Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ Văn
A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
I. LỜI MỞ ĐẦU:
- Chữ viết là hệ thống ký hiệu bằng đường nét đặt ra để ghi tiếng nói và có
những quy tắc, quy định riêng. Muốn viết đúng chính tả Tiếng Việt, ta phải tuân
theo những quy định, quy tắc đã được xác lập.
- Trong thực tế, học sinh mắc lỗi chính tả rất nhiều. Có những học sinh viết
sai hơn 10 lỗi ở một bài chính tả khoảng 60 chữ. Khi chấm bài Tập làm văn, tôi
không thể hiểu các em muốn diễn đạt điều gì vì bài viết mắc quá nhiều lỗi chính
tả. Điều này ảnh hưởng tới kết quả học tập của các em ở môn Tiếng Việt cũng
như các môn học khác, hạn chế khả năng giao tiếp, làm các em mất tự tin, trở
nên rụt rè, nhút nhát.
- Hiện nay, HS tiểu học nói chung thường viết sai chính tả, nhất là lỗi dấu
thanh, lỗi phụ âm đầu phụ âm cuối, giáo viên vẫn còn lúng túng trước thực trạng
này nên suốt thời gian dài vẫn chưa khắc phục tốt. Hậu quả là học sinh lên đến
bậc trung học, thậm chí học cao đẳng, đại học vẫn còn viết sai chính tả, nhất là
lỗi phụ âm đầu và phụ âm cuối.
- Số liệu thống kê ở các trường tiểu học về kết quả kiểm tra chất lượng cuối
năm học trong các năm gần đây cho thấy vẫn còn khoảng 30% học sinh mắc lỗi
chính tả phụ âm đầu, phụ âm cuối, lỗi dấu thanh. Nguyên nhân là do phương
pháp dạy học chưa sát, chưa phù hợp với đặc thù học sinh từng vùng miền, giáo
viên chưa thực sự quan tâm đúng mức đến việc khắc phục lỗi chính tả cho học
sinh.
- Vì lý do đó, tôi đã cố gắng thống kê, phân loại lỗi, tìm hiểu nguyên nhân
và đưa ra một số biện pháp khắc phục “để giúp học sinh giảm bớt lỗi chính tả”,
giúp các em mạnh dạn, tự tin hơn khi giao tiếp, nhằm mục tiêu đào tạo những
chủ nhân tương lai năng động, sáng tạo phù hợp với xu thế phát triển hiện nay.
1
Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ Văn
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ:
1. Thuận lợi:
- Đây là đề tài thiết thực trong việc giúp học sinh không chỉ viết đúng trong các
bài làm văn ở lớp mà còn giúp các em trong quá trình sử dụng từ ngữ đúng chính
tả trong cuộc sống.
- Năm học tôi trực tiếp dạy hai lớp 8, tôi nhận thấy học sinh ở hai lớp có khả
năng tiếp thu bài không đều. Số học sinh có khả năng lĩnh hội tri thức chủ yếu ở
lớp 8a và cách trình bài cũng có khả năng tốt hơn.
- Học sinh lớp 8 có đầy đủ sách vở, tài liệu cần thiết trong học tập.
- Đội ngũ giáo viên khá đồng đều, tham gia đầy đủ các chuyên đề thay sách, các
chuyên đề bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ.
- Hiện nay nhà trường đẫ có những thiết bị hiện đại phục vụ cho giảng dạy và
học tập. Các tài liệu tham khảo đã nhiều hơn và nhà trường thường tổ chức
những buổi sinh hoạt chuyên môn bổ ích cho giáo viên.
- Bản thân luôn cố gắng học hỏi đồng nghiệp và được sự giúp đỡ tận tình của
đồng nghiệp. Đây là thời cơ để tôi có thể nang cao nghiệp vụ chuyên môn.
2. Khó khăn:
- Đây là vùng dân cư bãi ngang nên học sinh chưa thật sự quan tâm đến việc học,
đặc biệt chí tiến thủ của học sinh chưa cao nên kết quả học tập còn yếu.
- Năng lực tiếp thu của học sinh không đồng đều, chữ viết của các em còn viết
xấu đặc biệt là lớp 8b.
