Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Luận văn thạc sỹ: Phát triển hoạt động kinh doanh tại công ty cổ phần chứng khoán An Thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.85 MB, 95 trang )

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Ngân hàng - Tài chính
trường Đại học Kinh tế quốc dân đã đóng góp nhiều ý kiến quý báu giúp tôi
hoàn thiện đề tài, tôi đặc biệt gửi lời cảm ơn đến PGS TS. Trần Đăng Khâm,
TS. Lê Thị Hương Lan đã nhiệt tình hướng dẫn và chỉ bảo tôi trong quá trình
hoàn thiện luận văn Thạc sỹ của mình.
Bên cạnh sự trợ giúp về mặt lý thuyết và phương pháp, để hoàn thiện
được luận văn, tôi cũng có được sự giúp đỡ nhiệt tình về mặt cung cấp tài liệu
từ phía Công ty cổ phần chứng khoán An Thành. Vì vậy, tôi xin chân thành
gửi lời cảm ơn đến các lãnh đạo phòng ban của công ty, đặc biệt là sự giúp đỡ
của TS. Phạm Ngọc Phú – Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc công ty đã
tạo điều kiện thuận lợi cho tôi tiếp cận nguồn tài liệu để nghiên cứu.
Tôi cũng xin cảm ơn các bạn bè, đồng nghiệp đã có những đóng góp
thiết thực về mặt thực tiễn trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng
khoán giúp tôi có những hiểu biết sâu sắc hơn trình bày trong luận văn của
mình. Bên cạnh đó tôi cũng chân thành cảm ơn sự động viên không nhỏ về
mặt tinh thần và tư vấn các thủ tục cần thiết trong quá trình hoàn thiện luận
văn của các bạn học viên các lớp chuyên nghành Quản trị kinh doanh và Tài
chính – Ngân hàng mà tôi đã theo học.
Xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
NHỮNG CÔNG TY LIÊN QUAN: ATSC KHÔNG CÓ CÔNG TY MẸ, CÔNG TY CON, CÁC CÔNG TY CHI
PHỐI ATSC HOẶC BỊ ATSC CHI PHỐI

36
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1 ATSC Công ty cổ phần chứng khoán An Thành
2 BCTC Báo cáo tài chính
3 CK Chứng khoán
4 CTCK Công ty chứng khoán
5 ĐHĐCĐ Đại hội đồng cổ đông


6 DT Doanh thu
7 EURS Công ty cổ phần chứng khoán Erowindow
8 GD Giao dịch
9 GDCK Giao dịch chứng khoán
10 GDP Tổng sản phẩm quốc nội
11 HĐ Hoạt động
12 HĐKD Hoạt động kinh doanh
13 HĐQT Hội đồng quản trị
14 KLS Công ty chứng khoán Kim Long
15 OTC Thị trường giao dịch phi tập trung
16 SSI Công ty chứng khoán Sài Gòn
17 TAS Công ty cổ phần chứng khoán Tràng An
18 TLS Công ty chứng khoán Thăng Long
19 TP.HCM Thành phố Hồ Chí Minh
20 TTCK Thị trường chứng khoán
21 UBCKNN Ủy ban chứng khoán Nhà nước
22 VCSC Công ty cổ phần chứng khoán Bản Việt
23 VDS Công ty chứng khoán Rồng Việt
24 VNDS Công ty chứng khoán Vndirect
25 WSS Công ty cổ phần chứng khoán Phố Wall
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
BẢNG
NHỮNG CÔNG TY LIÊN QUAN: ATSC KHÔNG CÓ CÔNG TY MẸ, CÔNG TY CON, CÁC CÔNG TY CHI
PHỐI ATSC HOẶC BỊ ATSC CHI PHỐI

36
BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Doanh thu các hoạt động qua các năm Error: Reference
source not found
Biểu đồ 2.2: Các biểu đồ cơ cấu doanh thu các hoạt động năm 2008, năm

2009 và 9 tháng đầu năm 2010 Error: Reference source not
found
Biểu đồ 2.3: Doanh thu hoạt động môi giới qua các năm Error: Reference
source not found
Biểu đồ 2.4: Doanh thu hoạt động tư vấn doanh nghiệp Error: Reference
source not found
Biểu đồ 2.5: Doanh thu hoạt động đầu tư chứng khoán và góp vốn Error:
Reference source not found
SƠ ĐỒ
NHỮNG CÔNG TY LIÊN QUAN: ATSC KHÔNG CÓ CÔNG TY MẸ, CÔNG TY CON, CÁC CÔNG TY CHI
PHỐI ATSC HOẶC BỊ ATSC CHI PHỐI

36
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tuy mới ra đời được 10 năm nhưng trong 4 năm gần đây, thị trường
chứng khoán Việt Nam đã chứng kiến sự phát triển bùng nổ mạnh mẽ, cả về
cung - cầu hàng hoá, mức vốn hóa thị trường, đặc biệt là sự gia tăng đột biến
số lượng các CTCK trên thị trường dẫn đến sự cạnh tranh khốc liệt trong giai
đoạn hiện nay.
Thống kê một số nước trong khu vực cho thấy, các nước có TTCK phát
triển khá lâu và có quy mô lớn hơn nhiều so với Việt Nam như Thái Lan hay
Trung Quốc cũng chỉ có khoảng 50 đến 100 CTCK. Trong khi đó, TTCK nhỏ
bé và còn non trẻ của Việt Nam hiện nay đã có tới hơn 100 CTCK đang hoạt
động. Điều đó cho thấy mức độ cạnh tranh khốc liệt đến mức nào. Với tình
trạng như vậy thì dự đoán trong tương lai, có rất nhiều Công ty yếu kém, hoạt
động không hiệu quả sẽ bị phá sản hoặc bị thôn tinh, sáp nhập.
Công ty cổ phần chứng khoán An Thành ra đời và đi vào hoạt động từ
tháng 12 năm 2007 đến nay mới được hơn 03 năm, với qui mô vốn điều lệ còn
thấp (41 tỷ đồng) và phạm vi hoạt động còn hạn chế. Trong bối cảnh cạnh tranh

