Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Thực trạng liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua mô hình Cánh đồng mẫu lớn xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (477.08 KB, 48 trang )

Đề tài: Thực trạng liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua mô hình “Cánh
đồng mẫu lớn” xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
1. GIỚI THIỆU TỔNG QUẤT
1.1 Đặt vấn đề nghiên cứu
An Giang là tỉnh có nhiều lợi thế và tiềm năng về sản xuất nông nghiệp, đặc
biệt là canh tác lúa với tổng diện tích gieo trồng hàng năm trên 560.000 ha, đạt sản
lượng lúa trên 3,6 triệu tấn/năm (Sở NN & PTNT, 2010). Tuy nhiên, sản xuất lúa
chưa mang tính tập trung, kỹ thuật sản xuất và chất lượng sản phẩm không đồng
đều đã làm giảm phẩm chất hạt gạo, giảm lợi nhuận của nông dân trồng lúa, khâu
tiêu thụ sản phẩm luôn gặp nhiều khó khăn do chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa
doanh nghiệp xuất khẩu gạo và nhà sản xuất.
Ngay từ khi có Quyết định 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 của Thủ trướng
Chính phủ về chính sách khuyến khích tiêu thụ hàng nông sản thông qua hợp
đồng, trên địa bàn tỉnh An Giang đã có nhiều hợp đồng được ký kết theo giá cố
định giữa nông dân và doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc thực hiện hợp đồng còn
nhiều khó khăn vì khi giá lúa tăng thì nông dân bán lúa ra bên ngoài, còn khi giá
lúa giảm thì doanh nghiệp không thu mua lúa của nông dân. Từ những đặc điểm
nêu trên cho thấy, sự cần thiết phải xây dựng mối liên kết để chia sẽ những rủi ro
và lợi ích của các tác nhân chính trong chuỗi cung ứng ngành hàng lúa gạo tỉnh An
Giang. Từng bước nâng cao giá trị, cải thiện chất lượng hạt gạo, góp phần cải
thiện thu nhập của nông dân trồng lúa
Tại Hội thảo “Lúa gạo, nông dân và phát triển nông thôn ở Việt Nam - Từ
tăng trưởng thành công đến thịnh vượng bền vững” vừa diễn ra giữa tháng 6/2011
ở Cần Thơ, Tiến sĩ Bùi Bá Bổng, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn đã nhấn mạnh, để nâng cao thu nhập cho người trồng lúa, nông dân sản xuất
lúa trên 1 cánh đồng cần liên kết lại, sử dụng cùng 1 giống lúa, cùng áp dụng đồng
bộ một quy trình sản xuất, sản xuất theo GAP (thực hành sản xuất nông nghiệp
1
Đề tài: Thực trạng liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua mô hình “Cánh
đồng mẫu lớn” xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
tốt) qua đó có thể quản lý tốt dịch hại, giúp giảm chi phí và tăng hiệu quả sản


xuất.
“Cánh đồng mẫu lớn” mới được chính thức phát động từ tháng 3/2011 với
7.800 ha đất canh tác thu hút 6.400 hộ nông dân tham gia nhưng thực chất nó đã
được xây dựng thí điểm từ trước tại rất nhiều điểm trình diễn, với quy mô từ vài ha
đến vài chục ha ở các tỉnh: Long An, Tây Ninh, Đồng Tháp, Cần Thơ, An
Giang… từ vụ hè thu 2008-2009 với tên gọi “liên kết 4 nhà”.
Mô hình CĐML đầu tiên do AGPPS triển khai “đầu tư, thu mua và chế biến
gạo” cho nông dân ở xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang với diện
tích 1.200 ha trong vụ đông xuân 2010-2011. AGPPS đã tổ chức ký hợp đồng
“Hợp tác sản xuất lúa hàng hóa” với nông dân, rồi đầu tư cho nông dân lúa giống
xác nhận, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón các loại vào từng thời điểm sử dụng.
Toàn bộ các khoản đầu tư này công ty cho nông dân nợ không tính lãi trong vòng
120 ngày (từ đầu vụ đến sau thu hoạch 30 ngày). Đồng thời, công ty đầu tư hệ
thống kho, khu vực sấy và Nhà máy chế biến gạo tại Vĩnh Bình với công suất đủ
đáp ứng cho nhu cầu vùng nguyên liệu từ 13.000-15.000 ha diện tích canh
tác/năm. Nông dân có thể bán lúa ngay cho nhà máy với giá thu mua được niêm
yết mỗi ngày hoặc có quyền gửi lúa vào kho của nhà máy miễn phí trong vòng 30
ngày và đăng ký giá mà nông dân muốn bán (Văn Công, Báo Cần Thơ 2011).
Theo ông Nguyễn Tiến Dũng, Trợ lý Tổng giám đốc, Công ty Cổ phần Bảo
vệ Thực vật An Giang, 1.200 ha lúa trong vùng nguyên liệu được công ty ký hợp
đồng sản xuất lúa hàng hóa trong vụ đông xuân 2010-2011 đã đạt kết quả rất thành
công. Năng suất lúa đạt từ 8,5-12 tấn lúa/ha, tùy giống, đặc biệt có hộ đạt năng
suất tới 13 tấn /ha. Do áp dụng đồng bộ các biện pháp kỹ thuật và quản lý dịch hại
theo hướng “hiệu quả, bền vững”, giá thành sản xuất lúa trung bình của nông dân
chỉ gần 3.000 đồng/kg lúa. Trong khi đó, giá thành sản xuất lúa của nhiều nông
dân bên ngoài vùng nguyên liệu từ 3.200-3.500 đồng/kg lúa. Với giá thu mua của
AGPPS trung bình 6.600 đồng/kg lúa, nông dân lãi trung bình hơn 150%. Sau khi
2
Đề tài: Thực trạng liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua mô hình “Cánh
đồng mẫu lớn” xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.

trừ các khoản chi phí, nông dân trong vùng nguyên liệu của công ty có lãi bình
quân 25-34 triệu đồng/ha. Với thành công từ vụ đông xuân 2010-2011, vụ hè thu
2011 diện tích vùng nguyên liệu tại Vĩnh Bình được mở rộng lên 1.600 ha. Ông
Nguyễn Tiến Dũng cho biết: “Cùng với việc thực hợp tác sản xuất lúa hàng hóa
với nông dân ở Vĩnh Bình-Châu Thành, hiện công ty cũng đang triển khai xây
dựng các vùng nguyên liệu và các nhà máy chế biến gạo xuất khẩu tại các địa
phương khác ở An Giang và các tỉnh ĐBSCL. Chiến lược của công ty đến năm
2020 là đầu tư 6 nhà máy chế biến với tổng công suất 1 triệu tấn lúa/năm cùng với
đầu tư 100.000 ha diện tích vùng nguyên liệu phục vụ cho các nhà máy. (Văn
Công, Báo Cần Thơ 2011).
Không chỉ ở xã Vĩnh Bình (huyện Châu Thành), hiện nhiều địa phương khác
ở tỉnh An Giang như xã Vĩnh Hanh, Bình Hòa (huyện Châu Thành), Mỹ Khánh
(TP Long Xuyên), xã Long Điền A (huyện Chợ Mới) cũng đang áp dụng mô
hình này. CĐML tỉnh An Giang đang hướng tới việc xây dựng các cánh đồng mẫu
quy mô từ vài trăm đến vài nghìn héc-ta với các loại hình liên kết khác nhau nhằm
hướng đến mục tiêu đạt được quy trình sản xuất lúa gạo theo tiêu chuẩn, xây dựng
thương hiệu gạo của địa phương và gia tăng lợi nhuận của người trồng lúa trên
cùng một đơn vị diện tích sản xuất (Văn Công, Báo Cần Thơ 2011).
Thực tế cho thấy, chủ trương thực hiện liên kết giữa nông dân và Doanh
nghiệp thông qua mô hình CĐML là đúng và phù hợp với xu hướng hợp tác và hội
nhập phát triển. Có thể nói, cánh đồng mẫu lớn chính là một trong những lời giải
cho câu hỏi làm thế nào để giúp nông dân có thể tiếp cận các loại vật tư nông
nghiệp đầu vào phục vụ sản xuất lúa với giá cả ổn định và chất lượng đảm bảo,
đồng thời giá cả đầu ra lúa gạo tốt, giúp nâng cao thu nhập cho nông dân trồng lúa.
Tuy vậy những ám ảnh từ các mô hình “Hợp tác xã nông nghiệp” thời bao
cấp đã khiến nông dân rất ngại ngần khi nghe nói đến chuyện làm ăn tập thể. Suy
nghĩ của nông dân dễ ngộ nhận xấu về mô hình “Cánh đồng mẫu lớn”, dẫn đến
việc tập hợp nông dân để xây dựng mô hình “Cách đồng mẫu lớn” gặp khó khăn,
3
Đề tài: Thực trạng liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua mô hình “Cánh

