MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ca cao là loại cây trồng thích bóng râm nên có thể trồng xen với nhiều
loại cây trồng khác. Hiện nay phát triển cây ca cao thuận lợi vì thị trường ngày
càng lớn do Brazil và Malaysia đang giảm diện tích trồng, giá cả có chiều hướng
gia tăng. Thực tế cho thấy các mô hình trồng xen ca cao với dừa, nhãn, điều… và
các cây lấy gỗ khác đã làm tăng thu nhập cho người dân. Ca cao trồng xen với
một số loại cây trồng khác là sự kết hợp hài hòa về mặt nông học và mang lại
hiệu quả kinh tế. Nhờ đó cây ca cao không bị nắng chiếu trực tiếp, tạo điều kiện
cho cây sinh trưởng, phát triển và cho năng suất cao.
Ngoài ra, cây ca cao có thể trồng được trên nhiều loại đất như: đất đỏ
bazan, đất feralit vàng phát triển trên đá trầm tích, đất tro núi lửa, đất cát…và
không đòi hỏi đầu tư quá cao. Nhìn chung, cây ca cao thích hợp với loại đất có
tầng canh tác dày, ít nhất là 1,5 m, dễ thoát nước, có cấu trúc tốt, giữ và thoát
nước tốt, giàu chất dinh dưỡng [9]. Điều này phù hợp với chủ trương chung của
Nhà nước về đa dạng hóa và chuyển đổi cơ cấu cây trồng để tăng tính bền vững
trong sản xuất nông nghiệp.
Tùy điều kiện thời tiết khí hậu mà chọn thời vụ trồng cho thích hợp, tốt
nhất là trong mùa mưa. Ở Tây Nguyên thời vụ trồng tốt nhất bắt đầu từ tháng 6,
các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ thời vụ trồng vào tháng 10.
Ở Việt Nam, cây ca cao được trồng đầu tiên vào năm 1878 ở làng Vĩnh
Thành, Cái Mơn, Bến Tre với diện tích khoảng 6 ha. Tháng 9 năm 1998, Chính
phủ đã phê duyệt Dự án trồng ca cao đến năm 2010 là 100.000 ha tập trung 4
vùng trọng điểm: Tây Nguyên (28.500 ha), miền Đông Nam bộ (20.500 ha),
duyên hải miền Trung (13.000 ha) và đồng bằng sông Cửu Long (918.500 ha)
Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp, tháng 10 năm 1998. [1]
Năm 2011 thế giới sản xuất khoảng 3,6 triệu tấn ca cao, trong khi nhu cầu
hơn 5 triệu tấn. Vì vậy, trong tương lai Việt Nam là một trong những quốc gia có
1
tiềm năng phát triển ca cao. Theo Bộ NN & PTNT đến cuối năm 2011 cả nước
có khoảng 20.500 ha ca cao. Chính phủ hi vọng nâng diện tích ca cao toàn quốc
lên 60.000 ha vào năm 2015 và 80.000 ha năm 2020. [13]
Trong quy trình trồng cây ca cao, việc bón phân cho cây ca cao là một
trong những biện pháp kỹ thuật không thể thiếu được trong hệ thống thâm canh
tổng hợp để cải tạo đất, không ngừng bổ sung dinh dưỡng, cải thiện và nâng cao
độ phì đất. Góp phần tăng năng suất, chất lượng và nâng cao hiệu quả kinh tế.
Phần lớn các hộ nông dân trồng ca cao ở Đắk Lắk bón phân không theo
qui trình nào cả, chủ yếu phụ thuộc vào khả năng đầu tư của từng hộ nên không
đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng của cây ca cao. Mặt khác, việc bón phân
không cân đối sẽ làm ô nhiễm môi trường, đất bạc màu thoái hóa nghiêm trọng.
Do đó, sẽ ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển, năng suất và chất lượng ca cao.
Trong khi đó, các công trình nghiên cứu chuyên sâu về phân bón cho cây
ca cao tại Đắk Lắk chưa nhiều và cũng chưa có công trình nào công bố trên địa
bàn nghiên cứu. Vì vậy, việc nghiên cứu sử dụng phân bón hợp lý và mang lại
hiệu quả kinh tế cho người dân địa phương là một vấn đề có tính cấp thiết hiện
nay. Xuất phát từ thực trạng trên chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên
cứu xây dựng công thức phân bón thích hợp cho cây ca cao tại huyện Buôn
Đôn, tỉnh Đắk Lắk".
2. Mục tiêu của đề tài
Xác định được công thức phân bón thích hợp cho cây ca cao thời kỳ kiến
thiết cơ bản và thời kỳ kinh doanh. Góp phần nâng cao năng suất, tăng thu nhập
và mang lại hiệu quả kinh tế cho người trồng ca cao tại huyện Buôn Đôn - tỉnh
Đắk Lắk.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1 Ý nghĩa khoa học
- Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ cung cấp những dẫn liệu khoa học về
ảnh hưởng của phân bón đến khả năng sinh trưởng, năng suất, chống chịu sâu
2
bệnh và phẩm cấp hạt ca cao. Làm cơ sở cho việc xây dựng công thức phân bón
hợp lý cho cây ca cao tại huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk.
- Góp phần bổ sung thêm những tài liệu khoa học phục vụ cho những
nghiên cứu tiếp theo về cây ca cao tại tỉnh Đắk Lắk nói chung và huyện Buôn
Đôn nói riêng.
3.2 Ý nghĩa thực tiễn
- Bón phân cho cây ca cao của nông dân chủ yếu dựa vào cảm tính nên
năng suất và chất lượng nông sản không ổn định, hiệu quả kinh tế chưa cao. Do
vậy, việc nghiên cứu công thức phân bón hợp lý cho cây ca cao như là một biện
pháp quan trọng, vừa tiết kiệm được chi phí sản xuất, vừa tăng năng suất. Góp
phần bảo vệ và nâng cao độ phì của đất, giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong
điều kiện sản xuất hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài làm cơ sở cho việc xây dựng quy trình kỹ
thuật thâm canh ca cao tại địa phương. Góp phần tăng thu nhập và mang lại hiệu
quả kinh tế cho người dân.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đề tài được tiến hành trong thời gian ngắn nên chỉ tập trung nghiên cứu
trên dòng ca cao TD3 trong giai đoạn kiến thiết cơ bản và kinh doanh.
- Đề tài được thực hiện tại huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk từ tháng
10/2012 đến tháng 10/2013.
3
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Giới thiệu về cây ca cao
Cây ca cao () thuộc:
- Thứ Theobroma cacao .L
- Họ Sterculiaceae
Thứ Theobroma gồm 20 loài, trong đó chỉ có loài là có
giá trị kinh tế. được chia làm 2 loại phụ: và
[2]
- trái đỏ, kích thước lớn, có nhiều ở vùng Nam Mỹ (Venezuela,
Ecuado, Clombia).
- có màu vàng đỏ, có nhiều ở Châu Phi (Ivory Coast, Ghana,
Nigeria).
- (cây lai của và ): trái vàng nhỏ có nhiều ở
vùng Trung Mỹ (Trinidad, Jamaica).
