Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

nghiên cứu một số mô hình trồng bông xen canh với cây ngắn ngày tại huyện cư jút, tỉnh đăk nông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (667.38 KB, 64 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN






TRẦN ĐĂNG THẾ




NGHIÊN CỨU MỘT SỐ MÔ HÌNH TRỒNG BÔNG
XEN CANH VỚI CÂY NGẮN NGÀY TẠI HUYỆN
CƯ JÚT, TỈNH ĐẮK NÔNG




LUẬN VĂN THẠC SỸ NÔNG NGHIỆP
















BUÔN MA THUỘT, NĂM 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN




TRẦN ĐĂNG THẾ



NGHIÊN CỨU MỘT SỐ MÔ HÌNH TRỒNG BÔNG
XEN CANH VỚI CÂY NGẮN NGÀY TẠI HUYỆN
CƯ JÚT, TỈNH ĐẮK NÔNG

Chuyên ngành: Trồng trọt
Mã số: 60 62 01

LUẬN VĂN THẠC SỸ NÔNG NGHIỆP




Thư ký hội ñồng Người hướng dẫn khoa học




TS. Nguyễn Văn Sanh TS. Lâm Thị Bích Lệ







BUÔN MA THUỘT, NĂM 2011


1


MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn ñề
Trong những năm gần ñây, diện tích trồng bông ở vùng Tây Nguyên có sự
sụt giảm nghiêm trọng. Theo thống kê của Công ty Bông Việt Nam niên vụ
2007/2008 diện tích bông khoảng 3.700 ha, ñến niên vụ 2009/2010 diện tích bông
tại Tây Nguyên chỉ còn khoảng 1.500 ha, những nguyên nhân chính làm cho diện
tích bông suy giảm: Thứ nhất, do quy trình kỹ thuật canh tác bông còn phức tạp,
năng suất bông chưa thực sự ổn ñịnh, hiệu quả kinh tế của cây bông chưa cao…
Thứ hai, do cây bông chưa ñủ khả năng cạnh tranh với một số cây trồng ngắn ngày
khác như: ngô, ñậu xanh, ñậu tương, lạc…

Để khôi phục ñược vùng bông Tây Nguyên, vấn ñề cấp thiết ñược ñặt ra là:
Làm thế nào ñể cây bông nhanh chóng có chỗ ñứng vững chắc trong cơ cấu cây
trồng nông nghiệp ngắn ngày của vùng? Có 2 hướng ñể giải quyết vấn ñề này: Một
là, nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật về giống, quy trình canh tác, quản lý dịch hại
thích hợp và ñồng bộ, giảm chi phí sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh của cây bông
với cây trồng khác. Hai là, nghiên cứu các mô hình trồng bông thích hợp ñể tăng
hiệu quả sử dụng ñất và hiệu quả kinh tế cho người trồng bông, tạo cơ hội nâng cao
diện tích và sản lượng bông của vùng.
Trong những năm gần ñây, Viện nghiên cứu Bông và PTNN Nha Hố ñã lai
tạo ñược một số giống bông lai mới với các ñặc tính tốt như: có tiềm năng cho
năng suất cao, thân cành gọn, chín tập trung… ñã tạo ñiều kiện thuận lợi cho cây
bông phát triển tốt. Vì vậy, việc nghiên cứu các mô hình trồng bông xen canh với
một số cây trồng ngắn ngày khác là một trong những giải pháp thiết thực nhất,
nhằm góp phần khai thác tốt ñiều kiện ñất ñai và tạo ra cơ cấu cây trồng ổn ñịnh,
nâng cao hiệu quả sử dụng ñất và hiệu quả kinh tế, tạo cơ hội mở rộng diện tích và
nâng cao sản lượng bông.

2


Xuất phát từ những cơ sở khoa học và thực tiễn sản xuất, chúng tôi tiến
hành ñề tài: “Nghiên cứu một số mô hình trồng bông xen canh với cây ngắn
ngày tại huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông”.
2. Mục tiêu ñề tài
Xác ñịnh ñược mô hình trồng bông xen canh thích hợp với cây ngắn ngày
có hiệu quả kinh tế cao tại huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của ñề tài
- Ý nghĩa khoa học
Các kết quả thu ñược của ñề tài sẽ cung cấp những dẫn liệu khoa học về một
số mô hình trồng bông xen canh với cây trồng ngắn ngày ñạt hiệu quả kinh tế cao.

Kết quả nghiên cứu của ñề tài làm cơ sở cho việc bố trí các mô hình trồng bông
thích hợp tại ñịa phương. Đồng thời làm cơ sở cho những nghiên cứu chuyên sâu về cây
bông tại huyện Cư Jút nói riêng và vùng Tây Nguyên nói chung.
- Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của ñề tài góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng ñất, ñem
lại hiệu quả kinh tế cho người trồng bông, nâng cao vị trí cây bông trong hệ thống cơ
cấu cây trồng tại ñịa phương, tạo ñiều kiện mở rộng diện tích, tăng năng suất và sản
lượng bông.
4. Giới hạn của ñề tài
- Giống nghiên cứu: Đề tài chỉ tiến hành trên giống bông lai F1 VN04-3,
thuộc loài bông Luồi (G. hirsutum L.), là giống có triển vọng và hiện ñang trồng
phổ biến tại vùng nghiên cứu.
- Địa bàn nghiên cứu: Đề tài của chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu tại
huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông.
- Thời gian nghiên cứu: Đề tài tiến hành trong vụ mưa năm 2009 và 2010.



3


Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1 Khái niệm xen canh
- Xen canh là trồng cùng một lúc nhiều loại cây trồng trên một đơn vò diện
tích trong cùng một vụ, nhằm tận dụng tối đa các điều kiện tự nhiên sẵn có để đa
dạng hóa sản phẩm và làm tăng hiệu quả đồng vốn đầu tư của người sản xuất.
- Một hệ thống trồng xen có hiệu quả sinh học cao là hệ thống canh tác
thỏa mãn 4 yêu cầu :

+ Tổng sản lượng thu hoạch cao nhất.
+ Diện tích sử dụng đất ít nhất.
+ Tổ hợp cây trồng hợp lý nhất.
+ Kỹ thuật canh tác phù hợp nhất.
- Để đánh giá hiệu quả sinh học và hiệu quả kinh tế, IRRI (1973,1977)
và Mead and Willey (1980) đã đề xuất khái niệm tỉ lệ đất tương đương (LER -
Land và được tính theo công thức:
LER = L
x
+ L
y
+ L
z
=
A
P
+
A
P
+
A
P
x
x
y
y
z
z

Trong đó:

L
x
; L
y
; L
z
là những LER riêng biệt của các xây trồng x, y, z.
A
x
, A
y
, A
z
là năng suất của các cây trồng x, y, z trong điều kiện trồng xen.
P
x
, P
y
, P
z
là năng suất của các cây trồng đó trong điều kiện trồng thuần.
Tuy nhiên, sản lượng cây trồng không chỉ quan hệ với diện tích đất,
cây trồng, quản lý và môi trường (như được ngụ ý bởi LER) mà còn có quan
hệ mật thiết với thời gian sinh trưởng của cây trồng hoặc thời gian mà đất bò
chiếm giữ bởi một cây trồng hay tổ hợp các cây trồng như trong trường hợp

4


vừa xen, vừa gối, canh tác đa canh, đa tầng. Điều đó đã khai sinh ra khái

niệm mới: “Tỷ lệ thời gian tương đương” (Area Time Equivalency Ratio -
ATER) được phát triển bởi Heisch 1978:
ATER =
t
t
x
y
y
=
I
t
t x
y
y
i
m
I
i
I
i
m I
i
m
i=1
n
i
I
i
m
i

n
=
∑ ∑
1

Trong đó:
t
i
m
: là thời gian phát triển của cây trồng i trong điều kiện trồng thuần.

t
I
: là thời gian tòan bộ hệ thống trồng xen.

y
i
I
: Năng suất (tấn/ha) của cây trồng i trong trồng xen.

y
i
m
: Năng suất (tấn/ha) của cây trồng i trong trồng thuần.
n : là tổng số các cây trồng trong hệ thống.
Wiiley, Rao (1980) đã phát triển khái niệm LER trong việc đánh giá mức
độ cạnh tranh giữa các cây trồng xen bằng chỉ tiêu “chỉ số cạnh tranh’’
(Competitive Ratio - CR):
CR
X