đồng mẫu lớn” xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
một số vùng thực hiện liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua mô hình
“Cánh đồng mẫu lớn” có nhiều điểm bất cập, có những điểm đạt được kết quả tốt,
bên cạnh đó cũng có những khó khăn nhất định.
Vì vậy, vấn đề đặt ra là chúng ta cần liên kết các hộ nông dân như thế nào,
thực trạng và giải pháp xây dựng mô hình “Cánh đồng mẫu”. Do đó việc nghiên
cứu “Thực trạng liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua mô cánh
đồng mẫu lớn” thực hiện nhằm làm rõ vấn đề trên.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2.1 Mục tiêu chung
Phân tích thực trạng liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua mô
hình Cánh đồng mẫu lớn tại xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
2.2 Mục tiêu cụ thể
(1) Đánh giá thực trạng sản xuất và tiêu thụ lúa của hộ nông dân tại xã Vĩnh
Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
(2) So sánh và đánh giá hiệu quả sản xuất lúa giữa nông hộ tham gia và không
tham gia mô hình “Cánh đồng mẫu lớn” tại tại xã Vĩnh Bình, huyện Châu
Thành, tỉnh An Giang.
(3) Phân tích ảnh hưởng của các yếu tố đầu vào đến hiệu quả sản suất lúa của
những nông hộ tham gia và không tham gia mô hình “Cánh đồng mẫu lớn”
(4) Thực trạng liên kết giữa Nông dân và Doanh nghiệp trong mô hình “Cánh
đồng mẫu lớn” thông qua các hình thức thỏa thuận, ký kết hợp đồng
(5) Một số vấn đề khó khăn khi thực hiện hình, kiến nghị giải pháp thực hiện mô
hình “Cánh đồng mẫu lớn” theo hướng bền vững.
3. KIỂM ĐỊNH GIẢ THIẾT VÀ CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
3.1 Giả thiết cần kiểm định
4
Đề tài: Thực trạng liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua mô hình “Cánh
đồng mẫu lớn” xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
Khi tiến hành nghiên cứu đề tài đặt ra giả thiết sau:

(1) Có sự khác nhau về hiệu quả kinh tế giữa các nông hộ sản xuất riêng lẻ và
những hộ tham gia mô hình “Cánh đồng mẫu lớn”.
(2) Việc thực hiện mô hình cánh đồng mẫu lớn mang lại hiệu quả sản xuất
cho các đối tượng tham gia mô hình.
(3) Việc liên kết nông dân và doanh nghiệp thông qua mô hình Cánh đồng
mẫu lớn dễ dàng và thuận lợi
3.2 Câu hỏi nghiên cứu
- Thực trạng sản xuất lúa tại các nông hộ ở một số huyện tại xã Vĩnh Bình,
huyện Châu Thành, tỉnh An Giang như thế nào.
- Mô hình cánh đồng mẫu lớn có mang lại hiệu quả kinh doanh cho các đối
tượng tham gia mô hình hay không.
- Quyết định tham gia mô hình “Cánh đồng mẫu lớn” của các nông hộ phụ
thuộc vào các yếu tố nào.
- Nội dung liên kết giữa các đối tượng tham gia mô hình thông qua các thỏa
thuận, các hợp đồng liên kết.
- Điều kiện để phát triển bền vững mô hình liên kết nông dân và doanh nghiệp
thông qua mô hình cánh đồng mẫu lớn
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1 Giới hạn về thời gian
Đề tài được thực hiện từ năm 2012 đến 2013.
4.2 Giới hạn về nội dung nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về thực trạng liên kết giữ nông dân và doanh nghiệp thông
qua mô hình Cánh đồng mẫu lớn tại xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An
Giang.
4.3 Đối tượng nghiên cứu
5
Đề tài: Thực trạng liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua mô hình “Cánh
đồng mẫu lớn” xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là kinh tế hộ nông dân sản xuất riêng lẻ và
nông hộ có liên kết với doanh nghiệp thông qua mô hình Cánh đồng mẫu lớn. Bên

cạnh đó, nghiên cứu còn thu thập thông tin từ các cán bộ khuyến nông tham gia
trực tiếp vào hoạt động tập hợp hộ nông dân để hình thành mô hình “Cánh đồng
mẫu lớn” trên địa bàn nghiên cứu để tìm hiểu rỏ thực trạng của mô hình này.
4.4 Giới hạn vùng nghiên cứu
Địa bàn nghiên cứu của đề tài là xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An
Giang, qua trao đổi với lãnh đạo ngành nông nghiệp của địa phương tiến hành
chọn cụ thể một số huyện trên địa bàn có áp dụng mô hình Cánh đồng mẫu lớn.

5. KẾT QUẢ MONG ĐỢI
- Nhận biết được cách thức thực hiện của mô hình cánh đồng lúa lớn ở vùng
nghiên cứu
- Những kết quả đạt được giữa nông hộ tham gia mô hình so với nông hộ khác.
- Đánh giá cơ cấu doanh thu, chi phí và lợi nhuận của nông hộ.
- Nhận biết được những vấn đề đạt được và những bất cập của mô hình liên kết
này.
6. ĐỐI TƯỢNG THỤ HƯỞNG
- Tất cả nông hộ trong tỉnh An Giang và thành phố Cần Thơ và mở rộng ra cả
nước có điều kiện tương tự.
- Các công ty xuất khẩu lúa gạo.
- Nhà nước, các nhà làm chính sách.
8. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Tổng thể luận văn bao gồm 6 chương. Chương mở đầu, với các nội
dung giới thiệu sự cần thiết của đề tài, mục tiêu nghiên cứu, giả thiết nghiên
cứu, các chương còn lại của bố cục như sau:
6
Đề tài: Thực trạng liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua mô hình “Cánh
đồng mẫu lớn” xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
Chương 2- Lược khảo tài liệu: chương này lược khảo một cách tổng quát các
nghiên cứu trước đây có liên quan đến vay trò của liên kết, tổng quan các mô
hình liên kết, hợp đồng liên kết, tình hình thực mô hình liên kết giữa nông

dân và doanh nghiệp thông qua mô hình “Cánh đồng mẫu lớn” ở ĐBSCL và
ở An Giang.
Chương 3- Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu: Mô tả phương
pháp tiếp cận trong nghiên cứu và phương pháp phân tích số liệu.
Chương 4: - Kết quả và thảo luận: Chương này bao gồm các nội dung mô tả
tổng quan về tình hình sản xuất và tiêu thụ, phân tích giải thích số liệu và
giải thích các kết quả từ những mục tiêu nghiên cứu đề ra
Chương 5: - Kết luận và kiến nghị: Chương này trình bày ngắn gọn những
kết luận rút ra được từ kết quả nghiên cứu theo các mục và nội dung của
Chương 4, đề xuất và kiến nghị các giải pháp để phát triển liên kết giữa
nông dân và doanh nghiệp thông qua mô hình “Cánh đồng mẫu” phát triển
bền vững.
7
Đề tài: Thực trạng liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua mô hình “Cánh
đồng mẫu lớn” xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
CHƯƠNG 2
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1 TẦM QUAN TRỌNG CỦA HỢP TÁC TRONG SẢN XUẤT NÔNG
NGHIỆP
Trong thời gian qua, kinh tế hộ đã có đóng góp to lớn vào nền kinh tế
quốc dân nhưng kinh tế hộ ngày càng gặp nhiều khó khăn, nhất là trong
sản xuất nông nghiệp. Một vài ví dụ sau đây chứng tỏ rằng hình thành
các tổ hợp tác của nông dân là việc làm cần thiết và góp phần cho kinh tế
hộ phát triển.
Thứ nhất, trong sản xuất nông nghiệp, chắc hẳn người nông dân cần
mua vật tư nông nghiệp như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, máy móc,
thiết bị, Chắc chắn rằng từng nông dân vẫn có thể đến các đại lý hoặc cửa
hàng gần nhà để mua. Tuy nhiên, với việc mua 1 vài bao phân NPK, ½
chai thuốc trừ sâu… thì sẽ khó tránh khỏi trường hợp mua với giá cao,
phân bón không đủ số cân như ghi trên bao bì và chất lượng không đảm

