Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

phát triển bền vững các làng nghề ở hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1013.78 KB, 108 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
o0o








TRẦN THỊ KHÁNH





PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CÁC LÀNG NGHỀ
Ở HÀ TĨNH






LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ











Hà Nội, Năm 2009


1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Ngành nghề nông thôn nói chung và các làng nghề nói riêng đóng vai
trò rất quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Mỗi địa
phương lại có những nghề, làng nghề mang sắc thái riêng đặc trưng cho
truyền thống của những vùng quê được cha ông xây dựng, lưu truyền bao đời
nay.
Làng nghề ở Hà Tĩnh có lịch sử phát triển từ hàng chục năm đến hàng
trăm năm đã tạo ra sản phẩm tiêu dùng cho xã hội và tham gia xuất khẩu, tạo
nên giá trị kinh tế và văn hóa ở khu vực nông thôn, đặc biệt là các làng quê.
Sự phát triển các làng nghề góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế NN
- NT, bởi tạo công ăn việc làm cho lao động nông nhàn và những vùng đất
chật người đông, góp phần xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập cho bộ phận
dân cư nông thôn, góp phần thực hiện đẩy mạnh CNH – HĐH nông nghiệp
nông thôn.
Tuy nhiên, trong thời gian qua do chưa được quan tâm đầu tư đúng
mức, một số làng nghề do thiếu vốn, thiếu nguyên liệu và thị trường tiêu thụ
không ổn định dẫn đến một số làng nghề thủ công truyền thống bị mai một
dần. Quy mô làng nghề ở Hà Tĩnh nói chung còn nhỏ bé, phân tán, tự phát,
sản phẩm ít, chất lượng chưa cao, ít cải tiến mẫu mã, thiết bị công nghệ thiếu
và lạc hậu, trình độ quản lý thấp, thiếu thông tin về thị trường là những yếu tố

tác động đến sự phát triển của làng nghề và giảm sức cạnh tranh trên thị
trường của các sản phẩm từ làng nghề.
Trong những bối cảnh đó, Ủy ban nhân dân tỉnh đã giao cho Sở Nông
nghiệp – phát triển nông thôn phối hợp với các Sở, ban ngành và các huyện,
thị xã xây dựng “Quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn Hà Tĩnh đến
năm 2010”, trong đó có tập trung phát triển các làng nghề ở Hà Tĩnh, ưu tiên

2
phát triển các làng nghề như mây tre đan, song mây; nghề chế biến gỗ; nghề
đúc rèn; nghề chế biến hải sản; nghề làm chăn nệm, thêu ren; nghề dệt chiếu
cói. Còn các làng nghề thuộc các lĩnh vực còn lại vẫn đang để cho nó phát
triển một cách tự phát. Vấn đề đặt ra ở đây là một số làng nghề được ưu tiên
phát triển nhưng vẫn chưa xứng với tiềm năng, bên cạnh đó, hầu hết các làng
nghề vẫn chưa xây dựng được hệ thống xử lý rác thải cũng như giảm thiểu ô
nhiễm môi trường, mà điều này lại ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của
người dân địa phương. Chính vì vậy, mặc dù đã có quy hoạch phát triển các
làng nghề, phát triển 11 cụm tiểu thủ công nghiệp làng nghề trên địa bàn Hà
Tĩnh nhưng nhìn chung vẫn chưa có nhiều biện pháp hữu hiệu cũng như là
các giải pháp mang tính đột phá để có thể giúp cho các làng nghề có điều kiện
phát triển một cách bền vững. Đó chính là lý do tôi chọn đề tài: “Phát triển
bền vững các làng nghề ở Hà Tĩnh”
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài: Đánh giá sự PTBV của các làng nghề ở
Hà Tĩnh và đề ra giải pháp phát triển cho các làng nghề
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu một cách khái quát nhất về sự phát triển của các làng
nghề ở Hà Tĩnh, đồng thời chú trọng các làng nghề được ưu tiên phát triển, đó
là các làng nghề đồ gỗ; làng nghề chế biến thủy, hải sản; làng nghề mây tre
đan; làng nghề đúc rèn; làng nghề chiếu cói…
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Luận văn tập trung nghiên cứu phân tích

hệ thống các làng nghề trên địa bàn Hà Tĩnh trong những năm qua và định
hướng phát triển trong thời gina tới. Bên cạnh đó, luận văn cũng có tham khảo
kinh nghiệm phát triển làng nghề của một số tỉnh khác.



3
4. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng tổng hợp các biện pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử, phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp…về các tài liệu thu thập qua
thống kê và các tài liệu đã được nghiên cứu trước
- Ngoài ra luận văn còn sử dụng phương pháp điều tra, khảo sát thực tế tại các
làng nghề và tại các cơ quan quản lý có liên quan
5. Những đóng góp chủ yếu của luận văn
- Luận văn đi vào nghiên cứu một cách có hệ thống về cơ sở lý luận của làng
nghề, các nhân tố ảnh hưởng đến sự PTBV làng nghề và các tiêu chí đánh giá
sự PTBV làng nghề
- Luận văn thể hiện được thực trạng PTBV các làng nghề ở Hà Tĩnh hiện nay;
thấy được rằng để có thể PTBV các làng nghề cần phải nỗ lực vươn lên, đồng
thời cần có sự phối hợp hỗ trợ của các cơ quan quản lý, chính quyền địa
phương đối với sự phát triển của hệ thống làng nghề
- Giải pháp PTBV làng nghề có ý nghĩa trong quá trình thực hiện quy hoạch
phát triển ngành nghề nông thôn ở Hà Tĩnh đến 2010
- Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan
hoạch định chính sách, quản lý các làng nghề trên địa bàn Hà Tĩnh
6. Tên và kết cấu của luận văn
Tên đề tài: “Phát triển bền vững các làng nghề ở tỉnh Hà Tĩnh”
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
LÀNG NGHỀ

Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CÁC LÀNG NGHỀ
Ở HÀ TĨNH THỜI GIAN QUA
Chương 3. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CÁC LÀNG NGHỀ Ở
HÀ TĨNH THỜI GIAN TỚI

