quan về Phú Yên: 35
3.2 Thống kê mô tả mẫu: 37
3.3 Làm sạch và xử lý dữ liệu: 38
3.4 Đánh giá độ tin cậy của thang đo: 39
3.4.1 Đánh giá độ tin cậy thang đo nhóm thuộc tính cơ sở hạ tầng: 39
3.4.2 Đánh giá độ tin cậy thang đo nhóm thuộc tính chế độ chính sách và dịch vụ
kinh doanh: 40
3.4.3 Đánh giá độ tin cậy thang đo nhóm thuộc tính môi trường sống và kinh
doanh: 41
3.4.4 Đánh giá độ tin cậy thang đo nhóm thuộc tính mức độ hài lòng của doanh

nghiệp: 42
3.5 Phân tích nhân tố (EFA): 44
3.5.1 Phân tích nhân tố thuộc tính cơ sở hạ tầng: 44
3.5.2 Phân tích nhân tố thuộc tính chế độ chính sách và dịch vụ kinh doanh: 46
3.5.3 Phân tích nhân tố thuộc tính môi trường sống và kinh doanh: 47
3.5.4 Phân tích nhân tố thuộc tính mức độ hài lòng của doanh nghiệp: 49
3.6 Điều chỉnh mô hình nghiên cứu: 51
3.7 Phân tích tương quan và hồi quy tuyến tính: 52
3.7.1 Kiểm định hệ số tương quan: 53
3.7.2 Phân tích hồi quy và kiểm định các giả thuyết: 53
3.7.3 Kiểm định phi tham số Kruskal – Wallis: 64
3.7.4 Đánh giá sự hài lòng của doanh nghiệp với các thuộc tính quan trọng: 58
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 67
1. Tóm tắt: 67
2. Kết luận: 69
2.1. Mô hình nghiên cứu: 69
2.2. Mô hình lý thuyết: 70
2.3. Đánh giá sự hài lòng của doanh nghiệp: 70
3. Kiến nghị: 71
3.1. Kiến nghị về hệ thống hải quan, thuế, ngân hàng: 71
v

3.1.1. Đối với hệ thống hải quan, thuế: 71
3.1.2. Đối với hệ thống ngân hàng: 71
3.2. Kiến nghị về chất lượng lao động: 72
3.3. Kiến nghị về Hỗ trợ chính quyền và thủ tục cấp phép đầu tư: 74
4. Hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo: 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO 76
PHỤ LỤC 78




vi

DANH MỤC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

DN : Doanh nghiệp
DNNN : Doanh nghiệp nhà nước
DNNNg : Doanh nghiệp nước ngoài
DNTN : Doanh nghiệp tư nhân
EFA : Exploratory Factor Anylis (Phân tích nhân tố khám phá)
KCN : Khu công nghiệp.
NLCT : Năng lực cạnh tranh
PCI : Provincial Competitiveness Index (Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh)
UBND : Ủy ban nhân dân
vii

DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: Trọng số của các chỉ số thành phần 10
Bảng 1.2: Yếu tố hấp dẫn cứng và mềm 11
Bảng 2.1: Thang đo Cơ sở hạ tầng 28
Bảng 2.2: Thang đo Chế độ chính sách và dịch vụ kinh doanh 28
Bảng 2.3: Thang đo Môi trường sống và kinh doanh 29
Bảng 2.4: Thang đo Sự hài lòng của doanh nghiệp 30
Bảng 3.1: Vốn đầu tư của tỉnh Phú Yên giai đoạn 2000 – 2012. 36
Bảng 3.2: Xếp hạng năng lực cạnh tranh của một số tỉnh vùng Nam Trung Bộ 36
Bảng 3.3: Thống kê mẫu theo ngành nghề và loại hình doanh nghiệp 37
Bảng 3.4: Thống kê mẫu theo Nguồn vốn kinh doanh 37
Bảng 3.5: Thống kê mẫu theo Số lượng lao động 38
Bảng 3.6: Thống kê mẫu theo Thời gian kinh doanh 38

Bảng 3.7: Độ tin cậy thang đo 39
Bảng 3.8: Hệ số tương quan biến tổng. 39
Bảng 3.9: Độ tin cậy thang đo. 40
Bảng 3.10: Hệ số tương quan biến tổng. 40
Bảng 3.11: Độ tin cậy thang đo 41
Bảng 3.12: Hệ số tương quan biến tổng. 42
Bảng 3.13: Độ tin cậy thang đo phân tích lần 1 43
Bảng 3.14: Hệ số tương quan biến tổng phân tích lần 1 43
Bảng 3.15: Độ tin cậy thang đo phân tích lần 2 43
Bảng 3.16: Hệ số tương quan biến tổng phân tích lần 2 44
Bảng 3.17: Bảng KMO và kiểm định Bartlett 44
Bảng 3.18: Bảng phương sai trích khi phân tích nhân tố 45
Bảng 3.19: Kết quả phân tích nhân tố nhóm cơ sở hạ tầng 45
Bảng 3.20: Bảng KMO và kiểm định Bartlett 46
Bảng 3.21: Bảng phương sai trích khi phân tích nhân tố 46
Bảng 3.22: Kết quả phân tích nhân tố chế độ chính sách và dịch vụ kinh doanh 47
Bảng 3.23: Bảng KMO và kiểm định Bartlett 48
Bảng 3.24: Bảng phương sai trích khi phân tích nhân tố 48
Bảng 3.25: Kết quả phân tích nhân tố nhóm môi trường sống và kinh doanh 48
viii