gay gắt với hàng loạt các CTCK khác thì việc phát triển các hoạt động kinh
doanh là một nhiệm vụ quan trọng để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của của
công ty
Xuất phát từ nhận thức trên tôi đã chọn đề tài “Phát triển hoạt động
kinh doanh tại công ty cổ phần chứng khoán An Thành” làm luận văn thạc
sỹ của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Tổng kết đánh giá thực trạng hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần
chứng khoán An Thành, phân tích những thuận lợi, khó khăn, những kết quả
đạt được, những hạn chế và nguyên nhân trong quá trình hoạt động.
1
Đề xuất các giải pháp nhằm phát triển các hoạt động kinh doanh của
công ty cổ phần chứng khoán An Thành.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là công ty cổ phần chứng khoán An Thành.
Phạm vi nghiên cứu là các hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần
chứng khoán An Thành.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài sử dụng phương pháp luận cơ bản như: Phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử kết hợp với logic học; phương pháp nghiên cứu
tài liệu, tổng hợp, phân tích hệ thống hoá, so sánh; phương pháp chuyên gia
để lấy ý kiến của các chuyên gia về lĩnh vực nghiên cứu.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Hệ thống hoá các hoạt động của một CTCK trên thị trường chứng khoán
Việt Nam
Phân tích thực trạng các hoạt động kinh doanh của CTCK An Thành,
những thiếu xót và bất cập trong quá trình hoạt động
Hoạch định chiến lược phát triển và đưa ra các giải pháp nhằm phát triển
các hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần chứng khoán An Thành và
tăng cường khả năng cạnh tranh của Công ty, đồng thời có một số kiến nghị

đối với các cơ quan quản lý Nhà nước nhằm ổn định và phát triển kinh tế.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán
Chương 2: Thực trạng hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần
chứng khoán An Thành
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động kinh doanh tại công ty cổ
phần chứng khoán An Thành
2
CHƯƠNG 1
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA
CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1.1. Khái niệm về công ty chứng khoán
Công ty chứng khoán là một tổ chức trung gian tài chính thực hiện các
nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán. Trong đó, nghiệp vụ đặc thù nhất của
một công ty chứng khoán nói chung là môi giới chứng khoán.
Theo luật chứng khoán Việt Nam năm 2007 thì CTCK được thực hiện
một, một số hoặc toàn bộ nghiệp vụ kinh doanh sau: Môi giới chứng khoán,
Tự doanh chứng khoán, Bảo lãnh phát hành chứng khoán và tư vấn đầu tư
chứng khoán. Ngoài các nghiệp vụ kinh doanh nói trên, CTCK được cung cấp
dịch vụ tư vấn doanh nghiệp và các dịch vụ chứng khoán khác. Ngoài ra,
CTCK chỉ được phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán
khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh chứng khoán
•Các mô hình kinh doanh chứng khoán
Hiện nay trên thế giới có hai mô hình kinh doanh chứng khoán cơ bản.
Thứ nhất là mô hình chuyên doanh chứng khoán (như Việt Nam đang làm),
các tổ chức kinh doanh chứng khoán này thường được gọi là công ty chứng
khoán, khái niệm chung nhất về CTCK như được trình bày ở phần trên. Thứ

hai là mô hình ngân hàng đa năng, trong đó ngân hàng thực hiện cả các chức
năng kinh doanh liên quan đến chứng khoán.
Trong quá trình phát triển của TTCK cũng như của các định chế tài
chính ở các nước phát triển trên thế giới thì chức năng của các trung gian tài
chính đã có sự thay đổi đáng kể. Một mặt, các ngân hàng có xu thế mở rộng
lĩnh vực kinh doanh hướng về kinh doanh bất động sản, môi giới chứng
3
khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tham gia vào các lĩnh vực bảo hiểm,
đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới thì mặt khác, các tổ
chức tài chính phi ngân hàng như các công ty bảo hiểm, các công ty tài chính
và các công ty chứng khoán đều cố gắng cung cấp các dịch vụ ngân hàng.
Điều này xuất phát từ nhu cầu muốn đa dạng hóa các dịch vụ tài chính
nhằm đáp ứng một cách tốt nhất các nhu cầu của khách hàng -vì sự phân chia
thị trường giữa các loại hình tổ chức trung gian tài chính khác nhau đã cản trở
hoạt động đầu tư của công chúng. Chẳng hạn, muốn kinh doanh chứng khoán,
các nhà đầu tư phải thiết lập quan hệ với các CTCK, song khi cần vay tiền để
mua chứng khoán, họ lại phải đến gặp các ngân hàng. Tương tự như vậy, khi
các doanh nghiệp cần dịch vụ tín dụng hay thanh toán thì họ tìm tới các ngân
hàng thương mại, nhưng khi cần bảo lãnh, đại lý phát hành chứng khoán thì
họ lại phải tới các CTCK hoặc các ngân hàng đầu tư. Chính những bất cập
trên đã khiến cho thị trường tài chính tự hoàn thiện và phát triển theo hướng
hình thành các ngân hàng đa năng để giảm thiểu chi phí và thời gian cho các
hoạt động đầu tư.
Mặt khác, chính sự cạnh tranh trên thị trường tài chính cũng đã buộc các
trung gian tài chính phải phát triển các dịch vụ mới để đáp ứng các nhu cầu
của khách hàng và tăng thêm doanh thu.
Vì các lý do trên khiến cho các trung gian tài chính phát triển theo hướng trở
thành các ngân hàng đa năng. Như vậy theo mô hình này, các nghiệp vụ kinh
doanh trên TTCK chỉ là một phần trong số các nghiệp vụ của ngân hàng đa năng.
1.1.2. Đặc điểm của công ty chứng khoán