=
A
P
:
A
P
x
S
S
X
X
Y
Y
Y
X







Trong đó:
A
X
và A
Y
: là năng suất của các cây trồng X và Y trong trồng xen.
P
X

và P
Y
: là năng suất của các cây trồng xen trong trồng thuần.
S
Y
: là không gian tương ứng bò chiếm chỗ bởi cây trồng Y.
S
X
: là không gian tương ứng bò chiếm chỗ bởi cây trồng X.
Để đánh giá hiệu quả kinh tế của việc trồng xen có 4 chỉ tiêu cơ bản đã
được đề nghò bởi Perrin et al. (1976) bao gồm: Tổng chi phí, tổng thu nhập, lợi
nhuận và hiệu quả đầu tư:
HQĐT(%) =
Lợi nhuậ
n
Tổng chi phí đầu t ư
X 100



5


1.1.2 Những nghiên cứu về xen canh
1.1.2.1 Nghiên cứu ngoài nước
Ở nhiều nước, cây bông thường ñược trồng xen với nhiều cây trồng khác
ñể làm tăng năng suất và quản lý sâu hại. Hiệu quả của việc trồng bông xen với
rau Húng quế ñã ñược kiểm chứng trên ñồng ruộng ñối với sự lan tràn của dịch
hại, khả năng ảnh hưởng ñến năng suất và hiệu quả kinh tế tại Ai Cập. Cây
Húng quế ñược biết ñến như là loại cây có tác dụng xua ñuổi ñối với nhiều loại

sâu hại, ñược trồng xen với bông theo 3 tỷ lệ (không xen, tỷ lệ xen trung bình và
tỷ lệ xen lớn), với khoảng cách hàng 60 cm và 90 cm ñược nhắc lại 4 lần, so với
công thức trồng bông thuần, công thức xen canh bông - Húng quế ñã làm giảm
sự xuất hiện của sâu hại một cách có ý nghĩa, mật ñộ sâu hồng trên cây bông
giảm 50% (Schader Christian và cs) [35].
Nghiên cứu ảnh hưởng của việc trồng bông xen canh ñối với sâu bệnh và thiên
ñịch, Dong Y.G (1988) cho rằng: trồng ngô xen bông tạo ñiều kiện thuận lợi cho bọ
rùa Coccinella và hạn chế ñược rệp hại bông so với trồng bông thuần. Trong công tác
phòng trừ tổng hợp sâu hại bông thì trồng xen là biện pháp có hiệu quả trong công
tác phòng trừ sâu bệnh hại. Tại Trung Quốc, trồng lúa mì xen bông ñã làm chậm sự
xuất hiện của rệp khoảng 5-7 ngày. Số rệp trên cây bông trồng xen thấp hơn 79,3%
so với trồng bông thuần, mật ñộ thiên ñịch ở mô hình bông trồng xen cao hơn 4,9
lần so với bông trồng thuần. Trồng xen cây họ ñậu hoặc ngô với bông cũng hấp
dẫn thiên ñịch hơn, làm tăng Bọ rùa Coccinella từ 74,4-168% so với bông thuần và
hạn chế ñược rệp bông. Ở tỉnh Jiangsu (Trung Quốc), trồng lúa mạch xen bông là
biện pháp thông thường ñể làm tăng các loài thiên ñịch trên cây bông [62].
Tại Indonesia, trồng bông xen ngô ñã hạn chế tác hại của sâu xanh hại bông
rõ rệt. Với mục ñích trồng ngô ñể dẫn dụ sâu xanh nên việc thiết kế kiểu trồng xen,
bố trí thời vụ gieo ngô sao cho khi thời kỳ sâu xanh ở mức cao trùng với thời kỳ
phun râu của ngô ñã làm giảm tác hại của sâu xanh ñối với bông và hạn chế ñược
việc sử dụng thuốc hoá học.

6


Tại Mỹ (Nam Alabama), trồng lạc liên tục thì năng suất lạc giảm rõ rệt do bị
tuyến trùng (Hoplolaimus columbus) phá hại nặng. Tuy nhiên, khi ñưa cơ cấu trồng
lạc sau vụ bông ñã cải thiện ñược năng suất lạc rõ rệt và có hiệu quả kinh tế
(Roberson D.G và ctv, 1991).
Theo Darrel S. M và Donald M. E (1980) trồng thuần một loại cây chỉ sử

dụng ñược 60-80% hiệu suất của ñất. Trồng xen giúp nâng cao năng suất cây
trồng, phòng trừ sâu hại dễ dàng hơn, ñặc biệt nếu trồng cây họ ñậu sẽ cho nhiều
nguồn lợi hơn [53].
Trên thế giới, phần lớn cây họ ñậu ñược sử dụng ñể trồng xen với cây
bông. Vì cây họ ñậu có phản ứng trung tính với ánh sáng, chịu che bóng và có
khả năng cố ñịnh ñạm, tăng ñộ màu mỡ cho ñất. Theo Kunase Karan.V và cs
[57], việc xen 3 hàng ñậu xanh với bông (giống MCu5) ñã làm giảm ñược lượng
ñạm cần bón theo khuyến cáo là 25%, nhưng năng suất bông vẫn không bị giảm.
Nghiên cứu về khả năng trồng xen của giống bông C50 với những cây
trồng khác trong ñiều kiện nhờ nước trời ở Tamil Nadu (Ấn Độ) cho thấy: năng
suất bông trồng thuần cao hơn so với mô hình bông trồng xen. Năng suất bông
giảm do trồng xen có thể ñạt tối ña là 28%, ớt và rau mùi ñều không thích hợp
cho trồng xen. Bông xen với ñậu ñen cho hiệu quả kinh tế cao nhất, ñậu ñen
ñược khuyến cáo dùng làm cây trồng xen trong những năm có lượng mưa thấp
(dẫn theo Trần Anh Hào, 1996) [9].
Các nghiên cứu của Tarhalkar P. P, Mudholkar N. J (1990) cho rằng: Tại Ấn
Độ cây bông có thời vụ kéo dài, giai ñoạn ñầu sinh trưởng chậm tạo thành một thời
vụ ngắn khoảng 70-100 ngày. Do vậy, những cây có tán lá thấp như: lúa mạch, ñậu
xanh, ñậu ñen, lạc, ñậu tương ñều có thể trồng xen với cây bông. Trồng xen các cây
ñậu xanh, ñậu ñen, ñậu ñũa, hướng dương với bông thì mật ñộ các loài chích hút trên
bông trồng xen thấp hơn bông trồng thuần, trong ñó trồng xen ñậu xanh vào bông
cho tổng thu nhập cao nhất [50].
Kết quả nghiên cứu tại Rio Grande do Norte (Brazil) ñã chỉ ra rằng: trồng 2
hàng bông xen 1 hàng ñậu ñũa cho năng suất bông cao hơn trồng 1 hàng bông xen

7


1 hàng ñậu ñũa. Số lượng cây ñậu ñũa không ảnh hưởng lớn ñến năng suất bông
(Bererra Neto F và cs, 1991) [38].