Bảng 3.26: Bảng KMO và kiểm định Bartlett 49
Bảng 3.27: Bảng phương sai trích khi phân tích nhân tố 49
Bảng 3.28: Kết quả phân tích nhân tố nhóm mức độ hài lòng của doanh nghiệp 49
Bảng 3.29: Kết quả phân tích sự phù hợp của mô hình 54
Bảng 3.30: Kết quả phân tích phương sai. 54
Bảng 3.31: Kết quả phân tích hồi quy tuyến tính. 54
Bảng 3.32: Kết quả kiểm định Kruskal – Wallis với Loại hình doanh nghiệp 64
Bảng 3.33: Kết quả kiểm định Kruskal – Wallis với Loại hình doanh nghiệp 64
Bảng 3.34: Kết quả kiểm định Kruskal – Wallis với Ngành nghề kinh doanh 65

Bảng 3.35: Kết quả kiểm định Kruskal – Wallis với Nguồn vốn kinh doanh 65
Bảng 3.36: Kết quả kiểm định Kruskal – Wallis với Số lượng lao động 65
Bảng 3.37: Kết quả kiểm định Kruskal – Wallis với Số lượng lao động 66
Bảng 3.38: Sự hài lòng về Hệ thống hải quan, thuế và ngân hàng. 59
Bảng 3.39: Sự hài lòng về Chất lượng lao động. 61
Bảng 3.40: Sự hài lòng về Hỗ trợ chính quyền và thủ tục cấp phép đầu tư 62

ix


DANH MỤC HÌNH

Hình 1.1: Mô hình nghiên cứu đề xuất 23
Hình 2.1: Quy trình nghiên cứu 25
Hình 3.1: Mô hình nghiên cứu điều chỉnh sau phân tích nhân tố EFA 52
Hình 3.2: Biểu đồ Scatterplot 56
Hình 3.3: Biểu đồ tần số Histogram 56
Hình 3.4: Biểu đồ P – P plot 57
Hình 3.5: Mô hình nghiên cứu điều chỉnh sau phân tích hồi quy 58
1


PHẦN MỞ ĐẦU
Phần mở đầu nhằm mục đích giới thiệu sự cần thiết của đề tài, mục tiêu nghiên
cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, những đóng góp của
nghiên cứu và kết cấu của đề tài nghiên cứu.
1. Sự cần thiết của đề tài:
Kể từ khi Việt Nam gia nhập vào Tổ chức thương mại Thế giới WTO, số lượng
doanh nghiệp không ngừng tăng lên. Trong giai đoạn 2011 – 2013, cả nước có thêm
224.200 doanh nghiệp thành lập mới, chiếm gần 41% tổng số doanh nghiệp được

thành lập trong giai đoạn 20 năm (từ 1991 – 2010).[1]
Các doanh nghiệp Việt Nam đã có nhiều đóng góp vào GDP quốc gia sau khi
Luật Doanh nghiệp ra đời năm 2005. Về tỷ trọng trong cơ cấu GDP, doanh nghiệp
ngoài Nhà nước luôn chiếm tỷ trọng cao nhất, ở mức 48 – 49% GDP toàn xã hội giai
đoạn 2009 – 2012. Tỷ trọng doanh nghiệp Nhà nước chiếm vị trí thứ 2 nhưng đang có
xu hướng giảm dần theo chương trình cổ phần hóa của Chính phủ, theo đó, tỷ trọng
GDP của khu vực doanh nghiệp Nhà nước đã giảm từ 37,72% năm 2009 xuống còn
32,57% năm 2012. Trong khi đó, khu vực doanh nghiệp FDI, chiếm tỷ trọng thấp nhất,
tương đối ổn định ở mức 17 – 18% trong giai đoạn 2009 – 2012. Những đóng góp này
đã và đang đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế – xã hội của Việt
Nam nói chung và các địa phương nói riêng.
Với những đóng góp của mình vào nền kinh tế, cộng đồng doanh nghiệp Việt
Nam luôn được Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ cho các bộ, ngành, địa phương thực
hiện các nhiệm vụ cần thiết theo chức trách của mình nhằm tạo mọi thuận lợi cho cộng
đồng doanh nghiệp tiếp tục phát triển, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp
thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh hiệu quả, bền vững. Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng đã phát biểu trong Hội nghị Thủ tướng Chính phủ với doanh nghiệp: “Chính
phủ luôn đặc biệt quan tâm tập trung hoàn thiện thể chế thị trường, xây dựng cơ chế,
chính sách; cải cách hành chính, đặc biệt là thủ tục hành chính; yêu cầu các cơ quan
chức năng rà soát lại các thủ tục thanh tra, kiểm tra nhằm cắt giảm tối đa phiền hà,
qua đó tạo điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp phát triển sản xuất, kinh
doanh”.[1]
Bên cạnh việc tổ chức các hội nghị đối thoại với doanh nghiệp, hàng năm Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp cùng với Cơ quan Phát triển
2

Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) điều tra đánh giá của các doanh nghiệp về vấn đề điều hành
kinh tế tỉnh và môi trường kinh doanh ở Việt Nam thông qua chỉ số năng lực cạnh
tranh cấp tỉnh (PCI). Chỉ số này đã được sử dụng nhằm điều tra đánh giá của doanh
nghiệp dựa trên cơ sở các yếu tố nguồn lực mềm của địa phương về công tác quản lý