•Là một trung gian tài chính
Khi một doanh nghiệp muốn huy động vốn bằng cách phát hành chứng
khoán thì cần tới những nhà chuyên nghiệp mua bán chứng khoán. Đó là các
CTCK, với nghiệp vụ chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp và bộ máy tổ
4
chức thích hợp thực hiện được vai trò trung gian môi giới mua bán, phát hành
chứng khoán, tư vấn đầu tư và thực hiện một số dịch vụ khác cho cả người
đầu tư và người phát hành.
Bên cạnh đó, các CTCK còn đóng vai trò là trung gian thanh toán cho
khách hàng trong giao dịch và thanh toán. Các nhà đầu tư muốn tham gia đầu
tư trên TTCK thì phải đến các CTCK để đăng ký mở tài khoản giao dịch sau đó
thông qua CTCK để tiến hành các giao dịch của mình trên TTCK. Khi các giao
dịch được thực hiện, cần phải có sự thanh toán thì mới thực sự chuyển giao
được chứng khoán và thanh toán được tiền giữa các bên tham gia giao dịch,
đảm bảo bên mua chứng khoán nhận được chứng khoán và bên bán nhận được
tiền. Và lúc này, CTCK lại đóng vai trò là trung gian thanh toán để tiến hành
thanh toán các giao dịch chứng khoán để đảm bảo các giao dịch hoàn tất.
CTCK còn đóng vai trò là trung gian thông tin trong việc đưa những
thông tin về các công ty niêm yết, về thị trường đến với nhà đầu tư.
Trong suất quá trình thực hiện trung gian về giao dịch, thanh toán thì
CTCK cũng đóng vai trò là trung gian rủi ro. Tất cả quyết định mua, bán
chứng khoán tại thời điểm nào với mức giá bao nhiêu là do khách hàng quyết
định và CTCK chỉ là trung gian để tiến hành các giao dịch đó và giúp cho nó
được hoàn tất. vì vậy, tất cả những rủi ro liên quan đến quyết định của khách
hàng là thuộc về khách hàng, do khách hàng chịu.
•Kinh doanh có điều kiện
Theo luật chứng khoán số 70/2006/QH11 ngày 29/6/2006 của Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nghị định của Chính phủ số
14/2007/NĐ-CP ngày 19/01/2007, CTCK phải là công ty cổ phần hoặc công
ty TNHH đáp ứng các điều kiện quy định sau:

5
- Về vốn: Có vốn điều lệ thực góp tối thiểu bằng mức vốn pháp định theo
quy định tại Điều 18 Nghị định số 14/2007/NĐ-CP ngày 19/01/2007 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật chứng khoán. Vốn
pháp định cho các nghiệp vụ kinh doanh của CTCK, CTCK có vốn đầu tư
nước ngoài, chi nhánh CTCK nước ngoài có vốn góp tại Việt Nam là:
a) Môi giới chứng khoán: 25 tỷ đồng Việt Nam;
b) Tự doanh chứng khoán: 100 tỷ đồng Việt Nam;
c) Bảo lãnh phát hành chứng khoán: 165 tỷ đồng Việt Nam;
d) Tư vấn đầu tư chứng khoán: 10 tỷ đồng Việt Nam.
Trường hợp CTCK xin cấp giấy phép cho nhiều loại hình kinh doanh thì
vốn pháp định là tổng số vốn pháp định của những loại hình kinh doanh mà
CTCK được cấp giấy phép.
- Về nhân sự: Giám đốc (tổng giám đốc), các nhân viên kinh doanh
(không kể nhân viên kế toán, nhân viên văn thư hành chính, thủ quỹ) của
CTCK phải có chứng chỉ hành nghề chứng khoán. Bên cạnh đó, phải có tối
thiểu 3 (ba) người hành nghề chứng khoán cho mỗi nghiệp vụ kinh doanh.
- Về vật chất: Có đủ cơ sở vật chất, kỹ thuật phụ vụ cho việc kinh doanh
chứng khoán; để được cấp giấy phép hoạt động, CTCK cần có trụ sở đảm bảo
các yêu cầu: Quyền sử dụng trụ sở làm việc tối thiểu một năm, trong đó diện
tích làm sàn giao dịch phục vụ nhà đầu tư tối thiểu là 150 m2, có đủ cơ sở vật
chất, kỹ thuật phục vụ hoạt động kinh doanh bao gồm: sàn giao dịch phục vụ
khách hàng, thiết bị văn phòng, hệ thống máy tính cùng các phần mềm phục
vụ hoạt động giao dịch chứng khoán, trang thông tin điện tử, bảng tin để công
bố thông tin cho khách hàng, hệ thống kho, két bảo quản chứng khoán, tiền
mặt, tài sản có giá trị khác và lưu trữ tài liệu, chứng từ giao dịch đối với
CTCK có nghiệp vụ môi giới chứng khoán…Hệ thống phòng chữa cháy theo
quy định của pháp luật; có hệ thống an ninh, bảo vệ an toàn trụ sở làm việc.
• Sản phẩm mà công ty chứng khoán cung cấp là dịch vụ
Các dịch vụ mà một CTCK cung cấp như môi giới chứng khoán, tư vấn

6
đầu tư chứng khoán, tư vấn phát hành chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng
khoán, tư vấn doanh nghiệp… Chính vì đặc điểm của sản phẩm là dịch vụ
nên nó dễ thay đổi, dễ bắt chước. Vì vậy, việc cạnh tranh hiệu quả phải theo
hướng cạnh tranh bằng chất lượng, giá cả và kênh phân phối
• Hoạt động trong mối quan hệ xung đột lợi ích của nhiều đối tượng
khác nhau
Trước tiên phải kể đến là xung đột lợi ích giữa CTCK với các nhà đầu
tư. Chẳng hạn như khi CTCK thực hiện nghiệp vụ Tự doanh chứng khoán.
Trong trường hợp này sẽ có một vấn đề là nếu bên này được thì bên kia sẽ
mất. Do vậy có một khả năng có thể xảy ra là bộ phận tư vấn hay cung cấp
thông tin của CTCK sẽ có thể có những lời khuyến cáo không trung thực với
khách hàng để bộ phận Tự doanh trục lợi. Hoặc một trường hợp khác là
CTCK có thể tung ra các gói sản phẩm hấp dẫn như cầm cố, dùng đòn bẩy với
tỷ lệ cho vay cao….để kích thích cho khách hàng giao dịch nhiều. Điều này sẽ
làm tăng doanh thu cho hoạt động môi giới nhưng lại dẫn đến rủi ro cao cho
khách hàng.
Bên cạnh việc xung đột lợi ích giữa CTCK với các nhà đầu tư là xung
đột lợi ích với TTCK nói chung. Các CTCK có thể đưa ra những khuyến nghị
nhằm trục lợi cho bộ phận tự doanh hoặc môi giới của mình nhưng lại có thể
gây bất lợi cho sự phát triển không lành mạnh của TTCK
Ngoài ra, còn có xung đột lợi ích giữa nhân viên môi giới của công ty
chứng khoán với các khách hàng. Điều này xảy ra khi nhân viên môi giới đặt
lệnh cho khách hàng, đặc biệt là các khách hàng lớn đặt lệnh giao dịch với
khối lượng lớn. Vì người đặt lệnh biết trước lệnh giao dịch của khách nên có
thể chèn lệnh của mình trước khi đặt lệnh cho khách hàng hòng trục lợi.
• Phụ thuộc nhiều vào công nghệ thông tin: Công nghệ thông tin có
vai trò đặc biệt quan trọng đối với một CTCK. Nó không chỉ liên quan đến
việc xử lý thông tin nội bộ trong công ty mà còn liên quan mật thiết đến việc
7