Kết quả nghiên cứu về hiệu quả của việc trồng bông xen canh với ñậu ñen
trong ñiều kiện trồng bông nhờ nước trời ở Ấn Độ cho thấy: Bông ñược trồng xen
với ñậu ñen cho năng suất cao hơn so với bông trồng xen với ñậu triều, cao lương.
Trồng bông xen ñậu ñen cho năng suất bông hạt (ñược quy ñổi ñông ñặc) cao và
mang lại tổng thu nhập cao hơn so với bông trồng thuần hoặc bông trồng xen với
ñậu triều, cao lương (Biajdar J.M và cs, 1987) [42]. Trồng bông xen lạc làm tăng
hiệu quả kinh tế và hiệu suất sử dụng ñất một cách có ý nghĩa so với trồng bông
xen ñậu xanh hoặc trồng bông thuần, tuy năng suất bông ở mô hình bông xen lạc
có thấp hơn (0,91 tấn/ha) so với bông thuần (1,04 tấn/ha) nhưng không ñáng kể
(Balkar S.Y; Vaidya C.S và ctv, 1990).
1.1.2.2 Nghiên cứu trong nước
Tại Việt Nam, Trần Anh Hào (1996) ñã kết luận: cây trồng xen thích hợp
với cây bông ở Ninh Thuận là cây ñậu xanh và ở Đồng Nai là ñậu tương. Trồng
xen ñậu xanh và ñậu tương với bông theo tỷ lệ 1:1 làm giảm 6,2% năng suất bông
nhưng thu ñược sản phẩm ñậu xanh và ñậu tương, vì vậy tổng thu nhập và tỷ suất
lợi nhuận cao hơn so với trồng bông thuần. Đồng thời, việc trồng xen ñậu xanh với
bông còn có tác dụng làm tăng thiên ñịch như: ong mắt ñỏ, nhện… Do ñó, tỷ lệ sâu
xanh giảm, tỷ lệ bệnh và chỉ số bệnh xanh lùn cũng giảm hẳn so với bông trồng
thuần. Trồng gối ngô vào bông cũng làm cho sâu xanh trên cây bông chỉ tồn tại ở
mức thấp và khá ổn ñịnh [9].
Theo Nguyễn Thị Thanh Bình (1999), biện pháp xen canh bông với ñậu
xanh theo tỷ lệ 1:1 kết hợp với biện pháp xử lý hạt bằng Gaucho 70WP (5g/1 kg
hạt) có tác dụng phòng trừ rệp và hạn chế ñược gần 60% mức ñộ bệnh xanh lùn so
với không phòng trừ [1].
Kết quả thử nghiệm qua 2 năm (2001 và 2002) tại Quảng Ngãi, bước ñầu
cho thấy: cây bông trong hệ thống trồng xen với các cây trồng truyền thống tại ñịa
phương ñã cho hiệu quả kinh tế cao hơn so với bông trồng thuần và cao hơn so

8



với cơ cấu cây trồng khác (Tổng công ty Bông Việt Nam, 2003) [26]. Việc trồng
bông xen với các cây trồng khác ñã tận dụng ñược thời gian, không gian và tiết
kiệm ñược công chăm sóc. Các mô hình bông xen lạc, ñậu cô ve hoặc ñậu tương
trong ñiều kiện mùa khô có tưới bổ sung ñều cho hiệu quả kinh tế cao hơn so với
mô hình bông trồng thuần (Lê Quang Quyến và cs, 2004) [24].
Theo Phạm Xuân Hưng (2002), tại Thanh Hóa, trồng bông xen lạc với mật
ñộ từ 1,0 ñến 1,2 vạn cây/ha làm tăng năng suất bông ñể có thể bù ñắp ñược sự
giảm năng suất lạc. Đặc biệt, hiệu quả kinh tế của mô hình trồng bông xen lạc khá
cao và cao hơn nhiều so với trồng ngô xen lạc, vì cây ngô chống chịu với ñiều kiện
khô hạn kém hơn cây bông, hiệu quả kinh tế thấp hơn cây bông [13].
Trên ñất cát ở huyện Thăng Bình (Quảng Nam), trong ñiều kiện vụ Xuân hè:
Mô hình bông xen lạc theo kiểu 1 hàng bông kép (1,4 - 0,6 m) xen 4 hàng lạc cho
hiệu quả kinh tế cao nhất và vượt mô hình trồng bông thuần (5,5 triệu ñồng/ha) và
mô hình trồng lạc thuần (2,7 triệu ñồng/ha) [26].
Theo Đinh Quang Tuyến & cs (2008), tại huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông
trồng bông xen ñậu tương theo kiểu 1/4 (1 hàng bông xen 4 hàng ñậu tương, với
khoảng cách giữa 2 hàng bông là 1,4m) cho lãi thuần cao nhất (ñạt 17,5 triệu
ñồng/ha). Tại Kông Chro (Gia Lai), trồng bông xen ñậu xanh theo kiểu 2/4
(bông hàng kép cách nhau 1,4m xen 4 hàng ñậu xanh) cho lãi thuần ñạt 13,3
triệu ñồng/ha. Trồng bông xen ngô theo kiểu 4/1 (4 hàng bông xen 1 hàng ngô)
cho lại lãi thuần và thu nhập cao tại huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông và huyện Chư
Sê, tỉnh Gia Lai [29].
1.2 Tình hình sản xuất bông trong nước và trên thế giới
1.2.1 Tình hình sản xuất bông trên thế giới

Trong bốn thập kỷ qua, sản xuất và tiêu thụ bông vải trên toàn thế giới có
những bước tăng trưởng mạnh, sản lượng bông xơ từ 9,8 triệu tấn (năm 1960/1961)
lên ñến 21,1 triệu tấn vào những năm 2001/2002 (Badiane và ctv, 2002). Niên vụ
2001/2002 trên thế giới có hơn 50 quốc gia sản xuất bông với diện tích hàng năm

khoảng 30 - 35 triệu ha, tập trung chủ yếu ở các nước có ñiều kiện khí hậu nhiệt ñới

9


và á nhiệt ñới. Gần 10 năm trở lại ñây, diện tích bông toàn cầu biến ñộng trong
khoảng 30 - 35 triệu ha với sản lượng bông xơ khoảng 20 - 26 triệu tấn/năm. Tổng giá
trị sản xuất bông ñạt 21 tỷ USD/năm, trong ñó các nước ñang phát triển chiếm khoảng
70% giá trị. Sản xuất bông ở khu vực châu Á chiếm 60% sản lượng toàn cầu, châu Phi
chiếm 15% và châu Mỹ La Tinh < 5%, (ICAC, 2001-2010) [41]. (bảng 1.1)
Bảng 1.1: Tình hình sản xuất bông trên thế giới trong những năm gần ñây
Niên vụ
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất bông
xơ (tạ/ha)
Sản lượng bông
xơ (triệu tấn)
2001/2002 33,5 6,40 21,5
2002/2003 31,2 6,19 19,3
2003/2004 32,6 6,20 20,2
2004/2005 35,7 6,94 24,8
2005/2006 32,9 6,75 22,2
2006/2007 33,8 7,90 26,7
2007/2008 33,6 7,56 25,7
2008/2009 33,8 7,94 26,9
2009/2010 30,2 7,26 21,8
2010/2011* 33,6 7,49 25,1
Ghi chú: (*): Số liệu niên vụ 2010/2011 ước tính (Nguồn:Theo ICAC, 2001-2011)[41]


Bảng 1.2: Diện tích, năng suất và sản lượng bông của một số quốc gia ñứng
ñầu thế giới trong niên vụ (2007 – 2009)
Niên vụ
Quốc gia
Diện tích (triệu ha) Năng suất bông xơ (tạ/ha)
2007/08 2008/09 2009/010

2007/08 2008/09 2009/010

Trung Quốc 6,02

5,95

5,30

12,99

13,10

13,5

Mỹ 4,25

3,06

-

9,85

9,11


-

Ấn Độ 9,44

9,37

10,26

5,67

5,34

4,88

Pakistan 3,00

2,90

3,00

6,46

6,76

6,67

Uzbekistan 1,43

1,42


1,3

8,15

7,51

6,53

Braxin 1,08

0,85

0,84

14,88

14,86

14,19

Thổ Nhĩ Kỳ 0,52

0,35

0,28

12,98

13,25


13,61

Toàn thế giới 33,6

33,8

-

7,96

7,66

-

(Nguồn:Theo ICAC, 2001-2011)[41]
Theo thống kê của Bộ nông nghiệp Mỹ, niên vụ 2009/2010, cây bông ñược
trồng ở hơn 90 quốc gia với diện tích là 30,2 triệu ha. Trong ñó, các nước có diện
tích trồng bông ñứng ñầu thế giới là: Ấn Độ (10,26 triệu ha), Trung Quốc (5,3 triệu

10


ha), Mỹ (3,06 triệu ha), Pakistan (3,0 triệu ha), Uzbekistan (1,3 triệu ha), Brazil
(0,84 triệu ha) và Thổ Nhĩ Kỳ (0,28 triệu ha). Trong số các nước sản xuất bông
ñứng ñầu thế giới thì Braxin, Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ là các nước có năng suất
bông ñạt mức khá cao, năng suất bông xơ bình quân chung của các quốc gia này
ñạt mức từ 13 - 14,19 tạ bông xơ/ha.
Hiện nay, những nước có diện tích trồng bông ñứng ñầu thế giới là: Ấn Độ (9,37
triệu ha), Trung Quốc (5,95 triệu ha), Mỹ (3,06 triệu ha), Pakistan (2,90 triệu ha),