1.1.1 Nguồn gốc
Cây ca cao có nguồn gốc từ lưu vực sông Amazon và các vùng nhiệt đới
ẩm lân cận. Đây là loài nhị bội (2n = 20). Trong số khoảng 20 loài của chi
thì ca cao là loài duy nhất được trồng rộng rãi trong sản xuất.
Hơn 2000 năm trước, cây ca cao đã trở thành một phần không thể thiếu
trong cuộc sống của những người dân vùng Châu Mỹ Latinh. Người Mayan và
Aztec đã trồng cây ca cao từ rất lâu, trước khi những nhà thám hiểm Châu Âu
tìm tới lục địa này. Theo như nhiều nhà nghiên cứu thì cây ca cao có thể bắt
nguồn từ những cánh rừng mưa Amazone thung lũng Orinoco ở Venezuela hay
vùng Chiapa của Mexico. [14]
Người Mayan tin rằng cây ca cao là của Thượng Đế và hạt ca cao là ân
sủng của Chúa cho con người. Người Mayan là những người đầu tiên trên trái
4
đất này sử dụng ca cao làm thực phẩm, họ đã làm đồ uống với những hạt ca cao
được nướng lên, nghiền nhuyễn và pha với bột ngô nhằm tạo độ sánh khi uống,
tuy nhiên khi ấy cách thức chế biến rất đơn giản. Colombus có thể là người châu
Âu đầu tiên biết đến ca cao, nhưng khi ông ta mang những hạt ca cao về cho Vua
Ferdinand và Hoàng hậu Isabella thì họ đã chưa hiểu rằng thứ “vàng nâu” này
tuyệt vời đến dường nào và chỉ đến khi người Tây Ban Nha tới Mehico, nhà
thám hiểm Cortes được Hoàng đế Montezuma mời dùng thử loại đồ uống đặc
biệt này thì ca cao mới bắt đầu một hành trình mới: chinh phục châu Âu. Cotes
đã mang rất nhiều ca cao về Tây Ban Nha vào năm 1528, tuy nhiên hương vị của
món này quá đắng so với khẩu vị của người Tây Ban Nha, do vậy họ đã cho
thêm đường và dùng nóng. Đôi khi những người Tây Ban Nha còn cho thêm
quế, hồi, vỏ chanh, bột hoa hồng khô… để tạo nên những hương vị mới vô cùng
độc đáo và ca cao đã trở thành thứ đồ uống thông dụng của giới nghệ sĩ và hoàng
gia Tây Ban Nha. Trong gần 1 thế kỷ, ca cao được coi là thức uống đặc trưng và
là điều bí mật của những người Tây Ban Nha. Tuy nhiên, do giá cả quá đắt đỏ
nên những người Tây Ban Nha thực dụng và nhạy bén đã ngay lập tức trồng cây
ca cao trên các thuộc địa của họ để xuất khẩu tới những quốc gia khác trong châu
lục và thu lại khoản lợi nhuận khổng lồ. Ca cao đã lan truyền khắp châu Âu, việc
uống bột ca cao thành một trào lưu ở Pháp, dưới thời Vua Louis 14 và 15 thức
uống ca cao rất được ưa chuộng tại Versailles. Và rồi ca cao đã tới Anh, cũng
giống như ở Pháp, nó nhanh chóng chinh phục nước Anh. Kể từ khi quán bán
thức uống ca cao đầu tiên được khai trương năm 1657, tới đầu thế kỉ 18 những
nhà máy sản xuất thức uống ca cao và sôcôla đầu tiên đã được thành lập. Đến
1730, ca cao sụt giá mạnh cùng với những máy móc chế tạo thức uống ca cao và
sôcôla được phát minh trong cuộc cách mạng công nghiệp đã tạo tiền đề cho một
nền công nghiệp sản xuất ca cao với số lượng lớn và giá thành rẻ. Phát minh ra
cách ép hạt ca cao mới làm giảm giá, nhưng lại tăng chất lượng thành phẩm lên
rất nhiều, cùng lúc đó giá đường giảm mạnh và đời sống người dân trên khắp
5
Châu Âu tăng lên đáng kể, đến đầu thế kỷ 20 thức uống ca cao đã trở thành một
nét văn hóa ẩm thực đặc trưng của toàn châu Âu. [14]
1.1.2 Đặc điểm thực vật học
Ca cao là loài cây thân gỗ, có thể cao đến 10 - 20 m nếu để mọc tự nhiên.
Trong sản xuất, do trồng mật độ dày và chiều cao được khống chế thông qua
việc tỉa cành nên cây thường có độ cao khoảng 4 - 8m. Ca cao sinh trưởng tốt
trong điều kiện có bóng che, chu kỳ sinh trưởng trên 40 năm và thời gian cho
hiệu quả kinh tế có thể kéo dài 20 - 25 năm. [10]
1.1.2.1 Rễ
Hạt sau khi nảy mầm, rễ trụ mọc rất nhanh và có nhiều rễ ngang mọc
thẳng góc quanh trụ. Ba tháng đầu rễ phát triển rất nhanh (có thể hơn 25cm), để
tránh rễ bị cong khi ươm cây, cần chọn túi đủ dài để rễ phát triển trong 3 - 4
tháng đầu.
Rễ trụ vẫn tiếp tục phát triển khi bị cắt ngang phần đuôi, nên khi trồng ta
cắt bỏ phần rễ cong trong bầu đất mà không ảnh hưởng đến sinh trưởng của rễ.
Khi cây được 3 năm tuổi, rễ trụ dài khoảng 1 - 1,5m, có nhiều rễ ngang mọc ra,
phân nhánh và có nhiều rễ con tập trung ở vùng phía dưới cổ rễ 20cm (vùng đất
mặt). Giữ ẩm vào mùa khô rất quan trọng để duy trì hoạt động của rễ ngang
trong quá trình hấp thu dinh dưỡng và nước.
1.1.2.2 Thân
Là chiều cao từ cổ rễ đến điểm phân cành đầu tiên. Có 2 loại thân: thân
phát triển từ hạt và thân phát triển từ cành ghép.
Thân phát triển từ hạt: theo hướng thẳng đứng và khi thân phát triển trung
bình được từ 1 - 1,5m sẽ tự phân làm 3 - 5 cành ngang (chiều cao điểm phân
cành có thể cao hay thấp tùy thuộc vào sinh trưởng ban đầu của cây và mức độ
bóng che). Sự phát triển của tầng cành sẽ được lặp lại tạo cho cây ca cao phát
triển từ hạt có 3 - 5 tầng cành.
Thân phát triển từ cành ghép: là phần phát triển từ mầm của cành ghép
được nối liền với phần thân phát triển từ gốc ghép. Trường hợp cành ghép mọc 2
6
- 3 mầm thì cây ghép có thể có 2 - 3 thân. Trong sản xuất thường chỉ giữ lại 1
thân, thường trên vị trí các nách lá đều có thể phát triển cành ngang tạo nên cây
có dạng thân bụi.