bảo như phân bón kém chất lượng, thuốc trừ sâu giả. Vậy thì, thay vì mỗi
hộ phải tự đi mua vật tư nông nghiệp, không có hợp đồng mua bán bảo
đảm chất lượng và chi phí vận chuyển cao thì nông dân liên kết và thành
lập tổ hợp tác. Đại diện tổ hợp tác sẽ tập hợp nhu cầu và tìm nguồn cung
cấp có uy tín, ký hợp đồng mua số lượng lớn với giá bán sỉ và giảm chi
phí vận chuyển. Sau đó họ cùng phân phối lại cho từng hộ để mỗi hộ chủ
động sử dụng trên đồng ruộng của mình. Giảm chi phí đầu vào là một trong
những cách tăng thu nhập của nông dân.
Thứ hai, với quy mô canh tác nhỏ lẻ mỗi hộ vài công đất hay vài hécta
và khả năng đầu tư hạn hẹp thì từng hộ nông dân khó có thể tự mua sắm và
sử dụng hiệu quả các loại máy móc phục vụ trong nông nghiệp như: máy sạ
hàng, máy gặt đập liên hợp, hệ thống sấy lúa… Giả dụ mỗi hộ có đủ khả
năng đầu tư thì cũng không nên trang bị các loại máy móc này vì sẽ không
sử dụng hết công suất của chúng trừ phi các hộ này mua để làm dịch vụ
11
Đề tài: Thực trạng liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua mô hình “Cánh
đồng mẫu lớn” xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
kinh doanh. Nhưng nếu một vài hộ nông dân có cùng nhu cầu hùn vốn mua
chung chiếc máy gặt đập liên hợp, họ là người đồng sở hữu chiếc máy và
họ sẽ dùng chiếc máy trước hết và chủ yếu trên những thửa ruộng của
mình. Như vậy, mục đích tối thượng của hợp tác là để thoả mãn nhu cầu
của chính thành viên trong tổ, sau đó thì mới nghĩ đến việc làm dịch vụ cho
nông dân khác để kiếm thêm lợi nhuận.
Thứ ba, ngày càng có nhiều công nghệ và tiến bộ khoa học kỹ thuật để
nâng cao chất lượng và năng suất cây trồng vật nuôi. Từng người nông
dân khó có thể tiếp cận các nhà khoa học, các trại thực nghiệm, các trung
tâm nghiên cứu, cán bộ khuyến nông để tìm hiểu và học hỏi những kiến
thức và kỹ năng canh tác và chăn nuôi mới. Một thí dụ từ thực tế, một
nhóm 12 hộ nông dân người Khơme ở ấp Trà Kháo, xã Hoà Ân, huyện
Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh không phải có nhiều đất đai, thế mà họ hùn tiền

“thuê” một thạc sĩ nông học trả lương hàng tháng. Điều kiện hợp đồng là
dạy cách trồng rau màu theo mùa vụ thích hợp, bán hàng ra chợ được giá.
Liệu từng nông dân với quy mô canh tác trung bình thì có thể làm được
những việc trên hay không? Câu trả lời là mỗi nông dân không thể và
không nên làm những việc như vừa kể trên.
Thứ tư, ngày nay một bộ phận không nhỏ người tiêu dùng quan tâm
đến việc an toàn thực phẩm. Họ muốn mua thực phẩm có đăng ký nhãn
hiệu hàng hoá và có thể truy tìm nguồn gốc. Nếu nông dân chúng ta mong
muốn nông sản của mình vượt qua khỏi phạm vi của chợ quê, đến các siêu
thị trong những thành phố lớn và thậm chí xuất khẩu ra nước ngoài thì
nông dân cần thay đổi nếp nghĩ và thói quen canh tác. Tâm lý của người
tiểu nông, sản xuất tự phát và dựa vào kinh nghiệm… không còn phù hợp
trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới. Với quy mô nhỏ lẻ, manh múm và
sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm bản thân nên sản phẩm nông dân
làm ra vừa ít về số lượng, vừa không đồng nhất về chất lượng và màu
sắc… thì làm sao có thể đăng ký thương hiệu, làm sao đăng ký chứng
nhận Global GAP hay VietGap để tiêu thụ với giá cao? Để làm được điều
này, nông dân rất cần hợp tác với nhau. Các thành viên tổ hợp tác bàn bạc
12
Đề tài: Thực trạng liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua mô hình “Cánh
đồng mẫu lớn” xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
và thống nhất về giống, quy trình canh tác, thời điểm gieo trồng… thì khi
thu hoạch họ sẽ có lượng nông sản hàng hoá nhiều về số lượng, bảo đảm
an toàn vệ sinh thực phẩm và đồng nhất về chất lượng. Lúc này tổ hợp tác
sẽ có năng lực đàm phán tiêu thụ sản phẩm ổn định với các doanh nghiệp
hay các thương lái. Hợp đồng tiêu thụ sản phẩm sẽ quy định rõ: số lượng,
chất lượng, quy cách, thời điểm giao hàng, giá cả và điều kiện thanh toán.
Việc kế tiếp là tổ hợp tác cần bàn bạc và thống nhất kế hoạch tổ chức sản
xuất. Sau đó mỗi thành viên trong tổ sẽ tự chủ canh tác thửa ruộng của
mình theo quy trình kỹ thuật nhất định, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật theo

4 đúng, bảo đảm an toàn cho người sản xuất, người sử dụng nông sản và
bảo vệ môi trường cho chính gia đình, hàng xóm của họ. Điều này có nghĩa
rằng nông dân “BÁN” (ký hợp đồng) trước khi “SẢN XUẤT”.
Hẳn nhiên, một nông dân sản xuất trên quy mô trang trại lớn thì có thể
tự mình tìm đối tác và ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm. Nhưng đa số
nông dân Việt Nam sản xuất với quy mô nhỏ, cần cù, chăm chỉ và sản xuất
giỏi nhưng thiếu khả năng đàm phán, thương lượng trong buôn bán. Chính
vì vậy, nông dân cần hợp tác lại để sản xuất, cùng xây dựng và nuôi
dưỡng thương hiệu cho nông sản của mình. Đây là sức mạnh của hợp tác.
Sự hợp tác sẽ làm được những điều mà từng cá thể đơn lẻ không thể làm
được.
Thứ năm, tổ chức hợp tác của nông dân cũng là mong muốn của những
doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu nông sản. Việc ký hợp đồng với từng
nông dân với lượng hàng hoá ít ỏi sẽ tạo ra chi phí rất lớn. Thay vào đó các
doanh nghiệp mong muốn ký một hợp đồng với tổ hợp tác thì họ sẽ giảm
đầu mối và giảm chi phí ký kết và giám sát thực hiện hợp đồng. Tức là
doanh nghiệp có thể giảm được chi phí giao dịch (Võ Thị Kim Sa)
2.2 CÁC LOẠI LIÊN KẾT HỢP TÁC TRONG NÔNG NGHIỆP
2.2.1 Trực tiếp giữa nông dân với thương nhân (thương lái)
13
Đề tài: Thực trạng liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua mô hình “Cánh
đồng mẫu lớn” xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
Liên kết trực tiếp giữa nông dân và thương lái là hình thức liên kết khi
thương nhân hay thương lái trực tiếp thu mua sản phẩm nông nghiệp tại ruộng hay
vườn của nông dân. Thương lái có mối quan hệ truyền thống, gần gũi và gắn bó
với người nông dân thông qua việc họ mua lúa tại địa phương trong nhiều năm.
Mua lúa tại địa phương tương đối hiệu quả khi thương lái đạt được mức lợi nhuận
phù hợp với số lượng vốn của họ. Mặc khác, mua lúa tại địa phương thường có chi
phí giao dịch cao, do đó thương lái thường ép giá người nông dân để bù lại phần
chi phí. Điều này có thể khắc phục khi người nông dân gom lại với một số lượng