Uzbekistan (1,42 triệu ha), Brazil (0,85 triệu ha) và Thổ Nhĩ Kỳ (0,35 triệu ha). Trong
số các nước sản xuất bông ñứng ñầu thế giới thì Braxin, Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ là
các nước có năng suất bông ñạt mức khá cao, năng suất bông xơ bình quân chung của
các quốc gia này ñạt mức từ 12,98 - 14,88 tạ/ha, ước tính diện tích trồng bông tăng
(33,6 triệu ha), sản lượng bông xơ ñạt 25,1 triệu tấn (ICAC, 2001 - 2011) [41].
1.2.2 Tình hình sản xuất bông trong nước
Bảng 1.3: Diễn biến tình hình sản xuất bông ở Việt Nam trong những năm qua
Niên vụ Diện tích (ha)

Năng suất (tạ/ha)

Sản lượng (tấn)

1996/1997 10.676

6,00

6.866

1997/1998 11.716

9,00

10.986

1998/1999 19.963

8,00

16.245


1999/2000 17.705

10,00

17.578

2000/2001 23.250

9,00

20.340

2001/2002 29.573

11,00

32.530

2002/2003 35.200

10,50

36.960

2003/2004 23.633

12,12

28.650


2004/2005 20.260

9,55

19.358

2005/2006 23.098

9,20

21.254

2006/2007 15.445

11,20

17.300

2007/2008 7.446

9,83

7.324

2008/2009 3.240

10,60

3.434


2009/2010

10.470

-

-

(Nguồn: Theo Công ty bông Việt Nam, 1996 – 2010 [4])
Trước thời Pháp thuộc, giống bông ñược sử dụng chủ yếu các giống bông Cỏ
ñịa phương (Gossypium arboreum. L), giống bông này cho năng suất thấp. Một số ít

11


diện tích ở Trung và Nam bộ ñã ñược trồng các giống bông Luồi (Gossypium
hirsutum. L) nhập nội, với năng suất ñạt 300 - 500 kg/ha (Lê Quang Quyến, 1999)
[23]. Đầu thế kỷ 20, nước ta ñã xuất khẩu bông sang Nhật, Hồng Kông. Trong thời kỳ
kháng chiến chống Pháp, diện tích trồng bông ñã ñược phát triển mạnh, trong ñó Liên
khu V ñạt khoảng 10.000 ha và Liên khu IV ñạt khoảng 13.000 ha (Nguyễn Văn Bình
và ctv, 1996) [2], (Hoàng Đức Phương, 1983) [21].
Sau năm 1954, các giống bông Luồi nhập nội ñược thay thế một phần các
giống bông Cỏ ñịa phương. Sau năm 1975, năng suất bông hạt thấp (chỉ ñạt 3 - 4
tạ/ha). Nguyên nhân năng suất và diện tích bông giảm ở giai ñoạn này là do sâu
bệnh phá hại nặng và chưa có các giống bông thích hợp cho các vùng (Lê Quang
Quyến, 1999) [23]. Chi phí sản xuất quá lớn do ñầu tư thuốc trừ sâu rất cao nên
người trồng bông luôn bị thua lỗ, mặt khác môi trường bị ô nhiễm nặng, ngành
bông Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn (Nguyễn Thơ, 1998) [30].
Từ sau những năm 1999, ngành bông Việt Nam ñã có những bước thay ñổi

ñáng kể, chúng ta ñã tạo ñược các giống bông, ñặc biệt là các giống bông lai có
năng suất cao, chất lượng xơ tốt, chống chịu ñược sâu bệnh. Hàng loạt các tiến bộ
kỹ thuật ñược áp dụng như: biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp giúp giảm chi
phí thuốc bảo vệ thực vật; các biện pháp kỹ thuật canh tác khác như: hệ thống
luân, xen canh hợp lý, phủ màng PE cho bông, ñặc biệt trồng dày, sử dụng chất
ñiều hòa sinh trưởng Mepiquate Chloride. Chính vì vậy mà năng suất và chất
lượng bông xơ tăng, nghề sản xuất bông mang lại hiệu quả kinh tế cao. Tính ñến
niên vụ 2002/2003 diện tích bông ñạt hơn 35.000 ha, năng suất ñạt hơn 10 tạ/ha,
tăng lên hơn 2 lần so với thời ñiểm 1996/1997.
Từ năm 2006 ñến nay, năng suất và sản lượng bông nước ta giảm ñáng kể.
Niên vụ 2007/2008 diện tích bông giảm chỉ còn trên 7.000 ha và niên vụ
2008/2009 chỉ còn trên 3.000 ha ở vùng Tây Nguyên, trồng chủ yếu nhờ nước trời.
Bước sang niên vụ 2009/2010, diện tích bông tăng lên khá mạnh (10.470 ha).



12


1.2.3 Tình hình sản xuất bông tại huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông
Bảng 1.4: Diện tích, năng suất, sản lượng bông tại huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông
Năm Diện tích (ha) Năng suất (tấn/ha)
2007 392 1,0
2008 45 1,1
2009 500 1,6
2010 586 1,8
Niên giám thống kê huyện Cư Jút, 2011 [17]
Nhìn chung, năng suất và diện tích bông tại huyện Cư Jút có chiều hướng tăng dần từ
năm 2007 ñến năm 2010. Tuy nhiên, trong năm 2008 do ñiều kiện thời tiết diễn biến
bất thường từ ñầu vụ và giá thu mua bông thấp làm diện tích bông sụt giảm mạnh.

Một trong những nguyên nhân chính làm giảm diện tích bông là do trong những năm
qua cơ chế quản lý của ngành bông chưa chặt chẽ.
Trước tình hình trên, Công ty Cổ phần Bông Tây Nguyên ñã tìm những biện
pháp và có những chính sách thích hợp, nhằm nâng cao vị thế của cây bông vải với
người nông dân. Mặt khác, Công ty hỗ trợ 100% chi phí hạt giống bông cho nông
dân, ñăng ký hợp ñồng sản xuất bông với số lượng (8 kg/1ha), ñầu tư một phần
phân bón, thuốc bảo vệ thực vật… cho nông dân trồng bông; nâng giá mua bông
hạt từ 7.000 lên 9.000 ñồng/kg, bảo ñảm tiêu thụ toàn bộ sản phẩm cho người trồng
bông. Bên cạnh ñó, Trạm bông Cư Jút cũng ñã phối hợp với các ñịa phương tổ
chức tập huấn, chuyển giao khoa học kỹ thuật về các biện pháp thâm canh cây
bông ñể ñạt năng suất cao, xây dựng các mô hình luân canh, xen canh nhằm ñạt
hiệu quả cao trên cùng một diện tích canh tác. Nhờ vậy, vụ mưa 2009 toàn huyện
Cư Jút ñã có trên 800 hộ ñăng ký trồng bông với diện tích gần 500 ha. Tính ñến
nay, toàn huyện ñã xuống giống ñược 530 ha bông, ñạt 294,4% kế hoạch [5], [6].
Với những chính sách thu hút của ngành bông hiện nay, hy vọng trong
những vụ mùa tới cây bông ñã và ñang nhanh chóng tìm lại vị thế và trở thành một
trong những cây trồng chủ lực của ñịa phương.