4
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
LÀNG NGHỀ
1.1. Làng nghề và đặc trưng của làng nghề
1.1.1. Khái niệm về làng nghề, làng nghề truyền thống
Làng nghề được cấu tạo bởi hai yếu tố là “làng” và “nghề”. Vì thế khái
niệm về làng nghề cũng được hiểu thông qua phân tích khái niệm “làng” và
“nghề”
Làng – theo Từ điển tiếng Việt, là một khối người quần tụ ở một nơi
nhất định trong nông thôn. Làng là một tế bào xã hội của người Việt, là một
tập hợp dân cư chủ yếu theo quan hệ láng giềng. Đó là một không gian lãnh
thổ nhất định, ở đó tập hợp những người dân quần tụ lại cùng sinh sống và
sản xuất.
Hiện nay, do tác động của quá trình đô thị hóa, khái niệm làng có thể
được hiểu một cách tương đối. Có một số cách gọi khác với làng đó là phố,
khối phố, khóm Tuy là cách gọi có thể khác đi nhưng về bản chất của cộng
đồng dân cư đó nếu gắn với nông thôn thì vẫn được xem như là làng.
Như vậy, làng nghề là một làng ở nông thôn nhưng ngoài việc làm
nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi) còn có hoạt động sản xuất tiểu thủ công
nghiệp, sản phẩm làm ra của họ ngoài việc đáp ứng nhu cầu bản thân, gia đình
còn dùng để trao đổi, buôn bán, sản phẩm từ làng nghề phải là hàng hóa
Còn “nghề” có thể được hiểu là công việc mà người dân làm để kiếm
sống hàng ngày. Các nghề trong hoạt động của làng nghề thường là thủ công,
tiểu thủ công nghiệp, vì thế những sản phẩm làm ra luôn mang đậm dấu ấn
của chủ nhân làm ra nó.

Các nghề thủ công ở làng quê ban đầu chỉ xuất hiện dưới dạng là nghề
phụ, chủ yếu được bà con nông dân làm vào thời kỳ nông nhàn. Nhưng sau
này, do sự phân công lao động mà các ngành nghề thủ công tách dần khỏi sản

5
xuất nông nghiệp nhưng vẫn phục vụ trực tiếp cho hoạt động nông nghiệp. Và
lúc đó, những người thợ thủ công ở làng nghề có thể là không còn làm nông
nghiệp nhưng họ vẫn gắn liền với làng quê mình. Cho tới khi nghề thủ công
phát triển mạnh, những người làm nghề thủ công và sống nhờ nghề này tăng
lên nhanh chóng. Đó chính là cơ sở cho sự ra đời và tồn tại của các làng nghề
ở nông thôn cho đến ngày nay.
Thông qua những lí luận đó mà các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều
khái niệm khác nhau về làng nghề như:
- “Làng nghề là một cụm dân cư sinh sống trong một thôn (làng), cùng
làm một nghề tiểu thủ công nghiệp mà các hộ đó có thể sinh sống bằng nghề
đó, thu nhập từ nghề đó chiếm trên 50% tổng thu nhập của các hộ. Ngoài ra
giá trị sản lượng của nghề chiếm trên 50% tổng giá trị sản lượng của địa
phương”.
- “Làng nghề là nơi hầu hết mọi người trong làng đều hoạt động nghề
cho nghề đó và lấy đó làm nguồn sống chủ yếu”. Với quan niệm như thế thì
hiện nay ở Việt Nam tồn tại rất ít (như làng gốm Bát Tràng,…).
- “Làng nghề là trung tâm sản xuất thủ công, nơi quy tụ các nghệ nhân
và nhiều hộ gia đình chuyên làm nghề, giữa các hộ sản xuất có sự liên kết hỗ
trợ trong sản xuất, bán sản phẩm theo kiểu phường hội”. Quan niệm này chưa
phản ánh được đầy đủ tính chất, đặc điểm của làng nghề, nó vẫn chưa thể hiện
được sự khác biệt giữa làng nghề ở nông thôn với những trung tâm sản xuất
thủ công nghiệp ở thành thị, trị trấn
- “Làng nghề là một cộng đồng dân cư sống tập trung trên cùng một địa
bàn nông thôn. Trong làng đó, có một bộ phận dân cư tách ra cùng nhau sinh
sống bằng việc sản xuất một hoặc một số loại hàng hóa, dịch vụ; trong đó có

ít nhất một loại hàng hóa, dịch vụ đặc trưng thu hút đông đảo lao động hoặc
hộ gia đình trong làng tham gia, đem lại nguồn thu nhập chính và chiếm tỉ

6
trọng lớn so với thu nhập dân cư tạo ra trên địa bàn làng hoặc cộng đồng dân
cư đó”.
- Bộ đưa ra khái niệm làng nghề như sau: “Làng nghề là một hoặc
nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc hoặc các điểm
dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn, có các hoạt động ngành nghề
nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau”. Như vậy, ta
có thể hiểu làng nghề thông qua khái niệm này.
Ở đây có sự phân biệt làng nghề và làng nghề truyền thống. Làng nghề
truyền thống là làng nghề có truyền thống được hình thành từ lâu đời. Đó là
những thôn làng làm nghề thủ công có truyền thống lâu năm, thường là nhiều
thế hệ, ít nhất cũng là hàng chục năm. Nhiều làng nghề thậm chí đã nổi tiếng
từ nhiều thế kỷ trước, tạo ra được những sản phẩm có tính độc đáo, có độ
tinh xảo cao, đã được tiêu thụ tại nhiều nơi khác nhau trên thế giới. Dù nghề
thủ công được du nhập vào làng bằng con đường nào thì sự phát triển cũng
diễn ra dưới hình thức có tồn tại một số hạt nhân (nghệ nhân, gia đình, dòng
ho…) làm nòng cốt, từ đó mở rộng ra phạm vi cả làng. Làng nghề truyền
thống được công nhận khi đạt được các tiêu chí như: Nghề đã xuất hiện tại địa
phương từ trên 50 năm tính đến thời điểm đề nghị công nhận; Nghề tạo ra
những sản phẩm mang bản sắc văn hóa dân tộc; Nghề gắn với tên tuổi của
một hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi của làng nghề.
Theo nghiên cứu của các chuyên gia thì các ngành nghề thủ công ở
Việt Nam có thể được chia thành 5 nhóm, đó là:
- Nhóm thứ nhất: bao gồm các ngành nghề sản xuất các mặt hàng thủ
công mỹ nghệ như gốm, sứ, sơn mài, thêu ren, khảm, chạm khắc gỗ,
đá…
- Nhóm thứ hai : Là các ngành nghề sản xuất công cụ như rèn đúc, làm