và điều hành kinh tế. Qua đó có thể thấy, đánh giá của cộng đồng doanh nghiệp luôn
nhận được sự quan tâm và là động lực để các địa phương cải thiện và nâng cao hơn
nữa năng lực cạnh tranh của địa phương mình.
Tại Phú Yên hiện nay có hơn 1600 doanh nghiệp, trong đó chiếm đa phần là
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Những đóng góp của cộng đồng doanh nghiệp Phú Yên vào
sự phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, theo đánh giá
nghiên cứu về chỉ số PCI, Phú Yên được các doanh nghiệp đánh giá thấp về năng lực
cạnh tranh và cũng là địa phương có mức thu hút đầu tư thấp so với nhiều địa phương
khác trong nước. Theo báo cáo nghiên cứu của VCCI thực hiện khảo sát các doanh
nghiệp cho thấy, chỉ số PCI của tỉnh Phú Yên giai đoạn 2010 – 2013 có chiều hướng đi
xuống và xếp hạng thấp. Cụ thể năm 2011, Phú Yên xếp hạng 50/63, thuộc nhóm xếp
hạng khá, năm 2012 xếp hạng 52/63, thuộc nhóm xếp hạng khá và năm 2013 xếp hạng
51/63, thuộc nhóm xếp hạng tương đối thấp.
Đến năm 2012, Phú Yên có 258 dự án đang triển khai đầu tư; trong đó vốn đầu tư
trong nước có 223 dự án với số tiền đăng ký đầu tư gần 51.000 tỉ đồng và 35 dự án có
vốn đầu tư nước ngoài hơn 8 tỉ USD. Tuy nhiên, số dự án đã đầu tư và đi vào hoạt
động mới 111 dự án; trong đó đầu tư nước ngoài có 25 dự án. Hàng loạt dự án lớn
không triển khai được như dự án thành phố sáng tạo Nam Tuy Hòa, dự án lọc – hóa
dầu Vũng Rô từng đưa Phú Yên xếp thứ nhì cả nước về thu hút đầu tư nước ngoài.
Đến năm 2013, Phú Yên có 42 dự án FDI còn hiệu lực, với tổng vốn đầu tư đăng ký
6,405 tỷ USD, đã có 26 dự án đã đi vào hoạt động với vốn đầu tư chỉ ở mức 436,6
triệu USD, điều này cho thấy một kết quả chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh.
Để thu hút đầu tư và nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh của tỉnh Phú Yên, chính
quyền tỉnh đã tập trung triển khai thực hiện chương trình hành động của UBND tỉnh về
cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh và nâng cao Chỉ số năng lực cạnh tranh của
tỉnh, xây dựng, thực hiện 3 chương trình trọng điểm về đầu tư xây dựng kết cấu hạ
tầng, cải cách hành chính và đào tạo nguồn nhân lực. Tuy nhiên, những cam kết về
chính sách, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh mà chính quyền tỉnh Phú Yên đưa
3


ra có dựa trên cơ sở phân tích năng lực cạnh tranh của địa phương và đáp ứng được
yêu cầu của các doanh nghiệp?
Bên cạnh đó, điều các doanh nghiệp quan tâm ở một địa phương là thị trường lao
động, so sánh điều kiện và chi phí hoạt động, so sánh thuế, phí, đánh giá các hình thức
khuyến khích, đầu tư cơ sở hạ tầng, giao thông, liên lạc… Nói cách khác, doanh
nghiệp quan tâm đến các đặc điểm hay thuộc tính của địa phương. Các thuộc tính đó
bao gồm nhóm yếu tố cứng (điều kiện địa lý, tự nhiên, xã hội, hệ thống cơ sở hạ tầng,
quy mô thị trường,…) và nhóm yếu tố nguồn lực mềm chịu tác động trực tiếp từ thái
độ và hành động của chính quyền địa phương. Các điều tra về chỉ số năng lực cạnh
tranh cấp tỉnh (PCI) mà VCCI thực hiện hàng năm chỉ điều tra đánh giá của doanh
nghiệp liên quan đến các yếu tố nguồn lực mềm của các địa phương.
Như vậy việc xem xét cải thiện các thuộc tính địa phương nhằm nâng cao sự hài
lòng của doanh nghiệp cũng là một yêu cầu cấp thiết đối với chính quyền địa phương
và các nhà hoạch định chính sách. Nếu chỉ dựa vào chỉ số năng lực cạnh tranh thực
hiện các biện pháp cải thiện các nguồn lực mềm của địa phương đã là hợp lý hay
chưa? Đây là những vấn đề không chỉ Phú Yên mà nhiều địa phương khác cũng đang
quan tâm nhưng cho đến nay mới chỉ có nghiên cứu của Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn
Thị Mai Trang thực hiện nghiên cứu tại Tiền Giang năm 2005 có phân tích, đánh giá
cụ thể về vấn đề này, tại Phú Yên chưa có nghiên cứu được thực hiện. Chính vì những
lý do trên, tôi đã chọn cho mình đề tài “Phân tích sự ảnh hưởng của các thuộc tính
địa phương đến sự hài lòng của doanh nghiệp tại tỉnh Phú Yên”.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
a. Mục tiêu nghiên cứu tổng quát:
Đề tài nhằm mục tiêu xác định, đo lường mức độ hài lòng của các doanh nghiệp
đang đầu tư, kinh doanh tại Phú Yên về các thuộc tính địa phương của tỉnh, từ đó đưa
ra những kiến nghị nhằm nâng cao sự hài lòng của doanh nghiệp.
b. Mục tiêu nghiên cứu cụ thể:
Đề tài này thực hiện nhằm đạt được các mục tiêu chính sau đây:
- Đo lường mức độ hài lòng của các doanh nghiệp đối với các thuộc tính địa
phương tại tỉnh Phú Yên.

- Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của doanh nghiệp đối với các
thuộc tính địa phương của tỉnh Phú Yên.
4

- Xác định mức độ quan trọng của từng nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của
doanh nghiệp đối với các thuộc tính địa phương của tỉnh Phú Yên.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: là sự hài lòng của các doanh nghiệp đang đầu tư kinh
doanh tại Phú Yên.
- Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu được thực hiện tại tỉnh Phú Yên. Thời gian
thực hiện nghiên cứu từ tháng 07 đến tháng 11 năm 2013.
4. Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu:
a. Ý nghĩa khoa học:
Đề tài góp phần bổ sung thêm cơ sở lý thuyết về năng lực cạnh tranh cấp tỉnh và
sự hài lòng của doanh nghiệp đối với các thuộc tính của một địa phương.
b. Ý nghĩa thực tiễn:
Trên cơ sở những lý thuyết về năng lực cạnh tranh cấp tỉnh và sự hài lòng của
doanh nghiệp đối với các thuộc tính của một địa phương, cụ thể tại địa phương, người
nghiên cứu xác định được mô hình nghiên cứu đo lường sự hài lòng của doanh nghiệp
tại Phú Yên, từ đó làm căn cứ khoa học cho những chính sách của chính quyền địa
phương nhằm nâng cao hơn nữa sự hài lòng của doanh nghiệp tại Phú Yên nói riêng và
các địa phương khác ở Việt Nam nói chung. Ngoài ra, đề tài có thể làm tài liệu tham
khảo hữu ích cho các nghiên cứu liên quan.
5. Kết cấu của luận văn:
Ngoài mục lục, danh mục bảng, danh mục hình, danh mục sơ đồ, tài liệu tham
khảo, luận văn được kết cấu gồm phần mở đầu, kết luận và 3 chương chính. Nội
dung cụ thể trong từng chương như sau
Phần mở đầu: Giới thiệu sự cần thiết của đề tài, mục tiêu nghiên cứu, đối tượng
và phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, những đóng góp của nghiên cứu và
kết cấu của đề tài nghiên cứu.

Chƣơng 1: Cơ sở lý thuyết. Chương này giới thiệu những khái niệm về cạnh
tranh và năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, thuộc tính địa phương và sự hài lòng của doanh
nghiệp, tổng quan các nghiên cứu liên quan và đưa ra mô hình nghiên cứu cùng các
giả thuyết
5

Chƣơng 2: Phương pháp nghiên cứu. Chương này giới thiệu phương pháp thiết
kế nghiên cứu, xây dựng thang đo, quá trình thu thập thông tin và giới thiệu phương
pháp xử lý, phân tích số liệu thống kê.
Chƣơng 3: Kết quả nghiên cứu. Chương này phân tích đối tượng khảo sát, kết
quả đánh giá về độ tin cậy và độ giá trị của thang đo, kiểm định các giả thuyết nghiên
cứu, kết quả đo lường sự hài lòng của doanh nghiệp cùng các kết quả thống kê suy
diễn.
Phần kết luận và kiến nghị: Phần này đưa ra kết luận về nghiên cứu và đề xuất
một số kiến nghị nhằm nâng cao sự hài lòng của doanh nghiệp đối với các thuộc tính
địa phương của tỉnh Phú Yên.
6


Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Cơ sở lý thuyết để thực hiện nghiên cứu “Phân tích sự ảnh hưởng của các thuộc
tính địa phương đến sự hài lòng của doanh nghiệp tại tỉnh Phú Yên” gồm lý thuyết về
cạnh tranh và cạnh tranh cấp tỉnh, thuộc tính địa phương và sự hài lòng của doanh
nghiệp, tổng quan các nghiên cứu liên quan từ đó đưa ra mô hình nghiên cứu đề xuất.
1.1 Tổng quan về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh cấp tỉnh:
1.1.1 Khái niệm cạnh tranh:
Ngày nay, cạnh tranh là một thuật ngữ được nhắc đến rất nhiều trong kinh tế. Hệ
thống lý thuyết về cạnh tranh cũng đã cho thấy, từ khi nền kinh tế hàng hóa ra đời,
cạnh tranh đã xuất hiện theo đó. Cạnh tranh tồn tại ở cả mặt vi mô và vĩ mô của nền
kinh tế.

Theo K.Marx, cạnh tranh là “sự ganh đua đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản
nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu dùng hàng hóa để thu
được lợi nhuận siêu ngạch”. [14]
Hai nhà kinh tế học Mỹ P.A Samuelson và W.D.Nordhaus cho rằng cạnh tranh
(Competition) là sự kình địch giữa các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để dành
khách hàng hoặc thị trường. [14]
Michael Porter cũng có nhiều nghiên cứu về cạnh tranh ở nhiều cấp độ từ cạnh
tranh doanh nghiệp, ngành cho đến cạnh tranh quốc gia. Theo ông, cạnh tranh được
xác định là nguồn gốc của tiến bộ kinh tế ở bất kỳ quốc gia nào và là nền tảng cho
những công dân có năng suất cao và đời sống dư dả. [8]
Tác giả Nguyễn Văn Khôn trong từ điển Hán việt giải thích: "Cạnh tranh là ganh
đua hơn thua". [14]
Từ những quan điểm trên, có thể hiểu cạnh tranh xảy ra với các điều kiện sau:
Phải có nhiều chủ thể cùng nhau tham gia cạnh tranh, đó là các chủ thể có cùng các
mục đích, mục tiêu; Việc cạnh tranh phải được diễn ra trong một môi trường cạnh
tranh cụ thể, đó là các ràng buộc chung mà các chủ thể tham gia cạnh tranh phải tuân
thủ.
1.1.2 Năng lực cạnh tranh:
Liên quan đến quá trình cạnh tranh, các nhà hoạch định chính sách, chính phủ
quốc gia, các doanh nhân và cả các nhà nghiên cứu rất quan tâm đến yếu tố năng lực
cạnh tranh (NLCT). Từ khái niệm cạnh tranh có thể hiểu rộng ra NLCT là sự thể hiện
7