13


1.3 Đặc ñiểm thực vật, sinh lý, sinh thái và các giai ñoạn sinh trưởng
của cây bông
1.3.1 Đặc ñiểm thực vật học
- Rễ: Bông là loại cây có bộ rễ ăn sâu, phát triển khá mạnh. Rễ bông thuộc
loại rễ cọc. Rễ cọc có thể ñâm sâu 2 - 3 m, rễ con có thể dài 0,6 - 1,0 m. Rễ phân bố
tập trung ở tầng canh tác 0 - 30 cm (Chu Hữu Huy, 1991) [12].
- Thân và cành: Cây bông là loại cây bụi, thường cao 0,7 - 1,5 m, trong
ñiều kiện thuận lợi thân có thể cao tới 2 m. Thân chính mang các cành có nhiều
lóng (20 - 30 lóng). Thân thẳng ñứng, cành gần như nằm ngang, tạo cho cây có

dạng tháp (trên nhỏ, dưới to).
Cành bông có 2 loại, cành ñực (Monopodial) do mầm ñâm từ giữa nách lá
gọi là mầm chính phân hóa thành và cành quả (Sympodial) do mầm phụ phân hóa
thành. Phía gốc thường chỉ có mầm chính phát triển, do ñó chỉ có cành ñực; còn
phía trên chỉ có mầm phụ phát triển thành cành quả.
Mỗi cây thường có 1 - 10 cành ñực, thường mọc từ nách lá thật thứ 3, 4. Cành
ñực sinh trưởng theo mầm ngọn, do ñó mọc thẳng và thuộc loại cành ñơn trục, hợp với
thân chính một góc nhọn. Cành ñực không trực tiếp mang quả.
Cành quả thường mọc từ nách lá thật thứ 5, 6 trở lên. Các giống chín sớm, vị
trí này thường thấp hơn giống chín muộn. Cành quả sinh trưởng theo mầm nách, do
ñó cành có dạng gãy khúc chữ chi. Cành quả hợp với thân chính thành một góc lớn.
Số lượng cành quả thường từ 15 - 30 cành.
- Lá: gồm hai loại: lá mầm và lá thật. Lá mầm có hình dạng giống vỏ sò nên
còn gọi là lá sò. Sau khi lá sò xòe một thời gian thì lá thật xuất hiện. Thời gian này tùy
thuộc giống và ñiều kiện canh tác. Những lá thật ñầu tiên có hình tim không có khía.
Thường lá thật thứ 5, 6 trở ñi mới có khía, mỗi lá có 2, 4, 6 khía chia phiến lá ra làm 3,
5, 7 thùy. Hình dạng lá tùy thuộc vào giống. Các lá trên thân chính có kích thước lớn
hơn các lá ở cành. Các lá ở phần gốc lớn hơn các lá ở phần ngọn. Lá có nhiều hạch
Gossypol và nhiều lông. Lông ở mặt dưới nhiều hơn lông ở mặt trên và ở gân lá nhiều

14


hơn phiến lá. Lá của bông Luồi (Gossypium hirsutum. L) thường có lông, còn ở Bông
Hải ñảo (Gossypium barbadense) ít hoặc không có lông. Mặt trái của gân chính cách
cuống lá 1/5 có tuyến mật. Một số giống bông có tuyến mật nằm trên gân phụ, một số
giống khác hoàn toàn không có.
- Nụ, hoa: Nụ bông ñầu tiên xuất hiện trên cành quả thứ nhất. Nụ có hình tam
giác cân, với 3 mặt có 3 tai nụ (lá bắc) che các bộ phận bên trong, còn phía trong nụ
là mầm hoa nhỏ. Mặt dưới nụ dính với cuống. Hoa thuộc loại hoa lưỡng tính, tự thụ

phấn là chính. Hoa bông bao gồm: cuống, tai, ñài, tràng, nhị và nhụy. Mỗi hoa có 3
tai, tai có nhiều răng, bao chân hoa. Tràng gồm 5 cánh hoa lớn. Chân cánh hoa liên
kết với ống nhị ñực. Màu sắc cánh hoa trắng hoặc vàng tùy thuộc vào giống bông.
Mỗi hoa có khoảng 30 - 100 nhị ñực. Chân nhị kết lại với nhau tạo thành ống nhị.
Mỗi nhị gồm có 2 bộ phận: chỉ nhị và bao phấn. Chỉ nhị cắm vào một chỗ lõm dưới
bao phấn. Trong bao phấn có nhiều hạt phấn. Hạt phấn hình cầu và bề mặt của nó có
nhiều gai. Nhụy hoa bao gồm: ñầu nhụy, trụ và bầu hoa. Bầu hoa hình trứng, có
nhiều tâm bì. Giữa mỗi tâm bì có một vách ngăn, chia tâm bì thành hai nửa ngăn.
Thường bầu hoa có 3 - 5 ngăn. Mỗi ngăn có 2 hàng phôi châu. Bông luồi có khoảng
7 - 11 phôi châu, phôi châu này sau khi thụ tinh phát triển thành hạt. Ở chân hoa phía
ngoài, chỗ 2 tai giáp nhau có 3 tuyến mật gọi là tuyến mật ngoài ñài hoa, ở phía
trong ñài hoa còn có một vòng tuyến mật.
- Quả: Thuộc loại quả nang, có hình cầu tròn hoặc hình trái tim có chóp
nhọn. Mặt quả có màu xanh và lấm tấm những hạch Gossypol. Mỗi quả có 3 - 5
múi. Mỗi múi gồm nhiều ánh bông, ánh bông gồm có hạt và sợi bao quanh. Mỗi
múi bông có khoảng 6 - 9 hạt.
- Hạt: Gồm có: lông áo, vỏ, nhân (nội nhũ, phôi). Hạt có màu nâu ñen, hình
bầu dục, một ñầu nhọn. Trên vỏ hạt, xơ bông ngắn bám vào, riêng bông hạt nhẵn
không có xơ ngắn. Vỏ hạt gồm có: tầng biểu bì, tầng sắc tố ngoài, tầng tế bào không
màu sắc, tầng tế bào hình giậu, tầng sắc tố trong và tầng màu trắng sữa. Nhân hạt do
lá mầm, thai rễ, thai mầm và thai trục hợp thành.
- Xơ: Bao quanh hạt bông có hai loại xơ là xơ ngắn (lông áo) và xơ dài. Xơ dài
là một tế bào rất lớn, dài 12 - 60 mm, khi chín thì ruột rỗng, dẹt và xoăn lại.

15


1.3.2 Đặc ñiểm sinh lý
Khi nghiên cứu sinh lý cây bông, Lý Văn Bính và Phan Đại Lục (1991) cho
rằng: ruộng bông cao sản có ñỉnh cao nhất về diện tích lá vào khoảng 25 ngày sau

khi nở hoa (thời kỳ ñậu quả). Thời gian này, cây bông chuyển từ sinh trưởng dinh
dưỡng sang sinh trưởng sinh thực. Diện tích lá ñược duy trì ở mức khá cao khoảng
30 ngày (LAI ổn ñịnh ở mức trên dưới 3), sau ñó giảm dần và ñến khi quả nở, LAI
ñạt gần 1,5 [3].
Sự phân bố quả trên cây bông phụ thuộc vào giống và ñiều kiện canh tác,
nhưng nhìn chung tỷ lệ ñậu quả giảm dần theo thứ tự cành quả từ gốc lên ngọn.
Tỷ lệ ñậu quả của cành thứ nhất là 70% và của cành thứ 13 giảm xuống còn 10-
20% (Saimaneerat A. và ctv, 1994) [33]; Chu Hữu Huy và cs (1991) cho rằng: nụ
và quả thuộc cành quả phía ngọn rụng nhiều hơn nụ và quả thuộc cành quả phía
dưới. Trên cành quả, những vị trí xa thân chính rụng nụ, rụng quả cao hơn những
vị trí gần thân chính. Tuy nhiên, ở ruộng bông ñất tốt, nếu chăm sóc không thích
hợp, cây bông bốc lá thì thấy tình trạng ngược lại (ở cành quả phía giữa và phía
dưới rụng nhiều hơn) [12].
Nghiên cứu về sự phân bố quả trên cây bông, Đinh Quang Tuyến (2004)
[27] kết luận: các giống bông Luồi có số quả tập trung chủ yếu trên cành quả,
phân bố theo quy luật giảm dần từ gốc ñến ngọn và tập trung ở các vị trí thứ nhất
và thứ hai của 13 cành quả ñầu tiên. Số lượng quả ñã ñậu trên cây càng tăng càng
làm giảm tỷ lệ ñậu quả của những hoa nở tiếp theo trong ngày. Đồng thời, số
lượng quả ñã ñậu trên cây là nhân tố chính hạn chế tỷ lệ ñậu quả diễn ra hàng
ngày của cây bông (Vũ Xuân Long, 1999) [15].
1.3.3 Yêu cầu sinh thái
* Yêu cầu về khí hậu
- Nhiệt ñộ: Bông là cây ưa nóng, nhiệt ñộ thích hợp cho cây bông sinh
trưởng khoảng 25 - 30
0
C. Tùy theo thời kỳ sinh trưởng, phát triển mà yêu cầu
về nhiệt ñộ khác nhau. Nhiệt ñộ quá cao hoặc quá thấp ñều ảnh hưởng không tốt
ñến sinh trưởng của cây bông. Nhiệt ñộ lớp ñất mặt từ 2 - 4
0
C trong vài giờ làm