cày bừa, nông cụ, đóng thuyền…

7
- Nhóm thứ ba: là các ngành nghề sản xuất các mặt hàng phục vụ tiêu
dùng thông thường như: làm lược, dệt chiếu, làm nón, đan mành, rổ, rá,
sọt bồ, bện thừng, dệt vải, may mặc.
- Nhóm thứ tư: bao gồm các ngành nghề phục vụ cho sản xuất và đời
sống: như nề, mộc, hàn, đúc đồng, gang, sản xuất vật liệu xây dựng…
- Nhóm thứ năm: bao gồm các ngành nghề chế biến lương thực, thực
phẩm như: xay xát, làm bánh, làm bún, đường, mật, làm tương, đậu
phụ, nấu rượu, chế biến hải sản các loại…
1.1.2. Đặc trưng của làng nghề
Nhìn chung các làng nghề truyền thống được hình thành bằng những
con đường như:
- Có những nghệ nhân, vì những lý do khác nhau, đã từ nơi khác đến
truyền nghề. Những nghệ nhân này thường được tôn là tổ nghề. Việc truyền
nghề như vậy thường được các làng nghề ghi nhận dưới hình thức văn tự hay
truyền miệng;
- Một số làng nghề hình thành từ một số cá nhân, gia đình có những kỹ
năng và sự sáng tạo nhất định. Từ sự sáng tạo của họ, quy trình sản xuất và
sản phẩm không ngừng được hoàn thiện, bổ sung. Qua quá trình phát triển
cũng hình thành nên làng nghề;
- Một số làng nghề hình thành do có những người đi nơi khác học nghề
rồi về dạy lại cho gia đình, dòng họ rồi mở dần ra phạm vi rộng hơn;
- Một số làng nghề mới hình thành gần đây một cách có chủ ý, do các
địa phương “phát triển nghề phụ” nên cho thợ đi học nghề tại các trường dạy
nghề hoặc tới các làng nghề khác học nghề rồi về dạy cho người khác;
- Hay gần đây, một số làng nghề được hình thành trên cơ sở sự lan tỏa
dần từ một số làng nghề truyền thống, tạo thành một số làng nghề trên một
vùng lãnh thổ thân cận.


8
Sức ép về mặt kinh tế nhiều khi cũng là nguyên nhân thúc đẩy sự hình
thành và phát triển làng nghề. Biểu hiện rõ nhất thường là sự hình thành và
phát triển của các làng nghề nơi ít ruộng đất, nghề nông khó có điều kiện đảm
bảo thu nhập và đời sống cho dân cư…
Ngoài ra, một số làng nghề mới được hình thành gần đây cũng là do
nhu cầu phát triển trong tình hình mới, sự xuất hiện những nhu cầu mới ở địa
phương thúc đẩy hình thành nên các làng sản xuất sản phẩm…để đáp ứng thị
trường…
Nhìn chung, các làng nghề có những đặc trưng như sau:
Làng nghề gắn liền với các làng quê sản xuất nông nghiệp
Có cầu là có cung, từ nhu cầu xã hội mà các nghề thủ công xuất hiện
đóng vai trò là nghề phụ, việc phụ trong mỗi gia đình nông dân và dần nhanh
chóng phát triển ở nhiều làng quê. Do đặc trưng của sản xuất là mang tính
thời vụ, lại thêm năng suất lao động thấp nên vẫn chưa đảm bảo được nguồn
thu nhập cho cuộc sống của người nông dân. Chính vì thế, ngoài làm nông,
bà con nông dân đã phải tìm kiếm thêm nghề phụ để tăng thêm nguồn thu
nhập, đảm bảo cuộc sống. Ví dụ như ngoài làm ruộng, bà con nông dân còn
làm thêm nghề phụ như làm bún, bánh mướt, nấu rượu để kiếm thêm nguồn
thu nhập. Ngoài ngày mùa là bận rộn ra thì đến thời nông nhàn, người nông
dân thiếu việc làm nên tạo nên sự dư thừa lao động trong một thời gian nhất
định. Hơn nữa do nhu cầu về các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp nhằm phục
vụ sản xuất nông nghiệp cũng như đời sống ngày càng tăng, cùng với nguồn
nguyên liệu đầu vào hầu hết là sẵn có và dồi dào… nên đã tạo điều kiện thúc
đẩy việc hình thành và phát triển.
Phần lớn là có truyền thống lâu đời, tồn tại lâu dài và có bản sắc văn
hóa riêng.

9

Làng nghề ở Việt Nam chủ yếu là làng nghề truyền thống, hầu hết là có
truyền thống lâu đời. Từ đời xa xưa đã hình thành các làng nghề với quy mô
nhỏ bé và nhu cầu lao động còn rất ít. Sản phẩm từ làng nghề chủ yếu phục vụ
cho công việc hiện tại. Trước tiên là phát triển nghề rèn đúc, luyện kim do
phải sản xuất các công cụ lao động phục vụ chủ yếu cho hoạt động sản xuất
nông nghiệp, những công cụ này ra đời (cày, cuốc, dao…)đã mang lại cho
người nông dân những hiệu quả cao hơn những loại công cụ trước (chủ yếu
bằng đá, tre, gỗ thô sơ), và sau này những công cụ được sản xuất ra làm vũ
khí dùng để phục vụ cho chiến tranh nên việc rèn, đúc các vũ khí bằng đồng,
sắt là rất cần thiết. Và cứ thế cho đến ngày nay, những làng nghề truyền thống
như thế vẫn tồn tại và ngày càng đa dạng sản phẩm phục vụ cho đời sống và
sản xuất. Sản phẩm từ mỗi làng nghề sẽ gắn liền với địa danh làm ra nó, ví dụ
như làng tranh Đông Hồ, làng gốm Bát Tràng, làng điêu khắc đá Ngũ Hành
Sơn, làng mộc Thái Yên, làng rèn đúc Trung Lương… đó chính là đặc điểm
rõ rét để phân biệt sự riêng có trong sản phẩm của làng nghề
Đặc điểm của các sản phẩm từ làng nghề là mang đậm dấu ấn của
người sản xuất ra nó, vì vậy các sản phẩm này luôn mang tính khác biệt,
phong cách riêng của mỗi nghệ nhân và mang đậm nét văn hóa của địa
phương, tồn tại giao lưu với cộng đồng. Hàng mây tre đan, kim hoàn, đồ chơi,
hàng chạm trổ với từng chất liệu khác nhau (gỗ, đá, đồng, sừng, xương…)
hay hàng sơn (sơn quang, sơn then, sơn mài), hàng thêu dệt (lụa, chiếu,
thảm…) thì mỗi làng nghề đều có phong cách riêng và đặc trưng riêng có.
Qua thử thách thời gian, giao lưu, những nét riêng đó được chọn lọc và thừa
nhận để tồn tại và ngày càng phát triển, cộng với sự sáng tạo của mỗi nghệ
nhân mà sản phẩm ngày càng hoàn thiện, tạo nên sự riêng biệt độc đáo, và
ngày càng thể hiện được bản sắc dân tộc Việt Nam.
Làng nghề chủ yếu sản xuất thủ công
10
Từ xa xưa, khi kỹ thuật công nghệ còn thô sơ, lạc hậu thì hầu hết các
công đoạn trong quy trình sản xuất đều do lao động thủ công thực hiện. Mỗi