kết nối với các Sở giao dịch chứng khoán, trung tâm lưu ký chứng khoán, khả
năng cung cấp thông tin, phát triển các sản phẩm dịch vụ và tạo điều kiện
thuận lợi cho khách hàng trong việc giao dịch chứng khoán. Do đó, công nghệ
thông tin có ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh của CTCK.
1.1.3. Vai trò của CTCK
Thứ nhất, Các CTCK là các nhà tư vấn chuyên nghiệp giúp các tổ chức
phát hành thực hiện nhanh chóng và hiệu quả các đợt phát hành chứng khoán
và cả việc đưa chứng khoán lên sàn niêm yết.
Thứ hai, Công ty chứng khoán là một trung gian tài chính không thể
thiếu giúp cho thị trường chứng khoán có thể giao dịch sôi động
Thứ ba, đối với một số quốc gia, CTCK còn có một vai trò quan trọng là
can thiệp trên thị trường, góp phần điều tiết giá chứng khoán. Theo quy định
của các nước, CTCK bắt buộc phải giành ra một tỷ lệ nhất định giao dịch của
mình để mua chứng khoán khi giá chứng khoán trên thị trường đang giảm và
bán ra khi giá chứng khoán cao.
Thứ tư, với tư cách là một trung gian tài chính, các CTCK đảm nhận
chức năng chuyển tiền mặt thành những chứng khoán có giá và ngược lại một
cách nhanh chóng và thuận tiện thông qua việc giao dịch của các nhà đầu tư
trên sàn chứng khoán.
Thứ năm, thông qua nghiệp vụ môi giới, tư vấn đầu tư, quản lý danh
mục đầu tư, các CTCK với kinh nghiệm, trình độ chuyên môn cao và uy tín
nghề nghiệp sẽ giúp cho các nhà đầu tư thực hiện các khoản đầu tư một cách
an toàn và hiệu quả .
Thứ sáu, các CTCK có vai trò cung cấp thông tin về TTCK cho các cơ
quan quản lý thị trường bao gồm các thông tin về các giao dịch mua bán trên
thị trường, thông tin về các nhà đầu tư…để giúp các cơ quan này có thể kiểm
8
soát và quản lý thị trường được hiệu quả hơn
1.2. HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.2.1. Khái niệm về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán

Theo mô hình ngân hàng đa năng thì hoạt động của các ngân hàng này là
rất đa dạng, nó cung cấp các dịch vụ tài chính bao gồm cả các dịch vụ liên
quan đến chứng khoán. Tuy nhiên, theo luật chứng khoán của Việt Nam thì
hiện các CTCK của Việt Nam đang được tổ chức theo mô hình chuyên doanh
chứng khoán và hoạt động kinh doanh chứng khoán của các CTCK là việc
thực hiện một hoặc một số các nghiệp vụ kinh doanh như môi giới chứng
khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư
chứng khoán, lưu ký chứng khoán và các dịch vụ tài chính khác để nhằm mục
đích sinh lời.
1.2.2. Các hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán
1.2.2.1.Hoạt động môi giới chứng khoán
• Khái niệm về môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là hoạt động trong đó CTCK làm trung gian thực
hiện mua, bán chứng khoán cho khách hàng và thu phí giao dịch. Khách hàng
là người đưa ra quyết định mua, bán các loại chứng khoán, khối lượng, giá cả,
thời điểm mua bán, chiến lược mua bán và chịu trách nhiệm trước các quyết
định của mình.
Trong hoạt động này, CTCK thường làm các việc như mở tài khoản cho
khách hàng, nhận và thực hiện lệnh giao dịch của khách hàng, quản lý tiền và
chứng khoán cho khách hàng, tư vấn cho khách hàng trong các hoạt động mua
bán chứng khoán.
• Qui định về các hoạt động môi giới chứng khoán
- Trong việc nhận và thực hiện lệnh cho khách hàng, Điều 33 quyết định
27/2007 của Bộ Tài chính có nêu rõ:
9
+ Công ty chứng khoán chỉ được nhận lệnh của khách hàng khi phiếu
lệnh được điền chính xác và đầy đủ các thông tin. Phiếu lệnh giao dịch phải
được người môi giới của công ty chứng khoán ghi nhận số thứ tự và thời gian
(ngày, giờ, phút) nhận lệnh tại thời điểm nhận lệnh.
+ Công ty chứng khoán phải thực hiện một cách nhanh chóng và chính

