Tải bản đầy đủ (.doc) (134 trang)

Luận văn thạc sỹ: Một số biện pháp quản trị và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty Cổ phần Xây lắp Bưu điện Hà Nội (Hacisco)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (956.42 KB, 134 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
STT Ký hiệu Nghĩa đầy đủ
1 BĐ Bưu điện
2 CP Cổ phần
3 DL Du lịch
4 TM Thương mại
5 TNHH Trách nhiệm hữu hạn
6 VLĐ Vốn lưu động
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
Số hiệu biểu Tên biểu Trang
Biểu đồ 2.1 Biểu đồ tình hình tăng trưởng doanh thu của Công ty 44
Sơ đồ 2.2 Sơ đồ bộ máy tổ chức của Công ty 47
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Số hiệu
biểu
Tên biểu Trang
Bảng 2.1 Hồ sơ kinh nghiệm thi công xây lắp của Hacisco 49
Bảng 2.2 Cơ cấu vốn sản xuất kinh doanh của Công ty 55
Bảng 2.3 Cơ cấu vốn lưu động của Công ty 58
Bảng 2.4 Cơ cấu vốn bằng tiền của Công ty 62
Bảng 2.5 Xác định thời gian một vòng quay tiền mặt của Công ty 64
Bảng 2.6 Cơ cấu các khoản phải thu của Công ty 68
Bảng 2.7
Xác định thời gian một vòng quay các khoản phải thu
của Công ty
71
Bảng 2.8 Cơ cấu hàng tồn kho của Công ty 75
Bảng 2.9
Xác định thời gian một vòng quay hàng tồn kho của
Công ty


79
Bảng
2.10
Thống kê tình hình đầu tư cổ phiếu của Công ty Cổ phần
Xây lắp Bưu điện Hà Nội
83
Bảng
2.11
Tốc độ luân chuyển vốn lưu động
85
Bảng
2.12
So sánh số lần luân chuyển vốn lưu động
90
Bảng
2.13
So sánh kỳ luân chuyển vốn lưu động
91
Bảng
2.14
Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động
95
Bảng
2.15
So sánh hệ số đảm nhiệm vốn lưu động
96
Bảng
2.16
Tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động
97

Bảng
2.17
So sánh tỷ suất lợi nhuận vốn lưu động
98
Bảng
2.18
Khả năng thanh toán hiện hành
100
Bảng 2.19 So sánh khả năng thanh toán hiện hành 101
Bảng Khả năng thanh toán nhanh 102
Số hiệu
biểu
Tên biểu Trang
2.20
Bảng
2.21
So sánh khả năng thanh toán nhanh
103
Bảng
2.22
Khả năng thanh toán tức thời
104
Bảng
2.23
So sánh khả năng thanh toán tức thời
105
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Ngày 07 tháng 11 năm 2006, Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO). Có thể thấy rõ, sau khi Việt Nam gia nhập

WTO, đã có một làn sóng nhà đầu tư đổ vào Việt Nam kinh doanh. Điều này
mang đến cho các doanh nghiệp nhiều cơ hội, nhưng đồng thời cũng làm tăng
sức ép cạnh tranh vốn đã gay gắt lại càng gay gắt hơn giữa các doanh nghiệp.
Do đó, để có thể tồn tại và phát triển trên thị trường, các doanh nghiệp phải
tận dụng những lợi thế của mình, từng bước khắc phục những điểm yếu để
nâng cao khả năng cạnh tranh. Đồng thời, các nhà quản trị phải quản lý và sử
dụng nguồn vốn của mình một cách hiệu quả để phát triển hoạt động sản xuất
kinh doanh trong điều kiện cạnh tranh ngày càng quyết liệt như hiện nay.
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn đóng một vai trò hết
sức quan trọng, quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động, do đó trong quá
trình sản xuất kinh doanh, vốn lưu động luôn vận động, thay thế và chuyển
hóa lẫn nhau, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành liên
tục. Nếu không chú trọng quản trị vốn kinh doanh nói chung và vốn lưu động
nói riêng, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc duy trì và mở rộng sản
xuất kinh doanh trên thương trường. Quản trị và nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn kinh doanh nói chung và vốn lưu động nói riêng là một vấn đề rất quan
trọng giúp doanh nghiệp đứng vững và phát huy hơn nữa thế mạnh của mình.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn đó, Công ty Cổ phần Xây lắp Bưu điện Hà
Nội (Hacisco) luôn quan tâm tới vấn đề quản trị vốn lưu động nhằm phát huy
thế mạnh của mình trong lĩnh vực xây lắp các công trình Bưu chính - Viễn
thông và cung cấp các vật tư ngành Bưu chính viễn thông không chỉ trong địa
bàn thành phố Hà Nội mà còn trên nhiều tỉnh thành trong cả nước.
1
Được sự chấp thuận của Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà
Nội, với sự hướng dẫn của Tiến sỹ Nguyễn Thị Minh Tâm, tôi đã chọn đề tài
“Một số biện pháp quản trị và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại
Công ty Cổ phần Xây lắp Bưu điện Hà Nội (Hacisco)” để có thể nghiên cứu
về tình hình quản trị và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty.
2. Tình hình nghiên cứu