- Vùng dân cư thuần nông và là dân ở tỉnh Thanh Hóa nên vẫn có một số tiếng
địa phương mà học sinh quen sử dụng hàng ngày …đều được các em đưa vào bài
văn của mình.
- Giáo viên vẫn còn một số lúng túng khi bắt gặp những từ khó hay những từ
không sử dụng thường xuyên vẫn có thể bị sai lỗi chính tả.
3.Kết quả của thực trạng:
2
Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ Văn
- Trong quá trình giảng dạy hai lớp qua khảo sát từ các bài Tập làm văn, tôi đã
thống kê được lỗi chính tả của học sinh như sau:
Khối Số
học
sinh
Số HS
không
mắc lỗi
chính tả
Số HS mắc
lỗi chính tả
từ 1 đến 5
lỗi
Số HS
mắc lỗi
chính tả
từ 6 đến
15 lỗi
Số HS
mắc
lỗi
chính
tả trên
15 lỗi.
8 57 0 7 20 30
- Chính từ thực trạng trên tôi đã quyết định chong đề tài này để giúp học sinh
giảm thiểu tối đa lỗi chính tả trong bài làm văn của mình.
B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
I. CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ TỔ CHỨC THỰC HIỆN:
1. Một là: Người giáo viên cần chú trọng việc phát hiện lỗi chính tả của học sinh
qua bài Tập làm văn và các bài viết khác:
Trong thực tế giảng dạy hàng buổi trên lớp kết hợp với quá trình học sinh
làm các bài viết Tập làm văn, tôi đã thống kê lỗi trong từng bài của học sinh.
Qua kết quả thống kê các loại lỗi, tôi thấy học sinh thường mắc phải các loại lỗi
sau:
1.1. Phát hiện lỗi về thanh điệu:
Tiếng Việt có 6 thanh điệu (ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng) thì nhiều
học sinh không phân biệt được 3 thanh hỏi, ngã, sắc. Tuy chỉ có 3 thanh nhưng
số lượng tiếng mang 3 thanh này không ít và rất phổ biến - kể cả những người có
trình độ văn hoá cao.
3
Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ Văn
Ví dụ: Sữa xe đạp, hướng dẩn, giử gìn, dổ dành, lấn lộn, lẩn lộn,…
1.2. Phát hiện lỗi về âm đầu:
1.3. Phát hiện lỗi về âm cuối:
- Học sinh thường viết lẫn lộn chữ ghi âm cuối trong các vần sau đây:
2. Hai là: Người giáo viên phải chú ý coi trọng việc phân tích các nguyên
nhân học sinh mắc lỗi trong bài làm của mình:
2.1.Nguyên nhân dẫn đến sai về thanh điệu:
Theo các nhà ngữ âm học, người Việt từ Nghệ An trở vào không phân
biệt được 2 thanh hỏi, ngã. Hay nói đúng hơn trong phương ngữ Trung và Nam
không có thanh ngã. Mặt khác, số lượng tiếng mang 2 thanh này khá lớn. Do đó
lỗi về dấu câu rất phổ biến. Một số học sinh miền Bắc thường hay lẫn lộn 2
thanh sắc, ngã với nhau.
2.2.Nguyên nhân dẫn đến sai về âm đầu:
Trong phương ngữ Bắc và Nam có sự lẫn lộn giữa các chữ ghi âm đầu
ch/tr, s/x. d/gi. Mặt khác, người Miền Nam còn lẫn lộn v và d. Ngoài ra, trong
quy ước về chữ quốc ngữ, một âm ghi bằng 2 hoặc 3 dạng (ví dụ: /k/ ghi bằng
c / k /qu …) dĩ nhiên là có những quy định riêng cho mỗi dạng, nhưng đối với
học sinh tiểu học (nhất là học sinh yếu) thì rất dễ lẫn lộn.