1.1.2.3 Lá
Lá non có màu sắc khác nhau tùy giống và phát triển theo từng đợt, sau
mỗi đợt ra lá, đỉnh cành đi vào trạng thái ngủ, thời gian ngủ tùy theo điều kiện
môi trường, thường khoảng 4 - 6 tuần lễ. Sự phát triển lá liên quan đến mức độ
chiếu sáng và tình trạng nước của cây, ca cao trồng trong điều kiện không che
bóng các đợt ra lá nhanh hơn là trồng trong điều kiện có bóng che, do sự biến
động hàm lượng nước trong cây xảy ra thường xuyên và nhiệt độ môi trường bên
ngoài cao kích thích chồi lá phát triển.
Cây cần dinh dưỡng khi đợt lá mới phát triển. Nếu cây thiếu dinh dưỡng
sẽ có sự vận chuyển dinh dưỡng từ lá già sang lá non mới ra và dẫn đến việc lá
già bị rụng sớm. Do đó, số lá già hiện diện trên thân giúp người trồng có thể hiểu
được phần nào hiện trạng dinh dưỡng của cây ca cao.
Màu sắc lá non thay đổi tuỳ theo giống, từ màu xanh nhạt đến vàng, từ
màu hồng đến đỏ đậm. Khi trưởng thành lá có màu xanh thẫm, cứng cáp hơn và
nằm ngang. Khí khổng chỉ có ở mặt dưới phiến lá nên khi phun phân và thuốc
phải phun từ dưới lên mới có hiệu quả cao. Lá dưới bóng che có phiến rộng và
xanh hơn ngoài nắng. Lá trên thân mọc từ hạt hoặc cành vượt có cuống dài từ 7 -
9cm và mọc theo hình xoắn ốc. Lá trên cành ngang hay trên cây ghép có cuống
ngắn từ 2 - 3cm, mọc đối cách trên cành và chịu được cường độ ánh sáng cao
hơn lá trên thân chính.
1.1.2.4 Hoa
Hoa mọc cố định trên phần sẹo lá của cành và thân, do đó cần tránh làm
tổn thương vị trí ra hoa. Cây ca cao có thể ra hoa đợt đầu tiên vào khoảng 14 -
20 tháng sau khi trồng, cây ghép hay cành giâm có thể ra hoa sớm hơn từ 9 - 18
tháng khi sau khi trồng. Hoa ra tập trung vào mùa mưa, những nơi có đủ nước
cây ra hoa quanh năm. Hoa ca cao thụ phấn chéo nhờ côn trùng, hoa ra rất nhiều
7
nhưng tỉ lệ đậu trái khoảng 3 - 5% và số trái cây giữ lại trên cây khoảng 80% số
trái đã đậu, khoảng 20% sẽ bị héo đi (héo sinh lý tự nhiên của cây).
1.1.2.5 Trái
Từ khi hoa nở đến trái chín khoảng 5 - 6 tháng, thời gian này khác nhau
tuỳ theo giống. Trái có hình dạng, kích thước và màu sắc khá đa dạng. Trái chưa
chín có màu xanh, tím hoặc xanh phơn phớt tím khi chín chuyển sang màu vàng,
vàng cam hoặc đỏ cam.
1.1.2.6 Hạt
Mỗi trái chứa từ 30 - 50 hạt. Hạt được bao chung quanh bởi lớp cơm
nhầy. Hạt là do sự khép kín của 2 lá mầm, lá mầm có màu tím hoặc trắng, trắng
ngà và chuyển sang màu nâu sau khi lên men. Kích thước hạt thay đổi tùy giống
và mùa vụ. Hạt ca cao càng để lâu càng mất sức nẩy mầm, nếu ươm cây từ hạt
cần gieo ngay khi mới tách vỏ từ trái chín.
1.1.3 Giá trị của cây ca cao
1.1.3.1 Đối với sức khoẻ con nguời
Hạt ca cao chứa nhiều nhóm chất chống oxy hóa flavanol (Epicatechin,
Catechin, Procianidin). Chất chống oxy hóa có vai trò quan trọng trong việc duy
trì giúp hệ thống tim mạch hoạt động tốt. Chất chống oxy hóa giới hạn sự oxy
hoá của Cholesterol nên giữ cho mạch máu luôn khoẻ mạnh.
Trong thành phần bơ ca cao có 3 loại: acid béo chính là acid palmitic, acid
stearic (chất béo no) và acid oleic (chất béo không no). Ngoài ra, còn có acid
linoleic là chất béo không no. Các acid béo không no chiếm 1/3 của thành phần
bơ ca cao và có tác dụng làm giảm lượng Cholesterol trong máu. Acid béo no,
acid stearic cho thấy chúng không có ảnh hưởng đến lượng Cholesterol trong
máu, mặc dù thông thường các acid béo no sẽ làm tăng lượng Cholesterol có hại
cho sức khoẻ.
1.1.3.2 Giá trị sử dụng
Bộ phận chính được sử dụng là hạt. Hạt sau khi rang được xay nhuyễn
trong điều kiện gia nhiệt đến 50 - 60
0
C thành dung dịch sền sệt màu nâu sôcôla
8
gọi là bột nhão ca cao. Ở nhiệt độ này dung dịch có dạng lỏng, còn trong điều
kiện bình thường bột nhão này bị đông cứng. Khi ép bột nhão ra tách được bơ và
bánh dầu ca cao. Xay nhuyễn bánh dầu ca cao cho ra bột ca cao. Hạt ca cao có
hàm lượng chất béo từ 50 - 60% trọng lượng hạt.
Bột nhão, bơ và bột ca cao là những nguyên liệu chính cho công nghiệp
bánh kẹo, thực phẩm. Sôcôla là sự pha trộn giữa bột nhão, bơ, đường và các
nguyên liệu khác tuỳ theo công thức riêng của mỗi nhà sản xuất.
Bột ca cao và sôcôla có các thành phần hydratecarbon, protein, chất béo
cùng với một số vitamin B tổng hợp.
Vỏ quả ca cao cũng là một trong những thành phần quan trọng chứa rất
nhiều chất dinh dưỡng tính theo % trọng lượng khô như: protein: 6,25%; chất
xơ: 27,3%; tro: 8,1%; Na: 0,01%; K: 3,2%; Ca: 0,44%: P: 0,09% (Wood và
Lass, 1985) [8].
Vỏ ca cao chứa 3 - 4% Kali so với trọng lượng chất khô, là nguồn phân
bón giàu Kali. Tro đốt từ vỏ được dùng để làm xà phòng.
Vỏ quả ca cao xay nhỏ có thể trộn vào thức ăn cho bò, cừu, dê với tỷ lệ
lên tới 50%, cho heo 30%, cho gà 20%. Bò có thể ăn trực tiếp được vỏ tươi thay
thế cho khẩu phần cỏ voi (Wood và Lass, 1985) [8]. Theo D. paulin, A.B. Eskes,
1995 [6] bột vỏ ca cao có thể thay thế bắp và trộn với tỷ lệ 35% vẫn không thay
đổi mức tăng trọng của heo. Nếu dùng vỏ quả làm thức ăn gia súc thì phải phơi
khô ngay sau khi thu hoạch, sau đó xay thành bột trộn vào thức ăn hoặc vo viên.
Hạt ca cao được bao bọc bởi lớp áo dạng cơm mềm, ướt, mùi rất thơm.