lớn lúa vào một nơi và chỉ bán cho một hay vài thương lái.
2.2.2 Trực tiếp nông dân và nhà bán lẻ
Liên kết trực tiếp giữa nông dân với nhà bán lẻ là hình thức liên kết các nhà
hàng, siêu thị hay các nhà bán lẻ lớn liên hệ đặt hàng trực tiếp với người nông dân,
nhưng các nhà hàng siêu thị lớn thường không muốn liên kết với nông dân trên cơ
sở lâu dài. Tuy nhiên, một số nghiên cứu ở Ấn Độ, Nam Phi và Uganda chỉ ra
những điều ngược lại. Đặc biệt ở Uganda, các nhà hàng thức ăn nhanh đã liên kết
trực tiếp với nông dân. Nhưng trong trường hợp này, người nông dân cần thiết
phải phát triển một loại khoai tây mới, thay đổi tập quán sản xuất để tăng kích
thước khoai tây và độ ẩm, thời gian trồng tách biệt nhau và trồng ở các độ cao
khác nhau để đảm bảo quanh năm sẵn có. Bên cạnh đó, nông dân vẫn gặp nhiều
khó khăn trong cuộc họp thảo luận về tiêu chuẩn chất lượng cung cấp, mặc dù họ
đã nhận được những hỗ trợ về kỹ thuật. (Andrew W.Shepherd 2007)
2.2.3 Liên kết thông qua những nông dân uy tín hay đứng đầu (leading
farmer)
Những nông dân này thường là những nhóm không chính thức gồm một hay
nhiều nông dân liên kết lại với nhau. Những nông dân có uy tín hay đứng đầu ở
Thái Lan thường có xu hướng liên kết lại với nhau từ những khu vực khác nhau,
để có thể đảm số lượng cung cấp cho thị trường. Tuy nhiên, nếu trường hợp giá thị
trường thấp, những nông dân sẽ lôi kéo tích trữ hàng hóa với số lượng lớn. Nhưng
14
Đề tài: Thực trạng liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua mô hình “Cánh
đồng mẫu lớn” xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
nếu những nông dân này phối hợp tốt sẽ tạo hiệu ứng tích cực cho nhiều nông dân
khác. Như đối với trường hợp trồng rau ờ Thái Lan, vai trò phối hợp của các nông
dân uy tín ở Mindanao xuất hiện góp phần thiết yếu cho sự thành công cho những
người nông dân, mở rộng các hoạt động hợp tác và đa dạng hơn các loại cây trồng.
Tại Thái Lan, chủ tịch Hội những người trồng rau đã phối hợp thu hoạch để đảm
bảo chính xác số lượng được cung cấp mỗi ngày. (Andrew W.Sheperd 2007)
2.2.4 Liên kết thông qua hợp tác xã (HTX)

Liên kết thông qua HTX là HTX là liên kết giữa nông dân với HTX, khi liên
kết như vậy thì nông dân sẽ có lợi là được hưởng những lợi ích như hỗ trợ về đầu
vào, kỹ thuật hoặc có thể được hỗ trợ về tín dụng, có cơ hội bán số lượng lớn với
giá trị cao, những sản phẩm sẽ được HTX thu gom, đóng gói, phân loại và bán ra
thị trường (Andrew W.Sheperd 2007). Liên kết thông qua HTX được áp dụng ở
nhiều nước trên thế giới, ở các nước phát triển như Phần Lan, Nhật Bản,
Achentina, HTX đã tạo quyền lực cạnh tranh tốt đối với Doanh nghiệp do giải
quyết tốt vấn đề quy mô của nông dân, thực hiện chức năng thông qua hành động
tập thể, kết hợp nhiều nguồn lực và hạ chi phí giao dịch. Ngoài ra, các HTX này
thành công nhờ sự tự nguyện của nông dân, làm hạn chế những vấn đề tranh chấp
nội bộ nảy sinh trong những quyết định quan trọng của tập thể (Nguyễn Tri Khiêm
2003a).
Tuy nhiên, ở những nước Châu Á, liên kết thông qua HTX thường phát sinh
nhiều mặt hạn chế do chịu phụ thuộc nhiều sự tài trợ từ bên ngoài hay những tổ
chức phi chính phủ, với trình độ quản lý yếu kém cùng với những áp lực phải phát
triển cùng với những xu hướng phát triển của thế giới, những HTX thường gặp
nhiều khó khăn khó khăn khi không còn sự giúp đỡ của các tổ chức phi chính phủ
hay sự hỗ trợ của nhà nước (Andrew W.Sheperd 2007). Cụ thể với điều kiện của
Việt Nam thì HTX không thể làm hết vai trò của chính HTX. Một thí thụ ở các
HTX nông nghiệp ở An Giang, hoạt động của HTX nông nghiệp mặc dù đã được
nhà nước hỗ trợ nhiều chính sách ưu đãi, nhưng vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn,
15
Đề tài: Thực trạng liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua mô hình “Cánh
đồng mẫu lớn” xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
chưa phát huy được sức mạnh tập thể, chưa đáp ứng nhu cầu về dịch vụ trong sản
xuất nông nghiệp của nông dân. Các hoạt động chủ yếu của HTX nông nghiệp là
dịch vụ đầu vào cho sản xuất nông nghiệp, nồng cốt là dịch vụ tưới tiêu (Đặng Thị
Thanh Huỳnh 2010).
2.2.5 Trực tiếp giữa nông dân với nhà máy chế biến (bao gồm cả sản xuất theo
hợp đồng)

Liên kết giữa nông dân và nhà máy chế biến là hình thức liên kết mà nhà máy
chế biến liên kết trực tiếp với những nhóm nông dân thông qua hợp đồng, những
nhóm này có thể được cung cấp đầu vào, hỗ trợ kỹ thuật và có thể được cung cấp
tín dụng (Andrew W.Sheperd 2007). Hiệp hội mía đường Lam Sơn ở Thanh Hóa
là một dạng liên kết giữa Công ty Mía Đường, nông dân trồng mía, ngân hàng và
chính quyền địa phương. Hiệp hội đã gắn kết giữa liên kết sản xuất, chế biến và
tiêu thụ sản phẩm mía đường (Nguyễn Tri Khiêm 2003a). Một nhà máy đường
liên doanh giữa một công ty nhà nước và tập đoàn quốc tế trong khu vực ven biển
Miền Bắc. Nông dân trong vùng thường gặp nhiều khó khăn trong việc đầu tư cây
trồng mới. Mất khoảng 14 tháng giữa trồng và thu hoạch vụ mùa đường đầu tiên.
Các dự án tập trung giải ngân vốn cho người trồng theo hình thức cho vay ngắn
hạn. miễn phí hạt giống và phân bón cho khoảng 200 ha. Để giảm chi phí xử lý,
vốn bắt đầu được giải ngân cho các nhóm từ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn, mỗi nhóm gồm 50 thành viên. Mỗi nhóm chịu trách nhiệm giải ngân
để các thành viên chia sẽ trách nhiệm đối với tín dụng và trả nợ. (Andrew
W.Sheperd 2007).
2.2.6 Nông dân với Công ty xuất khẩu
Liên kết giữa nông dân với công ty xuất khẩu là liên kết giữa những nhóm
nông dân trực tiếp với công ty xuất khẩu. Liên kết này đòi hỏi cao về chất lượng
sản phẩm, Công ty xuất khẩu thường cung cấp sự hỗ trợ đầu vào, kỹ thuật, tín
dụng, cả vận chuyển và đóng gói. Điểm khác biệt giữa liên kết này với liên kết
giữa nông dân với nhà máy chế biến là liên kết nông dân với công ty xuất khẩu
16
Đề tài: Thực trạng liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua mô hình “Cánh
đồng mẫu lớn” xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
chủ yếu được thực hiện ở công ty chủ yếu xuất khẩu, cụ thể chỉ để xúc tie1n thị
trường có giá trị cao (Andrew W.Shepherd 2006 và 2007).
2.2.7 Sản xuất theo hợp đồng.
Sản xuất theo hợp đồng là doanh nghiệp s4 cung cấp cho một nông dân đầu
vào, đầu r và hỗ trợ kỹ thuật theo một hợp đồng chính thức (Andrew W.Shepherd