thực lực và lợi thế của doanh nghiệp, địa phương hay một quốc gia so với đối thủ cạnh
tranh trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi nhuận ngày
càng cao, bằng việc khai thác, sử dụng thực lực và lợi thế bên trong, bên ngoài nhằm
tạo ra những sản phẩm, dịch vụ hấp dẫn người tiêu dùng để tồn tại và phát triển, thu
được lợi nhuận ngày càng cao và cải tiến vị trí so với các đối thủ cạnh tranh trên thị
trường. Như vậy, để cạnh tranh thành công, các quốc gia, địa phương, hay DN phải
xác định rõ trong môi trường cạnh tranh xác định thì đâu là những yếu tố cấu thành

nên năng lực cạnh tranh; và để cạnh tranh thành công, thì các năng lực cốt lõi chúng ta
đã, đang có và cần xây dựng là gì.
Có nhiều quan điểm khác nhau về NLCT trên các cấp độ: quốc gia, địa phương,
doanh nghiệp và sản phẩm, tuy nhiên khái niệm năng lực cạnh tranh đến nay vẫn chưa
được hiểu một cách thống nhất. Dù vậy, hai hệ thống lý thuyết với hai phương pháp
đánh giá được các quốc gia và các thiết chế kinh tế quốc tế sử dụng nhiều nhất là:
phương pháp do Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) thiết lập trong Báo cáo cạnh tranh
toàn cầu và phương pháp do Viện Quốc tế về quản lý và phát triển (IMD) đề xuất
trong cuốn niên giám cạnh tranh thế giới. Cả hai phương pháp này đều do một số Giáo
sư đại học Havard như Michael Porter, Jeffrey Shach và một số chuyên gia của WEF
như Cornelius, Mache Levison tham gia xây dựng.
1.1.3 Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh:
Cạnh tranh được phân loại theo nhiều cách khác nhau, trong đó, nếu phân chia
theo cấp độ cạnh tranh gồm có cạnh tranh của quốc gia, cạnh tranh của địa phương,
cạnh tranh của doanh nghiệp/ngành, cạnh tranh của sản phẩm/dịch vụ. Giữa các cấp độ
này đều có mối quan hệ hai chiều tác động lẫn nhau rất mật thiết, tạo điều kiện cho
nhau hay chế định nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Theo mục tiêu nghiên cứu, đề tài này chỉ
tập trung nghiên cứu đến khía cạnh cạnh tranh cấp tỉnh, hay cụ thể hơn là năng lực
cạnh tranh cấp tỉnh.
Xét trên các quan điểm về cạnh tranh, có thể thấy cạnh tranh cấp tỉnh là một đặc
thù cơ bản của Việt Nam. Cạnh tranh cấp tỉnh xuất hiện khi có sự phân cấp trong quản
lý về kinh tế - xã hội giữa cấp trung ương và địa phương tại Việt Nam. Chính quyền
các tỉnh là các chủ thể cạnh tranh với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương, tối đa hóa lợi ích của địa phương thông qua việc đáp ứng tốt nhất các mong
muốn của khách hàng mục tiêu (du khách; cư dân và nhân công; thị trường kinh doanh
8

và công nghiệp; thị trường xuất khẩu). Cạnh tranh giữa các địa phương diễn ra liên tục
trong phạm vi không gian là các tỉnh của Việt Nam. Chính quyền địa phương cũng
phải tuân thủ theo các cơ chế, chính sách, các quy định chung của Chính phủ, và còn

có sự hạn chế về các nguồn lực của địa phương (tài nguyên, đất đai,…).
Cạnh tranh giữa các tỉnh trong một quốc gia có mức độ mềm dẻo và linh hoạt
hơn so với cạnh tranh giữa các quốc gia với nhau. Đó là sự ganh đua giữa các tỉnh
nhằm thu hút đầu tư phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở lợi thế của địa phương đó sẵn
có hoặc tự tạo ra như vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên phong phú hoặc chất lượng
con người, cơ sở hạ tầng, chính sách thu hút đầu tư, đan xen với sự ganh đua có tính
chất hợp tác, liên kết cùng phát triển dựa trên lợi thế có sẵn của nhau. Vì thế, việc liên
kết hợp tác giữa các địa phương nhằm xoá bỏ giới hạn địa giới hành chính và phân
chia các nguồn lực nhằm bổ sung và hỗ trợ cho nhau để tăng cường năng lực cạnh
tranh của các tỉnh trở nên rất quan trọng.
Thực chất năng lực cạnh tranh cấp tỉnh là khả năng các tỉnh ganh đua nhằm thu
hút đầu tư phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở lợi thế của địa phương trong mối
quan
hệ liên kết với những địa phương khác trong phạm vi quốc gia.
Như vậy, vai trò của
chính quyền địa phương là tạo môi trường thúc đẩy thu hút đầu tư nhằm phát triển
kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh. Vai trò ấy được xác định trên các mặt sau: (1) Định
hướng phát triển thông qua các quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án, chính sách
phát triển kinh tế; (2) Tạo môi trường pháp lý và kinh tế cho các DN hoạt động và
cạnh tranh lành mạnh; (3) Điều tiết hoạt động và phân phối lợi ích một cách công bằng
thông qua việc sử dụng các công cụ tài chính công; (4) Kiểm tra giám sát các hoạt
động kinh tế theo pháp luật, chính sách đã đề ra [10].
Để cạnh tranh thành công, các địa phương phải xác định rõ trong môi trường
cạnh tranh xác định thì đâu là những yếu tố cấu thành nên năng lực cạnh tranh; và để
cạnh tranh thành công, thì các năng lực cốt lõi chúng ta đã, đang có và cần xây dựng là
gì. Thực sự, nguồn lực vật chất và nguồn lực phi vật chất (hay nguồn lực mềm) đều rất
quan trọng trong việc hình thành và nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Các địa
phương sẽ có cách nhìn nhận và cách làm khác nhau trong việc tạo dựng năng lực
cạnh tranh cho địa phương mình, tùy theo cách nhìn nhận của chính quyền địa phương
đó về các nguồn lực trên.