Lớp cơm chứa nhiều đường (10 - 13%), pentosan (2 - 3%), acid citric (1 - 2%)
và muối (7 - 10%). Có thể dùng lớp cơm này làm nước sinh tố hoặc cô đặc làm
nước trái cây.
Trong kỹ thuật canh tác, lá ca cao thường xuyên được tỉa bỏ để tạo hình
dạng thích hợp và tăng độ thông thoáng cho cây. Lá ca cao tỉa bỏ là nguồn thức
ăn ổn định tốt cho dê, bò và thỏ.
9
Các hạt ca cao được gắn vào cơ quan thai tòa, khi tách hạt ca cao để lên
men thai tòa được loại bỏ và là nguồn thức ăn cho cá và heo.
Dịch thu từ quá trình lên men được dùng để chế biến rượu với hương vị
rất đặc trưng của ca cao. Ngoài ra, dịch cũng có thể sử dụng như nguyên liệu để
sản xuất thạch thay thế nước dừa trong kỹ thuật sản xuất thạch dừa.
1.1.3.3 Giá trị kinh tế
Ca cao là cây ưa bóng nên thường trồng xen, do đó đáp ứng được xu
hướng hiện nay là đa dạng hoá cây trồng nhằm phá vỡ thế độc canh mang nhiều
rủi ro. Quả ca cao chín sau khi hái về tách hạt đem ủ lên men, xung quanh hạt có
lớp cơm nhầy màu trắng trong khi ủ hạt lớp cơm này được lên men thành rượu.
Rượu ca cao uống rất ngon và tốt, có giá trị và là sản phẩm rất được ưa chuộng.
Bộ phận chính được sử dụng là hạt, hạt ca cao có hàm lượng chất béo 50 - 60 %
trọng lượng hạt. Bột nhão, bơ và bột ca cao là những nguyên liệu chính cho
ngành công nghiệp bánh kẹo, thực phẩm. Ngoài thị trường tiêu thụ trong nước,
hạt ca cao được sử dụng để xuất khẩu và thu về nguồn ngoại tệ rất cao. Theo Bo
Gohl (1981) bột vỏ ca cao có thể thay thế bắp và trộn với tỷ lệ 35 % và vẫn
không làm thay đổi mức tăng trọng của heo. Cứ 100 kg vỏ trái ca cao nghiền
thành bột nhuyễn có giá trị ngang bằng 97 kg bột bắp (Nguyễn Văn Uyển,
Nguyễn Tài Sum, 1996).[5]
10
Bảng 1.1: Thành phần của bột ca cao
Thành phần dinh dưõng (g/100g) Khoáng chất (mg/100g)
Protein 18,5 Na 950
Chất 21,7 K 1.500
Carbohydrates 11,5 Ca 130
Năng lượng Mg 520
Kcal 312 Fe 10,5
KJ 1.031
Co 3,9
P 660
Cl 460
!"#$%&''! [7]
Bảng 1.2: Thành phần hoá học của vỏ trái ca cao
Thành phần Vỏ trái ca cao (%)
Nước 57,75
Tổng số chất khô 42,25
Protein thô 9,69
Chất béo 0,15
Tro (SiO2 tự do) 10,08
Chất xơ 33,90
Nitơ tự do 42,21
Glucose 1,16
Sucrose 0,18
Pectin 5,30
Theobromine 0,20
()*+ &",-./01+&''2!
Cây ca cao có rất nhiều lá, lá ca cao có thể sử dụng làm nguồn thức ăn tốt
cho dê, bò và thỏ. Hạt ca cao được gắn vào cơ quan gọi là thai tòa. Khi tách hạt
ca cao để lên men, thai tòa được loại bỏ. Thai tòa có thể sử dụng làm thức ăn cho
cá và heo.
11
Lớp cơm nhầy chứa nhiều đường (10-13 %), pentosan (2-3 %) acid citric
(1-2 %) và muối 7-10 %) (Lopez, 1986). Có thể sử dụng lớp cơm này làm nước
sinh tố, kem hoặc cô đặc làm nước cốt trái cây. Lên men lớp cơm nhầy thu được
dịch để chế biến rượu, nguyên liệu sản xuất ra thay thế nước dừa trong sản xuất
thạch dừa. Vì vậy, để nâng cao giá trị của ca cao cần có những đầu tư và chính
sách phù hợp, tăng cường mở rộng diện tích cây ca cao với việc chọn ra những
giống tốt, tiến hành trồng xen canh hợp lý, có chế độ chăm sóc tốt. Đồng thời
chế biến các sản phẩm từ ca cao, đặc biệt là rượu ca cao, từng bước tiến tới công
nghệ chế biến bột ca cao, bơ và chocolate.
Hiện nay ca cao được chế biến rộng rãi trong công nghiệp thực phẩm.
Nhiều nhất là bánh kẹo và các thức uống. Nói đến bánh kẹo có nguồn gốc từ ca
cao người ta thường nghĩ ngay đến sôcôla, nổi tiếng nhất là nhiều loại sôcôla
được sản xuất từ Thụy Sỹ, Ðức… Người châu Âu rất thích ăn sôcôla, tính bình
quân mỗi người tiêu thụ khoảng 11,9 kg/năm (trong số đó đàn bà 35 %, đàn ông
25 %, phần còn lại là trẻ em). Do nhu cầu tiêu thụ càng ngày càng cao nên ca cao
trong tương lai vẫn là mặt hàng nông sản có giá, ít bị biến động về giá cả như cà
phê hoặc tiêu.
1.2 Phân bón đối với cây ca cao
1.2.1 Nhu cầu
Cây ca cao cần được cung cấp đầy đủ các nguyên tố đa, trung và vi lượng,
thiếu hoặc thừa một trong những yếu tố này đều ảnh hưởng đến sinh trưởng và
phát triển của cây. Nhu cầu phân bón của ca cao tùy theo tuổi cây và năng suất.
Ca cao giai đoạn kinh doanh cần bón nhiều phân hơn ca cao kiến thiết cơ bản.
Năng suất ca cao càng cao, càng cần phải bón nhiều phân hơn.
Cây hút nhiều dinh dưỡng, nhiều nhất là K, tiếp đến là N, Ca, Mg, P. Nhu
cầu dinh dưỡng của cây ca cao cũng thay đổi theo điều kiện che bóng.
Do đặc điểm bộ rễ cây ca cao ăn nông (80% rễ tập trung ở tầng 0 - 30 cm)
nên cần bón phân ở tầng đất mặt. Rải phân theo đường chiếu của tán rồi lấp đất
12
để giảm bớt thất thoát do bay hơi, rửa trôi. Vào thời kỳ kinh doanh, cây đã giao
tán, có thể chịu hạn và cho năng suất khá ổn định.
Qua thực nghiệm ở Việt Nam cho thấy, trong năm đầu tiên tổng lượng
phân cung cấp cho mỗi cây khoảng 150 - 200g phân tổng hợp NPK (16:16:8).
Đến năm thứ hai lượng phân cần tăng lên khoảng từ 300 - 400g/cây; năm thứ 3
là 500 - 600g/cây. Từ năm thứ tư trở đi, cây vào giai đoạn cho nhiều trái, lượng
phân bón cần dựa vào điều kiện đất đai và sản lượng ca cao thu hoạch để cân đối
với lượng dinh dưỡng do cây trồng lấy đi để tạo quả, hạt, cùng với sự mất mát do
các yếu tố môi trường.