Về lý luận, quản trị và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động là vấn đề
không mới và đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khác nhau về vấn đề này,
có thể đưa ra một số đề tài nghiên cứu:
- “Nâng cao hiệu quả quản trị vốn lưu động tại Nhà máy gạch ngói Long
Xuyên” của Phạm Thị Đức Hạnh – Trường Đại học An Giang - năm 2004
- “Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
của doanh nghiệp thương mại TNHH trên địa bàn Hà Nội” của Nguyễn Thị
Mai Anh – Đại học Kinh tế quốc dân – năm 2005
- “Vốn lưu động và hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty Cổ phần
Thiết bị thương mại Thương Mại” của Trần Thị Mỹ An - Đại học Thương
Mại - Năm 2004
- Và một số đề tài khác.
Tuy nhiên, chưa có một công trình nghiên cứu nào đề cập một cách toàn
diện và cụ thể về quản trị và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại
Công ty Hacisco.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:
- Hoàn thiện các vấn đề lý luận về quản trị và hiệu quả sử dụng vốn lưu
động trong các doanh nghiệp.
2
- Phân tích thực trạng công tác quản trị và sử dụng vốn lưu động tại Công
ty Hacisco, từ đó đề xuất một số biện pháp quản trị vốn lưu động nhằm nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty trong thời gian tới
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Hệ thống hoá các vấn đề lý luận cơ bản về quản trị và nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn lưu động.
- Phân tích và đánh giá thực trạng quản trị và sử dụng vốn lưu động tại
Công ty Hacisco.
- Đề xuất các biện pháp quản trị vốn lưu động nhằm nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn lưu động cho Công ty.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Tình hình quản trị vốn lưu động tại Công ty Cổ phần Xây lắp Bưu điện
Hà Nội (Hacisco). Cụ thể, trong phạm vi của đề tài, đi sâu vào đánh giá thực
trạng quản trị tiền mặt, quản trị các khoản phải thu, quản trị hàng tồn kho, tại
Công ty trong 4 năm 2005-2008, từ đó đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn lưu động tại Công ty.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Tình hình quản trị vốn lưu động tại Công ty thể hiện qua các tài liệ và
đặc biệt là các báo cáo tài chính, báo cáo tổng kết của Công ty Hacisco trong
vòng 4 năm 2005-2008.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài có sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử, phương pháp phân tích tổng hợp dựa trên các số liệu thực tế thu thập
được. Đặc biệt, tác giả luận văn đã sử dụng phương pháp phân tích các nhân
tố ảnh hưởng đến các chỉ tiêu.
Bên cạnh đó, còn sử dụng các phương pháp sau:
3
- Phương pháp tổng hợp ý kiến chuyên gia
- Phương pháp so sánh:
Xác định mức độ thay đổi biến động tương đối và tuyệt đối của các chỉ
tiêu phân tích.
- Phương pháp mô tả:
Dùng các bảng biểu, đồ thị để miêu tả chỉ tiêu cần thiết cho việc phân tích.
6. Dự kiến những đóng góp của luận văn
* Về mặt lý luận:
Khái quát hóa các lý luận cơ bản về quản trị và sử dụng vốn lưu động tại
các doanh nghiệp để đưa ra cơ sở lý thuyết tương đối hoàn chỉnh nhằm vận
dụng vào các doanh nghiệp đặc thù.
* Về mặt thực tế:

Phát hiện, phân tích và đánh giá ưu nhược điểm trong công tác quản trị
và sử dụng vốn lưu động tại Công ty trong 4 năm từ 2005-2008, từ đó đưa ra
các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty trong thời
gian tới.
7. Bố cục của luận văn
Bố cục của luận văn ngoài phẩn mở đầu và kết luận gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản trị và sử dụng vốn lưu động tại doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng công tác quản trị và sử dụng vốn lưu động tại
Công ty Cổ phần Xây lắp Bưu điện Hà Nội (Hacisco).
Chương 3: Biện pháp quản trị nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu
động tại Công ty Cổ phần Xây lắp Bưu điện Hà Nội (Hacisco)
trong thời gian tới.
4
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ VÀ SỬ DỤNG
VỐN LƯU ĐỘNG TẠI DOANH NGHIỆP
1.1. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI VÀ VAI TRÒ CỦA VỐN LƯU ĐỘNG
1.1.1. Khái niệm vốn lưu động
Cũng như các ngành sản xuất khác, ngành xây dựng cơ bản muốn tiến
hành hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm thì cần phải có đủ ba yếu
tố cơ bản của quá trình sản xuất đó là: sức lao động, tư liệu lao động và đối
tượng lao động.
Trong đó sức lao động là tổng hợp thể lực, trí lực của con người, là điều
kiện tiên quyết của mọi quá trình sản xuất xã hội. Mọi quá trình vận động
phát triển sản xuất kinh doanh đều đòi hỏi sức lao động ngày càng có chất
lượng cao hơn.
Tư liệu lao động là một vật hay một hệ thống những vật làm nhiệm vụ
truyền dẫn sự tác động của con người đến đối tượng lao động, làm thay đổi
hình thái tự nhiên của nó, biến đối tượng lao động thành sản phẩm thoả mãn
nhu cầu của con người.