2007). Một hợp đồng nông nghiệp cần phải có những tiêu chuẩn cụ thể về thị
trường như những quy định về tieu chuẩn chấp lượng và cung ứng đầu vào, những
quy định về quy trình sản xuất, giống được sử dụng để bảo đảm thu nhập tối thiểu
cho người nông dân, những tiêu chuẩn về thu nhập và cách thức quản lý như cơ
cấu định giá phải được xác định trước, những hỗ trợ kỹ thuật tiến bộ và các
phương thức kiểm soát, quản lý được quy định rõ ràng (Charles Eaton và Andrew
W.Shepherd 2001).
Liên kết sản xuất đã được phát triển ở nhiều nước từ những thập niên 1980.
các dạng hợp đồng rất đa dạng ở Châu Á cũng như những hệ thống chính thức ở
các nước châu Mỹ La Tinh, Trung Đông và Đông Á. Các dạng hợp đồng giúp
nông dân có thể được tiếp cận với tín dụng, giống và đưa sản phẩm ra thị trường
trong nước và thế giới. Các Chính phủ của các nước này với vai trò hỗ trợ thông
tin giúp nông dân và tư thương hay doanh nghiệp hợp tác với nhau. Bên cạnh đó,
thông qua các cơ chế thi hành hợp đồng, giúp giải quyết tranh chấp hợp đồng,
phân loại và những tiêu chuẩn chất lượng (Nguyễn Tri Khiêm 2003a)
Tuy nhiên, sản xuất theo hợp đồng có thể mang lại cả những thuận lợi và bất
lợi cho cả doanh nghiệp và nông dân. Theo Charles Eaton và Andrew W.Shepherd
(2001), khi nông dân tham gia hợp đồng sẽ nhận được nhiều thuận lợi, được các
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ đầu vào, cung cấp tín dụng để hỗ trợ trong quá
trình sản xuất, thường xuyên được giới thiệu công nghệ mới, một số hình thức hợp
đồng sẽ có giá trị trước nên sẽ giảm rủi ro cho nông dân, và điều quan trọng là
nông dân có thể tiếp cận được thị trường một cách dễ dàng hơn.
17
Đề tài: Thực trạng liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua mô hình “Cánh
đồng mẫu lớn” xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
Những doanh nghiệp khi ký hợp đồng với nông dân sẽ được nhiều thuận lợi
về mặt chính trị vì được sự ủng hộ của chính quyền địa phương. Bên cạnh đó sản
xuất với nông dân sẽ đáng tin cậy hơn những đối tác khác hay gặp những vấn đề
về đất dai, đồng thời ít chịu trách nhiệm trong quá trình sản xuất, nhưng khi thuận
lợi sẽ đạt nhiều lợi nhuận. Tuy vậy khi doanh nghiệp ký hợp đồng với nông dân

thường ký ngắn hạn nên ảnh hưởng đến khả năng phát triển lâu dài và bền vững.
Sự hạn chế về văn hóa và xã hội cũng ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng những
thông số của kỹ thuật, đồng thời nông dân cũng có thể bán ngoài hợp đồng hay khi
cung cấp tín dụng cho nông dân có thể sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau, do
đó sẽ làm giảm năng suất, giảm đầu vào của nhà máy chế biến. Ngoài ra khi doanh
nghiệp quản lý yếu kém, thiếu sự quan tâm, liên hệ với nông dân, cũng sẽ làm
nông dân bất mãn và không tuân thủ theo hợp đồng. (Charles Eaton và Andrew
W.shepherd 2001).
Cụ thể ở An Giang, Nguyễn Tri Khiêm (2005), thực hiện nghiên cứu “ sản
suất nông nghiệp theo hợp đồng bao tiêu sản phẩm ở An Giang”. Bài viết đã chỉ ra
những khó khăn trong việc thực hiện hợp đồng là nông dân chưa có niềm tin vào
lợi ích đem lại từ hợp đồng, chưa quen với những quy trình kỹ thuật và những tiêu
chuẩn trong hợp đồng. Trong quá trình thực hiện thu mua, các HTX liên kết với
doanh nghiệp lại thiếu phương tiện để thu mua hết diện tích ký theo hợp đồng, cho
nên một số nông hộ bán lúa ra bên ngoài. Các doanh nghiệp chưa thật quan tâm
đến hợp đồng bao tiêu, không nhìn thấy sự cần thiết phải xây dựng vùng nguyên
liệu riêng, ngoài ra do các doanh nghiệp chưa có hợp đồng xuất khẩu dài hạn chủ
yếu là những hợp đồng xuất khẩu ngắn hạn nên thường không quan tâm đến việc
ký kết hợp đồng lâu dài với nông dân. Bên cạnh đó, áp lực thị trường chưa đủ
mạnh để nông dân và doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện hợp đồng, vì thế thường
xuyên xuất hiện những hiện tượng nông dân và Doanh nghiệp luân phiên phá vỡ
hợp đồng khi có những thay đổi của thị trường.
18
Đề tài: Thực trạng liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua mô hình “Cánh
đồng mẫu lớn” xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
2.3 MỘT SỐ DẠNG MÔ HÌNH LIÊN KẾT TRONG SẢN XUẤT NÔNG
NGHIỆP
Liên kết sản xuất trong phát triển nền nông nghiệp hiện đại là hướng đi tất
yếu trong bối cảnh nước ta phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Thế nhưng, thực tế sản xuất nông nghiệp ở nước

ta hiện nay, các mô hình liên kết, bao tiêu sản phẩm nông nghiệp của các doanh
nghiệp đối với nông hộ vẫn còn hết sức lỏng lẻo, dẫn đến nông sản Việt Nam
không cạnh tranh được trên thị trường quốc tế.
Hiện nay, giữa người nông dân và doanh nghiệp đang tồn tại nhiều hình thức
liên kết trong sản xuất. Trong đó có bốn hình thức chủ yếu là:
Doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm đầu ra nhưng không đầu tư, không tham gia
trực tiếp vào quá trình sản xuất. Hình thức này, thực chất chỉ là cách làm "ăn xổi,
ở thì", sự ràng buộc về trách nhiệm và quyền hạn pháp lý giữa các bên tham gia
chưa bền vững.
Hình thức thứ hai là doanh nghiệp đầu tư, có tham gia một phần vào quá
trình sản xuất của nông dân và bao tiêu sản phẩm. Với mô hình nói trên, doanh
nghiệp thường đóng vai trò người thu mua, bao tiêu toàn bộ hàng hóa do nông dân
sản xuất ra theo một mức giá sàn do doanh nghiệp đặt ra và có ứng trước vật tư,
hướng dẫn quy trình sản xuất, kiểm tra chất lượng sản phẩm Điểm mạnh của mô
hình là liên kết tốt giữa nông dân và doanh nghiệp. Nông dân làm ra sản phẩm
không chỉ có địa chỉ bán nông sản mà còn được doanh nghiệp chia sẻ về chi phí
sản xuất, được nâng cao trình độ sản xuất. Doanh nghiệp thật sự đóng vai trò đầu
tàu trong mối liên kết. Tuy nhiên, hạn chế mang tính đặc trưng của mô hình này
chính là trách nhiệm của hai bên doanh nghiệp - nông dân chỉ dựa trên chữ tín.
Hợp đồng dễ bị phá vỡ khi giá cả thị trường biến động. Đơn cử cho mô hình trên
là các mô hình "cánh đồng mẫu lớn" trồng lúa hay tiêu thụ mía đường, cà-phê
Mô hình liên kết khác cũng đang được áp dụng tại một số địa phương mang
lại hiệu quả kinh tế, xã hội khả quan là hình thức gia công sản xuất. Doanh nghiệp
19
Đề tài: Thực trạng liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua mô hình “Cánh
đồng mẫu lớn” xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
đảm nhiệm về chi phí vật tư sản xuất bao gồm: Giống, thức ăn, thuốc Doanh
nghiệp chỉ đạo nông dân về thời vụ sản xuất, áp dụng kỹ thuật theo quy trình cụ
thể, giám sát dịch bệnh, quy trình sản xuất và bao tiêu sản phẩm. Nông dân nhận
khoán định mức chi phí và một phần chi phí cơ bản đầu tư ban đầu, chi phí lao