2.3. Nguyên nhân dẫn đến sai về âm chính:
Có 2 nguyên nhân gây ra sự lẫn lộn về âm chính trong các vần này:
- Nguyên nhân thứ nhất là do sự phức tạp của chữ quốc ngữ: Nguyên
âm /ă/ lại được ghi bằng chữ a trong các vần ay, au, các nguyên âm đôi / ie, ươ,
uô/ lại được ghi bằng các dạng iê,yê, ia, ya; ươ, ưa; uô, ua (bia - khuya, biên -
tuyến, lửa - lương, mua - muôn); âm đệm lại được ghi bằng 2 con chữ u và o (ví
dụ: huệ, hoa).
4
Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ Văn
- Nguyên nhân thứ hai là do cách phát âm lẫn lộn trong phương ngữ Nam Bộ đối
với các âm chính trong hầu hết các vần trên.
2.4. Nguyên nhân dẫn đến sai về âm cuối:
Người Miền Nam phát âm hoàn toàn không phân biệt các vần có âm cuối
n/ng/nh và t/c/ch. Mà số từ mang các vần này không nhỏ. Mặt khác hai bán âm
cuối i,u/ lại được ghi bằng 4 con chữ i/y (trong: lai/lây), u/o (trong: sau/sao) do
đó lỗi về âm cuối là lỗi khó khắc phục đối với học sinh khu vực phía Nam.
2.5. Nguyên nhân dẫn đến sai quy tắc viết hoa danh từ riêng:
Học sinh thường hay mắc lỗi này khi viết tên riêng chỉ người và tên riêng
nước ngoài, học sinh lớp tôi chủ nhiệm có khoảng 1/4 hay mắc lỗi này, nhất là
những học sinh yếu nếu không được giáo viên nhắc nhở khi đang viết chính tả.
3. Ba là: Người giáo viên cần giúp học sinh biết cách khắc phục những
lỗi chính tả thường gặp.
Thông qua giờ dạy trên lớp và những hoạt động giao tiếp khác, giáo viên
dùng những ví dụ cụ thể để yêu cầu học sinh phát hiện lỗi và sửa lỗi
II. CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN:
1. Biện pháp hạn chế các lỗi chính tả cho học sinh:
1.1. Hạn chế lỗi chính tả bằng biện pháp luyện phát âm:
- Muốn học sinh viết đúng chính tả, giáo viên phải chú ý luyện phát âm
cho học sinh để phân biệt các thanh, các âm đầu, âm chính, âm cuối vì chữ quốc
ngữ là chữ ghi âm - âm thế nào, chữ ghi lại thế ấy.
- Việc rèn phát âm không chỉ được thực hiện trong tiết Tập đọc mà được
thực hiện thường xuyên, liên tục, lâu dài trong tất cả các tiết học như Chính tả,
Luyện từ và câu, Tập làm văn…
- Với những học sinh có vấn đề về mặt phát âm ( nói ngọng, nói lắp…) giáo
viên lưu ý học sinh chú ý nghe cô phát âm để viết cho đúng. Vì vậy, giáo viên
5
Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ Văn
phải cố gắng phát âm rõ ràng, tốc độ vừa phải mới có thể giúp học sinh viết đúng
được.
1.2. Hạn chế lỗi chính tả bằng biện pháp phân tích, so sánh:
- Với những tiếng khó, giáo viên áp dụng biện pháp phân tích cấu tạo tiếng,
so sánh với những tiếng dễ lẫn lộn, nhấn mạnh những điểm khác nhau để học sinh
ghi nhớ.
Ví dụ: Khi viết tiếng “muống” học sinh dễ lẫn lộn với tiếng “muốn”, giáo
viên yêu cầu học sinh phân tích cấu tạo hai tiếng này:
- Muống = M + uông + thanh sắc
- Muốn = M + uôn + thanh sắc.
So sánh để thấy sự khác nhau: Tiếng “muống” có âm cuối là “ng”, tiếng
“muốn” có âm cuối là “n”. Học sinh ghi nhớ điều này, khi viết, các em sẽ không
viết sai.