1.1.4 Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI):
9

Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh hay gọi tắt là PCI (Provinvial
Competitiveness Index) là chỉ số dùng để đo lường và xếp hạng công tác điều hành
kinh tế của các tỉnh đối với môi trường kinh doanh để thúc đẩy phát triển khu vực kinh
tế tư nhân thông qua cảm nhận của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. PCI được
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) công bố chính thức từ năm
2005. Tuy nhiên, việc đánh giá và xếp hạng về PCI cho tất cả 63 tỉnh, thành phố trong
cả nước chỉ được tiến hành hàng năm từ năm 2006 [10].
Kể từ khi công bố, PCI ngày càng được sử dụng như một công cụ quan trọng để
đo lường và đánh giá công tác quản lý, điều hành kinh tế của chính quyền 63 tỉnh,
thành phố ở Việt Nam dựa trên cảm nhận của khu vực kinh tế tư nhân. Những tỉnh có
công tác điều hành tốt hơn thì sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực sẵn có và đạt được
mức phúc lợi từ kinh tế cao hơn [10].
Có nhiều cách phân loại yếu tố ảnh hưởng đến môi trường đầu tư cấp tỉnh, trong
đó có cách phân loại theo nhóm yếu tố truyền thống (điều kiện địa lý, tự nhiên, xã hội,
hệ thống cơ sở hạ tầng, quy mô thị trường,…) và nhóm yếu tố nguồn lực mềm, bao
gồm những khía cạnh quan trọng khác nhau của môi trường kinh doanh cấp tỉnh,
những khía cạnh này chịu tác động trực tiếp từ thái độ và hành động của chính quyền
địa phương. Nhóm yếu tố truyền thống là những nhân tố căn bản, quan trọng cho hoạt
động sản xuất kinh doanh nhưng rất khó thậm chí không đạt được trong thời gian
ngắn. Nhóm yếu tố nguồn lực mềm là nhân tố quyết định đến sự hấp dẫn đầu tư và
phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, VCCI chú trọng năng lực
cạnh tranh cấp tỉnh theo các tiêu chí xác định khả năng của nguồn lực mềm và chỉ số
năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) hiện nay được cấu thành từ hệ thống các chỉ số
thành phần sau: (1) Chi phí gia nhập thị trường, (2) Tiếp cận đất đai và sự ổn định
trong sử dụng đất, (3) Tính minh bạch và tiếp cận thông tin, (4) Chi phí thời gian để
thực hiện các quy định của Nhà nước, (5) Chi phí không chính thức, (6) Tính năng
động và tiên phong của lãnh đạo tỉnh, (7) Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp, (8) Đào tạo lao

động, (9) Thiết chế pháp lý. Chỉ số này được xây dựng dựa trên 3 bước: (1) thu thập
dữ liệu bằng phiếu điều tra doanh nghiệp và dữ liệu từ các nguồn khác, (2) tính toán 9
chỉ số thành phần và chuẩn hóa theo thang điểm 10, (3) tính trọng số cho chỉ số PCI
trung bình của 9 chỉ số thành phần trên thang điểm 100, những trọng số này được làm
tròn tới 5% gần nhất để phân thành ba loại cơ bản được nêu trong bảng 1.1.
10

Bảng 1.1: Trọng số của các chỉ số thành phần
Chỉ số
Trọng số
thực tế (%)
Trọng số
làm tròn (%)
Loại
trọng số
1
Gia nhập thị trường
9,61
10
Trung bình
2
Tiếp cận đất đai
2,37
5
Thấp
3
Tính minh bạch
19,77
20
Cao

4
Chi phí thời gian
14,12
15
Trung bình
5
Chi phí không chính thức
9,00
10
Trung bình
6
Tính năng động
12,36
10
Trung bình
7
Dịch vụ hỗ trợ DN
6,71
5
Thấp
8
Đào tạo lao động
20,03
20
Cao
9
Thiết chế pháp lý
6,04
5
Thấp

Nguồn: Báo cáo Nghiên Cứu Chính Sách-VCCI, [10].
Mỗi chỉ số thành phần PCI được tính toán trọng số tương ứng với mức độ đóng
góp thực sự của từng chỉ số đối với việc phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Từ năm
2009 về sau VCCI sử dụng phương pháp tính trọng số mới bằng cách cũng chọn ra ba
biến kết quả quan trọng thể hiện sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân (doanh nghiệp
tư nhân trên 1000 dân, mức đầu tư trên đầu người, lợi nhuận trên mỗi doanh nghiệp).
Các biến số này được hồi quy theo từng chỉ số thành phần, trong đó loại trừ tác động
của các nhân tố cấu trúc (mật độ dân số, diện tích, khoảng cách từ Hà Nội hoặc TP. Hồ
Chí Minh theo km), cơ sở hạ tầng (đo bằng tỉ lệ đường được rải nhựa trong tỉnh) và sử
dụng thêm các biến giả cho 7 vùng ở Việt Nam để tính ra trọng số cho mỗi chỉ số
thành phần. Chỉ số Tính minh bạch và Đào tạo lao động được VCCI đánh giá với
trọng số cao, nghĩa là hai chỉ số này có tầm quan trọng lớn nhất để tạo thành năng lực
cạnh tranh cấp tỉnh.
1.1.5 Mối quan hệ giữa năng lực cạnh tranh cấp tỉnh và marketing địa phƣơng:
Theo Philip Kotler, Marketing địa phương là một kế hoạch tổng hợp đồng bộ giới
thiệu về một địa phương với những đặc điểm nổi bật, các ưu thế hiện có và viễn cảnh
phát triển lâu dài của địa phương đó nhằm thu hút các nhà đầu tư, kinh doanh, những
người du lịch, những cư dân đến địa phương đó tìm cơ hội đầu tư kinh doanh hay thỏa
mãn các nhu cần tiêu dùng của mình, từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của
địa phương.
Marketing địa phương khác marketing sản phẩm ở chỗ địa phương được tiếp thị
thông qua hình ảnh từ các phương tiện thông tin, truyền thông, giao tiếp truyền khẩu
của con người và qua các sản phẩm, hàng hóa của địa phương đó; tổ chức các hoạt
11