động và sản xuất trên đất của nông hộ. Hình thức liên kết này mang lại hiệu quả
thiết thực khi áp dụng đối với mặt hàng cá tra xuất khẩu tại Công ty cổ phần thủy
sản Hùng Vương hay Công ty cổ phần xuất nhập khẩu thủy sản An Giang khi xây
dựng chuỗi liên kết dọc theo phương thức nuôi gia công. Đây được xem là hình
thức liên kết mà nông dân ít phải đầu tư, ít chịu rủi ro nhưng mức hưởng lợi lại rất
thấp. Doanh nghiệp thật sự đóng vai trò đầu tàu trong liên kết nhưng lại bất lợi khi
kinh tế biến động, nhất là doanh nghiệp gặp khó về vốn Một hạn chế rất lớn của
mô hình này chính là rất ít hộ nông dân có đủ điều kiện để doanh nghiệp lựa chọn
ký hợp đồng và có biểu hiện của lợi ích nhóm khi tiến hành liên kết.
Hình thức liên kết khác đang được người nông dân xây dựng, tuy nhiên, tính
điển hình không cao là góp vốn cổ phần vào doanh nghiệp nông, lâm, thủy sản
bằng giá trị quyền sử dụng đất. Điểm mạnh của mô hình này là tính hợp tác cao,
cùng chia sẻ rủi ro. Thế nhưng, một khi doanh nghiệp bị thua lỗ hay biến động, tài
chính không minh bạch thì người nông dân dễ bị thua thiệt.
Chính từ việc phân tích các mô hình trên cho thấy, hiện nay, việc lựa chọn,
định hướng, khuyến khích áp dụng mô hình liên kết trong sản xuất nông nghiệp
giữa doanh nghiệp và nông dân đóng vai trò hết sức quan trọng trong tái cơ cấu,
phát triển nông nghiệp hiện đại. Trong đó, Nhà nước vừa đóng vai trò người hoạch
định vừa đóng vai trò trọng tài với việc nhanh chóng ra đời các văn bản pháp lý,
chính sách ưu đãi quy định ràng buộc rõ ràng, cụ thể tại các hợp đồng liên kết
trong từng mô hình liên kết sản xuất nông nghiệp. Mặt khác, Nhà nước cũng cần
lựa chọn từng mặt hàng nông sản chiến lược để có lộ trình phát triển các mô hình
liên kết phù hợp và giải quyết các phát sinh nếu có. Về phía người nông dân, điều
cần nhất là chuyển từ vị trí thụ động, yếu thế trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm
20
Đề tài: Thực trạng liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua mô hình “Cánh
đồng mẫu lớn” xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
mình làm ra thành đối trọng ngang hàng, thật sự là người làm chủ hàng hóa cũng
như cần quan tâm hơn đến việc tham gia ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm. Đối
với doanh nghiệp tham gia đầu tư, kinh doanh nông nghiệp cần chấm dứt tư duy

độc quyền, tôn trọng thỏa đáng lợi ích của nông dân nhất là xây dựng tiềm lực
mạnh về một mặt hàng, ngành hàng cụ thể để đầu tư, xây dựng thương hiệu và thị
trường tiêu thụ ổn định. Vấn đề khác cũng cần quan tâm trong tái cơ cấu các mô
hình liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân trong nông nghiệp hiện nay là nâng
cao hơn nữa vai trò các tổ chức, như: Hội Nông dân, Liên minh hợp tác xã, các
hiệp hội ngành hàng đây là các tổ chức xã hội nghề nghiệp có vai trò gắn kết
chặt chẽ trong chiến lược phát triển nông nghiệp nói riêng, kinh tế nói chung ở
nước ta.
2.4 CÁC CĂN CỨ VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN XÂY DỰNG MÔ HÌNH
LIÊN LẾT “CÁNH ĐỒNG MẪU LỚN”
Tình trạng manh mún về ruộng đất xảy ra phổ biến ở nhiều nước trên thế giới
ít nhất là từ thế kỷ 17, không chỉ ở các nước đang phát triển mà cả ở những nước
phát triển. Từ góc độ cá nhân, tình trạng manh mún về ruộng đất gây ra nhiều hạn
chế như: chi phí sản xuất tăng, sử dụng nhiều lao động, đi lại khó khăn, lãng phí
đất cho bờ vùng bờ thửa, khó áp dụng công nghệ và máy móc vào sản xuất, khó tổ
chức hệ thống thủy lợi, tăng chi phí thu mua sản phẩm. Từ góc độ xã hội, ruộng
đất manh mún làm tăng chi phí giao dịch, khó chuyển dịch lao động nông nghiệp
sang ngành khác, cơ giới hóa chậm chạm, khó áp dụng công nghệ mới, khó quy
hoạch vùng sản xuất thương mại và quy hoạch sử dụng đất (Vũ Trọng Bình; Đặng
Đức Chiến).
Cánh đồng mẫu lớn, là khái niệm ở Việt nam ban đầu được hiểu là làm mẫu
những cánh đồng lớn, do vậy nếu nhận rộng, nên gọi là xây dựng những Cánh
đồng lớn. Việc xây dựng những cánh đồng lớn thực chất đã được thực hiện ở Việt
nam qua nhiều thời kì, từ hợp tác hóa đến hiện nay. Trong thời hợp tác hóa, việc
21
Đề tài: Thực trạng liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua mô hình “Cánh
đồng mẫu lớn” xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
xây dựng những cánh đồng lớn có cùng qui trình sản xuất, do HTX quản lí và làm
ăn tập thể, hay mô hình do nông lâm trường quốc doanh quản lí, đã đạt hiệu quả
không cao. Trong thời kì đổi mới, cũng đã có nhiều mô hình xây dựng cánh đồng

lớn tương đối thành công, như mô hình mía đường Lam sơn ở Thanh hóa, mô hình
các sản phẩm chỉ dẫn địa lí ở một số nơi Nhưng những mô hình này khó nhân
rộng, khó phát triển do thiếu khung thể chế tầm vĩ mô đảm bảo ổn định về qui
hoạch, liên kết nông dân và doanh nghiệp, thương hiệu sản phẩm. Một tiếp cận
nữa là để đi đến xây dựng những cánh đồng lớn, nhiều địa phương xây dựng đã
thực hiện dồn điền đổi thửa. Dồn điển đổi thửa” (land consolidation) là một giải
pháp cho những vấn đề nảy sinh từ sự manh mún của ruộng đất. Dồn điển đổi thửa
là quá trình mà ở đó những người sở hữu đất trao đổi những mảnh đất để nhận lại
mảnh khác tương đương về giá trị hoặc diện tích nhưng ít hơn về số lượng mảnh
đất và diện tích từng mảnh lớn hơn.
Tuy vậy, dồn điền đổi thửa chỉ là một bước đi đầu tiên trong quá trình xây
dựng “cánh đồng mẫu lớn”, đặc biệt là ở Việt Nam, nhu cầu của người dân trong
sản xuất nông nghiệp không đồng nhất, trong khi ruộng đồng manh mún và chia
cắt.
Nghị định 80, về liên kết 04 nhà, cũng là một tiếp cận thúc đẩy sự hình thành
những liên kết nông dân doanh nghiệp để có những cánh đồng sản xuất lớn. Vậy
Cánh đồng lớn mà chúng ta đang kì vọng xây dựng là gì, hiện nay có nhiều cách
hiểu, và chưa thông nhất, theo chúng tôi: “Là những cánh đồng có thể một hoặc
nhiều chủ, nhưng có cùng qui trình sản xuất, cùng kế hoạch tiêu thụ sản phẩm,
cung ứng đồng đều và ổn định về số lượng và chất lượng theo yêu cầu thị trường
dưới một thương hiệu nhất định”
Điểm mấu chốt của “cánh đồng mẫu lớn” là nông dân cùng nhau thực hành
sản xuất theo một qui trình chung trong tất cả các khâu từ sản xuất, quy trình kỹ
thuật, quản lý sản xuất, thu hoạch, bảo quản và tiêu thụ sản phẩm Để làm được
điều đó người nông dân phải tổ chức được “hành động tập thể” của họ với nhau
22
Đề tài: Thực trạng liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua mô hình “Cánh
đồng mẫu lớn” xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
theo từng cánh đồng lớn thay vì các hoạt động độc lập, riêng lẻ. Qui trình sản xuất,
thu hoạch, bảo quản và thương mại cho doanh nghiệp được thiết lập trên cơ sở yêu