1.3. Hạn chế lỗi chính tả bằng biện pháp giải nghĩa từ:
- Biện pháp thứ ba để khắc phục lỗi chính tả cho học sinh là giải nghĩa
từ. Việc giải nghĩa từ thường được thực hiện trong tiết Luyện từ và câu, Tập đọc,
Tập làm văn… nhưng nó cũng là viêc làm rất cần thiết trong tiết Chính tả, khi
mà học sinh không thể phân biệt từ khó dựa vào phát âm hay phân tích cấu tạo
tiếng.
- Có nhiều cách để giải nghĩa từ cho học sinh: Giáo viên có thể cho học
sinh đọc chú giải, đặt câu (nếu học sinh đặt câu đúng tức là học sinh đã hiểu
nghĩa từ), tìm từ đồng nghĩa, trái nghĩa, miêu tả đặc điểm hoặc sử dụng vật thật,
mô hình, tranh ảnh,…
Ví dụ: Phân biệt chiêng và chiên
+ Giải nghĩa từ chiêng: Giáo viên có thể cho học sinh quan sát tranh ảnh cái
chiêng hoặc miêu tả đặc điểm (chiêng là nhạc cụ bằng đồng, hình tròn, đánh bằng
dùi, âm thanh vang dội).
6
Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ Văn
+ Giải nghĩa từ chiên: Giáo viên có thể cho học sinh đặt câu với từ chiên
hoặc giải thích bằng định nghĩa (chiên là làm chín thức ăn bằng cách cho thức ăn
vào chảo dầu, mỡ, đun trực tiếp trên bếp lửa).
- Với những từ nhiều nghĩa, giáo viên phải đặt từ đó trong văn cảnh cụ thể
để giải nghĩa từ.
1.4. Hạn chế lỗi chính tả bằng biện pháp ghi nhớ mẹo luật chính tả:
- Mẹo luật chính tả là các hiện tượng chính tả mang tính quy luật chi phối
hàng loạt từ, giúp giáo viên khắc phục lỗi chính tả cho học sinh một cách rất hữu
hiệu. Ngay từ lớp 1, các em đã được làm quen với luật chính tả đơn giản như: các
âm đầu k,gh,ngh chỉ kết hợp với các nguyên âm i, e, ê, iê, ie. Ngoài ra, giáo viên
có thể cung cấp thêm cho học sinh một số mẹo luật khác như:
+ Để phân biệt âm đầu tr/ch: Đa số các từ chỉ đồ vật trong nhà và tên con
vật đều bắt đầu bằng ch, ví dụ: chăn, chiếu, chảo, chổi, chai, chày, chén, chum,
chạn, chõ, chĩnh, chuông, chiêng, choé,… chồn, chí, chuột, chó, chuồn chuồn,
châu chấu, chào mào, chiền chiện, chẫu chàng, chèo bẻo, chìa vôi…
+ Để phân biệt âm đầu s/x: Đa số các từ chỉ tên cây và tên sự vật đều bắt
đầu bằng s: Sả, si, sồi, sứ, sung, sắn, sim, sao, su su, sầu đâu, sa nhân, sơn trà, sặt,
sậy, sấu, sến, săng lẻ, sầu riêng, so đũa… sam, sán, sáo, sâu, sên, sếu, sò, sóc, sói,
sứa, sáo sậu, săn sắt, sư tử, sơn dương, san hô…
+ Luật bổng - trầm: Trong các từ láy điệp âm đầu, thanh (hay dấu) của 2
yếu tố ở cùng một hệ bổng (ngang/sắc/hỏi) hoặc trầm (huyền/ngã/nặng). Để nhớ
được 2 nhóm này, giáo viên chỉ cần dạy cho học sinh thuộc 2 câu thơ:
Em Huyền mang nặng, ngã đau
Anh Ngang sắc thuốc, hỏi đau chỗ nào
Nghĩa là đa số các từ láy âm đầu, nếu yếu tố đứng trước mang thanh huyền,
nặng, ngã thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh ngã, nếu yếu tố đứng trước mang
thanh ngang, sắc, hỏi thì yếu tố đứng sau sẽ mang thanh hỏi (hoặc ngược lại).