người thợ thủ công sẽ được định đoạt lấy toàn bộ công việc kể cả việc cung
ứng nguồn nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Công việc có thể tiến
hành độc lập hay cùng với các thành viên trong hộ gia đình, dòng họ hoặc
cùng với những đối tượng học việc. Công việc này đã thể hiện một tay nghề
nhất định, tài khéo léo riêng biệt, độc đáo, kết hợp với đầu óc sáng tạo và
nghệ thuật thông qua lao động bằng tay hoặc bằng máy móc công cụ cơ khí,
nửa cơ khí.
Ngày nay, KHCN phát triển, việc ứng dụng khoa học vào sản xuất sản
phẩm cũng đã được một số làng nghề thực hiện kết hợp, tuy nhiên công việc
chính của làng nghề chủ yếu vẫn còn là thủ công, vì sản phẩm từ làng nghề
hầu hết là phải có dấu ấn của bàn tay lao động của người nghệ nhân…
1.2. Quan niệm về phát triển bền vững làng nghề
1.2.1. Khái niệm
Phát triển bền vững được hiểu là một sự phát triển thỏa mãn những nhu
cầu của thế hệ hiện tại mà không xâm hại tới khả năng đáp ứng những nhu
cầu của thế hệ tương lai. PTBV được cấu tạo bởi 3 nhân tố là bền vững về
kinh tế, bền vững về xã hội và bền vững về môi trường.
Xuất phát từ khái niệm PTBV như thế mà có thể đưa ra khái niệm
PTBV làng nghề. Khái niệm này được đặt ra trong khuôn khổ quan niệm về
PTBV của đất nước và mang yếu tố đặc thù của các làng nghề. Theo đó “Phát
triển bền vững làng nghề là việc bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế ổn định, có
hiệu quả cao trong các làng nghề, gắn liền với việc khai thác hợp lý, bảo vệ
và nâng cao chất lượng môi trường sống cũng như là đảm bảo những đòi hỏi
về ổn định, nâng cao đời sống, trật tự an toàn xã hội ở địa bàn có làng nghề”
11
Để đảm bảo việc PTBV làng nghề phải đảm bảo việc duy trì tính chất
bền vững và hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ trong
bản thân các làng nghề, đó là:
- Đảm bảo hiệu quả kinh tế cao trong hoạt động của làng nghề để đảm
bảo tái sản xuất: quy mô, tốc độ gia tăng giá trị sản lượng, trình độ công nghệ,

giải quyết được lao động việc làm, thay đổi thu nhập bình quân đầu người,
phát triển hoạt động sản xuất theo hướng tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu…
- Duy trì và nâng cao khả năng cạnh tranh của các làng nghề. Khả năng
cạnh tranh nói lên tính chất vượt trội trong quan hệ so sánh với các đối thủ
cạnh tranh khác có cùng tiêu chí so sánh như môi trường pháp lý và hành
chính, cơ sở hạ tầng, trình độ công nghệ sản xuất, thị trường, nguồn nhân lực,
đặc điểm sản phẩm
- Đảm bảo chất lượng môi trường trong nội bộ làng nghề, không ảnh
hưởng lớn đến môi trường. Để có thể duy trì tính bền vững trong các làng
nghề thì phải luôn đặt sự phát triển của làng nghề với quá trình phát triển kinh
tế nói chung và phát triển các làng nghề trong khu vực.
1.2.2. Tiêu chí đánh giá phát triển bền vững của làng nghề
Sự PTBV của làng nghề được xem xét trên 3 khía cạnh, đó là sự bền
vững về kinh tế, bền vững về xã hội và bền vững về môi trường. Trong đó nội
dung của từng khía cạnh qua mỗi tiêu chí sẽ được làm rõ.
12
1.2.2.1. Tiêu chí đánh giá bền vững về kinh tế
Có thể đánh giá sự bền vững về kinh tế thông qua các tiêu chí như: hiệu
quả sản xuất kinh doanh, nguồn lực đầu vào cho quá trình sản xuất, thị trường
đầu ra của sản phẩm, thu nhập từ làng nghề.
Tăng trưởng sản lượng của các làng nghề
Tăng trưởng sản lượng là sự gia tăng về sản lượng sản phẩm ở các làng
nghề. Muốn đánh giá được các làng nghề phát triển có bền vững hay không
thì trước hết phải xét xem trong quá trình phát triển, các làng nghề đạt được
mức tăng trưởng cao hay thấp, có đạt được chỉ tiêu đề ra hay không hay trong
hoạt động sản xuất kinh doanh của mình đạt được mức lợi nhuận là bao nhiêu.
Đó chính là sự tăng lên không ngừng qua các năm về số lượng sản phẩm của
mỗi làng nghề. Có như vậy mới thể hiện được rằng số lượng sản phẩm từ làng
nghề vẫn đang được duy trì và phát triển.
Chất lượng sản phẩm

Chất lượng sản phẩm là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sự
PTBV của làng nghề nhất là trong giai đoạn nền kinh tế khủng hoảng, suy
thoái trên thế giới như hiện nay. Sản phẩm từ làng nghề hầu hết đều là những
sản phẩm thủ công, tiểu thủ công nghiệp, các sản phẩm thủ công mỹ
nghệ…đều cần phải đảm bảo chất lượng cao nếu không sẽ khó thu hút được
khách hàng. Nhất là các sản phẩm thủ công mỹ nghệ thì vấn đề chất lượng sản
phẩm cũng cần phải ngày càng được nâng cao, có như vậy mới đảm bảo được
sự PTBV cho làng nghề.
Chất lượng sản phẩm là yếu tố quan trọng để có thể tạo điều kiện cho
sản phẩm làng nghề có thể đứng vững trên thị trường và có khả năng cạnh
tranh cao ngay ở những thị trường khó tính nhất, nhất là đối với các sản phẩm
sản xuất phục vụ xuất khẩu, vì khách hàng nước ngoài luôn là những đối
tượng kỹ tính, đòi hỏi phải đảm bảo chất lượng. Nếu các làng nghề cứ sản
13
xuất ồ ạt, chỉ chú trọng đến quy mô mà không quan tâm đầu tư cho chất lượng
sản phẩm thì sớm hay muộn cũng sẽ bị loại dần ra khỏi thị trường. Vì vậy
không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm cũng chính là một nhân tố đảm
bảo cho các làng nghề phát triển một cách bền vững.
Thị trường đầu ra của sản phẩm
Thị trường đầu ra của sản phẩm phản ánh sản phẩm có giá trị sử dụng
và có chất lượng đáp ứng nhu cầu thị trường. Mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh
khi tham gia vào thị trường thì đều mong muốn có một chỗ đứng nhất định,
đóng góp một thị phần nhất định trên thị trường cho dù quy mô của nó nhỏ
hay lớn. Nếu nhanh chóng theo kịp với những sự thay đổi nhu cầu của thị
trường thì mỗi làng nghề sẽ có sự phát triển mạnh mẽ hơn. Điển hình như các
làng nghề sản xuất đồ gỗ gia đình, vật liệu xây dựng, gốm sứ, đá mỹ nghệ…
thì sẽ chịu ảnh hưởng nhiều của yếu tốt này. Ngược lại, nếu các làng nghề
không thích ứng được với sự thay đổi về nhu cầu thị trường mà vẫn cứ cố
bám lấy kiểu làm ăn cũ thì sản xuất tất yếu sẽ bị giảm sút, có khi lại không thể
duy trì được sự tồn tại của nghề. Ví dụ như các nghề thuộc về đan lát: đan