Đối tượng lao động là tất cả những vật mà con người tác động vào nhằm
biến đổi nó phù hợp với mục đích sử dụng. Bao gồm các loại có sẵn trong
thiên nhiên như cây gỗ trong rừng nguyên thuỷ, hải sản ngoài biển khơi… và
các loại đã qua chế biến như nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, thành
phẩm… chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất và không giữ nguyên hình thái
vật chất ban đầu, giá trị của nó được dịch chuyển toàn bộ, một lần vào giá trị
sản phẩm. Những đối tượng lao động nói trên nếu xét về hình thái hiện vật thì
được gọi là tài sản lưu động, còn xét về hình thái giá trị thì được gọi là vốn
lưu động của doanh nghiệp.
5
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, để hình thành các tài sản lưu động,
doanh nghiệp phải bỏ ra một số vốn đầu tư nhất định. Vì vậy ta có thể hiểu
vốn lưu động là số tiền ứng trước để đầu tư, mua sắm tài sản lưu động để đảm
bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra thường xuyên
liên tục.
1.1.2. Phân loại vốn lưu động
Phân loại vốn lưu động cần căn cứ vào một số tiêu thức nhất định để sắp
xếp vốn lưu động theo từng loại, từng nhóm nhằm đáp ứng nhu cầu quản lý và
mục đích sử dụng. Vì vậy việc phân loại có thể căn cứ vào một số tiêu thức sau:
1.1.2.1. Phân loại theo vai trò của từng loại vốn lưu động trong quá
trình sản xuất kinh doanh
Là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động nên đặc điểm luân chuyển
của vốn lưu động chịu sự chi phối bởi những đặc điểm của tài sản lưu động.
Vì vậy, vốn lưu động của các doanh nghiệp không ngừng vận động qua các
giai đoạn của chu kỳ kinh doanh bao gồm:
- Vốn lưu động trong khâu dự trữ gồm: Giá trị các khoản nguyên vật liệu
chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ.
- Vốn lưu động trong khâu sản xuất gồm: các khoản giá trị sản phẩm dở
dang, bán thành phẩm, các khoản chi phí chờ kết chuyển.
- Vốn lưu động trong khâu lưu thông gồm: Các khoản giá trị thành phẩm,

vốn bằng tiền, các khoản vốn đầu tư ngắn hạn, các khoản vốn trong thanh toán.
Các quá trình trên diễn ra thường xuyên liên tục lặp đi lặp lại theo chu kỳ
và được gọi là quá trình tuần hoàn, chu chuyển của vốn lưu động.
Do các nhà doanh nghiệp sản xuất hoạt động theo phương thức T - H -
SX - H’ - T’ nên hình thái ban đầu của vốn lưu động là tiền tệ rồi chuyển sang
hình thái nguyên vật liệu dự trữ. Qua giai đoạn sản xuất, nguyên vật liệu được
đưa vào chế tạo thành sản phẩm hoặc bán thành phẩm. Kết thúc quá trình vận
6
động, sau khi sản phẩm đã được tiêu thụ vốn tất cả các giai đoạn của quá trình
sản xuất và thường xuyên chuyển từ dạng này sang dạng khác.
Trong các doanh nghiệp khác nhau thì sự vận động của vốn lưu động là
khác nhau. Chẳng hạn, trong các doanh nghiệp thương mại thì phương thức
vận động của vốn là T – H – T’. Do vậy bắt đầu quá trình vận động vốn lưu
động từ hình thái tiền tệ chuyển sang hình thái hàng hoá và kết thúc lại trở về
hình thái tiền tệ chứ không qua giai đoạn sản xuất, chế biến.
Như vậy, chúng ta có thể khái quát những nét đặc thù về sự vận động
của vốn lưu động trong quá trình sản xuất kinh doanh như sau:
* Vốn lưu động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất kinh doanh, vốn lưu
động được phân bổ khắp cả trong và ngoài doanh nghiệp. Nó có liên quan đến
tất cả mọi người trong doanh nghiệp và những đối tượng ngoài doanh nghiệp.
* Vốn lưu động được chuyển dịch toàn bộ và một lần vào giá trị sản phẩm.
* Vốn lưu động vận động thường xuyên và nhanh hơn vốn cố định. Vốn
lưu động biến đổi từ hình thái này qua hình thái khác và sau đó sẽ chuyển về
hình thái ban đầu. Qua quá trình vận động, vốn lưu động không chỉ biến đổi
về hình thái, mà quan trọng hơn nó còn tạo nên sự biến đổi về giá trị.
Những thông tin về sự biến đổi này rất cần thiết cho sự tìm ra phương
hướng, biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động, mặt khác
việc thu hồi vốn lưu động sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh có tác dụng
trực tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp vì có thể thu hồi vốn lưu động thì
doanh nghiệp mới có thể tiến hành mua sắm vật tư, thiết bị, trang trải nợ nần

phục vụ cho chu kỳ sản xuất kinh doanh tiếp theo.
1.1.2.2. Phân loại vốn lưu động theo hình thái biểu hiện
Theo tiêu thức này thì vốn lưu động bao gồm:
- Vốn vật tư hàng hoá: Là các khoản vốn lưu động biểu hiện bằng hình
thái hiện vật hàng hoá cụ thể như nguyên nhiên vật liệu, sản phẩm dở dang,
bán thành phẩm, hàng hoá.
7
- Vốn bằng tiền: Bao gồm các khoản vốn tiền tệ như tiền mặt tại quỹ,
tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển, các khoản vốn trong thanh toán, các
khoản đầu tư ngắn hạn.
Ở các doanh nghiệp khác nhau thì kết cấu vốn lưu động cũng khác nhau,
việc phân tích kết cấu vốn lưu động sẽ giúp doanh nghiệp hiểu rõ hơn những
đặc điểm riêng về số vốn lưu động mà mình đang quản lý và sử dụng, từ đó
xác định đúng các trọng điểm và biện pháp quản trị vốn lưu động có hiệu quả
hơn với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp. Mặt khác, thông qua việc thay đổi
kết cấu vốn lưu động của mỗi doanh nghiệp trong từng thời kỳ khác nhau ta
có thể thấy được những biến đối tích cực hay những hạn chế về mặt chất
lượng trong công tác quản trị vốn lưu động của từng doanh nghiệp.
1.1.2.3. Phân loại vốn lưu động theo nguồn hình thành
Trong nền kinh tế thị trường, vốn lưu động có thể được hình thành từ
nhiều nguồn khác nhau. Tuy nhiên căn cứ vào nội dung kinh tế, người ta có
thể chia làm 2 nguồn hình thành cơ bản sau:
- Nguồn vốn chủ sở hữu
- Nguồn vốn vay ngắn hạn
a) Nguồn vốn chủ sở hữu
Đối với một doanh nghiệp, tổng số tiền lớn hay nhỏ là rất quan trọng. Song
trong nền kinh tế thị trường, điều quan trọng hơn là khối lượng vốn do doanh
nghiệp đang nắm giữ được hình thành từ nguồn nào. Nguồn vốn của doanh
nghiệp thể hiện trách nhiệm pháp lý và quyền sở hữu của người chủ về các tài
sản hiện có của doanh nghiệp vốn chủ sở hữu được tạo nên từ các nguồn sau:

* Vốn ban đầu của chủ sở hữu: Là số tiền đóng góp của các nhà đầu tư
người chủ sở hữu doanh nghiệp nó phụ thuộc vào loại hình của doanh nghiệp.
- Đối với doanh nghiệp nhà nước: Nguồn vốn chủ sở hữu do nhà nước
(hay ngân sách nhà nước) cấp phát nên được gọi là vốn ngân sách nhà nước.
8
- Đối với công ty cổ phần: Nguồn vốn này được biểu hiện dưới hình thức
vốn cổ phần, vốn này do những người sáng lập công ty phát hành cổ phiếu để
huy động thông qua việc bán các cổ phiếu đó.
- Đối với doanh nghiệp tư nhân: Nguồn vốn này do chủ doanh nghiệp
đầu tư hay các hội viên liên kết cùng nhau bỏ ra để đầu tư hình thành doanh
nghiệp, nên được gọi là vốn tự có.
- Đối với doanh nghiệp liên doanh: Nguồn vốn này được biểu hiện dưới
hình thức vốn liên doanh, vốn này được hình thành do sự đóng góp giữa các
chủ đầu tư hoặc các doanh nghiệp để hình thành các doanh nghiệp mới.
* Vốn doanh nghiệp tự bổ sung: Là số vốn được bổ sung hàng năm từ lợi
nhuận hoặc từ các quỹ của doanh nghiệp. Ngoài ra cần phải kể đến số vốn do
các chủ sở hữu bổ sung mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Bên cạnh đó, vốn chủ sở hữu còn bao gồm chênh lệch đánh giá lại tài
sản, quỹ phát triển sản xuất, quỹ dự trữ, chênh lệch tỷ giá, quỹ khen thưởng,
quỹ phúc lợi, vốn đầu tư xây dựng cơ bản, kinh phí sự nghiệp.
b) Nguồn vốn tín dụng (vốn vay).
Trong nền kinh tế thị trường, ngoài nguồn vốn chủ sở hữu nguồn vốn tín
dụng vẫn luôn được coi là nguồn vốn quan trọng thường xuyên và hiệu quả
đối với hầu hết các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cả trên lý
thuyết cũng như thực tế.
Vốn vay có ý nghĩa quan trọng không những chỉ ở khả năng tài trợ các
nhu cầu bổ sung cho việc mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp mà còn tạo điều kiện linh hoạt trong việc thu hẹp quy mô kinh
doanh bằng việc hoàn trả các khoản nợ đến hạn và giảm số lượng vốn vay.
Nguồn vốn tín dụng được thực hiện dưới các phương thức chủ yếu sau:

-Vốn tín dụng ngân hàng: Là các khoản vốn mà các doanh nghiệp vay
các ngân hàng thương mại, công ty tài chính, công ty bảo hiểm hay các tổ
chức kinh doanh khác… theo nguyên tắc hoàn trả theo thời gian quy định.
9
Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng quan trọng nhất. Nó có quan
hệ với các thành phần kinh tế trong xã hội và thoả mãn phần vốn khá lớn đối
với các doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Việc sử dụng nguồn vốn tín
dụng ngân hàng để tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động không chỉ giúp cho
doanh nghiệp khắc phục được những khó khăn về vốn mà còn có tác dụng
phân tán rủi ro trong kinh doanh. Tuy nhiên để sử dụng nguồn vốn tín dụng
có hiệu quả, doanh nghiệp cũng cần phải có những phân tích đánh giá nhiều
mặt khi quyết định sử dụng nguồn vốn này, đặc biệt là việc lựa chọn ngân
hàng cho vay, khả năng trả nợ và chi phí sử dụng vốn vay từ các ngân hàng.
- Vốn tín dụng thương mại: Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng
giữa các nhà doanh nghiệp biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá,
mua bán trả góp, trả chậm hàng hoá, nguồn tín dụng thương mại có ảnh
hưởng hết sức to lớn không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn đối với cả một
nền kinh tế. Quy mô của nguồn vốn tín dụng thương mại phụ thuộc vào số
lượng hàng hoá dịch vụ mua chịu và thời hạn mua chịu của khách hàng. Thời
hạn mua chịu càng dài thì nguồn vốn tín dụng thương mại càng lớn.
- Vốn chiếm dụng của các đối tượng khác: Bao gồm các khoản phải trả
cán bộ công nhân viên, phải trả thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà
nước nhưng chưa đến hạn phải trả, phải nộp hay các khoản tiền đặc cọc. Mặc
dù doanh nghiệp có quyền sử dụng số vốn này vào các hoạt động kinh doanh
mà không phải trả lãi, nhưng nguồn vốn này không lớn và không có kế hoạch
trước, mà chỉ đáp ứng vốn lưu động tạm thời.
- Vốn do phát hành trái phiếu: Là nguồn vốn doanh nghiệp thu được do
phát hành trái phiếu ngắn hạn ra thị trường nhằm thu hút được các nguồn tiền
tạm thời nhàn rỗi trong xã hội. Việc phát hành trái phiếu cho phép phân phối
rộng rãi, người vay tránh được các khó khăn và sự giàng buộc của ngân hàng,