xác lệnh giao dịch của khách hàng.
+ Công ty chứng khoán phải lưu trữ các phiếu lệnh của khách hàng theo
quy định của pháp luật.
+ Mọi lệnh giao dịch chứng khoán niêm yết tại Sở giao dịch chứng
khoán, Trung tâm Giao dịch chứng khoán phải được truyền qua trụ sở chính
hoặc chi nhánh công ty chứng khoán trước khi nhập lệnh vào hệ thống giao
dịch của Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm Giao dịch chứng khoán.
+ Công ty chứng khoán chỉ được nhận lệnh của khách hàng có đủ tiền và
chứng khoán theo quy định của UBCKNN và phải có các biện pháp cần thiết để
đảm bảo khả năng thanh toán của khách hàng khi lệnh giao dịch được thực hiện.
+ Trường hợp khách hàng mở tài khoản lưu ký tại thành viên lưu ký
không phải là thành viên giao dịch, thành viên giao dịch và thành viên lưu ký
phải ký hợp đồng thoả thuận trách nhiệm đảm bảo nguyên tắc thành viên giao
dịch chịu trách nhiệm thực hiện lệnh giao dịch, thành viên lưu ký chịu trách
nhiệm kiểm tra tỷ lệ ký quỹ chứng khoán của khách hàng và đảm bảo thanh
toán cho khách hàng theo quy định pháp luật.
+ Công ty chứng khoán phải công bố về mức phí giao dịch chứng khoán
trước khi khách hàng thực hiện giao dịch.
+ Trường hợp nhận lệnh giao dịch của khách hàng qua internet, qua điện
thoại, qua fax, công ty chứng khoán phải tuân thủ Luật Giao dịch điện tử và
các văn bản hướng dẫn, đảm bảo có ghi nhận thời điểm nhận lệnh; đối với
10
lệnh nhận qua điện thoại, fax, công ty chứng khoán phải đảm bảo nguyên tắc:
xác nhận lại với khách hàng trước khi nhập lệnh vào hệ thống giao dịch, lưu
giữ bằng chứng chứng minh về việc đặt lệnh của khách hàng. Ngoài ra,
CTCK phải có biện pháp khắc phục thích hợp khi không nhập được lệnh của
khách hàng vào hệ thống giao dịch do lỗi của công ty.
- Trong việc quản lý tiền và chứng khoán cho khách hàng, Điều 32,
quyết định 27/2007 của Bộ tài chính nêu rõ:
+ Quản lý tiền của khách hàng:

a) Công ty chứng khoán phải quản lý tiền gửi giao dịch chứng khoán của
khách hàng tách biệt khỏi tiền của chính công ty chứng khoán. Công ty chứng
khoán không được trực tiếp nhận tiền giao dịch chứng khoán của khách hàng;
b) Khách hàng của công ty chứng khoán phải mở tài khoản tiền tại ngân
hàng thương mại do công ty chứng khoán lựa chọn. Công ty chứng khoán
phải báo cáo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước danh sách các ngân hàng thương
mại cung cấp dịch vụ thành toán cho mình trong vòng ba (03) ngày sau khi ký
hợp đồng cung cấp dịch vụ thanh toán với ngân hàng thương mại.
+ Quản lý chứng khoán phát hành đại chúng của khách hàng:
a) Công ty chứng khoán phải quản lý tách biệt chứng khoán của khách
hàng với chứng khoán của công ty chứng khoán;
b) Công ty chứng khoán phải gửi chứng khoán của khách hàng vào
Trung tâm Lưu ký chứng khoán trong vòng một (01) ngày làm việc kể từ
ngày nhận chứng khoán của khách hàng;
c) Công ty chứng khoán có trách nhiệm thông báo kịp thời, đầy đủ cho khách
hàng về những quyền lợi phát sinh liên quan đến chứng khoán của khách hàng;
d) Việc gửi, rút, chuyển khoản chứng khoán thực hiện theo lệnh của khách
hàng và theo quy định về đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán.
- Về trách nhiêm đối với khách hàng trong nghiệp vụ môi giới, Điều 31
11
quyết định 27/2007 của Bộ tài chính có nói:
+ Khi tư vấn cho khách hàng giao dịch chứng khoán, công ty chứng
khoán phải thu thập đầy đủ thông tin về khách hàng, không được đảm bảo giá
trị chứng khoán mà mình khuyến nghị đầu tư.
+ Công ty chứng khoán có nghĩa vụ cập nhật các thông tin về khả năng
tài chính, khả năng chịu đựng rủi ro, k’ vọng lợi nhuận của khách hàng, nhân
thân của khách hàng tối thiểu sáu (06) tháng/lần.
1.2.2.2.Hoạt động Tự doanh chứng khoán
•Khái niệm về hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán
Tự doanh chứng khoán là việc các công ty chứng khoán tiến hành các

giao dịch mua bán các loại chứng khoán cho chính mình
Thông thường chức năng chính của CTCK là cầu nối giữa nhà đầu tư với
Trung tâm giao dịch chứng khoán, người chơi chứng khoán sẽ phải đến các
CTCK để thực hiện một số thủ tục như mở tài khoản chứng khoán, lưu ký
chứng khoán và các CTCK. Khi đã là thành viên của Trung tâm Lưu ký
chứng khoán, sẽ phải mở tài khoản lưu ký của bản thân công ty tại Trung tâm
này và đồng thời mở tài khoản lưu ký cho khách hàng của mình. Song, với
nghiệp vụ tự doanh, CTCK sẽ tham gia mua bán chứng khoán như một tổ
chức độc lập, bằng chính nguồn vốn của công ty, chứ không phải bằng tài
khoản của khách hàng.
Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán có thể được thực hiện trên
các thị trường giao dịch tập trung (các sở và trung tâm giao dịch chứng
khoán) hoặc phi tập trung (thị trường OTC)… trên thị trường giao dịch tập
trung, lệnh giao dịch của các CTCK được đưa vào hệ thống và thực hiện
tương tự như lệnh giao dịch của khách hàng. Trên thị trường OTC, các hoạt
động này có thể được thực hiện trực tiếp giữa ty với các đối tác hoặc thông
12
qua một hệ thống mạng thông tin. Hoạt động tự doanh của các CTCK còn
được thực hiện thông qua hoạt động tạo lập thị trường (Ví dụ như ở Mỹ).
Trong hoạt động này, CTCK đóng vai trò nhà tạo lập thị trường, nắm giữ một
số lượng nhất định của một số loại chứng khoán và thực hiện lệnh mua bán
với các khách hàng nhằm hưởng phí giao dịch và chênh lệch giá.
•Những yêu cầu đối với công ty chứng khoán trong hoạt động tự doanh
Theo pháp luật Việt Nam, điều 34, quyết định 27/2007 ngày 24 tháng 4
năm 2007 của Bộ Tài chính có nêu rõ:
- Công ty chứng khoán phải đảm bảo có đủ tiền và chứng khoán để thanh
toán các lệnh giao dịch cho tài khoản của chính mình.
- Công ty chứng khoán phải ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước
lệnh của chính mình.
- Công ty chứng khoán phải công bố cho khách hàng biết khi mình là đối