7
Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ Văn
Ví dụ: * Bổng
• Ngang + hỏi: Nho nhỏ, lẻ loi, trong trẻo, vui vẻ…
• Sắc + hỏi: Nhắc nhở, trắng trẻo, sắc sảo, vắng vẻ…
• Hỏi + hỏi: Lỏng lẻo, thỏ thẻ, hổn hển, thủ thỉ, rủ rỉ…
* Trầm:
• Huyền + ngã: Sẵn sàng, lững lờ, vồn vã
• Nặng + ngã: Nhẹ nhõm, đẹp đẽ, mạnh mẽ, lạnh lẽo,…
• Ngã + ngã: Dễ dãi, nghễnh ngãng, nhõng nhẽo…
+ Để phân biệt các vần dễ lẫn lộn:
Một số từ có vần ênh chỉ trạng thái bấp bênh, không vững chắc: Gập
ghềnh, khấp khểnh, chông chênh, lênh đênh, bập bềnh, chếnh choáng, chệnh
choạng, lênh khênh, bấp bênh, công kênh…
Hầu hết các từ tượng thanh có tận cùng là ng hoặc nh: oang oang, đùng đoàng,
loảng xoảng, đoàng đoàng, sang sảng, rổn rảng, ùng oàng, quang quác, ăng ẳng,
ằng ặc, oăng oẳng, răng rắc, sằng sặc, pằng pằng, eng éc, beng beng, chập
cheng, leng keng, reng reng, phèng phèng, lẻng kẻng, lẻng xẻng, ùng ùng, đùng
đùng, thùng thùng, bình bịch, thình thịch, thình thình, rập rình, xập xình, huỳnh
huỵch…
Vần uyu chỉ xuất hiện trong các từ: khuỷu tay, khúc khuỷu, ngã khuỵu,
khuỵu chân; vần oeo chỉ xuất hiện trong các từ ngoằn ngoèo, khoèo chân
2 . Biện pháp giúp học sinh nhớ quy tắc chính tả bằng việc làm các bài
tập :
Giáo viên có thể đưa ra các dạng bài tập chính tả khác nhau để giúp học
sinh tập vận dụng các kiến thức đã học, làm quen với việc sử dụng từ trong văn
cảnh cụ thể. Sau mỗi bài tập, giáo viên giúp học sinh rút ra các quy tắc chính tả để
các em ghi nhớ.
2.1. Bài tập trắc nghiệm:
8
Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ Văn
* Khoanh tròn vào chữ cái trước những chữ viết đúng chính tả:
a. Hướng dẩn b. Hướng dẫn
c. Giải lụa d. Dải lụa
e. Oan uổng f. Oan uổn
* Điền chữ Đ vào ô trống trước những chữ viết đúng chính tả và chữ S
vào ô trống trước những chữ viết sai chính tả:
Rau muốn Rau muống
Chải chuốc Chải chuốt
Giặc quần áo Giặt quần áo
* Nối các tiếng ở cột A với các tiếng ở cột B để tạo thành những từ viết
đúng chính tả:
A B
bênh trái
bên vực
bện tật
bệnh tóc
2.2. Bài tập chọn lựa:
* Chọn từ thích hợp trong ngoặc điền vào chỗ trống trong câu sau:
• Cháu bé đang uống ……… (sửa, sữa)
• Học sinh … mũ chào thầy giáo. (ngả, ngã).
• Đôi …… này đế rất …… (giày, dày)
• Sau khi ……. con, chị ấy trông thật …… (xinh, sinh)
* Chọn từ thích hợp trong ngoặc điền vào chỗ trống trong câu sau:
• Học sinh …. đèn học bài… đêm khuya. (trong, chong)
• Lan thích nghe kể……….hơn đọc……… (truyện, chuyện)
• Trời nhiều …… , gió heo ………lại về. (mây, may)
2.3. Bài tập phát hiện:
9
Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ Văn
* Tìm từ sai chính tả trong câu sau và sửa lại cho đúng:
• Xuân diệu là một nhà thơ trử tình nổi tiếng.
• Cả phòng khéc lẹc mùi thuốc lá.
• Lá vàng bay liệng trong gió chiều.
• Bức tườn bị nức ngang nức dọc.