các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng có
thể phát hành trái phiếu.
10
Như vậy, trong nền kinh tế thị trường, vốn lưu động được hình thành từ
nhiều nguồn khác nhau, bằng các hình thức huy động rất đa dạng và phong
phú. Mỗi hình thức có ưu điểm, nhược điểm nhất định. Vì vậy các nhà quản
trị tài chính cần phải lựa chọn các phương pháp và hình thức thích hợp đảm
bảo cho doanh nghiệp hoạt động liên tục với chi phí sử dụng vốn thấp nhất.
1.1.3. Vai trò của vốn lưu động
Vốn trong các doanh nghiệp có vai trò quyết định đến việc thành lập,
hoạt động và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Nó là điều kiện tiên quyết,
quan trọng nhất của sự ra đời, tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Là
một bộ phận không thể thiếu được trong vốn kinh doanh của các doanh
nghiệp, vốn lưu động có những vai trò chủ yếu sau.
Một là: Vốn lưu động giúp cho các doanh nghiệp tiến hành hoạt động
sản xuất kinh doanh một cách liên tục có hiệu quả. Nếu vốn lưu động bị thiếu
hay luân chuyển chậm sẽ hạn chế việc thực hiện mua bán hàng hoá, làm cho
các doanh nghiệp không thể mở rộng được thị trường hay có thể bị gián đoạn
sản xuất dẫn đến giảm sút lợi nhuận gây ảnh hưởng xấu đến hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp.
Hai là: Do đặc điểm của vốn lưu động là phân bố khắp trong và ngoài
doanh nghiệp, đồng thời chúng lại chu chuyển nhanh nên thông qua quản lý
và sử dụng vốn lưu động, các nhà tài chính doanh nghiệp có thể quản lý toàn
diện tới việc cung cấp, sản xuất và phân phối của doanh nghiệp. Chính vì vậy,
có thể nói rằng vốn lưu động là một công cụ quản lý quan trọng. Nó kiểm tra,
kiểm soát, phản ánh tính chất khách quan của hoạt động tài chính thông qua
đó giúp cho các nhà quản trị doanh nghiệp đánh giá những mặt mạnh, mặt yếu
trong kinh doanh như khả năng thanh toán, tình hình luân chuyển vật tư, hàng
hoá, tiền vốn, từ đó có thể đưa ra những quyết định đúng đắn đạt được hiệu
quả kinh doanh cao nhất.

11
Ba là: Vốn lưu động là tiền đề vật chất cho sự tăng trưởng và phát triển
của các doanh nghiệp đặc biệt là đối với các doanh nghiệp thương mại và các
doanh nghiệp nhỏ, bởi ở các doanh nghiệp này vốn lưu động chiếm một tỷ
trọng lớn trong tổng vốn, sự sống còn của các doanh nghiệp này phụ thuộc rất
nhiều vào việc tổ chức, quản lý và sử dụng vốn lưu động. Mặc dù, hầu hết các
vụ phá sản trong kinh doanh là hệ quả của nhiều yếu tố chứ không phải chỉ do
quản trị vốn lưu động tồi, nhưng cũng cần thấy rằng, sự bất lực của một số
công tác trong việc hoạch định và kiểm soát chặt chẽ vốn lưu động và các
khoản nợ ngắn hạn hầu như là nguyên nhân dẫn đến thất bại của họ.
Thứ tư : Vốn lưu động còn là nguồn lực quan trọng để thực hiện các chiến
lược, sách lược kinh doanh nhằm phát huy tài năng của ban lãnh đạo doanh
nghiệp. Nó giúp cho doanh nghiệp đưa hàng hoá từ lĩnh vực sản xuất sang lĩnh
vực lưu thông, giải quyết được mâu thuẫn vốn có giữa sản xuất và tiêu dùng.
Tóm lại, vốn lưu động có một vai trò rất quan trọng trong quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, việc sử dụng vốn lưu
động như thế nào cho có hiệu quả sẽ ảnh hưởng rất lớn đến mục tiêu chung
của doanh nghiệp.
1.2. QUẢN TRỊ VỐN LƯU ĐỘNG
Trong cơ chế hiện nay, vấn đề quản lý vốn kinh doanh là rất cấp thiết
và cấp bách đối với doanh nghiệp bởi vì quản lý vốn là khâu quan trọng giúp
doanh nghiệp nâng cao hiệu quả kinh doanh. Đối với vốn lưu động cũng vậy,
muốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động thì phải quản lý tốt vốn lưu
động. Do đó, khi đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động, ta không thể không
xem xét đến việc quản trị vốn lưu động.
1.2.1. Quản trị vốn bằng tiền
Quản trị vốn bằng tiền đề cập đến việc quản lý tiền mặt trong quỹ, tiền
gửi ngân hàng, tiền đang chuyển… Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh
12
của doanh nghiệp luôn phát sinh các khoản thu chi thanh toán ngay bằng tiền