nón, đan mành cọ, đan quạt, đan rổ rá…
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường như hiện nay thì các làng nghề
phải tự tìm kiếm thị trường đầu ra cho sản phẩm của mình. Có mở rộng được
thị trường tiêu thụ sản phẩm thì các làng nghề mới có thể mở rộng quy mô sản
xuất và duy trì sản xuất trong lâu dài được.
Như vậy, ta có thể thấy được rằng, để có thể tồn tại và phát triển thì
mỗi làng nghề phải tự xây dựng cho mình thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra
ổn định, có khả năng thì phải không ngừng tìm kiếm thị trường trong nước lẫn
thị trường nước ngoài. Có làm vậy thì sự phát triển của làng nghề mới đảm
bảo được tính bền vững.

14

Năng suất lao động, thu nhập từ làng nghề
Năng suất lao động, nguồn thu nhập từ làng nghề cũng là một yếu tố
tạo nên sự bền vững về kinh tế. Năng suất lao động chính là thu nhập trên một
đơn vị lao động hay thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Nguồn thu nhập thể hiện ở khả năng đóng góp của làng nghề vào giá trị sản
xuất của địa phương cũng như là nguồn thu nhập cho lao động trong làng
nghề. Nếu hoạt động sản xuất của làng nghề không đảm bảo được nguồn thu
nhập thì không thể nói là có sự PTBV được.
- Sự đóng góp của làng nghề vào giá trị sản xuất của địa phương
Giá trị sản xuất là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp được tính đến đối với
các sản phẩm vật chất và dịch vụ được tạo ra trên phạm vi lãnh thổ của một
quốc gia, 1 địa phương, và cũng có thể tính theo ngành trong một thời kỳ nhất
định, thường là một năm.
Chúng ta phải xem xét đến vai trò kinh tế của các làng nghề trong quá
trình phát triển của mỗi địa phương khi xem xét tính bền vững về kinh tế của
các làng nghề, điều đó thể hiện thông qua việc so sánh giá trị sản xuất của
làng nghề với giá trị sản xuất nông nghiệp được tạo ra ở địa phương có làng

nghề. Sự so sánh đó có thể cho ta thấy được vai trò và vị trí của làng nghề đó
so với sản xuất nông nghiệp thuần túy. Ngoài ra, thông qua đó chúng ta cũng
có thể so sánh giá trị gia tăng được tạo ra từ làng nghề so với tổng giá trị gia
tăng được tạo ra trong ngành nông nghiệp.
- Thu nhập của lao động làng nghề
Thu nhập của lao động làm việc trong làng nghề cũng là một chỉ tiêu
quan trọng để người lao động xác định lựa chọn nghề và sống nhờ vào nghề
đó. Nếu mức thu nhập bình quân của người lao động đủ đảm bảo trang trải
cho những nhu cầu cơ bản trong cuộc sống của người lao động cũng như gia
15
đình họ, đồng thời mức thu nhập đó nếu cao hơn mức thu nhập từ sản xuất
nông nghiệp thì người lao động sẽ chọn làm việc ở làng nghề và gắn bó hơn
với nghề đó. Mặt khác, ngoài làm công việc ở làng nghề, người lao động cũng
có thể thực hiện đan xen với làm nông nghiệp, bởi vì làm nông nghiệp mang
tính thời vụ cao, hết mùa vụ thì sẽ là thời kỳ nông nhàn nên có thể trong thời
kỳ mùa vụ, người lao động có thể tạm gác việc làm ở làng nghề để có thể thực
hiện thu hoạch hay cấy hái. Như vậy, qua đó cũng sẽ có được mức thu nhập
cao hơn và cuộc sống của họ sẽ được đảm bảo, thỏa mãn nhu cầu tốt hơn
trước.
1.2.2.2. Tiêu chí đánh giá bền vững về xã hội
Để đánh giá tính bền vững về xã hội thể hiện thông qua các chỉ tiêu
như: giải quyết việc làm, giảm bớt thời gian nhàn rỗi ở nông thôn; tăng thu
nhập cho người dân, giảm khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, xóa đói
giảm nghèo.
Giải quyết việc làm và giảm tình trạng thiếu việc làm ở nông
thôn
Tiêu chí quan trọng đầu tiên biểu hiện sự phát triển của làng nghề có
đảm bảo được tính bền vững hay không chính là khả năng giải quyết việc làm
của làng nghề, trước hết là giải quyết việc làm cho đội ngũ lao động trong
làng. Chúng ta thấy được rằng làm nông nghiệp luôn là một nghề vất vả,

nhiều khó khăn gian khổ trong khi nguồn thu nhập lại thấp và bấp bênh do
đặc trưng của nghề làm nông nghiệp là phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, thời
tiết, khí hậu. Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp còn có đặc trưng là mang tính
thời vụ cao, vì thế có những khi người nông dân làm việc mệt nhọc từ sáng
đến tối quần quật cho kịp mùa vụ, nhất là vào mùa hè thu, ngoài thu hoạch ra
còn có vụ gieo cấy…nhưng lại có những khi nông nhàn, hầu như không có
16
nhiều việc làm. Chính vì vậy, việc phát triển làng nghề sẽ góp phần giải quyết
được thời gian nông nhàn đó cho đội ngũ lao động.
Ngoài ra, hiện nay một số địa phương diện tích đất nông nghiệp ngày
càng bị thu hẹp, các làng quê phải tìm kiếm nghề mới để có thể qua đó tăng
thêm thu nhập cho bản thân và gia đình. Do đó, các làng nghề mới được hình
thành và phát triển, người dân ở đó tập trung vào sản xuất kinh doanh các sản
phẩm từ làng nghề để cải thiện đời sống.
Giảm khoảng cách phát triển giữa thành thị và nông thôn
Vấn đề giảm bớt chênh lệch về mức sống giữa thành thị và nông thôn
luôn được xã hội quan tâm. Thông qua việc xem xét mức thu nhập bình quân
đầu người từ làng nghề có thể so sánh với mức thu nhập ở thành thị, từ đó có
thể đánh giá được khoảng cách thu nhập giữa thành thị và khu vực nông thôn.
Do hầu hết làng nghề ở Việt Nam đều nằm ở nông thôn, mặt khác ở nông
thôn nếu làm ở làng nghề thì thông thường sẽ có nguồn thu nhập bình quân
cao hơn so với sản xuất nông nghiệp thuần túy. Chính vì vậy mà thông qua
phát triển làng nghề cũng có thể góp phần xóa đói giảm nghèo, làm giảm
khoảng cách thu nhập giữa thành thị và nông thôn, từ đó định ra những
phương hướng phát triển phù hợp với hoàn cảnh phát triển của địa phương.
Phong tục, tập quán, bản sắc văn hóa của địa phương
Phong tục, tập quán, bản sắc văn hóa của địa phương là yếu tố quan
trọng. Ngoài việc ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh nó còn ảnh
hưởng đến tiêu dùng và đời sống của dân cư ở nông thôn. Do đó nhân tố này
vừa tác động tích cực lại vừa tác động tiêu cực đến sự phát triển làng nghề.