2.4. Bài tập điền khuyết:
* Điền vào chỗ trống:
• l/n: lành…. ặn, nao…úng,…anh lảnh
• s/x: chim…ẻ, san…ẻ, …ẻ gỗ. …uất khẩu, năng….uất.
• ươn / ương: bay l… , b…. chải, bốn ph… , chán ch……
• iêt/ iêc: đi biền b… , thấy tiêng t…
/
, xanh biêng b…
* Điền tiếng láy thích hợp vào chỗ trống:
• Hắn bỡ…… trước cuộc sống mới lạ.
• Buổi trưa hè, trời nắng chói …….
• Dây leo chằng………, chắn cả lối đi.
• Tiếng gà kêu quang ………
2.5. Bài tập tìm từ:
Học sinh tìm từ ngữ chứa âm, vần dễ lẫn qua gợi ý nghĩa của từ, qua gợi ý
từ đồng âm, từ trái nghĩa….
* Tìm các từ chứa tiếng bắt đầu bằng ươt hoặc ươc có nghĩa như sau:
• Dụng cụ để đo, vẽ, kẻ:
• Thi không đỗ:
• Người chuyên nghiên cứu, bào chế thuốc chữa bệnh:
* Tìm các từ chỉ hoạt động:
• Chứa tiếng bắt đầu bằng r:
• Chứa tiếng bắt đầu bằng d:
10
Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ Văn
• Chứa tiếng bắt đầu bằng gi:
. Chứa tiếng có vần ươt:
• Chứa tiếng có vần ươc:
* Tìm từ ngữ có thanh hỏi hoặc thanh ngã có ý nghĩa như sau:
• Trái nghĩa với từ thật thà:
• Đoạn đường nhỏ hẹp trong thành phố:
• Cây trồng để làm đẹp:
• Khung gỗ để dệt vải:
2.6. Bài tập phân biệt:
Đặt câu để phân biệt từng cặp từ sau:
2.7. Bài tập giải câu đố
* Em chọn tr hay ch để điền vào chỗ trống rồi giải câu đố sau:
Mặt… òn, mặt lại đỏ gay
Ai nhìn cũng phải nhíu mày vì sao
Suốt ngày lơ lửng… ên cao
Đêm về đi ngủ, ….ui vào nơi đâu?
(là gì?)
* Em chọn dấu hỏi hay dấu ngã để đặt trên những chữ in đậm rồi giải
câu đố sau: Cánh gì cánh chẳng biết bay
Chim hay sà xuống nơi đây kiếm mồi
Đôi ngàn vạn giọt mồ hôi
Bát cơm trắng deo, đia xôi thơm bùi.
(là gì?)
3. Biện pháp vận dụng cách khắc phục lỗi chính tả trong thực tế giảng dạy.
- Việc phát hiện lỗi chính tả, thống kê, tìm nguyên nhân gây lỗi, từ đó đưa ra
các biện pháp khắc phục là rất cần thiết, không thể thiếu trong quá trình dạy - học
Tiếng Việt. Nhưng không phải chỉ đưa ra các biện pháp khắc phục là có thể thực
11
Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ Văn
hiện một cách có hiệu quả. Sửa chữa, khắc phục lỗi chính tả là cả một quá trình
lâu dài, đòi hỏi người giáo viên phải kiên trì, bền bỉ, không được nóng vội. Bởi vì
có những học sinh tiến bộ ngay trong vài tuần nhưng cũng có những học sinh thì
sự tiến bộ diễn ra rất chậm, không phải vài tuần, có khi vài tháng, thậm chí cả một
học kỳ. Nếu giáo viên không biết chờ đợi, nôn nóng thì chắc chắn sẽ thất bại.
- Ngay từ khi các em mới bắt đầu “làm quen” với Tiếng Việt, giáo viên nên
hướng dẫn các em thật tỉ mỉ về các quy tắc chính tả, quy tắc kết hợp từ, quy tắc
ghi âm chữ quốc ngữ… tránh trường hợp học sinh vì thiếu hiểu biết dẫn đến sai
sót.