cầu của doanh nghiệp, thị trường về khối lượng cung ứng, chất lượng , đây chính
là các yếu tổ để nông dân xây dựng hành động tập thể.
Vậy, yếu tố để người nông dân liên kết lại với nhau là gì? Trước hết đó phải
là lợi ích mà hành động tập thể mang lại phải lớn hơn lợi ích của hành động riêng
lẻ do từng cá nhân quyết định. Lợi ích của hành động tập thể do thực hiện trên
cùng một cánh đồng lớn bao gồm: i) đạt tính kinh tế quy mô; ii) giảm chi phí sản
xuất, chi phí giao dịch; iii) tăng khả năng tiếp cận với công nghệ, nguồn lực sản
xuất và thị trường mới; iv) tăng vị thế đàm phán và khả năng cạnh tranh; v) nâng
cao năng lực về tổ chức và nâng cao kiến thức nhờ vào sự chia sẻ kinh nghiệm
trong nhóm; vi) chia sẻ rủi ro. Những lợi ích hành động tập thể mang lại là vượt
trội mà hành động riêng lẻ không thể nào tạo ra được.
Bên cạnh các yếu tố kể trên, liên kết nông dân với nhau cũng nhằm để đáp
ứng nhu cầu thị trường tốt hơn. Chỉ có liên kết lại, nông dân mới có thể cung cấp
sản phẩm đủ lớn về số lượng, đồng đều về chất lượng, kịp thời gian cho nhiều đối
tác. Nhờ vào liên kết, nông dân mới có khả năng xây dựng và quản lý nhãn hiệu
tập thể, tiến đến xây dựng thương hiệu cho sản phẩm của mình, quản lý về chất
lượng sản phẩm để không những gia tăng giá trị mà còn đáp ứng nhu cầu của thị
trường ngày càng tăng đối với sản phẩm có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng và đảm bảo
an toàn, chất lượng.
Tổ chức sản xuất thông qua liên kết ngang giữa nông dân với nhau để cung
cấp sản phẩm theo nhu cầu của thị trường mới là một khía cạnh, là yếu tố “đẩy”
(Push) trong mô hình “cánh đồng mẫu lớn”. Mô hình này còn cần có yếu tố “kéo”
(pull), chính là thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra, mà hoạt động cốt lõi là xây
dựng được liên kết dọc giữa nông dân và doanh nghiệp tiêu thụ. Xây dựng mối
liên kết này về bản chất là xây dựng kênh tiêu thụ mới trong chuỗi giá trị thông
qua loại bỏ bớt tác nhân trung gian giữa người sản xuất và doanh nghiệp, rút ngắn
23
Đề tài: Thực trạng liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua mô hình “Cánh
đồng mẫu lớn” xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
độ dài của kênh tiêu thụ. Nếu không có liên kết này, việc tổ chức sản xuất thông

qua liên kết ngang không đạt được lợi ích như mong muốn. Hiện tại, nhiều doanh
nghiệp nông nghiệp Việt nam chỉ thực hiện một khâu trong chuỗi giá trị toàn cầu,
mà chủ yếu là nhiệm vụ thu gom thô, hoặc sơ chế đóng gói. Có nghĩa là ngay bản
thân các doanh nghiệp cũng không tiếp cận được tới người tiêu dùng thông qua
thương hiệu của mình, vì vậy kinh doanh của doanh nghiệp mang tính thời vụ,
không ổn định. Những doanh nghiệp này cũng không thể liên kết ổn định với nông
dân được, họ không có các yếu tố ổn định để liên kết với nông dân về chất lượng,
cung ứng và chia sẻ rủi ro Do vậy, để xây dựng những cánh đồng lớn, nông dân
chỉ nên liên kết với những doanh nghiệp có hả năng chế biến sâu sản phẩm, bản
sản phẩm trực tiếp, có thương hiệu, đến người tiêu dùng thông qua các hệ thống
phân phối trong nước hoặc toàn cầu. Hoặc những doanh nghiệp chứng minh được
là họ đã liên kết, là một phần hữu cơ của một chuỗi hành hóa nào đó trong các
khía cạnh về chất lượng, thương hiệu, rủi ro (Vũ Trọng Bình; Đặng Đức Chiến
2012)
Vậy, liên kết dọc giữa doanh nghiệp và nông dân dựa trên những yếu tố nào?
Hay nói cách khác, cái gì là “chất kết dính” giữa doanh nghiệp và nông dân?
Trước tiên đó là quan hệ mua bán, trong đó doanh nghiệp là người mua và nông
dân là người bán sản phẩm. Nhưng quan hệ mua bán này không phải là giao dịch
mang tính thời vụ, mà nó được thực hiện trên cơ sở các yếu tố liên kết hữu cơ giữa
doanh nghiệp và nông dân. Trên cơ sở liên kết ngang, sẽ có một số lượng nông
dân nhất định cùng tổ chức thực hiện sản xuất theo cánh đồng lớn, doanh nghiệp là
tác nhân không thể thiếu, là động lực để nông dân thực hiện hành động tập thể
trong xây dựng cánh đồng lớn. Những yếu tố liên kết ngang của nông dân, thực
chất cũng là cơ sở để hình thành liên kết dọc với doanh nghiệp về chất lượng sản
phẩm, cung ứng, quản trị chuỗi, quản lí thương hiệu sản phẩm. Chất lượng, số
lượng, giá thành sản xuất của một sản phẩm đưa ra thị trường, được nông dân và
24
Đề tài: Thực trạng liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua mô hình “Cánh
đồng mẫu lớn” xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
doanh nghiệp cùng liên kết để thực hiện đồng nhất, có quản trị từ sản xuất đến

phâm phối cho người tiêu dùng.
Do đó, khi nông dân chưa biết vai trò của một doanh nghiệp trong một chuỗi
thương mại nào đó, thì chưa nên liên kết chặt chẽ để sản xuất, vì rủi ro cao.
Thứ hai, doanh nghiệp đóng vai trò là người cung ứng dịch vụ phục vụ sản
xuất, bao gồm từ nguyên vật liệu như giống, vật tư, phân bón, thuốc trừ sâu, máy
móc dưới hình thức hiện vật, đến các dịch vụ bảo vệ thực vật, thủy lợi ; cung ứng
dịch vụ thu hoạch, vận chuyển, bảo quản, lưu trữ và tiêu thụ sản phẩm.
Thứ ba, giữa doanh nghiệp và nông dân còn có quan hệ chia sẻ thông tin thị
trường, kỹ thuật, kiến thức, cung cấp dịch vụ tài chính và các dịch vụ kinh doanh
khác.
Thứ tư, mối liên kết còn dựa trên quan hệ quản trị trong chuỗi giá trị ở đó
doanh nghiệp và nông dân cùng nhau thực hiện, hoặc doanh nghiệp (dẫn đầu) áp
đặt những tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, giá cả, phương thức giao dịch, phương
thức thanh toán trong chuỗi. Mối liên kết cũng là cơ chế để xây dựng và quản lý
nhãn hiệu tập thể một cách có hiệu quả (Vũ Trọng Bình; Đặng Đức Chiến 2012).
Như vậy, đặc điểm cơ bản và cốt lõi của “cánh đồng lớn” chính là xây dựng
các liên kết ngang để thực hiện hành động tập thể và liên kết dọc để xây dựng
kênh phân phối mới của các tác nhân trong chuỗi giá trị nhằm đáp ứng nhu cầu thị
trường một cách có hiệu quả nhất dựa trên nguyên tắc các bên tham gia bình đẳng
và cùng có lợi. Điều này cũng có nghĩa là mô hình “cánh đồng mẫu lớn” cần được
hiểu ở trên một bình diện rộng hơn, không chỉ là về mặt không gian và còn về mặt
thể chế tổ chức trong qui hoạch, sản xuất, thương mại theo từng chuỗi sản phẩm.
Như thế, một mô hình mà nông dân tổ chức liên kết sản xuất trên những mảnh
ruộng không nằm cạnh nhau nhưng thực hiện cùng quy trình kỹ thuật sản xuất,
quản lý sản xuất, chất lượng sản phẩm tương đồng, có liên kết với doanh nghiệp
về cung ứng sản phẩm đầu vào, cung cấp dịch vụ hỗ trợ, bao tiêu sản phẩm đầu ra
25
Đề tài: Thực trạng liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua mô hình “Cánh
đồng mẫu lớn” xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
thì cũng có thể coi mô hình đó là “cánh đồng mẫu lớn” (Vũ Trọng Bình; Đặng