16


cho cây bông chết. Theo Chu Hữu Huy (1991) [12], khi nhiệt ñộ dưới 15
0
C,
chất lượng xơ kém và chín muộn. Khi nhiệt ñộ cao hơn 40
0
C, hạt phấn hoàn
toàn mất khả năng thụ phấn, cây bông ngừng sinh trưởng. Khả năng chịu nhiệt
ñộ cao còn phụ thuộc vào giống bông. Bông Hải ñảo chịu nhiệt ñộ cao tốt hơn
bông Luồi. Theo Mauer (1968), ñặc tính di truyền khó thay ñổi nhất của cây
bông là tính ưa nóng của nó.
Nhiệt ñộ có vai trò quyết ñịnh ñến tốc ñộ phát dục của cây bông. Nhiệt ñộ
càng cao càng rút ngắn thời gian sinh trưởng của cây bông, các giai ñoạn phát dục
rút ngắn lại. Mỗi giống và ngay cả mỗi giai ñoạn phát dục của chúng yêu cầu một
tổng tích nhiệt tương ñối ổn ñịnh (Trần Đức Hạnh và ctv, 1997) [10]; (Vũ Công
Hậu, 1978) [11]. Nghiên cứu của các tác giả Liên Xô cho thấy: ñể hoàn thành giai
ñoạn mọc mầm, các giống thuộc loài bông Luồi cần bình quân 84
0
C, giai ñoạn
nụ: 500
0
C, giai ñoạn hoa: 1.000
0
C và từ ra hoa ñến nở quả: 700
0
C (Lê Quang
Quyến và ctv, 1998) [22].

- Ánh sáng: Bông là cây ưa ánh sáng mạnh, chịu bóng kém, ñồng thời là
cây ngày ngắn. Trong một ngày, lá của cây bông luôn thay ñổi vị trí ñể cho phiến
lá luôn vuông góc với các tia chiếu của mặt trời. Khi ánh sáng không ñầy ñủ,
quang hợp sẽ giảm và protein sẽ nhiều hơn gluxit. Do ñó, chất dinh dưỡng không
ñủ ñể hình thành nụ, quả làm cho sinh trưởng dinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực
mất cân ñối, cây bông dễ bị lốp gây rụng nụ, rụng ñài nhiều. Ngược lại, trong ñiều
kiện ánh sáng ñầy ñủ, cây bông sẽ cho năng suất cao, phẩm chất tốt. Cường ñộ ánh
sáng cao sẽ ñẩy nhanh sự phân hóa các cơ quan sinh sản, tăng cường quang hợp,
phát triển của nụ, hoa, lá và các cơ quan khác (Krugiulin, 1988).
- Nước: Cây bông có ñặc tính chịu hạn khá cao nhờ có bộ rễ phát triển và ăn
sâu. Tuy nhiên, ñể sinh trưởng và phát triển bình thường, cho năng suất và phẩm
chất tốt cây bông ñòi hỏi phải có chế ñộ nước thích hợp.
Bông Luồi chịu hạn tốt hơn bông Cỏ. Nhu cầu nước của cây bông thay ñổi rất
lớn tùy theo giai ñoạn sinh trưởng, phát triển. Ở giai ñoạn cây con, cây bông cần ít nước
(10 - 12 m
3
nước/ngày/ha), ở giai ñoạn nụ, hoa cây bông cần nhiều nước cho sự tổng
hợp, tích lũy dinh dưỡng và bốc hơi (giai ñoạn nụ cần 30 - 35 m
3
nước/ngày/ha, giai

17


ñoạn hoa 90 - 100 m
3
nước/ngày/ha). Ở giai ñoạn nở quả, nhu cầu về nước của cây
bông giảm xuống (30 - 40 m
3
nước/ngày/ha). Cả vụ của cây bông cần 5.000 - 8.000 m

3

nước/ha (Lê Quang Quyến và ctv, 1998) [22]. Mặc dù, cây bông cần nhiều nước nhưng
lại không chịu ñược úng. Khi bị úng, ñất thiếu oxy, sự hô hấp của rễ bị trở ngại, quá
trình trao ñổi ion bị ñình trệ, rễ ngừng sinh trưởng và có thể chết.
Cây bông yêu cầu ẩm ñộ không khí thấp. Nếu ẩm ñộ không khí cao, nấm
bệnh dễ xâm nhiễm, cây bông dễ bị rụng nụ, rụng ñài, quả bông dễ bị thối, chín
muộn và khó nở quả (Hoàng Đức Phương, 1983) [21].
* Yêu cầu về ñất ñai
Cây bông có thể trồng trên nhiều loại ñất khác nhau. Tuy nhiên, bông sinh
trưởng tốt trên những loại ñất giàu mùn, có cấu tượng viên bền vững, thành phần cơ
giới trung bình, thoát nước tốt, tầng canh tác dày. Mặt khác, cây bông chịu úng kém, do
ñó ñất trồng bông phải có ñịa thế cao ráo (Hoàng Đức Phương, 1983) [21]. Trên ñất
chua (pH: 4,5) và ñất mặn sẽ giảm năng suất bông rất lớn. Độ pH thích hợp nhất cho
cây bông là 6,5 - 7,5 (Lê Quang Quyến và ctv, 1998) [22]. Theo Mauer, Bông Luồi
(Gossypium hirsutum) ưa pH cao (pH > 7), bông Cỏ (Gossypium arboreum) ưa pH thấp
hơn 7, bông Hải ñảo (Gossypium barbadense) dễ tính hơn với phản ứng môi trường ñất
(dẫn theo Lê Công Nông và ctv, 1998) [20].
* Yêu cầu dinh dưỡng
Cây bông cũng như các cây trồng khác cần rất nhiều nguyên tố dinh
dưỡng, trong ñó các nguyên tố ña lượng như: N, P, K chiếm hàm lượng lớn, có
nhiều trong hạt và lá, kế ñến là trong thân và quả, rất ít trong xơ. Theo Berger
(1969) ñể ñạt năng suất 2,5 kiện/ha (1 kiện = 220 kg) cây bông lấy ñi từ ñất là: 40
kg N; 16 kg P
2
O
5
; 17 kg K
2
O; 7 kg MgO và 4 kg CaO/ha. Khi năng suất là 7,5

kiện/ha thì lượng dinh dưỡng lấy ñi là: 125 kg N; 50 kg P
2
O
5
; 52 kg K
2
O; 22 kg
MgO và 13 kg CaO/ha (Lê Công Nông, 1998) [20].
Vai trò của một số nguyên tố ñối với cây bông như sau:
- Nitơ (N): là chất cây bông cần ñể sinh trưởng và phát dục, là thành phần
cấu tạo nên protein, acid nucleic, diệp lục tố, các loại men và các loại sinh tố

18


Không có nguyên tố N thì không thể hình thành protein và không có protein thì
không có sự sống. Do ñó, ảnh hưởng của N tới sinh trưởng và phát dục của cây
bông hết sức to lớn. Cung cấp phân ñạm ñầy ñủ có thể tăng diện tích lá, hàm lượng
protein, diệp lục và các hoạt ñộng sinh lý khác cũng tăng lên, góp phần làm tăng
năng suất, tăng chiều dài xơ, hàm lượng protein và dầu trong hạt. Trong từng giai
ñoạn sinh trưởng cây bông hút N theo tỷ lệ khác nhau:
+ Giai ñoạn từ gieo ñến hình thành cây con: 4,4% tổng lượng N.
+ Giai ñoạn cây con ñến bắt ñầu ra nụ: 12,8% tổng lượng N.
+ Giai ñoạn ra nụ ñến bắt ñầu hình thành quả: 43,3% tổng lượng N.
+ Giai ñoạn hình thành quả ñến khi chín: 39,5% tổng lượng N.
Thiếu N ảnh hưởng xấu ñến cấu trúc của lục lạp cũng như những hoạt ñộng
của nó: Sự phá hũy hoặc không hình thành Thylacoit, hàm lượng diệp lục giảm,
hàm lượng và hoạt tính của RuDP- cacboxylaza giảm (Hoàng Minh Tấn, Nguyễn
Quang Thạch, Trần Văn Phẩm, 2000) [25]. Khi thiếu N cây bông sinh trưởng
chậm, cây thấp, phiến lá nhỏ, màu nhạt, rụng ñài nhiều, tàn lụi sớm, quả bé và nhẹ,