mặt, do đó việc dự trữ tiền mặt tại doanh nghiệp là cần thiết và rất quan trọng.
Động cơ chủ yếu của việc nắm giữ tiền mặt trong doanh nghiệp là để
làm thông suốt các giao dịch trong kinh doanh cũng như duy trì khả năng
thanh toán của doanh nghiệp ở mọi thời điểm. Ngoài ra,còn xuất phát từ nhu
cầu dự phòng để ứng phó với những nhu cầu bất thường chưa dự đoán được
và động lực đầu cơ trong việc dự trữ tiền mặt để sẵn sàng sử dụng khi xuất
hiện các cơ hội kinh doanh có tỷ suất lợi nhuận cao. Việc duy trì mức dự trữ
tiền mặt đủ lớn còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp có cơ hội thu chiết khấu
từ các nhà cung cấp.
Nội dung chủ yếu của việc quản trị vốn bằng tiền bao gồm:
* Xác định số dư tiền mặt mục tiêu:
Số dư tiền mặt mục tiêu bao gồm sự đánh đổi giữa chi phí cơ hội của
việc nắm giữ quá nhiều tiền mặt và chi phí giao dịch của việc nắm giữ quá ít
tiền mặt.
William Baumol là người đầu tiên đưa ra mô hình quản lý tiền mặt chính
thức liên kết giữa chi phí cơ hội và chi phí giao dịch (C*). Mô hình của ông
có thể được dùng để tính toán mức số dư tiền mặt mục tiêu và được xác định
bằng công thức:
Trong đó:
C*: Số dư tiền mặt mục tiêu.
T: Tổng nhu cầu về tiền mặt trong một chu kỳ.
F: Chi phí một lần giao dịch.
K: Lãi suất trên thị trường.
13

2*T*F
C
*
O
=

K
Như vậy, nếu doanh nghiệp giữ số tiền mặt ở mức quá thấp, doanh
nghiệp sẽ gặp phải khó khăn trong việc thanh toán, do đó có thể doanh nghiệp
phải bán các tài sản lưu động có tính thanh khoản cao thường xuyên hơn là
nếu giữ số tiền mặt cao hơn, điều đó sẽ làm cho chi phí giao dịch tăng lên.
Ngược lai, chi phí cơ hội của việc nắm giữ tiền mặt sẽ tăng lên, khi số tiền mặt
giữ lại tăng. Do đó, nhiệm vụ của doanh nghiệp là phải xác định được số dư
tiền mặt mục tiêu hay nói cách khác chính là sự cân đối giữa chi phí cơ hội của
việc nắm giữ tiền mặt và chi phí giao dịch sao cho tổng chi phí là tối thiểu.
* Hoạch định ngân sách tiền mặt:
Ngân sách tiền mặt là một kế hoạch ngắn hạn dùng để xác định nhu cầu
chi tiêu và nguồn thu tiền mặt của doanh nghiệp, kế hoạch này thường được
xây dựng trên cơ sở quý, tháng, tuần.
Dự đoán nguồn thu tiền mặt bao gồm thu nhập từ hoạt động kinh doanh,
nguồn đi vay và các nguồn khác, trong các nguồn thu kể trên, nguồn thu từ
hoạt động sản xuất kinh doanh coi là quan trọng nhất, nó được dự đoán dựa
trên cơ sở doanh số bán ra và phần trăm doanh số được thanh toán tiền mặt dự
kiến trong kỳ.
Dự đoán nhu cầu chi tiêu bao gồm các khoản chi cho sản xuất kinh
doanh như mua sắm tài sản, trả lương, các khoản chi cho hoạt động đầu tư
theo kế hoạch của doanh nghiệp, các khoản chi trả lãi, nộp thuế và các khoản
chi khác.
Trên cơ sở so sánh nhu cầu chi tiêu, doanh nghiệp có thể thấy được mức
thăng dư hay thâm hụt ngân quỹ. Từ đó thực hiện các biện pháp cân bằng thu chi
ngân sách như tăng tốc độ thu hồi công nợ hoặc giảm tốc độ xuất quỹ nếu có thể
thực hiện được, hoặc khéo néo sử dụng các khoản nợ đến thời hạn thanh toán.
14
* Đầu tư tiền nhàn rỗi:
Hầu hết các công ty lớn quản lý tài sản tài chính ngắn hạn của mình và
giao dịch thông qua ngân hàng và các trung gian. Do đó, nếu công ty có dư

thừa tiền mặt tạm thời, công ty có thể đầu tư vào các chứng khoán ngắn hạn.
Các loại chứng khoán có khả năng chuyển đổi thành tiền mặt cao là những
công cụ tài chính được mua bán trên thị trường tiền tệ hay thị trường vốn có
tính linh hoạt rất cao. Việc đầu tư vào các loại chứng khoán này có vai trò
như một bước đệm cho quản lý tiền mặt, khi lượng tiền mặt của doanh nghiệp
giảm thấp hơn mức ấn định, các loại chứng khoán này được dùng để chuyển
đổi nhanh thành tiền mặt. Ngược lại, tiền nhàn rỗi có thể được đầu tư tạm thời
vào các loại chứng khoán này. Tuy nhiên, khi đầu tư vào các loại chứng
khoán cần xem xét kỹ các đặc tính như tính thanh khoản, tính rủi ro, thời gian
đáo hạn, lợi nhuận kỳ vọng.
Để thực hiện các nội dung quản lý tiền mặt nói trên doanh nghiệp có thể
sử dụng các biện pháp như:
- Tăng tốc độ thu hồi tiền mặt
- Giảm tốc độ chi tiêu tiền mặt
Trong đó tăng tốc độ thu hồi tiền mặt có thể được thực hiện thông qua
việc khuyến khích khách hàng thanh toán sớm với việc áp dụng chính sách
chiết khẩu đối với các khoản nợ được thanh toán trước hay đúng hạn, quy
định phương thức thanh toán phù hợp với từng đối tượng khách hàng tổ chức
theo dõi và đôn đốc thu hồi công nợ.
Giảm tốc độ chi tiêu tiền mặt là việc thay vì dùng tiền thanh toán sớm
các hoá đơn mua hàng, người quản lý tài chính có thể trì hoãn việc thanh toán
trong phạm vi thời gian và các chi phí tài chính, tiền phạt hay sự suygiảm vị
thế tín dụng của doanh nghiệp thấp hơn những lợi ích cho việc thanh toán
chậm mang lại.
15
1.2.2 Quản trị các khoản phải thu, phải trả
Việc chiếm dụng vốn lẫn nhau trong hoạt động sản xuất kinh doanh là
một nét đặc trưng trong quan hệ kinh tế giữa các chủ thể, thậm chí còn được
coi là một “sách lược” trong kinh doanh trên thị trường. Các khoản phải thu
chính là số vốn doanh nghiệp bị chiếm dụng, các khoản phải trả là số vốn