động tại địa phương nhằm lôi kéo các khách hàng đến với địa phương đó; bằng sự kiện
lịch sử, con người hay sự kiện thời sự của quá khứ, hiện tại, hay tương lai mà thu hút
sự quan tâm đến địa phương mình.
Marketing địa phương liên quan đến ba nhóm chính gồm:
- Nhóm hoạch định bao gồm các nhà marketing địa phương.

- Nhóm các yếu tố marketing.
- Nhóm thị trường mục tiêu (khách hàng của địa phương).
Thị trường kinh doanh và công nghiệp là thị trường mục tiêu mà nhiều địa
phương quan tâm nhất. Đây là loại thị trường có lịch sử lâu đời nhất và nóng nhất hiện
nay. Các doanh nghiệp ngày càng chuyên nghiệp hơn trong việc tìm kiếm và lựa chọn
địa phương thích hợp. Hiểu được doanh nghiệp đưa ra quyết định đầu tư và chọn lựa
địa phương như thế nào là điều hết sức quan trọng đối với các nhà tiếp thị địa phương.
Về nguyên tắc, doanh nghiệp đánh giá địa phương là điểm tiềm năng sau khi xem xét
các yếu tố xác định môi trường kinh doanh chung của địa phương. Chúng ta gọi những
chỉ báo này là “yếu tố thu hút”, và chúng có thể chia ra làm hai loại yếu tố cứng và yếu
tố mềm (xem Bảng 1.2). Yếu tố cứng có thể đo lường theo các giá trị ít nhiều mang
tính chủ quan. Yếu tố mềm không dễ định lượng và đại diện cho nhiều đặc tính hơn
của một địa phương.
Các nhà tiếp thị địa phương có thể dùng những yếu tố này làm kim chỉ nam để
cải tiến sức hấp dẫn đối với thị trường mục tiêu. Không phải yếu tố nào cũng có thể dễ
dàng được phát huy tối đa, điều này cho thấy việc phát triển một kết hợp đúng đắn là
rất quan trọng.
12

Bảng 1.2: Yếu tố hấp dẫn cứng và mềm
Yếu tố cứng
Yếu tố mềm
+ Ổn định kinh tế
+ Năng suất
+ Chi phí
+ Quan niệm về tài sản
+ Dịch vụ và mạng lưới hỗ trợ địa
phương
+ Cơ sở hạ tầng thông tin liên lạc
+ Địa điểm chiến lược

+ Kế hoạch và chương trình khuyến
khích.
+ Phát triển chuyên biệt
+ Chất lượng cuộc sống
+ Năng lực của lực lượng lao động và
chuyên môn.
+ Văn hóa
+ Quan hệ giữa con người
+ Phong cách quản trị
+ Sự năng động và linh động
+ Tính chuyên nghiệp khi tiếp xúc với thị
trường.
+ Tinh thần sáng tạo trong kinh doanh
Nguồn: Philip Kotler et al - Chương trình giảng dạy Fullbright, xem [2]
Như vậy, có thể thấy marketing địa phương là các chương trình hoạt động do
chính quyền địa phương thực hiện nhằm cải thiện năng lực cạnh tranh tỉnh để thu hút
đầu tư nhằm phát triển kinh tế - xã hội của địa phương đó. Dựa trên các năng lực cạnh
tranh cốt lõi của địa phương mình mà chính quyền địa phương có các chiến lược
marketing phù hợp.
1.2 Thuộc tính địa phƣơng và sự hài lòng của doanh nghiệp:
1.2.1 Thuộc tính địa phƣơng:
Các doanh nghiệp ngày càng chuyên nghiệp hơn trong việc tìm kiếm và lựa chọn
địa phương thích hợp cho việc đầu tư, kinh doanh của họ. Điều họ quan tâm ở một địa
phương là thị trường lao động, so sánh điều kiện và chi phí hoạt động, so sánh thuế,
nghiên cứu bất động sản, đánh giá các hình thức khuyến khích, đàm phán và quản lý
dự án tái lập địa điểm kinh doanh.
Một địa phương có thể duy trì và tăng cường nền tảng kinh tế bằng bốn cách.
Trước hết, địa phương đó phải duy trì những hoạt động kinh doanh hiện tại hay ít nhất
là hoạt động kinh doanh mong muốn. Điều này đặc biệt quan trọng trong giai đoạn
hiện nay khi ngày càng có nhiều doanh nghiệp rời bỏ hay đe dọa rời bỏ địa phương

này để sang một địa phương khác. Để giữ chân các doanh nghiệp, địa phương phải
thường xuyên đối thoại với các doanh nghiệp của mình. Từ đó có thể hiểu được cách
13