Về mặt tích cực, yếu tố truyền thống sẽ có tác dụng góp phần bảo tồn
những nét đặc trưng văn hóa riêng có của làng nghề, của dân tộc, làm cho sản
phẩm của làng nghề có tính độc đáo và giá trị cao hơn. Đó là đối với các làng
nghề truyền thống, bởi vì ở những làng nghề này bao giờ cũng có những
17
người thợ có trình độ tay nghề cao, có trình độ kinh nghiệm sản xuất, có tâm
huyết với nghề, và họ cũng chính là người gánh trách nhiệm duy trì, phát triển
những bí quyết riêng của làng nghề, và cứ thế, các bí quyết riêng đó sẽ được
truyền từ đời này qua đời khác, qua các thế hệ. Họ chính là cơ sở cho sự tồn
tại, PTBV làng nghề trước mọi biến cố và duy trì những nét độc đáo truyền
thống của làng nghề.
Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường thì ngoài việc truyền kinh
nghiệm từ thế hệ này qua thế hệ khác cũng cần phải biết áp dụng khoa học kỹ
thuật vào sản xuất, đó là những công nghệ hiện đại. Khi đó lại cần phải có đội
ngũ những người năng động, sáng tạo để có thể đưa hoạt động sản xuất kinh
doanh phát triển mạnh mẽ được. Trong điều kiện đó, một số yếu tố truyền
thống, phong tục tập quán lại cản trở sự phát triển của làng nghề theo hướng
hiện đại. Bên cạnh đó, còn có những quy định, quy tắc khắt khe, hạn chế
trong nghề, tục lệ làng quê đã trở thành rào cản đến việc mở rộng hoạt động
sản xuất kinh doanh của các làng nghề.
Chính vì vậy, sự PTBV của làng nghề ngoài việc tạo điều kiện để giữ
gìn bản sắc văn hóa của địa phương, tôn vinh giá trị truyền thống trong phong
tục tập quán thì nó cũng cần phải được chú ý thay đổi linh hoạt đối với sự
phát triển làng nghề nếu điều đó là cần thiết. Ví dụ như nếu những hoạt động
có thể dùng máy móc thay thế thì không cần thiết phải hoạt động thủ công
nữa. Điều đó sẽ làm tăng năng suất lao động, giảm chi phí và làng nghề vẫn
có thể PTBV đi lên.
1.2.2.3. Tiêu chí đánh giá bền vững về môi trường.
Ô nhiễm môi trường lao động ở làng nghề
- Ô nhiễm môi trường không khí

Môi trường lao động ảnh hưởng đến hoạt động sinh lí, sức khỏe bệnh
tật của người lao động. Với điều kiện thời tiết khí hậu nhiệt đới nóng ẩm của
18
nước ta, lại cộng thêm tác động của các yếu tố độc hại phát sinh trong quá
trình sản xuất như hơi khí độc, cường độ ồn, cường độ rừng, bụi sẽ có ảnh
hưởng không tốt tới sức khỏe của người lao động. Trong những điều kiện như
thế, người lao động sẽ bị ảnh hưởng về thần kinh, tâm lí và dẫn đến rối loạn
sinh lí, suy giảm sức khỏe, giảm khả năng lao động, tăng ốm đau, bệnh tật,
bệnh nghề nghiệp. Tất cả những điều đó sẽ ảnh hưởng đến năng suất lao động
và chất lượng sản phẩm. Mặt khác, ô nhiễm môi trường lao động cũng sẽ lan
tỏa gây ô nhiễm các khu vực lân cận, ảnh hưởng đến đời sống của người dân.
Việc phát triển các ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp ở vùng
nông thôn nước ta lại sử dụng công nghệ lạc hậu, trang thiết bị cũ kỹ cũng
làm cho vấn đề ô nhiễm môi trường sống ở làng nghề nông thôn ngày càng
trở nên nghiêm trọng. Ô nhiễm môi trường do công nghiệp nông thôn tạo ra
rất đa dạng, đó là chất thải rắn, khí thải, bụi, tiếng ồn…
- Ô nhiễm tiếng ồn
Ô nhiễm tiếng ồn trong môi trường lao động là một vấn đề có ảnh
hưởng rất lớn đến sức khỏe người lao động trong các làng nghề. Ở Việt Nam
cho phép giới hạn tối đa cho phép về tiếng ồn trong môi trường lao động là
90 dB (ở các nước phát triển chỉ cho phép 85 dB). Tại 67% cơ sở sản xuất
trên 83 cơ sở khảo sát thì tiếng ồn đều cao hơn giới hạn cho phép. Ở các
xưởng dệt, sữa chữa cơ khí, gia công mộc dân dụng thì mức áp âm đều từ 98
dB đến 106 dB. Ô nhiễm tiếng ồn sẽ gây ra các bệnh như gây mệt mỏi thính
lực, có khi gây điếc, đau tai, mất thăng bằng, dễ giật mình, mất ngủ, loét dạ
giày, tăng huyết áp, hay cáu giận…
- Ô nhiễm môi trường nước
Phổ biến và khó kiểm soát nhất là nước thải ở các hộ gia đình chế biến
lương thực, thực phẩm. Khoảng trên 42% cơ sở sản xuất như giấy, chế biến
miến, bún, bánh…có lượng nước thải gây ô nhiễm môi trường. Các chỉ tiêu