doanh nghiệp đi chiếm dụng.
Độ lớn các khoản phải thu, phải trả phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tốc
độ thu hồi hay trả công nợ cũ, tốc độ tạo ra nợ mới và sự tác động của các yếu
tố chung nằm ngoài sự kiểm soát của doanh nghiệp như chu kỳ suy thoái của
nền kinh tế, khủng hoảng tiền tệ… Doanh nghiệp đặc biệt chú ý tới các nhân
tố mà mình có thể kiểm soát được, tác động lớn tới chất lượng của các khoản
phải thu, phải trả. Đó là chính sách tín dụng.
* Chính sách tín dụng:
Khi thực hiện các chính sách tín dụng, doanh nghiệp cần lưu ý các điểm sau:
- Phải xác định được các tiêu chuẩn tín dụng tức là sức mạnh tài chính tối
thiểu mà có thể chấp nhận được các khoản mua và bán chịu
- Chiết khấu tiền mặt: Là việc nhằm khuyến khích khách hàng trả tiền
sớm bằng cách thực hiện việc giảm giá đối với các trường hợp mua hàng bằng
tiền mặt hoặc trả tiền trước thời hạn.
- Thời hạn bán chịu: Là độ dài thời gian của các khoản tín dụng.
- Chính sách thu tiền và biện pháp xử lý với các khoản tín dụng quá hạn.
Các yếu tố trên tác động mạnh mẽ đến doanh thu bán hàng của doanh
nghiệp, chẳng hạn doanh thu sẽ có xu hướng tăng lên khi các tiêu chuẩn tín
dụng được nới lỏng, tỷ lệ chiết khấu tăng, thời gian bán chịu dài và phương
thức thu tiền bớt gắt gao. Tuy nhiên, trong việc thiết lập chính sách tín dụng
và tổ chức thực hiện nó, người làm công tác quản lý tài chính phải xác minh
được phẩm chất tín dụng của khách hàng trên cơ sở đó thiết lập các tiêu chuẩn
16
tín dụng thích hợp, bởi nếu các tiêu chuẩn tín dụng quá cao có thể loại bỏ nhiều
khách hàng tiềm năng do đó làm giảm lợi nhuận. Ngược lại, nếu tiêu chuẩn tín
dụng quá thấp sẽ làm tăng doanh số bán nhưng đồng thời cũng làm cho rủi ro
tín dụng tăng, gia tăng các khoản nợ khó đòi, chi phí thu tiền tăng lên.
* Theo dõi các khoản phải thu, phải trả:
Người làm công tác quản lý tài chính phải theo dõi thường xuyên các
khoản phải thu nhằm xác định đúng thực trạng của chúng và đánh giá đúng

tính hữu hiệu của chính sách thu tiền của doanh nghiệp, kịp thời phát hiện các
khoản tín dụng có vấn đề để có biện pháp giải quyết thích ứng. Để theo dõi
các khoản phải thu, phải trả có thể sử dụng các công cụ sau đây.
- Kỳ thu, trả tiền bình quân:
Kỳ thu tiền bình quân phản ánh số ngày cần thiết để thu được các khoản
phải thu, kỳ trả tiền bình quân phản ánh số ngày cần thiết để doanh nghiệp trả
các khoản phải trả, được xác định theo công thức:
Mục tiêu trong quản lý các khoản phải thu, phải trả của doanh nghiệp là
“thu sớm và trả muộn”. Tuy nhiên, trong trường hợp doanh nghiệp thành công
trong việc thực hiện như trên, khách hàng và nhà cung cấp bị thiệt, và sự đánh
đổi ở đây chính là sự tác động đối với mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các
đối tác trên. Cho nên, kỳ thu tiền bình quân cao hay thấp trong nhiều trường
17
=

360
Vßng quay c¸c kho¶n ph¶i thu

=

360*Sè d b×nh qu©n c¸c kho¶n ph¶i thu
Doanh thu thuÇn (Trong kú)