Đức Chiến 2012).
Với những phân tích trên, kinh nghiệm xây dựng « cánh đồng mẫu lớn » nên
được nhìn nhận và tổng kết dưới hai góc độ chính i) xây dựng liên kết ngang, tổ
chức nông dân hành động tập thể: qui hoạch sản xuất, sản xuất, bán sản phẩm ;
ii) xây dựng liên kết dọc trong chuỗi giá trị trên cơ sở những doanh nghiệp, hoặc
tổ chức nông dân đủ khả năng tiếp cận thị trường đầu cuối, liên kết chặt chẽ với
các doanh nghiệp khác trong toàn chuỗi giá trị dến tận người tiêu dùng, dưới
thương hiệu nhất định
2.5 TIÊU CHÍ XÂY DỰNG “CÁNH ĐỒNG MẪU LỚN” THEO
HƯỚNG GAP – VietGAP
2.5.1 Nội dung thực hiện cánh đồng mẫu lớn theo hướng GAP –
VietGAP
Xác định bộ giống lúa xuất khẩu trong từng cánh đồng và trong
toàn tỉnh
Bộ giống lúa xuất khẩu của tỉnh, căn cứ vào khả năng thích nghi cao
nhất của giống lúa trong điều kiện tự nhiên, thời tiết, khí tượng thủy văn,
đáp ứng và phù hợp với việc ứng dụng đồng bộ các tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào sản xuất lúa. Giống lúa chất lượng cao, được thị trường tiêu thụ
trong nước chấp nhận và đạt tiêu chuẩn xuất khẩu.
Bộ giống lúa xuất khẩu của tỉnh được theo dõi chặt chẽ trong nhiều
năm, đánh giá chi tiết tính thích nghi và khả năng cho năng xuất, chất lượng
và hiệu quả, đồng thời phải có thêm sự tham khảo với các doanh nghiệp tiêu
thụ lúa, gọa để đảm bảo sản xuất thích ứng với nhu cầu tiêu thụ của thị
trường.
Ứng dụng đồng bộ các tiến bộ khoa học kỹ thuật và đẩy mạnh cơ
giới hóa trong các khâu sản xuất lúa
Việc ứng dụng đồng bộ các tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp trên cơ sở
những tiến bộ kỹ thuật đã được Bộ Nông nghiệp và PTNT hoặc các Bộ,
ngành có liên quan công nhận hoặc từ các đề tài, dự án, chương trình hợp tác
đang thực hiện tại tỉnh và tỏ ra có hiệu quả kỹ thuật, kinh tế, xã hội, môi

26
Đề tài: Thực trạng liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua mô hình “Cánh
đồng mẫu lớn” xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
trường và phù hợp với chủ trương, chỉ đạo sản xuất lúa của Bộ Nông nghiệp
và PTNT hiện nay, được tỉnh đề nghị đưa vào canh tác trong mô hình.
Khi triển khai các tiến bộ kỹ thuật này cần phải thực hiện theo quy
trình của các tiến bộ kỹ thuật đã được công nhận. Nếu có bổ sung các kỹ
thuật đang trong quá trình triển khai thực hiện là kết quả các đề tài, dự án,
chương trình hợp tác đang thực hiện tại tỉnh phải có các báo cáo về việc tổ
chức, triển khai và cơ sở lý luận của việc tổ chức triển khai kỹ thuật này.
Cục Trồng trọt, Cục Bảo vệ thực vật và Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh cùng
với các cơ quan chuyên môn sẽ thẩm định trước khi tổ chức thực hiện trong
mô hình.
Xác định vùng sản xuất lúa hàng hóa tập trung tỉnh và tiến hành
quy hoạch ngắn hạn, dài hạn
Việc xác định vùng sản xuất lúa hàng hóa tập trung dựa trên cơ sở quy
hoạch của tỉnh, vùng sản xuất này có thể nằm trên nhiều địa bàn khác nhau
hoặc trong cùng một địa bàn. Xây dựng cánh đồng mẫu lớn tiến tới xây
dựng vùng nguyên liệu lúa hàng hóa chất lượng cao xuất khẩu theo GAP, do
vậy cần tiến hành thực hiện tại những vùng sản xuất được quy hoạch để làm
điểm nhân rộng.
Xây dựng quy trình canh tác lúa hàng hóa chất lượng cao xuất
khẩu, tiến tới xây dựng theo quy trình VietGAP lúa
Quy trình canh tác được xây dựng lần đầu dựa trên quy trình áp dụng
các tiến bộ kỹ thuật, trong quá trình thực hiện, quy trình canh tác sẽ được
hoàn thiện thông qua việc phân tích, đánh giá từ việc ghi chép sổ tay sản
xuất lúa.
Quy trình canh tác hoàn thiện dần theo hướng thực hiện quy trình
VietGAP cho lúa.
Quy trình này bắt buộc thực hiện cho toàn bộ diện tích tham gia mô

hình.
Xác định chuỗi cung ứng lúa, gạo phù hợp trên cơ sở phân tích,
đánh giá chuỗi cung ứng hiện tại và đề xuất chuỗi cung ứng hợp lý, hiệu
quả
Chuỗi cung ứng lúa gạo từ sản xuất đến tiêu thụ cần được theo dõi,
ghi chép và phân tích trên cơ sở đề xuất và xây dựng chuỗi cung ứng lúa gạo
hiệu quả, nâng cao dần giá trị hạt gạo, trong đó việc phân phối lợi nhuận cao
nhất có thể được cho người sản xuất.
27
Đề tài: Thực trạng liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp thông qua mô hình “Cánh
đồng mẫu lớn” xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
Xây dựng nền tảng liên kết vững chắc dựa trên các yếu tố chính trị,
kinh tế, văn hóa, tài chính, thương mại, hài hòa lợi ích và hiệu quả tối ưu
Xây dựng các chương trình liên kết căn cứ theo các văn bản quy phạm
pháp luật đồng thời xem xét đến tính thực tiễn của sản xuất lúa, gạo trong
vùng. Phát triển vùng nguyên liệu lúa gạo xuất khẩu phải được đặt trong
hoàn cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của nơi thực hiện, vừa phát triển
kinh tế nhưng cũng phù hợp và hài hòa với các lợi ích khác của nông dân
trong vùng.
Mở rộng vùng nguyên liệu, phân chia hợp lý và khai thác hiệu quả
vùng nguyên liệu
Xây dựng vùng nguyên liệu ban đầu là những liên kết thực hiện mô
hình, vùng nguyên liệu khi mở rộng cần có sự kiểm soát và điều tiết của Nhà
nước, tránh tình trạng tranh chấp nguyên liệu khi nông sản có giá trị cao.
2.5.2 Các bên cần liên kết, phối hợp thực hiện
Hiệp hội lương thực Việt Nam và các công ty thành viên
Hiệp hội lương thực Việt Nam và các công ty thành viên có vai trò
quan trọng trong việc tổ chức thu mua sản phẩm, ngoài ra tiến tới thực hiện
là đầu mối đầu tư về giống lúa cho nông dân, tổ chức phối hợp với các
doanh nghiệp vật tư khác như phân bón, thuốc BVTV, xăng dầu,…

Sở Nông nghiệp và PTNT các tỉnh, thành ĐBSCL
Sở Nông nghiệp và PTNT các tỉnh, thành ĐBSCL đóng vai trò chính
trong việc tổ chức thực hiện “cánh đồng mẫu lớn” theo chỉ đạo của Bộ, là cơ
quan chủ trì thực hiện, tổ chức liên kết và chịu trách nhiệm trong việc xây
dựng vùng nguyên liệu.
Phân viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp
Hỗ trợ các địa phương về quy hoạch, đề xuất và kiến nghị việc tổ
chức vùng nguyên liệu tập trung.
Các Viện, Trường, Trung tân nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ
KHKT
Xây dựng quy trình sản xuất lúa, phổ biến các tiến bộ KHKT, điều tra,
phân tích và hoàn thiện quy trình canh tác theo VietGAP, phối hợp toàn diện
về kỹ thuật trong việc tổ chức, xây dựng và triển khai mô hình, tiến đến xây
dựng vùng nguyên liệu lúa chất lượng cao theo GAP cho tiêu thụ nội địa và
xuất khẩu.
28

×