Bảng 1.3: Lượng dinh dưỡng (kg) cây lấy đi để tạo ra 1.000kg hạt
ca cao khô/ha
Dinh dưỡng N P K Ca
++
Mg
++
Hạt
Vỏ
21,3
14,5
4,0
1,8
9,5
63,0
1,0
6,0
3,0
3,1
Tổng số
35,8 5,8 72,5 7,0 6,1
#$3%&''!",-./01+&''2!
Lượng phân bón được chia ra bón nhiều lần trong mùa mưa. Tuy nhiên,
có 2 thời điểm cây cần nhiều phân là lúc vừa hình thành trái và trước khi thu
hoạch 2 tháng. Trong những năm đầu, phân bón cần bón quanh gốc, nhưng khi
cây đã giao tán chỉ cần rải phân trên mặt đất, sau đó phủ bằng lớp lá mục vốn có
sẵn trong vườn ca cao.
1.2.2 Vai trò của một số chất khoáng đối với cây ca cao
Phân bón có vai trò hết sức quan trọng giúp ổn định và tăng năng suất cho
cây. Hàng năm, các nguyên tố trong lượng phân bón luôn bị mất đi do rửa trôi và
do cây lấy đi. Chính vì vậy mà ta phải cung cấp thêm phân bón cho cây. Sau đây
là vai trò của các nguyên tố N, P, K và S đối với ca cao.
* Đạm (N): đây là thành phần quan trọng cho tất cả bộ phận của cây và
đặc biệt cần thiết cho sự sinh trưởng dinh dưỡng. Việc lá rụng rồi lại mọc lá mới
13
của cây ca cao cần sự hiện diện thường xuyên của đạm trong đất. Đối với trái
cũng vậy, đạm cần thiết cho trái phát triển và việc này xảy ra quanh năm.
Thiếu đạm lá có màu xanh vàng hay xanh nõn chuối. Thiếu nặng lá rụng
nhiều, năng suất giảm. Hiện tượng thiếu đạm thường xảy ra trên đất nghèo dinh
dưỡng và bón không đủ lượng đạm cây cần.
* Lân (P): ca cao cần lân tương đối ít. Dạng lân dễ tiêu trong đất thường
bị giới hạn bởi việc cố định do các phản ứng hóa học, đặc biệt là ở đất chua. Nên
thường xuyên bón phân lân với lượng nhỏ. Cần bón lót phân lân trong hố trước
khi trồng để giúp cây tăng trưởng trong giai đoạn đầu.
Thiếu lân lá chuyển màu xỉn, mép lá non ửng đỏ, thiếu nặng lá rụng và
cành chết.
* Kali (K): kali rất quan trọng khi cây ra trái, lượng kali trong trái rất lớn.
Bón thường xuyên phân kali rất cần thiết để duy trì năng suất cao. Với đất nhiều
Kali sẽ cản trở sự hấp thu Ca
++
và Mg
++
. Trong trường hợp này cần bón Ca và
Mg nhưng không bón kali.
Thiếu kali mép lá chuyển màu vàng cam sau chuyển màu xám nâu và khô,
lá rụng nhiều.
* Lưu huỳnh (S): thiếu lưu huỳnh, hầu hết lá trên cây chuyển sang màu
vàng, xuất hiện những vết như vết bệnh trên lá già.
Ở lá non, lúc đầu có màu vàng sáng, sau đó chuyển sang màu vàng nhạt,
tương tự triệu chứng ở lá già. Lưu huỳnh được bón thông qua phân SA (chứa
khoảng 24 % S); phân Super lân (Super lân chứa khoảng 14 % S).
Bảng 1.4: Dinh dưỡng cây ca cao hút, lấy đi
14
Giai
đoạn
Tháng
tuổi
Dinh dưỡng cho cả cây (kg/ha)
N P
2
O
5
K
2
O MgO CaO
Vườn ươm 5 - 12 2,5 1,4 30 1,9 0,04
Cây con 28 140 33 188 80 4,0
Thu bói 39 219 54 400 122 7,3
K.Doanh 50 - 87 543 114 788 221 7,0
( #+ ! [4]
Bảng 1.5: Dinh dưỡng cho ca cao trồng mới
,-./01+&''4! [3]
1.3 Tình hình sản xuất và tiêu thụ ca cao trên thế giới và Việt Nam
Tháng
sau trồng
Lượng dinh dưỡng cho mỗi cây (g)
Urê Supe lân Sulphate kali Tổng số
1 13,9 40,0 12,8 66,7
4 18,4 53,1 17,0 88,6
8 18,4 53,1 17,0 88,6
12 27,8 80,0 25,6 133,4
18 36,9 106,2 34,0 177,2
24 59,3 170,6 77,0 306,9
15
1.3.1 Trên thế giới
1.3.1.1 Tình hình sản xuất
Bảng 1.6: Sản lượng của các nước sản xuất ca cao chính trên thế giới
.5'''
6
Các nước 04/05 05/06 06/07 07/08 1-3/09 3-6/09 08/09
Africa 2,414 2,647 2,378 2,602 695 194 2,372
Cameroon 190 172 170 188 64 11 195
Cote d’Ivoire 1,426 1,557 1,422 1,431 370 128 1,200
Ghana 552 660 555 730 165 36 700
Nigeria 206 214 185 200 75 12 210
Các nước khác 39 44 46 55 20 10 67
Asia & Oceania 569 681 635 614 147 184 607
Indonesia 470 575 525 500 119 149 490
Malaysia 26 27 28 32 7 9 32
Các nước khác 73 79 82 82 21 26 85
America 437 434 409 447 93 106 451
Brazil 171 162 126 160 30 31 165
Ecuador 114 113 115 115 32 29 112
Các nước khác 152 160 167 172 31 46 176
7(+48&''!
Yếu tố chính đẩy giá ca cao tăng trong năm 2009 là nguồn cung khan
hiếm ở những nước sản xuất lớn, nhất là Bờ Biển Ngà (nước sản xuất ca cao
hàng đầu thế giới). Ngoài ra, việc đồng USD suy yếu cũng thu hút các nhà đầu tư
vào thị trường nông sản.
16
Sản lượng ca cao của Bờ Biển Ngà giảm 12% xuống còn 1,2 triệu tấn
trong niên vụ 2009 - 2010, là mức thấp nhất trong 10 năm qua. Ghana, nước sản
xuất ca cao lớn thứ hai thế giới, sau Bờ Biển Ngà sẽ không đạt được mục tiêu
sản xuất 1 triệu tấn vào năm 2010 - 2011. Côđivoa chiếm khoảng 40% tổng sản
lượng toàn cầu. Tổ chức ca cao Quốc tế (ICCO) ước tính nhu cầu ca cao thế giới
vượt khoảng 73.000 tấn so với sản lượng trong năm 2009. Năm 2010 thị trường
này sẽ bước vào năm thứ 4 liên tiếp thiếu cung - dài nhất trong lịch sử kể từ năm
1969.