Kỳ thu tiền bình quân

=

360
Vßng quay c¸c kho¶n ph¶i tr¶
=

360 * Sè d b×nh qu©n c¸c kho¶n ph¶i tr¶
Gi¸ vèn hµng b¸n (Trong kú)
Kú tr¶ tiÒn b×nh qu©n
hợp chưa thể có kết luận chắc chắn là tốt hay xấu mà còn phải xem xét lại
mục tiêu và chính sách của doanh nghiệp như mở rộng thị trường, chính sách
tín dụng, quan hệ khách hàng…
- Phân tích tuổi của các khoản phải thu: Phương pháp này dựa trên thời
gian biểu về tuổi của các khoản phải thu tức là khoảng thời gian có thể thu
được tiền của các khoản phải thu để phân tích. Sự phân tích theo phương pháp
này có tác dụng rất hữu hiệu, nhất là khi các khoản phải thu được xem xét
dưới góc độ sự biến động về thời gian. Nó cho phép tạo ra một phương pháp
theo dõi hiệu quả đối với các khoản phải thu, tất nhiên, phương pháp này có
hạn chế là nó chịu sự chi phối mạnh mẽ của doanh số bán theo thời vụ. Khi
doanh thu bán thay đổi thất thường, biểu thời gian sẽ cho thấy sự thay đổi rất
lớn mặt dù mô hình thanh toán không thay đổi.
- Mô hình số dư các khoản phải thu: Phương pháp này đo lường phần
doanh số bán chịu của mỗi tháng vẫn chưa thu được tiền tại thời điểm cuối tháng
đó và tại thời điểm kết thúc của tháng tiếp theo. Ưu điểm của mô hình này so với
mô hình phân tích tuổi của các khoản phải thu là nó hoàn toàn không chịu sự tác
động của yếu tố thời vụ mức biến động của doanh số bán không ảnh hưởng tới
sự phân bổ hợp lý những khoản nợ tồn đọng theo thời gian.
1.2.3 Quản trị hàng tồn kho
Hàng tồn kho là những tài sản mà doanh nghiệp lưu trữ để sản xuất hoặc
bán ra sau này. Trong các doanh nghiệp, hàng tồn kho dự trữ thường ở 4 dạng:
- Nguyên liệu, vật liệu
- Công cụ, dụng cụ
- Các sản phẩm dở dang, bán thành phẩm
- Các thành phẩm, hàng hoá chờ tiêu thụ
Quản lý hàng tồn kho bao gồm việc lập kế hoạch, tổ chức và quản lý các
hoạt động nhằm vào nguyên vật liệu, hàng hoá đi vào, đi qua và đi ra khỏi

18
doanh nghiệp. Quản lý hàng tồn kho dự trữ trong các doanh nghiệp là rất quan
trọng bởi vì nếu dự trữ không hợp lý sẽ làm cho quá trình sản xuất kinh doanh
bị giám đoạn, hiệu quả kém. Việc quản lý hàng tồn kho có hiệu qủa phải đạt
được 2 mục tiêu sau:
- Mục tiêu an toàn: Đòi hỏi doanh nghiệp cần phải có một khối lượng
hàng hóa dự trữ đủ để đảm bảo sản xuất và bán ra thường xuyên, liên tục.
- Mục tiêu kinh tế: Đảm bảo chi phí cho dự trữ là thấp nhất.
Để kết hợp hài hoà giữa hai mục tiêu này, nhà kinh tế Ford. W. Harris đã
đề xuất mô hình EOQ (Economic Order Quantity Model) áp dụng trong quản
lý hàng tồn kho để tối thiểu hoá chi phí hàng tồn kho và tối đa hoá an toàn
trong cung ứng, đã được hầu hết các doanh nghiệp sử dụng. Mô hình này giả
thiết rằng:
- Một lượng hàng hoá như nhau được đặt tại mỗi thời điểm đặt hàng lại.
- Các nhà quản lý chỉ quan tâm tới chi phí bảo quản và chi phí đặt hàng
là những chi phí chịu ảnh hưởng bởi số lượng hàng tồn kho.
Theo lý thuyết về mô hình này thì số lượng hàng đặt hiệu quả là:
Trong đó :
EOQ: Số lượng hàng đặt hiệu quả.
S: Tổng nhu cầu về hàng lưu kho trong một năm
O: Chi phí một lần đặt hàng
C: Chi phí bảo quản một đơn vị hàng hoá trong năm
Vậy mức dữ trữ trung bình tối ưu là: Q*/2
Theo giả thuyết của mô hình thì nhu cầu và thời gian đặt hàng là xác
19
EOQ

= Q*

=


2*S*O
C

định. Tuy nhiên thực tế không phải như vậy, dự trữ an toàn được sử dụng như
là một lớp đệm chống lại sự gia tăng bất thường của nhu cầu hay thời gian
mua hàng hoặc tình trạng không sẵn sàng cung cấp. Dự trữ an toàn là mức tồn
kho hay dữ trữ tồn kho ở mọi thời điểm, ngay cả khi lượng tồn kho được xác
định theo mô hình EOQ.
Vậy dự trữ trung bình tối ưu thực tế là:
Như vậy, việc quản lý và sử dụng vốn lưu động là 2 vấn đề không thể
tách rời nhau, nếu quản lý tốt thì hiệu quả sử dụng vốn lưu độngê sẽ cao và
ngược lại. Do vậy, muốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động doanh
nghiệp phải quản trị vốn lưu động một cách khoa học, có hiệu quả.
1.2.4. Quản trị các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn
Đầu tư nói chung, đầu tư tài chính ngắn hạn nói riêng là một trong những
lĩnh vực khá “thú vị” của quản trị tài chính. Hơn thế nữa, quyết định đầu tư
còn là một trong ba chức năng của một giám đốc tài chính, hai chức năng kia
là: huy động vốn và quản lý tài sản.
Quyết định nên đưa chứng khoán ngắn hạn nào vào số lượng bao nhiêu vào
danh mục đầu tư của công ty là một chức năng quan trọng trong quản trị tài
chính. Một quyết định đầu tư đúng đắn, theo nghĩa cân bằng giữa lợi nhuận và
rủi ro của danh mục đầu tư ngắn hạn, đảm bảo tính thanh khoản và tương thích
với dự báo ngân lưu của công ty sẽ có tác động làm tăng giá trị vốn cổ đông.
Đối với nhà quản trị, việc lựa chọn trong vô số các chứng khoán đa dạng
về thời hạn và mệnh giá, khác nhau về rủi ro và lợi nhuận để ra quyết định
đầu tư là một thử thách lớn nhất.
Tính phức tạp của việc này lại càng tăng thêm do quyết định đầu tư phụ
thuộc rất nhiều vào quan điểm riêng của nhà quản trị về rủi ro, trong khi phải
phản ánh được thái độ rủi ro của các cổ đông.

20
Q*

+ Dù tr÷ an toµn thùc tÕ
2

×