tác trong giao dịch trực tiếp với khách hàng và không được thu phí giao dịch
của khách hàng trong trường hợp này.
- Trong trường hợp lệnh mua/bán chứng khoán của khách hàng có thể
ảnh hưởng lớn tới giá của loại chứng khoán đó, công ty chứng khoán không
được mua/bán trước cùng loại chứng khoán đó cho chính mình hoặc tiết lộ
thông tin cho bên thứ ba mua/bán chứng khoán đó.
- Khi khách hàng đặt lệnh giới hạn, công ty chứng khoán không được
mua hoặc bán cùng loại chứng khoán đó cho mình ở mức giá bằng hoặc tốt
hơn mức giá của khách hàng trước khi lệnh của khách hàng được thực hiện
1.2.2.3.Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán
• Khái niệm về hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán
Tư vấn đầu tư chứng khoán là dịch vụ mà các CTCK cung cấp cho
13
khách hàng các thông tin đã được thu thập và phân tích về các loại chứng
khoán, về tình hình thị trường và xu hướng biến động của TTCK giúp cho
khách hàng quyết định thời điểm mua bán chứng khoán; loại chứng khoán
mua bán và thời gian nắm giữ chứng khoán.
• Phân loại hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán
- Theo hình thức hoạt động tư vấn
+ Tư vấn trực tiếp: Tức là khách hàng có thể gặp gỡ trực tiếp với nhà tư vấn
hoặc sử dụng các phương tiện truyền thông như điện thoại, fax…. để hỏi ý kiến.
+ Tư vấn gián tiếp: Nhà tư vấn xuất bản các ấn phẩm hay đưa thông tin
lên những phương tiện thông tin truyền thông như internet để bất k’ khách
hàng nào cũng có thể tiếp cận được nếu muốn.
- Theo mức độ ủy quyền của hoạt động tư vấn:
+ Tư vấn gợi ý: Ở mức độ này, người tư vấn chỉ có quyền nêu ý kiến của
mình về những diễn biến trên thị trường, gợi ý cho khách hàng về những
phương pháp, cách thức xử lý nhưng quyền quyết định là của khách hàng.
+ Tư vấn ủy quyền: Với nghiệp vụ này, nhà tư vấn quyết định hộ khách
hàng theo mức độ ủy quyền của khách hàng.

• Điều kiện và nguyên tắc hoạt động tư vấn
- Điều kiện của hoạt động tư vấn:
+ Điều kiện về vốn: Vì hoạt động tư vấn là hoạt động kinh doanh hiểu biết
nên các yêu cầu về vốn tối thiểu đối với hoạt động này không lớn, lượng vốn với
nghiệp vụ này chỉ cần đủ để duy trì các hoạt động bình thường của công ty như là
thuê văn phòng, trả lương nhân viên, chi phí hành chính khách….
+ Điều kiện về nhân sự: Yêu cầu về nhân sự đối với hoạt động này
tương đối chặt chẽ. Người làm công tác tư vấn phải có kiến thức chuyên môn
rất sâu trong lĩnh vực của mình. Riêng đối với nghành chứng khoán, cán bộ tư
vấn phải có giấy phép hành nghề tư vấn chứng khoán với các yêu cầu cao hơn
những người chỉ làm môi giới thông thường.
14
- Nguyên tắc của hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán
+ Công ty chứng khoán phải thu thập và quản lý thông tin về khách hàng đã
được khách hàng xác nhận, bao gồm: Tình hình tài chính của khách hàng; Thu
nhập của khách hàng; Mục tiêu đầu tư của khách hàng; Khả năng chấp nhận rủi
ro của khách hàng; Kinh nghiệm và hiểu biết về đầu tư của khách hàng
+ Các nội dung tư vấn phải có cơ sở hợp lý và phù hợp dựa trên thông
tin đáng tin cậy, phân tích lôgic.
+ Công ty chứng khoán không được đảm bảo cho khách hàng kết quả
đầu tư trừ trường hợp đầu tư vào những sản phẩm đầu tư có thu nhập cố định;
không được, trực tiếp hay gián tiếp, bù đắp một phần hoặc toàn bộ các khoản
thua lỗ của khách hàng do đầu tư vào chứng khoán, trừ trường hợp việc thua
lỗ của khách hàng là do lỗi của công ty chứng khoán; không được quyết định
đầu tư thay cho khách hàng.
+ Công ty chứng khoán không được tư vấn cho khách hàng đầu tư vào
chứng khoán mà không cung cấp đầy đủ thông tin cho khách hàng.
+ Công ty chứng khoán không được có hành vi cung cấp thông tin sai sự
thật để dụ dỗ hay mời gọi khách hàng mua bán một loại chứng khoán nào đó.
+ Công ty chứng khoán phải bảo mật các thông tin nhận được từ người

sử dụng dịch vụ tư vấn trong quá trình cung ứng dịch vụ tư vấn trừ trường
hợp được khách hàng đồng ý hoặc pháp luật có quy định khác.
+Công ty chứng khoán phải tư vấn đầu tư phù hợp với mục tiêu đầu tư
và tình hình tài chính của khách hàng.
+ Trong trường hợp khách hàng không cung cấp đầy đủ thông tin theo
yêu cầu của công ty chứng khoán, khách hàng phải chịu trách nhiệm về kết
quả tư vấn không phù hợp của công ty chứng khoán.
1.2.2.4.Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán
•Khái niệm về bảo lãnh phát hành chứng khoán
Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực
15
hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng
khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành.
Tổ chức bảo lãnh là người chịu trách nhiệm mua hoặc chào bán chứng
khoán của một tổ chức phát hành nhằm thực hiện việc phân phối chứng khoán
để hưởng hoa hồng.
Thông thường để phát hành chứng khoán ra công chúng, tổ chức phát
hành cần phải có được sự bảo lãnh của một tổ chức bảo lãnh phát hành. Nếu
đó là một công ty lớn, với số lương chứng khoán phát hành vượt quá khả năng
của một tổ chức bảo lãnh thì cần phải có một tổ hợp bảo lãnh phát hành, bao
gồm một tổ chức bảo lãnh chính và một số tổ chức bảo lãnh phát hành phụ.
Các tổ chức bảo lãnh phát hành được hưởng phí bảo lãnh hoặc một tỷ lệ
hoa hồng nhất định trên số tiền thu được từ đợt phát hành. Phí bảo lãnh phát
hành là mức chênh lệch giữa giá bán chứng khoán cho người đầu tư và số tiền
tổ chức phát hành nhận được.
Phí bảo lãnh hoặc hoa hồng bảo lãnh cao hay thấp là tùy thuộc vào tính
chất của đợt phát hành (lớn hay nhỏ, thuận lợi hay khó khăn). Nói chung, nếu
đợt phát hành đó là đợt phát hành lần đầu tư công chúng thì mức phí hoặc hoa
hồng phải cao hơn lần phân phối sơ cấp. Đối với trái phiếu, phí bảo lãnh hoặc
hoa hồng phụ thuộc vào lãi xuất trái phiếu (lãi suất trái phiếu thấp thì phí bảo