19
hóa học đo lường chất lượng môi trường nước thải như: Độ kiềm toàn phần;
Độ cứng của nước; Hàm lượng oxigen hòa tan (DO); Nhu cầu oxigen hóa học
(COD: là lượng oxigen cần thiết (cung cấp bởi các chất hóa học) để oxid hóa
các chất hữu cơ trong nước. zChất oxid hóa thường dùng là KMnO4 hoặc
K2Cr2O7 và khi tính toán được qui đổi về lượng oxigen tương ứng ( 1 mg
KMnO4 ứng với 0,253 mgO2)); Nhu cầu oxigen sinh hóa (BOD: là lượng
oxigen cần thiết để vi khuẩn có trong nước phân hủy các chất hữu cơ. Tương
tự như COD, BOD cũng là một chỉ tiêu dùng để xác định mức độ nhiễm bẩn
của nước (đơn vị tính cũng là mgO2/L). Trong môi trường nước, khi quá trình
oxid hóa sinh học xảy ra thì các vi khuẩn sử dụng oxigen hòa tan để oxid hóa
các chất hữu cơ và chuyển hóa chúng thành các sản phẩm vô cơ bền như
CO2, CO32-, SO42-, PO43- và cả NO3-). Các chỉ tiêu vật lý như: độ pH, độ
đục, tổng hàm lượng chất rắn (TS); Tổng hàm lượng chất rắn lơ lửng (SS)…Ô
nhiễm môi trường nước nghiêm trọng thể hiện ở chỗ nó làm giảm chất lượng
đất, suy giảm các nguồn lợi thủy sinh và đồng thời làm giảm chất lượng
nguồn nước kể cả nguồn nước mặt lẫn nước ngầm. Ô nhiễm môi trường nước
sẽ gây ra những bệnh ngoài da, bệnh đường ruột, đau mắt hột…, ảnh hưởng
không nhỏ đến sức khỏe người lao động.
Ngoài việc ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của người lao động mà nó còn
gây ô nhiễm nghiêm trọng tới nguồn nước sinh hoạt của cộng đồng dân cư, vì
ở nhiều nơi, nhiều vùng hiện nay, nguồn nước sinh hoạt của người dân vẫn
chưa được dùng nước máy. Ngoài ra nó còn làm giảm tài nguyên đất trồng
trọt, giảm sút các nguồn thủy sản trên các con sông và ảnh hưởng đến chất
lượng cuộc sống con người.
Làng nghề càng phát triển thì nguy cơ ô nhiễm làng nghề đang càng gia
tăng, người lao động trong các làng nghề chịu ít nhất là 3 tác động tiêu cực
trong môi trường lao động. Đó là nhiệt độ cao, bụi và tiếng ồn hoặc mặt bằng
20
nhà xưởng. Nếu làm việc trong môi trường độc hại, nhiều nguy hiểm, người

lao động sẽ chịu hậu quả là làm giảm năng suất lao động, suy giảm về sức
khỏe, tăng nguy cơ mắc bệnh tật, điều này sẽ làm tăng chi phí khám chữa
bệnh, giảm thu nhập của người lao động, càng gây khó khăn hơn cho cuộc
sống sinh hoạt của mỗi gia đình, đồng thời lan tỏa ảnh hưởng đến phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương. Đó chính là những biểu hiện gây nên sự thiếu
bền vững trong sự phát triển của làng nghề.
1.2.3. Ý nghĩa của việc phát triển bền vững làng nghề đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội tại địa phương
Trong công cuộc CNH - HĐH đất nước, làng nghề cũng đóng vai trò
quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Ở các nước
phát triển cũng có những mô hình như “mỗi làng một sản phẩm” ở Nhật Bản,
Thái Lan, “mỗi phố một sản phẩm” ở Thượng Hải, Trung Quốc; “trở về làng
quê” của Indonexia… và những mô hình này ra đời từ rất sớm và phát triển
mạnh mẽ. Sự phát triển các mô hình đó cũng cho thấy sự phát triển làng nghề
góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy phát triển nền công nghiệp –
tiểu thủ công nghiệp của mỗi quốc gia.
Sự phát triển của làng nghề cùng với các điều kiện thuận lợi về các loại
hình dịch vụ tiểu thủ công nghiệp sẵn có trên địa bàn và sự liên kết hợp tác
một cách rộng lớn giữa các cơ sở sản xuất trong làng nghề thì sẽ tạo bước
chuyển biến lớn trong sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. PTBV
các làng nghề sẽ tạo điều kiện cho sự trao đổi mua bán sản phẩm cũng như
các hoạt động dịch vụ khác ngay trong nội bộ làng nghề. Điều đó sẽ có tác
dụng làm giảm thiểu chi phí sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
của mỗi cơ sở và từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của làng nghề. PTBV
góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn ở chỗ nó tạo ra cơ cấu kinh tế
mới, hợp lí và hiện đại ở nông thôn. Ngoài ra, sự phát triển của làng nghề
21
cũng góp phần mở rộng quy mô và địa bàn sản xuất cũng như tạo ra nguồn
sản phẩm phong phú đa dạng cho xã hội.
PTBV làng nghề sẽ tạo công ăn việc làm cho một số lượng khá lớn

người lao động. Việc phát triển làng nghề sẽ thu hút lao thêm lao động tham
gia vào làm việc, giảm bớt thời gian nhàn rỗi ở nông thôn, đồng thời cũng sẽ
tăng thêm đội ngũ những người làm dịch vụ phục vụ tại các làng nghề. Từ đó
sẽ góp phần làm tăng thu nhập, cải thiện cuộc sống cho lực lượng lao động ở
nông thôn và nó còn có tác động lan tỏa kéo theo sự hình thành và phát triển
các ngành nghề khác ở nông thôn. Hơn nữa, còn có những làng nghề mà
người lao động hoàn toàn làm việc phục vụ làng nghề chứ không còn tham
gia hoạt động sản xuất nông nghiệp nữa. Điều này sẽ làm cho người lao động
ở địa phương yên tâm vào ổn định cuộc sống ở làng quê mà không còn ham
muốn ra thành thị kiếm việc làm để cải thiện cuộc sống nữa. Cũng nhờ sự
phát triển của làng nghề như thế mà bộ phận dân cư không có hoặc có rất ít
ruộng đất cũng sẽ có điều kiện nhận thêm ruộng đất để canh tác, từ đó sẽ góp
phần xóa đói giảm nghèo ở nông thôn.
Sự phát triển của làng nghề cũng sẽ lan tỏa tác động sang các vùng
khác, thu hút lao động từ các vùng khác khi hoạt động sản xuất kinh doanh
được mở rộng, từ đó sẽ góp phần tạo sự chuyển biến tích cực trong phát triển
kinh tế - xã hội của các địa phương
Ngoài ra ta cũng thấy được rằng, hoạt động làng nghề chủ yếu là quy
mô nhỏ, cơ cấu vốn và lao động cũng không lớn, trong khi đó, một khi hoạt
động sản xuất kinh doanh được phát triển mở rộng thì nhu cầu vốn cũng như
lao động cần được huy động ngày càng lớn, mà nguồn vốn như thế này lại có
thể huy động trực tiếp từ dân cư. Do vậy, đó sẽ là điều kiện thuận lợi để thu
hút nguồn vốn còn nhàn rỗi trong dân vào hoạt động sản xuất kinh doanh của
làng nghề.
22
PTBV làng nghề cũng có tác động lớn tới công tác hoàn thiện hệ thống
kỹ thuật và xã hội ở địa phương. Nhất là đối với hoàn cảnh ở nước ta, hệ
thống kỹ thuật vẫn còn chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu và nguyện vọng
của quá trình phát triển kinh tế - xã hội thì để có thể phát triển làng nghề, cần
phải chú trọng hoàn thiện hơn hệ thống kỹ thuật để có thể phục vụ tốt hơn

cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của mỗi làng nghề cũng như là của đất
nước.
Nếu làng nghề PTBV có nghĩa hoặc là các cơ sở sản xuất sẽ tập trung
vào một khu vực chung, không còn nhỏ lẻ như trước; hoặc là cũng có thể
phân tán các hộ gia đình riêng lẽ (trường hợp các làng nghề chế biến thực
phẩm). Thông qua đó, hoạt động sản xuất kinh doanh của các hộ, các doanh
nghiệp sẽ quan tâm chú trọng vào các công tác xử lý chất thải, nước thải và
các hoạt động bảo vệ môi trường khác. Đó sẽ là điều kiện thuận lợi để có thể
quy hoạch phát triển làng nghề một cách cụ thể và có hiệu quả, phục vụ mục
tiêu PTBV
Ngoài ra, PTBV làng nghề sẽ là cơ hội để có thể quảng bá hình ảnh
riêng có của địa phương nói riêng và của dân tộc Việt Nam nói chung. Thông
qua các sản phẩm độc đáo của mỗi làng nghề, cũng thể hiện được nét đặc sắc
của văn hóa dân tộc, các giá trị văn hóa lâu đời của dân tộc, qua các thế hệ
phát triển, các giá trị văn hóa này sẽ được gìn giữ, bảo tồn và không ngừng
phát triển. Thông qua “thương hiệu” riêng của làng nghề mà địa phương sẽ
được nhiều vùng khác, nơi khác biết đến. Cũng từ đây, tạo điều kiện cho sự
phát triển ngành du lịch, vì nếu làng nghề càng phát triển, điều kiện kinh tế
càng phát triển thì sẽ thu hút du khách đến tham quan, giải trí để tìm hiểu,
thỏa mãn những nhu cầu của mình.
Sự PTBV của hệ thống các làng nghề sẽ đóng vai trò, vị trí nhất định
đối với sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương, tùy thuộc vào mức độ
23
phát triển của mỗi làng nghề sẽ xác định một ý nghĩa nhất định của mình. Qua
quá trình phát triển của các làng nghề ở nước ta thời gian qua, chúng ta cũng
thấy rõ được rằng, hệ thống làng nghề đã đóng góp đáng kể vào thành tựu
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương nói riêng và đất nước nói chung,
góp phần không nhỏ vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế NN - NT cũng
như chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển bền vững làng nghề

1.3.1. Các nhân tố thuộc cấp độ quản lý nhà nước
Các nhân tố thuộc cấp độ quản lý nhà nước ảnh hưởng đến sự PTBV
làng nghề đó chính là khuôn khổ pháp luật, chính sách quản lý, hỗ trợ của nhà
nước, địa phương; quy hoạch phát triển làng nghề và xây dựng kết cấu hạ
tầng ở địa phương.
1.3.1.1. Khuôn khổ pháp luật, chính sách quản lý, hỗ trợ của nhà nước, địa
phương
Khuôn khổ pháp luật, chính sách quản lý, hỗ trợ của nhà nước, địa
phương là nhân tố không thể thiếu được để đảm bảo cho sự PTBV làng nghề.
Đó là nhân tố không thể thiếu được để đảm bảo cho sự phát triển của bất kỳ
hoạt động kinh tế nào trên đất nước. Yếu tố này thể hiện ở chỗ nó có đối xử
bình đẳng giữa các thành phần kinh tế hay không, chính sách hỗ trợ của nhà
nước đối với các thành phần kinh tế như thế nào. Một sự thay đổi chính sách,
pháp luật sẽ tác động mạnh mẽ tới sự tồn tại và phát triển của làng nghề.
Mặt khác do các chính sách mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế của nước
ta cũng như là việc Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO
cũng phần nào làm cho các sản phẩm của làng nghề có thêm điều kiện phát
triển và mở rộng hoạt động xuất khẩu do có điều kiện để mở rộng thị trường
tiêu thụ, đặc biệt là các sản phẩm thuộc loại thủ công mỹ nghệ, mang bản sắc
độc đáo riêng. Tuy nhiên, việc mở cửa hội nhập mạnh mẽ cũng có tác động
24
hai mặt. Hàng hóa nước ngoài qua đây mà cũng có thể tràn vào nước ta, nhất
là các sản phẩm cùng loại có thể cạnh tranh với các sản phẩm từ làng nghề,
gây ra những khó khăn nhất định đối với các làng nghề. Đặc biệt, do tình hình
khủng hoảng tài chính toàn cầu diễn ra mạnh mẽ, đến nay vẫn đang tác động
xấu đến nền kinh tế các nước phát triển và ảnh hưởng lan sang toàn thế giới
thì không chỉ sản phẩm làng nghề mà sản phẩm của nhiều ngành nghề khác
cũng phải chịu những tác động xấu nhất định. Nhiều cơ sở sản xuất kinh
doanh, đặc biệt là cơ sở làng nghề sản xuất hàng xuất khẩu đều gặp nhiều khó
khăn.

Ngoài ra sự quan tâm của các cấp chính quyền, địa phương đối với sự
hoạt động của các làng nghề cũng mang lại những tác động tích cực góp phần
không nhỏ vào sự phát triển của các làng nghề. Nếu chính quyền địa phương
có sự quan tâm đúng mực, ưu tiên cho sự phát triển của làng nghề thì các làng
nghề sẽ có điều kiện phát triển mạnh mẽ.
1.3.1.2. Quy hoạch phát triển làng nghề
Việc quy hoạch phát triền làng nghề của các địa phương sẽ tạo nên sự
phát triển làng nghề một cách có hệ thống, có định hướng và có sự hỗ trợ của
địa phương, hỗ trợ cả về nguồn vốn cũng như là xây dựng hệ thống kỹ thuật
tại khu vực có làng nghề hoạt động. Việc quy hoạch mặt bằng tập trung sản
xuất sẽ góp phần giải quyết được vấn đề môi trường, đưa ra được các biện
pháp bảo vệ môi trường cũng như xử lý ô nhiễm môi trường một cách có hệ
thống. Quy hoạch phát triển làng nghề sẽ định hướng phát triển, khôi phục,
phát triển các cơ sở ngành nghề nông thôn, các làng nghề truyền thống và
thực hiện chính sách “mỗi làng một nghề” của nhà nước. Việc quy hoạch phát
triển làng nghề cũng sẽ tạo điều kiện phát triển các ngành nghề có lợi thế về
nguyên liệu tại chỗ, có thị trường tiêu thụ ổn định, và thông qua đó sẽ gắn kết
các mục tiêu kinh tế - xã hội và môi trường với nhau.

×