năng suất thấp. Đạm quá nhiều, sinh trưởng dinh dưỡng quá mạnh, phiến lá to và
mỏng, lóng dài, cành ñực nhiều, cây cao, ruộng bông rợp, thiếu ánh sáng ngăn cản
không khí lưu thông, tạo ñiều kiện thuận lợi cho sâu bệnh tấn công làm cho nụ ít và
bé, chín muộn, quả nhỏ và nhẹ, quả thối nhiều, năng suất thấp.
- Photpho (P): P là nguyên tố cấu tạo nên acid nucleotic, protein, acid amin và
ATP cùng các chất hóa học khác P tham gia hoạt hoá quá trình quang hợp, nâng cao
cường ñộ quang hợp, tăng cường sự hợp thành các chất ñường bột. P là thành phần
của men trao ñổi NH
4
+
và NO
3
-
, tham gia vào quá trình chuyển hóa N có lợi cho việc
hấp thu phân ñạm. P xúc tiến bộ rễ phát triển, ñẩy nhanh sinh trưởng dinh dưỡng sang
sinh trưởng sinh thực, làm cho cây bông sớm ra nụ, ra hoa, xúc tiến hạt mau chín, nở
xơ, tăng hàm lượng dầu trong hạt, tăng khối lượng quả và ñộ bền xơ.
Thiếu P gây ra sự phá hủy các phản ứng quang hóa và phản ứng tối của quang
hợp, hạ thấp hàm lượng ñường, tinh bột và protein cần thiết cho quá trình sinh
trưởng. Song nếu dư thừa P (2 lần so với bình thường) cũng làm giảm tốc ñộ quang
hợp và hoạt tính của RuDP- cacboxylaza. Tác ñộng âm tính của sự dư thừa P có thể

19


liên quan ñến sự thay ñổi tính thấm của màng và từ ñó ức chế quá trình quang
phosphoryl hóa (Hoàng Minh Tấn và ctv, 1996) [25]. Khi thiếu P, cây bông sinh
trưởng chậm, bộ rễ kém phát triển, lá màu lục tối, thân cây cứng, nhỏ thấp, ra hoa
khó khăn, ñậu quả muộn và chín muộn
Theo Tôn Thất Trình (1974) [32], 1 ha bông không ñược tưới lấy ñi từ ñất

khoảng 45kg P
2
O
5
và chia cho từng giai ñoạn sinh trưởng của cây bông như sau:
+ Giai ñoạn gieo ñến cây con: 12,5%.
+ Giai ñoạn cây con ñến ra nụ: 17,8%.
+ Giai ñoạn ra nụ hoa ñến trái lớn: 13,4%.
+ Giai ñoạn trái lớn ñến trái chín: 56,3%.
Nếu bông có tưới với năng suất ñạt trên 40 tạ/ha hấp thu lên ñến 80 kg
P
2
O
5
/ha. Cứ mỗi kiện bông xơ cần bón khoảng 24 - 25 kg P
2
O
5
.
- Kali (K): Kali là nguyên tố có số lượng lớn nhất trong các nguyên tố vô
cơ có mặt trong cây bông. Trong cây bông, kali chủ yếu phân bố ở các tổ chức có
trao ñổi vật chất mãnh liệt. Kali hoạt hóa hơn 60 loại men trong cơ thể sinh vật và
xúc tiến các hoạt ñộng trao ñổi chất như: quá trình chuyển hóa ñường, xúc tiến
quá trình quang hợp, xúc tiến sự hình thành protein, tổng hợp các hydrat cacbon
và vận chuyển chúng, xúc tiến quá trình tổng hợp xelluoza.
Việc hạ thấp hàm lượng kali trong mô từ 0,2 - 0,6% (khối lượng khô) làm
giảm cường ñộ quang hợp và rối loạn tất cả các quá trình khác, dẫn ñến ức chế
sinh trưởng, phá hủy trao ñổi P, ức chế tổng hợp sắc tố, tinh bột, tích lũy
monosaccarit và acid amin trong lá (Hoàng Minh Tấn và ctv, 1996) [25].
Khi thiếu kali, lá mất màu xanh lục, sau ñó chuyển sang vàng, ngọn lá và rìa

lá khô ñi, quăn xuống phía dưới, sau cùng toàn bộ phiến lá chuyển sang màu ñỏ nâu.
Thiếu kali nặng làm lá khô và rụng, quả nhỏ, khó nở, ñộ chín của xơ thấp.
- Magiê (Mg): Vừa là yếu tố cấu tạo nên các sắc tố chlorophyll vừa là chất
hoạt hóa của nhiều loại men. Magiê ảnh hưởng ñến quá trình hình thành gluxit,
lipit và protein; ảnh hưởng ñến quá trình hút và vận chuyển P trong cây. Khi thiếu
magiê lá có màu vàng hoặc trắng, nếu thiếu nhiều lá non có thể bị rụng .

20


- Lưu huỳnh (S): Có liên quan ñến sự hình thành diệp lục. Thiếu lưu huỳnh lá
bị vàng do cây bị mất diệp lục và hình thành sắc tố Autoxian, ñốt ngắn, thân nhỏ, hệ rễ
phát triển kém và chậm ra hoa, biểu hiện bên ngoài hơi giống hiện tượng thiếu N.
- Sắt (Fe): Là thành phần của nhiều men oxy hóa, rất cần cho sự tổng hợp của diệp
lục tố. Kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng của các nguyên tố vi lượng ñến năng suất và chất
lượng bông cho thấy: Ca, Mg, S, Zn, Bo, Mn, Cu, Mo, Na, Cl là các nguyên tố ảnh hưởng
trực tiếp ñến số quả/cây và năng suất bông hạt. Các nguyên tố trên cũng ảnh hưởng ñến chỉ
số khối lượng quả khô và khối lượng thân lá khô (Lê Công Nông, 1998) [20].
1.3.4 Các giai ñoạn sinh trưởng và phát triển
Quá trình sinh trưởng, phát triển của cây bông có thể chia làm 5 giai ñoạn. Các
giai ñoạn dài hay ngắn phụ thuộc vào giống và ñiều kiện ngoại cảnh (Hoàng Đức
Phương, 1983) [21], (Lê Quang Quyến, ctv, 1998) [22].
- Giai ñoạn nảy mầm (từ khi nảy mầm ñến khi xòe lá mầm): Giai ñoạn này
thường kéo dài 4 - 7 ngày. Hạt giống tốt, nhiệt ñộ thích hợp và cung cấp nước ñầy
ñủ sau 24 - 36 giờ hạt sẽ nảy mầm. Hạt ñủ ẩm nếu nhiệt ñộ càng cao thì nảy mầm
càng nhanh. Nhiệt ñộ tối thích cho giai ñoạn này là 25 - 30
0
C. Dưới 10
0
C và trên

40
0
C hạt gần như không nảy mầm. Trong ñiều kiện nhiệt ñộ 55 - 60
0
C kết hợp với
ẩm ñộ ñất cao hạt sẽ chết. Độ ẩm ñất thích hợp cho sự nảy mầm của hạt là 90% ñộ
giữ ẩm của ñất. Ngoài ra, ñất gieo hạt phải thoáng, ñủ oxy.
- Giai ñoạn cây con (từ khi xòe hai lá mầm ñến khi có nụ): Giai ñoạn này
thường kéo dài 24 - 36 ngày. Điều kiện tối thích ở giai ñoạn này là nhiệt ñộ ñất trên
20
0
C, nhiệt ñộ không khí 25 - 30
0
C và ñất ñủ ẩm, thoáng, không ñược bão hòa nước.
Sau khi lá mầm xòe một thời gian, mầm ngọn xuất hiện và ra lá thật ñầu tiên, nếu
gặp nhiệt ñộ thích hợp thì giai ñoạn này kéo dài 5 - 6 ngày, nếu gặp trời lạnh (nhiệt
ñộ < 15
0
C) có thể kéo dài 15 - 16 ngày và sau ñó cứ 2 - 6 ngày ra 1 lá thật tùy ñiều
kiện nhiệt ñộ. Ở giai ñoạn này, rễ bắt ñầu hút dinh dưỡng, lá (gồm cả lá mầm) quang
hợp mạnh dần, sự trao ñổi chất trong tế bào tăng cường. Đây là giai ñoạn rễ ñược
phát triển ưu tiên trong khi thân phát triển chậm. Cuối giai ñoạn này thân, cành và lá
mới bắt ñầu phát triển.