Theo tính toán của tổ chức ca cao Quốc tế (ICCO): châu Âu tiếp tục là
khu vực sử dụng nhiều ca cao nhất thế giới, chiếm 40% tổng tiêu thụ ca cao toàn
cầu, với tiêu thụ dự kiến sẽ tăng 1,7% và đạt 1,4 triệu tấn. Không chỉ sôcôla, ca
cao còn là nguyên liệu sản xuất nhiều sản phẩm rất được ưa chuộng khác như bơ
ca cao. Bắc Mỹ, khu vực tiêu thụ lớn thứ 2 thế giới, tăng tiêu thụ thêm 3,6%
trong năm 2010 lên 703.000 tấn. Ở Liên xô cũ, tiêu thụ sẽ tăng 0,8% từ mức
65.000 tấn lên 71.000 tấn. Trong khi đó, tiêu thụ ở Nhật Bản dự kiến tăng từ
48.000 tấn lên 56.000 tấn. Ở các nước đang phát triển, các sản phẩm ca cao cũng
ngày càng trở nên phổ biến, với tiêu thụ tăng lên 1,3 triệu tấn (năm 2010), tức là
tăng 1,8% (so với năm 2009). Châu Phi, nơi nhu cầu của người dân tăng rất
mạnh trong thập kỷ qua, sẽ vẫn là khu vực tiêu thụ lớn nhất nhóm các quốc gia
đang phát triển, với 35%. Mỹ Latinh và Caribê trong nhóm giảm từ 32% (năm
2009) xuống 28% (năm 2010) bởi chi phí xay nghiền cao hơn so với châu Phi.
Tại Viễn Đông, mặc dù mức tiêu thụ còn rất khiêm tốn, song tốc độ tăng khá
nhanh nên thị phần cũng tăng từ 31% lên 34%. Năm 2010, thị trường ca cao thế
giới vẫn không đủ. Hạt ca cao sẽ tiếp tục chiếm phần lớn trong tổng xuất khẩu,
mặc dù một số quốc gia tăng công suất chế biến, nhất là ở châu Phi.[11]
Một cuộc xung đột 5 tháng tại Bờ biển Ngà, sau một cuộc bầu cử Tổng
thống gây tranh cãi vào tháng 11/2010, dẫn đến lệnh cấm xuất khẩu ca cao nên
đẩy giá ca cao lên mức cao nhất trong 32 năm (vào tháng 3/2011). Sản lượng ca
cao ở Bờ biển Ngà giảm còn khoảng 1,3 triệu tấn (niên vụ 2011/2012) sau khi
17
đạt mức cao kỷ lục 1,56 triệu tấn (niên vụ 2010/2011). Sản lượng ca cao ở
Ghana đạt 970.000 tấn, sản lượng ca cao ở Indonesia (nước sản xuất ca cao lớn
thứ ba thế giới) đạt 500.000 tấn. [15]
Diện tích ca cao cũng có xu hướng giảm ở một số nước như: Malaysia,
Philipin, Brazil, sản lượng ca cao khó có thể đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của thế
giới (liên tục tăng từ 90.000 đến 120.000 tấn hạt/năm). Theo Tổ chức ca cao thế
giới (ICCO) đến 2015 toàn cầu sẽ thiếu 102.000 tấn. Trong khi các nước có diện
tích ca cao lớn bị thiên tai, tình hình chính trị không ổn định, cây già cỗi, sâu
bệnh gây thiệt hại lớn.
1.3.1.2 Tình hình tiêu thụ
Sản lượng ca cao toàn cầu những năm qua tăng không đáng kể. Bờ Biển
Ngà giảm 38% sản lượng vì nội chiến, Ghana giảm 19%. Riêng Indonesia, nước
sản xuất ca cao lớn ở châu Á khoảng 20% sản lượng. Malaysia, một trong những
nước trồng ca cao hàng đầu thế giới, đang chặt bỏ khoảng 200.000 ha ca cao để
chuyển sang trồng cọ dừa. Đây là nguyên nhân góp phần đẩy giá ca cao thế giới
tăng cao.
Sản lượng giảm nhưng nhu cầu sử dụng hạt ca cao của Hoa Kỳ, Nhật Bản
và châu Âu vẫn rất lớn (chiếm 76% lượng tiêu thụ ca cao toàn cầu). Nhu cầu của
các nước Brazil, Nga, Ukraina, vùng Trung Đông cũng tăng nhanh, dẫn đến cung
không đủ cầu. Trong bối cảnh đó, một số công ty chế biến ca cao lớn thế giới:
Hà Lan, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Malaysia đang quan tâm tới ca cao Việt Nam.
1.3.2 Ở Việt Nam
Ca cao Việt Nam được xuất khẩu dưới 2 dạng: thô và thành phẩm. Trong
đó, xuất khẩu thành phẩm thu được lợi nhuận lớn hơn. Nếu bán ca cao sơ chế chỉ
có thể lãi 15%, trong khi đó, sản phẩm từ ca cao như: kẹo, bột có thể lãi đến
400%. Chính vì vậy, một số công ty đẩy mạnh việc đầu tư dây chuyền sản xuất
tại thị trường Việt Nam như Grand Place hay Vinacacao. Ngay từ năm 2007,
Vinacacao đã đầu tư nhà máy sản xuất tại Bến Tre để sản xuất 15 loại sản phẩm
tiêu thụ trong nước với kinh phí đầu tư 40 triệu USD. Tuy nhiên, công ty này
18
phải nhập khẩu gần 70% nguyên liệu từ Malaysia với giá cao hơn trong nước
đến 10% để sản xuất.
Công ty Grand Palace Vietnam sử dụng nguyên liệu là hạt ca cao Việt
Nam để chế biến sôcôla xuất khẩu và xuất vào thị trường Mỹ. Ông Gricha
Safarian, Tổng Giám đốc công ty Grand Palace Vietnam, đánh giá rất cao ca cao
Việt Nam: “Nếu so sánh sôcôla Việt Nam, chế biến từ hạt ca cao Việt Nam và
sôcôla châu Phi, chế biến từ hạt ca cao của Ghana thì sẽ thấy hương ca cao trong
sôcôla Việt Nam là 3+, trong khi sôcôla châu Phi là 4+; nhưng hương trái cây
trong sôcôla châu Phi chỉ 1+, trong khi của Việt Nam là 3+. Độ thoát hương của
sôcôla Việt Nam là 2+, trong khi của châu Phi là âm (-). Theo đánh giá từ các
chuyên gia sôcôla, một thanh sôcôla ngon là thanh sôcôla có hương trái cây và
độ thoát hương cao.” [12]
Cùng với sự phát triển của đời sống, nhu cầu của con người ngày càng
tăng cao, đặc biệt các sản phẩm từ ca cao ngày càng được ưa chuộng. Do đó, đến
cuối năm 2010, diện tích trồng ca cao ở Việt Nam là 16.725 ha, tăng 3.580 ha so
với năm 2009. Tổng số có 2.100 ha ca cao trồng thuần, số còn lại là diện tích
trồng xen với một số cây (dừa, điều, cà phê và cây ăn quả). Diện tích ca cao thu
hoạch đến nay khoảng 7.300 ha, chiếm 43,6% tổng diện tích trồng.