đo lường đối chiếu địa phương mình với những địa phương khác nhằm tạo lợi thế cạnh
tranh để giành lấy một lượng đầu tư có sẵn rất hạn chế.
Thứ hai, một địa phương phải đưa ra các kế hoạch và dịch vụ để giúp các doanh
nghiệp hiện có mở rộng. Khi sản phẩm, dịch vụ của các doanh nghiệp này mở rộng
được thị trường tiêu thụ đến những nơi khác, sản lượng bán tăng lên tạo ra nhiều thu
nhập và nhu cầu về lao động địa phương. Quy trình tạo ra giá trị gia tăng cho địa
phương sẽ phát huy hiệu quả khi địa phương đó biết phát triển các kế hoạch, chiến
lược chào mời độc đáo dựa trên việc xác định các yếu tố cứng và yếu tố mềm có thể
tác động đến.
Thứ ba, một địa phương phải tạo điều kiện dễ dàng cho các doanh nghiệp khởi sự
công việc kinh doanh mới. Có rất nhiều chương trình khuyến khích dành cho doanh
nghiệp vừa và nhỏ như: phát triển cơ quan hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ địa phương
thông qua đào tạo, tư vấn, khuyến khích ngân hàng địa phương tham gia hỗ trợ doanh
nghiệp mới, cung cấp vốn vay, kết nối các nhà đầu tư với doanh nghiệp, hỗ trợ bảo
đảm những hợp đồng với chính phủ, các hình thức khuyến khích khác nhau cho doanh
nghiệp mới khởi sự.
Thứ tư, một địa phương phải cố gắng thu hút các dự án phù hợp với chiến lược
phát triển. Những dự án như vậy thường tạo ra các mối liên kết phụ có giá trị với kết
quả thương mại.
Như vậy, việc hoàn thiện các thuộc tính địa phương như hệ thống cơ sở hạ tầng,
dịch vụ hành chính pháp lý, dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp, hệ thống ngân hàng, nguồn
lao động, chất lượng các trường đào tạo nghề,… sẽ tạo năng lực cạnh tranh cho địa
phương trong việc thu hút các doanh nghiệp đầu tư mới và thỏa mãn doanh nghiệp
hiện đang kinh doanh tại địa phương sẽ góp phần làm hài lòng các doanh nghiệp. Sự
hài lòng của doanh nghiệp, theo Lam & ctg (2004), nói lên mức độ thỏa mãn của
doanh nghiệp khi xem xét, đánh giá tất cả các hoạt động liên quan đến công việc kinh

doanh của mình tại một địa phương [6].
Dựa theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang
(2005), các thuộc tính địa phương cơ bản có thể được phân loại theo ba nhóm như sau:
- Nhóm thuộc tính cơ sở hạ tầng: duy trì và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng
tương thích với môi trường thiên nhiên (điện, cấp thoát nước, giao thông vận tải, thông
tin liên lạc, đền bù và giải phóng mặt bằng).
14

- Nhóm thuộc tính chế độ chính sách và dịch vụ kinh doanh: cung cấp các dịch
vụ có chất lượng, đáp ứng được nhu cầu của cộng đồng doanh nghiệp (dịch vụ hành
chính pháp lý, dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp, hệ thống ngân hàng, hệ thống thuế và hải
quan, hỗ trợ của chính quyền địa phương.
- Nhóm thuộc tính môi trường sống và kinh doanh: tạo ra môi trường làm việc có
chất lượng cao (chất lượng lao động, nguồn cung lao động, hệ thống vui chơi giải trí,
chi phí sinh hoạt).
1.2.2 Sự hài lòng của doanh nghiệp:
1.2.2.1 Doanh nghiệp:
Hiện nay trên phương diện lý thuyết có khá nhiều định nghĩa thế nào là một
doanh nghiệp, mỗi định nghĩa đều mang trong nó có một nội dung nhất định với một
giá trị nhất định.
Luật doanh nghiệp Việt Nam định nghĩa doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tư
cách pháp nhân, có con dấu, có tài sản, có quyền và nghĩa vụ dân sự hoạt động kinh tế
theo chế độ hạch toán độc lập, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh tế trong
phạm vi vốn đầu tư do doanh nghiệp quản lý và chịu sự quản lý của nhà nước bằng các
loại luật và chính sách thực thi.
M.Francois Peroux cho rằng doanh nghiệp là một đơn vị tổ chức sản xuất mà tại
đó người ta kết hợp các yếu tố sản xuất (có sự quan tâm giá cả của các yếu tố) khác
nhau do các nhân viên của công ty thực hiện nhằm bán ra trên thị trường những sản
phẩm hàng hóa hay dịch vụ để nhận được khoản tiền chênh lệch giữa giá bán sản
phẩm với giá thành của sản phẩm ấy.

D.Larua.A Caillat lại cho rằng doanh nghiệp là một cộng đồng người sản xuất ra
những của cải. Nó sinh ra, phát triển, có những thất bại, có những thành công, có lúc
vượt qua những thời kỳ nguy kịch và ngược lại có lúc phải ngừng sản xuất, đôi khi tiêu
vong do gặp phải những khó khăn không vượt qua được.
Ngoài ra có những định nghĩa khác nhưng chúng đều có những điểm chung nhất,
nếu tổng hợp trên phương diện tổ chức quản lý xuyên suốt từ khâu hình thành tổ chức,
phát triển đến các mối quan hệ với môi trường, các chức năng và nội dung hoạt động
của doanh nghiệp cho thấy doanh nghiệp được cấu thành bởi những yếu tố sau đây:
- Yếu tố tổ chức: một tập hợp các bộ phận chuyên môn hóa nhằm thực hiện các
chức năng quản lý như các bộ phận sản xuất, bộ phận thương mại, bộ phận hành chính.

×