21


- Giai ñoạn nụ (từ khi ra nụ ñầu tiên ñến khi ra hoa ñầu tiên): Giai ñoạn nụ
kéo dài 20 - 25 ngày. Khi có 2 - 3 lá thật, mầm hoa ñã phân hóa và khi có 4 - 8 lá
thật cây bông xuất hiện nụ ñầu tiên. Cây bông cùng một lúc vừa ra cành lá, vừa ra

hoa, quả. Quan hệ giữa sinh trưởng dinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực là quan hệ
thúc ñẩy lẫn nhau. Sinh trưởng dinh dưỡng cung cấp cơ sở vật chất cần thiết cho
sinh trưởng sinh thực. Khi không có ñủ diện tích lá và chất hữu cơ tạo ra không
ñầy ñủ việc ra nụ, nở hoa, ñậu quả sẽ gặp trở ngại. Ngược lại, nếu sự sinh trưởng
dinh dưỡng quá mạnh, chất dinh dưỡng tiêu phí chủ yếu vào việc hình thành thân
cành, lá nhiều thì ruộng bông sẽ bị lốp, nụ, hoa và quả dễ bị rụng.
- Giai ñoạn ra hoa ñậu quả (từ khi cây có hoa ñầu tiên nở ñến khi cây có
quả ñầu tiên chín): Giai ñoạn này kéo dài 42 - 55 ngày. Lúc này, cây bông sinh
trưởng và phát triển nhanh, bộ rễ sinh trưởng chậm hơn trước nhưng hoạt ñộng rất
mạnh. Do ñó, cây bông yêu cầu cung cấp nước và dinh dưỡng tối ña. Ruộng bông
cần thông thoáng và ñủ ánh sáng. Nếu gặp ñiều kiện bất thuận hoặc thiếu dinh
dưỡng ñài sẽ rụng nhiều. Hoa nở từ 7 - 9 giờ sáng. Nhiệt ñộ cao hoa nở sớm hơn.
Thời gian thụ phấn thích hợp nhất từ 10 giờ sáng ñến 2 giờ chiều. Thời gian từ lúc
thụ phấn ñến khi hoàn thành thụ tinh kéo dài khoảng 24 - 48 giờ. Sau khi thụ tinh,
quả bông lớn nhanh và ñạt kích thước tối ña sau 25 - 30 ngày.
- Giai ñoạn nở quả (từ khi quả ñầu tiên nở ñến thu hoạch hoàn toàn): Giai ñoạn
này kéo dài 40 - 60 ngày. Khi quả ñã thành thục hoàn toàn, vỏ quả mất nước rồi co lại, trụ
giữa hóa gỗ, cứng không co ñược nên sức kéo của vỏ làm vỡ thành 4 - 5 mảnh tùy số
múi. Múi bông bị phơi ra nhưng còn dính vào mảnh vỏ quả. Xơ bông khô ñi và nở bồng
lên. Ở giai ñoạn này, sự sinh trưởng của cây bông ngừng lại, chất dinh dưỡng tập trung
nuôi quả và hạt, hoạt ñộng của bộ rễ giảm, nhu cầu về nước và dinh dưỡng ñều giảm.






22



Chương 2
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tượng nghiên cứu
- Cây Bông: Sử dụng giống bông lai kháng sâu VN04-3, do Viện nghiên cứu
Bông và Phát triển Nông nghiệp Nha Hố lai tạo. Giống bông này thuộc nhóm có
thời gian sinh trưởng trung bình, ra hoa và ñậu quả tập trung, dạng cây khỏe, có
khả năng kháng sâu xanh, kháng rầy trung bình khá.
- Cây ngô: Giống ngô lai Bioseed 9698.
- Cây lạc: Giống lạc Xù.
- Cây ñậu tương: Giống ñậu tương Hoa trắng.
2.2 Thời gian và ñịa ñiểm nghiên cứu
- Thời gian: Vụ mưa năm 2009 và 2010.
- Địa ñiểm: Huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông.
* Vài nét về khu vực nghiên cứu
2.2.1 Điều kiện tự nhiên
2.2.1.1 Vị trí ñịa lý
Cư Jút là một huyện miền núi phía Bắc của tỉnh Đắk Nông, cách thị xã Gia
Nghĩa khoảng 120 km theo quốc lộ 14, cách thành phố Buôn Ma Thuột của tỉnh Đắk
Lắk theo quốc lộ 14 về phía Nam 20 km, có ñịa giới hành chính như sau:
- Phía Bắc giáp thành phố Buôn Ma Thuột và huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk.
- Phía Nam giáp Đắk Mil và một phần huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông.
- Phía Đông giáp huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk.
- Phía Tây giáp Vương quốc Cam Pu Chia.
Huyện Cư Jút có 8 ñơn vị hành chính là: Xã Tâm Thắng, Trúc sơn, Nam
Dong, Eapô, Đắk Wil, Đắk Rông, Cư Knia và thị trấn Ea Tling.
Với vị trí gần các trung tâm kinh tế lớn, nằm trên tuyến giao thông chủ
chốt, thuận lợi cho huyện Cư Jút có ñiều kiện tiếp thu và chuyển giao khoa học

23



kỹ thuật giao lưu kinh tế, phát triển thương mại và buôn bán các mặt hàng nông
sản của ñịa phương.
2.2.1.2 Địa hình
Huyện Cư Jút nằm trên bình nguyên chuyển tiếp từ Cao nguyên Đắk Lắk về
cao nguyên Đắk Mil, ñịa hình tương ñối bằng phẳng ít chia cắt, ñộ cao trung bình 400
- 450 m so với mực nước biển, ñược chia ra làm 2 loại hình chính:
- Khu vực Đông - Đông Nam bao gồm các xã: Tâm Thắng, Trúc Sơn, Đắk
Rông, Nam Dong, Cư Knia và thị trấn Ea Tling là vùng thuộc lưu vực sông
Sêrêpôk nên có ñịa hình tương ñối bằng, một số nơi ñịa hình lượn sóng xen kẽ núi
cao tạo nên các bình nguyên hẹp, ñịa hình nghiêng theo hướng Tây - Tây Nam.
- Khu vực phía Tây nằm trọn trong ñịa giới xã Đắk Wil có ñịa hình chia
cách, hình thành nhiều núi cao và ñồi bát úp, ñộ dốc có xu thế thấp dần từ Đông
Bắc xuống Tây Nam.
2.2.1.3 Khí hậu thời tiết
Huyện Cư Jút thuộc bình nguyên tiếp giáp giữa 2 cao nguyên Đắk Lắk và
Đắk Mil, huyện Cư Jút nằm trong vùng ảnh hưởng khí hậu nhiệt ñới gió mùa,
mang tính chất chung của khí hậu Tây Nguyên nhiệt ñới ẩm, mỗi năm có 2 mùa rõ
rệt: mùa mưa bắt ñầu từ tháng 4 ñến tháng 11, tập trung 90% lượng mưa hàng năm.
Mùa khô bắt ñầu từ cuối tháng 11 tới ñầu tháng 4 năm sau, lượng mưa không ñáng
kể kèm theo gió Tây Nam tăng cường ñộ bốc hơi nước gây khô hạn, hệ thực vật
kém phát triển. Nhiệt ñộ trung bình giao ñộng trong khoảng từ 25,5 - 27,8
o
C. Tuy
nhiên, biên ñộ nhiệt ñộ giữa ngày và ñêm là rất lớn, vào mùa khô có ngày biên ñộ
giao ñộng từ 15 - 16
o
C. Tổng tích ôn: 8.500 - 9.000
0
C.

Chế ñộ gió: Hướng gió chủ yếu vào mùa mưa là hướng Tây với tốc ñộ gió
trung bình 10 m/s, tốc ñộ lớn nhất 12 m/s. Gió Đông thổi vào mùa khô với tốc ñộ
trung bình 9 m/s, tốc ñộ lớn nhất là 15 m/s.



×