Bảng 1.7: Chất lượng hạt ca cao (2006/2007 - 2009/2010) (%)
Năm
Độ
ẩm
Số hạt/
100gr
Mốc
Chai
xám
Nẩy mầm,
côn trùng
Tạp
chất
2006/2007 7,4 117 0,68 0,9 1,0 2,8
2007/2008 7,5 107 0,60 0,3 0,3 0,9
2008/2009 7,3 96 0,44 0,2 0,3 0,8
2009/2010 7,3 94 0,30 0,2 0,2 0,90
7(+48&''!
Bảng 1.8: Tình hình xuất khẩu hạt ca cao của Việt Nam
19
Niên vụ
Công ty
Cargill
(tấn)
Công ty
ED& Man
(tấn)
Tổng số
(tấn)
Giá trị
ước tính
(USD)
Niên vụ 2005/2006 15,0 17,0 32,0 48.000
Niên vụ 2006/2007 180,0 70,0 240,0 520.000
Tổng cộng 195,0 87,0 272,0 568.000
9::;<=>3!
Hiện nay các giống được trồng chủ yếu là: các dòng ca cao vô tính nhập
nội bước đầu đã qua khảo nghiệm chiếm 82,2%. Trong đó, có 8 dòng TD1, TD2,
TD3, TD5, TD6, TD8, TD10 và TD14 của trường Đại học Nông Lâm TP.HCM
và 5 cây ca cao đầu dòng của Viện Khoa học kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây
Nguyên đã được bộ Nông Nghiệp & Phát triển Nông thôn công nhận và cho
phép phát triển ở các tỉnh phía Nam. Các cây lai từ các cặp lai đã biết trước bố,
mẹ (chiếm 17,8 %). Ngoài ra, có một số ít cây trồng từ việc gieo ươm hạt của
trái ca cao thương phẩm.
1.3.3 Ở Đắk Lắk
1.3.3.1 Tình hình sản xuất
Cây ca cao được trồng ở Đắk Lắk từ những năm cuối thập kỷ 50 của thế
kỷ XX tại một số đồn điền cà phê, cao su trên đất bazan; cây sinh trưởng nhanh,
năm thứ 3 - 4 cho thu bói. Năm 1956, chương trình khảo nghiệm ca cao được
đưa vào miền Nam Việt Nam và Cao nguyên trung phần, hiện nay còn một số
cây ca cao tại huyện Lắk, Krông Bông vẫn còn cho quả, cây sinh trưởng tốt.
Năm 1977, Viện khoa học kỹ thuật NLN Tây Nguyên trồng 2 ha. Năm
1978 có vườn thực nghiệm giống khoảng 500 cây, gần 40 giống. Năm 1989
huyện Lắk ươm 20.000 cây ca cao và trồng dưới tán rừng, trong vườn nhà. Cây
sinh trưởng tốt, cho nhiều quả, tuy nhiên do chưa được quan tâm đúng mức,
20
không có thị trường tiêu thụ, cây ca cao chưa được xem là cây hàng hóa, nên
phần lớn diện tích cây ca cao trồng trước đó đã bị chặt bỏ.
Từ tháng 10/1997 đến nay đã đưa những giống nhập nội từ Malaysia,
giống lai F1 và 13 dòng bố mẹ; Viện khoa học kỹ thuật NLN Tây Nguyên
nghiên cứu, chọn tạo và sản xuất trên 13.000 cây giống cung cấp năm 1998. Số
cây này phân phối cho tỉnh Đắk Lắk và một số tỉnh lân cận.
Năm 2002, Ủy ban nhân dân tỉnh đã có quyết định số 821/QĐ-UB, ngày
2/4/2002 phê duyệt Dự án quy hoạch vùng phát triển cây ca cao trên địa bàn tỉnh
với quy mô 6.000 ha, tập trung ở những vùng không có điều kiện sinh thái phù
hợp với cây cà phê, cao su, điều…bao gồm các huyện EaKar, MĐ’răk, Krông
Bông, Lăk và các vùng khác nếu có điều kiện phù hợp thì vẫn có thể trồng ca
cao. Ngày 06/3/2007, UBND tỉnh Đắk Lắk ban hành Quyết định số 476/QĐ-UB
V/v phê duyệt Dự án viện trợ phi Chính phủ (NGO) “Phát triển sản xuất ca cao
tại các nông hộ” tỉnh Đắk Lắk và ngày 14/5/2007, Quyết định số 1019 của
UBND tỉnh về việc thành lập Ban quản lý dự án “Phát triển sản xuất ca cao bền
vững tại các nông hộ”, đơn vị trực tiếp thực hiện Dự án là Trung tâm khuyến
nông tỉnh nhận nhiệm vụ triển khai Dự án trên địa bàn 2 huyện EaKar và Lăk,
giai đoạn 2 của Dự án tiếp tục triển khai thêm địa bàn EaH’leo.
Đến 30/12/2010, toàn tỉnh đã có 1.935 ha ca cao trên địa bàn 12/15 huyện,
thị xã và thành phố Buôn Ma Thuột. Trong đó, diện tích cho thu hoạch khoảng
hơn 440 ha, năng suất hạt khô hơn 14 tạ/ha, sản lượng đạt gần 629 tấn hạt khô
lên men.
Các công ty có diện tích tương đối lớn như: công ty cà phê KrôngAna,
công ty cà phê tháng 10, công ty cà phê Buôn Hồ… Đây là những đơn vị có
diện tích ca cao trồng tập trung, đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật nên vườn cây sinh
trưởng phát triển tốt và độ đồng đều cao. Diện tích ca cao được trồng bằng các
giống ghép chiếm 66,6%, chủ yếu là 5 dòng (TC5, TC7, TC11, TC12, TC13)
của Viện khoa học kỹ thuật NLN Tây Nguyên đã được Bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn công nhận cây đầu dòng cho các tỉnh Tây Nguyên và 8 dòng
21
nhập nội (TD1, TD2, TD3, TD5, TD6, TD8, TD10, TD14) do trường Đại học
Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh cung cấp và đã được Bộ Nông Nghiệp và
Phát triển Nông thôn công nhận giống cây trồng mới. Một số diện tích còn lại
trồng bằng cây thực sinh không rõ nguồn gốc.
1.3.3.2 Tình hình tiêu thụ ca cao ở Đắk Lắk
Hiện có 2 công ty chuyên sản xuất và cung ứng cây giống ca cao ghép đạt
chất lượng là công ty TNHH Tư vấn - Đầu tư phát triển NLN EaKmat, thuộc
Viện khoa học kỹ thuật NLN Tây Nguyên và Công ty cổ phần Cao Nguyên
Xanh, hàng năm có thể sản xuất 3 - 4 triệu cây giống ca cao ghép, đáp ứng đủ
nhu cầu cây giống ca cao cho việc trồng mới.
Công ty E.D & Fman và Công ty Cargill là 2 đơn vị chủ lực thu mua sản
phẩm ca cao của tỉnh và các thông tin về giá cả được thông báo thường xuyên
trên truyền hình và hệ thống tin nhắn giúp cho nông dân nắm bắt được giá cả
hằng ngày. Đồng thời hướng dẫn các đơn vị sản xuất ca cao về kỹ thuật lên men,
ứng tiền đầu tư chăm sóc, tổ chức tiếp thị và tạo điều kiện cho nông dân đi tham
quan, học tập các mô hình ca cao trong và ngoài tỉnh để rút kinh nghiệm.