lãnh phát hành càng cao và ngược lại).
•Các phương thức bảo lãnh phát hành chứng khoán
Việc bảo lãnh phát hành thường được thực hiện theo một trong các
phương thức sau:
- Bảo lãnh với cam kết chắc chắn: Là phương thức bảo lãnh mà theo đó
tổ chức bảo lãnh cam kết sẽ mua toàn bộ số chứng khoán phát hành cho dù có
phân phối được hết chúng hay không. Trong hình thức bảo lãnh tổ hợp theo
16
“cam kết chắc chắn”, một nhóm các tổ chức bảo lãnh thành một tổ hợp để
mua chứng khoán của tổ chức phát hành với giá chiết khấu so với giá chào
bán ra công chúng (POP) và bán lại các chứng khoán đó ra công chúng theo
giá POP. Chênh lệch giữa giá mua chứng khoán của các tổ chức bảo lãnh và
giá chào bán ra công chúng được gọi là hoa hồng chiết khấu
- Bảo lãnh theo phương thức dự phòng: Đây là phương thức thường
được áp dụng khi một công ty đại chúng phát hành bổ xung thêm cổ phiếu ở
các nước phát triển. Trong trường hợp đó, công ty cần phải bảo vệ quyền lợi
cho các cổ đông hiện hữu, và như vậy, công ty phải chào bán cổ phiếu bổ
xung cho các cổ đông cũ trước khi chào bán ra bên ngoài. Có thể sẽ có một số
cổ đông không muốn mua thêm cổ phiếu của công ty. Do vậy, công ty cần có
một tổ chức bảo lãnh dự phòng sẵn sàng mua những quyền mua không được
thực hiện và chuyển thành những cổ phiếu để phân phối ra công chúng. Có
thể nói, bảo lãnh theo phương thức dự phòng là việc tổ chức bảo lãnh cam kết
sẽ mua nốt số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết của tổ chức phát
hành và bán lại ra công chúng. Tại các nước đang phát triển, khi các tổ chức
bảo lãnh phát hành còn non trẻ và chưa có tiềm lực lớn thì phương thức bảo
lãnh phát hành dự phòng là phương thức thông dụng nhất.
- Bảo lãnh với cố gắng cao nhất: Là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ
chức bảo lãnh thỏa thuận làm đại lý cho tổ chức phát hành. Tổ chức bảo lãnh
không cam kết bán toàn bộ số chứng khoán, mà chỉ cam kết sẽ cố gắng hết
sức để bán chứng khoán ra thị trường, nhưng nếu không phân phối hết sẽ trả

lại cho tổ chức phát hành phần còn lại.
- Bảo lãnh theo phương thức bán tất cả hoặc không: Trong trường hợp
này, tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh bán một số lượng chứng
khoán nhất định, nếu không phân phối được hết sẽ hủy toàn bộ đợt phát hành.
17
- Bảo lãnh theo phương thức tối thiểu – tối đa: Là phương thức trung
gian giữa phương thức giữa phương thức bảo lãnh với cố gắng cao nhất và
phương thức bảo lãnh bán tất cả hoặc không. Theo phương thức này, tổ chức
phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh bán tối thiểu một tỷ lệ chứng khoán nhất
định (mức sàn). Vượt trên mức ấy, tổ chức bảo lãnh được tự do chào bán
chứng khoán đến mức tối đa qui định (mức trần). Nếu lượng chứng khoán bán
được đạt tỷ lệ thấp hơn mức yêu cầu thì toàn bộ đợt phát hành sẽ bị hủy bỏ.
• Điều kiện để thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán
Ngoài việc được quy định trong luật chứng khoán 2007 điều kiện về vốn
là vốn pháp định tối thiểu cho nghiệp vụ này là 165 tỷ đồng thì Điều 35,
quyết định số 27/2007/QĐ-BTC ngày 24/4/2007 của Bộ Tài chính có nêu rõ:
Công ty chứng khoán được thực hiện bảo lãnh phát hành chứng khoán
theo hình thức cam kết chắc chắn nếu đáp ứng các điều kiện sau:
- Được phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán;
- Không vi phạm pháp luật chứng khoán trong 06 tháng liên tục liền
trước thời điểm bảo lãnh;
- Tổng giá trị bảo lãnh phát hành không được lớn hơn 50% vốn chủ sở
hữu của tổ chức bảo lãnh phát hành vào thời điểm cuối quý gần nhất tính đến
ngày ký hợp đồng bảo lãnh phát hành, trừ trường hợp bảo lãnh phát hành trái
phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh;
- Có tỷ lệ vốn khả dụng trên nợ điều chỉnh trên 6% trong ba (03) tháng
liền trước thời điểm nhận bảo lãnh phát hành.
• Hạn chế bảo lãnh phát hành
Điều 36, quyết định số 27/2007/QĐ-BTC ngày 24/4/2007 của Bộ Tài
chính quy định:

Tổ chức bảo lãnh phát hành không được bảo lãnh phát hành theo hình
thức cam kết chắc chắn trong các trường hợp sau đây:
- Tổ chức bảo lãnh phát hành độc lập hoặc cùng các công ty con của tổ
18
chức bảo lãnh phát hành có sở hữu từ 10% trở lên vốn điều lệ của tổ chức
phát hành;
- Tối thiểu 30% vốn điều lệ của tổ chức bảo lãnh phát hành và của tổ
chức phát hành là do cùng một tổ chức nắm giữ.
- Trường hợp đợt phát hành có tổng giá trị cam kết bảo lãnh lớn hơn hai
(02) lần vốn chủ sở hữu của tổ chức bảo lãnh phát hành, phải lập tổ hợp bảo
lãnh phát hành. Trong trường hợp này, tổ chức bảo lãnh phát hành chính chịu
trách nhiệm ký hợp đồng bảo lãnh với tổ chức phát hành, hoàn tất hồ sơ pháp
lý về việc bảo lãnh phát hành và ký hợp đồng bảo lãnh phát hành với các tổ
chức bảo lãnh phát hành khác.
- Khi một công ty chứng khoán bảo lãnh phát hành chứng khoán, công ty
chứng khoán phải mở một tài khoản riêng biệt tại một ngân hàng đang hoạt động
hợp pháp tại Việt Nam để nhận tiền đặt mua chứng khoán của khách hàng
1.2.2.5.Lưu ký chứng khoán
Đây là hoạt động phụ trợ của một CTCK. Lưu ký chứng khoán là việc
lưu giữ, bảo quản chứng khoán và các chứng từ có giá của khách hàng, đồng
thời thực hiện các quyền của khách hàng đối với chứng khoán. Khi thực hiện
dịch vụ lưu ký chứng khoán cho khách hàng, công ty chứng khoán được phép
thu phí lưu ký chứng khoán. Trước khi được thực hiện hoạt động lưu ký,
CTCK phải là thành viên lưu ký của trung tâm lưu ký.
Điều 39, quyết định số 27/2007/QĐ-BTC ngày 24/4/2007 của Bộ Tài
chính nêu rõ Phạm vi thực hiện nghiệp vụ lưu ký chứng khoán
Công ty chứng khoán được cấp Giấy chứng nhận hoạt động lưu ký theo
quy định của Luật Chứng khoán được thực hiện cung cấp các dịch vụ sau:
- Cung cấp dịch vụ lưu ký và thanh toán các giao dịch chứng khoán cho
khách hàng;

- Cung cấp dịch vụ đăng ký chứng khoán đối với các chứng khoán phát
19
hành riêng lẻ;
- Làm đại lý chuyển nhượng theo yêu cầu của tổ chức phát hành đối với
các chứng khoán phát hành riêng lẻ.
• Nguyên tắc quản lý tài khoản lưu ký chứng khoán của khác hàng
Điều 41, quyết định số 27/2007/QĐ-BTC ngày 24/4/2007 của Bộ Tài
chính quy định về nguyên tắc này như sau:
- Mỗi khách hàng chỉ được phép mở một tài khoản lưu ký chứng khoán
và mọi bút toán thanh toán được thực hiện qua tài khoản này;
- Tài khoản lưu ký chứng khoán của khách hàng phải tách biệt với tài
khoản lưu ký chứng khoán của chính công ty;
- Công ty không được sử dụng chứng khoán trong tài khoản lưu ký
chứng khoán của khách hàng vì lợi ích của bên thứ ba hoặc vì lợi ích của
chính thành viên lưu ký;
- Công ty không được sử dụng chứng khoán của khách hàng để thanh
toán các khoản nợ của chính mình hoặc của tổ chức, cá nhân khác
1.2.2.6. Các dịch vụ chứng khoán khác
Theo quy định của Luật chứng khoán Việt Nam, các CTCK ngoài việc
được phép kinh doanh bốn nghiệp vụ chính như đã nêu ở trên (tùy theo khả
năng đáp ứng các điều kiện về vốn pháp định) thì còn được phép kinh doanh
các dịch vụ tài chính chứng khoán khác. Với trình độ phát triển của TTCK
như của Việt Nam hiện nay thì các dịch vụ mà các CTCK Việt Nam đang
cung cấp như sau:
- Tư vấn cổ phần hóa: Tư vấn cổ phần hóa là việc cung cấp dịch vụ giúp
các doanh nghiệp đang ở hình thức pháp lý chưa phải là công ty cổ phần
chuyển sang hoạt động ở hình thức công ty cổ phần. Các nhiệm vụ chính
trong nghiệp vụ này là định giá doanh nghiệp, lập kế hoạch thực hiện các thủ
tục để đấu giá cổ phần.
20

- Tư vấn chào bán chứng khoán:Là nghiệp vụ tư vấn giúp doanh nghiệp
chào bán chứng khoán cho các đối tượng khác nhau.
- Tư vấn niêm yết chứng khoán: Là nghiệp vụ niêm yết chứng khoán của
doanh nghiệp lên sàn giao dịch để cho các nhà đầu tư tự do giao dịch. Các
nhiệm vụ chính của nghiệp vụ này cũng là định giá doanh nghiệp và lập kế
hoạch thực hiện các thủ tục theo luật định để đưa chứng khoán niêm yết lên
sàn giao dịch.
- Tư vấn tài chính và tái cấu trúc doanh nghiệp: Là hoạt động sử dụng
chủ yếu đến kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm của chuyên gia tài chính
để tư vấn cho các doanh nghiệp trong vấn đề cơ cấu lại nguồn vốn tài trợ cho
doanh nghiệp, phương thức sử dụng vốn một cách hiệu quả nhất; cơ cấu lại bộ
máy tổ chức và quản lý; thậm chí là xem xét và tư vấn cả các vấn đề về nguồn
cung ứng và thị trường đầu ra, chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
- Tư vấn chia tách, sáp nhập và hợp nhất doanh nghiệp: Tư vấn cho
khách hàng mở rộng quy mô hoạt động bằng hình thức thâu tóm hay sáp
nhập, giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực quản trị kinh doanh, phát triển
bền vững sau thời k’ thâu tóm và sáp nhập này
- Cung cấp dịch vụ tín dụng liên quan đến chứng khoán: Hiện nay, mặc
dù chưa được pháp luật Việt Nam khuyến khích, nhưng các CTCK vẫn đang
làm “chui” để cung cấp các dịch vụ cho vay ký quỹ như cấm cố chứng khoán,
repo chứng khoán, hợp đồng hợp tác kinh doanh chứng khoán… Cho vay ký
quỹ là hình thức cấp tín dụng của CTCK cho khách hàng của mình để họ mua
chứng khoán và sử dụng các chứng khoán đó làm vật thế chấp cho khoản vay
đó. Khách hàng chỉ cần ký quỹ một phần, số còn lại sẽ do CTCK ứng trước
tiền thanh toán. Đến k’ hạn thỏa thuận, khách hàng phải hoàn trả đủ số tiền
chênh lệch cùng với lãi cho CTCK. Trường hợp khách hàng không trả được
21

×