Đến nay trên thị trường thu mua ca cao hạt đã bắt đầu có sự cạnh tranh.
Một số công ty từ thành phố Hồ Chí Minh cũng đã đặt các điểm thu mua, sơ chế
ca cao hạt lên men tại các huyện, góp phần hình thành thị trường tiêu thụ hạt ca
cao nguyên liệu đa dạng và phong phú để nông dân yên tâm sản xuất.
Chất lượng hạt ca cao lên men được các Công ty thu mua trong và ngoài
nước đánh giá là có chất lượng tốt, được thị trường ưa chuộng vì có kích cỡ hạt
lớn, trung bình chỉ 80 - 100 hạt/100gam. Thị trường tiêu thụ thuận lợi, giá cao và
khá ổn định, trong vòng 3 năm trở lại đây giá ca cao luôn ở mức cao và biến
động từ 45.000 - 60.000 đ/kg ca cao hạt khô lên men.
Chương 2
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
22
2.1 Vật liệu nghiên cứu
* Vườn ca cao kiến thiết cơ bản (năm thứ 2) và kinh doanh (năm thứ 6).
* Dòng ca cao: TD3.
* Phân bón:
- Đạm Urê (46% N).
- Super Lân (16 - 18% P
2
O
5
).
- Phân KCl (60% K
2
O).
- Phân hữu cơ vi sinh Nitex, bao gồm:
+ Hữu cơ: 22%.
+ Đa lượng: N: 2,5%; P
2
O
5
hh: 1%; K
2
O: 0,5%.
+ Trung và vi lượng: Ca, Mg, S, Bo, Fe, Zn, Mn, Cu, Mo,
A.Humic…
+ Vi sinh vật có ích.
+ Độ ẩm: 20%; pH: 6,5 - 7.
+ Các chất phụ gia sinh học đặc biệt khác.
2.2 Địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Địa điểm nghiên cứu: tại huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk.
- Thời gian nghiên cứu: từ tháng 10/2012 đến tháng 10/2013.
2.3 Nội dung nghiên cứu
- Điều tra hiện trạng sử dụng phân bón cho cây ca cao tại huyện Buôn
Đôn, tỉnh Đắk Lắk.
- Nghiên cứu ảnh hưởng công phân bón đến sinh trưởng, phát triển của
vườn ca cao kiến thiết cơ bản.
- Nghiên cứu ảnh hưởng công thức phân bón đến sinh trưởng, phát triển
và năng suất của vườn ca cao kinh doanh.
- Đánh giá hiệu quả kinh tế của việc sử dụng phân bón.
2.4 Phương pháp nghiên cứu
2.4.1 Phương pháp điều tra
23
- Sử dụng một số công cụ trong phương pháp đánh giá nông thôn có sự
tham gia của người dân (PRA).
- Tiến hành thu thập số liệu thứ cấp tại phòng Nông nghiệp & Phát triển
Nông thôn, trạm Khuyến nông huyện Buôn Đôn.
- Điều tra trực tiếp các hộ trồng ca cao với quy mô diện tích > 0,5 ha. Số
hộ điều tra là 30 hộ trên địa bàn nghiên cứu.
2.4.2 Phương pháp bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm 1: Nghiên cứu ảnh hưởng của công thức phân bón cho
vườn ca cao kiến thiết cơ bản
Thí nghiệm được bố trí theo phương pháp khối đầy đủ ngẫu nhiên một
nhân tố, gồm 5 công thức và 3 lần lặp lại. Gồm có 15 ô cơ sở. Diện tích ô cơ sở
là 5 cây.
- CT1: (150g Urê + 300g Super lân + 50g KCl )/cây (Đ/C)
- CT2: (128g Urê + 255g Super lân + 43g KCl)/cây (giảm 15% Đ/C)
- CT3: (173g Urê + 345g Super lân + 58g KCl)/cây (tăng 15% Đ/C)
- CT4: (105g Urê + 210g Super lân + 35g KCl)/cây (giảm 30% Đ/C)
- CT5: (195g Urê + 390g Super lân + 65g KCl)/cây (tăng 30% Đ/C)
Nền: Phân hữu cơ vi sinh Nitex (1 kg/cây).
Sơ đồ bố trí thí nghiệm 1
DẢI
BẢO
VỆ
I II III
DẢI
BẢO
VỆ
CT3 CT1(ĐC) CT2
CT2 CT3 CT5
CT5 CT2 CT4
CT1(ĐC) CT5 CT3
CT4 CT4 CT1(ĐC)
DẢI BẢO VỆ
?@I, II, IIIABCT;/"C
Thí nghiệm 2: Nghiên cứu ảnh hưởng của công thức phân bón đến vườn ca
cao kinh doanh
24
Thí nghiệm được bố trí theo phương pháp khối đầy đủ ngẫu nhiên một
nhân tố, gồm 5 công thức và 3 lần lặp lại. Gồm có 15 ô cơ sở. Diện tích ô cơ sở
là 5 cây.
- CT1: (200g Urê + 400g Super lân + 400g KCl)/cây (Đ/C)
- CT2: (170g Urê + 340g Super lân + 340g KCl)/cây (giảm 15% Đ/C)
- CT3: (230g Urê + 460g Super lân + 460g KCl)/cây (tăng 15% Đ/C)
- CT4: (140g Urê + 280g Super lân + 280g KCl)/cây (giảm 30% Đ/C)
- CT5: (260g Urê + 520g Super lân + 520g KCl)/cây (tăng 30% Đ/C)
Nền: Phân hữu cơ vi sinh Nitex (2 kg/cây).
Sơ đồ bố trí thí nghiệm 2
DẢI
BẢO
VỆ
I II III
DẢI
BẢO
VỆ
CT1(ĐC) CT3 CT4
CT2 CT5 CT1(ĐC)
CT5 CT1(ĐC) CT3
CT4 CT4 CT5
CT3 CT2 CT2
DẢI BẢO VỆ
?@I, II, IIIAB
CT;/"C
* Cách bón phân, tưới nước
- Lượng phân trên được chia làm 3 đợt (đầu, giữa và cuối mùa mưa), đợt
1: 30%, đợt 2: 40%, đợt 3: 30%. Do đặc điểm bộ rễ cây ca cao chủ yếu phân bố
ở tầng đất mặt (80% rễ tập trung ở tầng 0 - 15 cm) nên cần bón phân trong tầng
đất mặt. Rải phân theo đường chiếu của tán, nên xới nhẹ và lấp đất để giảm bớt
thất thoát do rửa trôi và bay hơi.
- Cách tưới: vào những tháng không có mưa, nên tưới lúc chiều mát để
hạn chế sự bốc hơi. Không nên tưới giữa lúc trời nắng gắt.
Mỗi tháng tưới 2 - 3 lần đối với vườn ca cao kiến thiết cơ bản và 1 - 2 lần
đối với vườn ca cao kinh doanh.
25