- Trong quá trình giảng dạy, giáo viên luôn quan sát, kiểm tra, … từ đó phát
hiện ra những khó khăn, vướng mắc, hoặc những lỗi mà học sinh hay mắc phải để
kịp thời sửa chữa, uốn nắn.
- “Ở đâu có thầy giỏi. ở đó có trò giỏi”. Vì vậy người giáo viên cần phải
không ngừng học hỏi, tự tìm hiểu, nghiên cứu để nâng cao trình độ, tay nghề. Có
nắm chắc kiến thức, giáo viên mới có thể giúp học sinh chữa lỗi và khắc phục lỗi
một cách có hiệu quả.
C. KẾT LUẬN:
I. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
Trong quá trình đứng lớp, tôi đã áp dụng các biện pháp trên và nhận thấy
học sinh đã có tiến bộ khá rõ rệt. Bản thân các em cũng ý thức hơn khi viết bài
nên bài viết ít mắc lỗi chính tả. Những em trước kia thường sai 9, 10 lỗi thì nay
chỉ còn 3, 4 lỗi, những em trước kia sai 5, 6 lỗi thì nay chỉ còn 1, 2 lỗi… Tuy rằng
đây mới chỉ là kết quả hết sức khiêm tốn và việc “giúp học sinh giảm bớt lỗi
chính tả” là một quá trình lâu dài song tôi vẫn cảm thấy rất vui vì công việc mình
làm đã bước đầu có hiệu quả. Kết quả cụ thể như sau:
II. KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT:
12
Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ Văn
- Mục đích dạy chính tả là hình thành cho học sinh năng lực viết thành thạo
thuần thục chữ viết tiếng Việt theo các chuẩn chính tả, tức là giúp HS hình
thành các kỹ xảo chính tả. Đó là "những yếu tố tự động hoá của các hoạt động
có ý thức, được sinh ra trong quá trình thực hiện hoạt động đó", bao hàm cả
những kĩ xảo vận động, kỹ xảo trí tuệ trong đó có kỹ xảo chính tả.
Hình thành kỹ xảo chính tả cho học sinh tức là giúp cho các em viết đúng chính
tả một cách tự động, không cần phải trực tiếp nhớ tới các quy tắc chính tả,
không cần đến sự tham gia của ý chí. Ta có thể tiến hành theo hai cách sau để
đạt được điều này: có ý thức và không ý thức.
- Thường ta gọi phương pháp máy móc, cơ giới là cách không ý thức và
chủ trương dạy chính tả không cần biết đến sự tồn tại các quy tắc chính tả,
không cần hiểu mối quan hệ giữa ngữ âm và chữ viết, những cơ sở từ vựng và
ngữ pháp của chính tả, mà chỉ đơn thuần là việc viết đúng từng trường hợp, từng
từ cụ thể. Tất nhiên, cách dạy này tốn nhiều thời gian, công sức và không thúc
đẩy sự phát triển tư duy, chỉ củng cố trí nhớ máy móc ở một mức độ nhất định.
- Cũng cần biết rằng, gần đây, một số nhà nghiên cứu về vấn đề dạy - học chính
tả lại có xu hướng khẳng định trong các cách học, cách "nhớ từng chữ một"
được coi là giải pháp hữu hiệu và hợp lý hơn cả, nhất là đối với HS tiểu học, vì
HS nhỏ tuổi có khả năng nhớ máy móc khá tốt, khả năng học thuộc khá nhanh.
Tất nhiên, theo cách này, GV chỉ cần hướng dẫn HS tập trung nhớ mặt chữ
của những từ dễ viết sai. Hơn nữa, những từ dễ viết sai này chiếm tỉ lệ không
nhiều, nên HS có thể ghi nhớ được.
- Xác định nội dung giảng dạy chính tả sẽ góp phần khắc phục lỗi chính tả ở
HS. Nội dung giảng dạy chính tả phải theo khu vực và sát hợp với phương
ngữ. Nghĩa là phải xuất phát từ tình hình thực tế mắc lỗi chính tả của HS ở
từng khu vực, từng miền để hình thành nội dung giảng dạy, điều quan trọng là
phải xác định được trọng điểm chính tả cần dạy cho HS theo từng khu vực,
13
Sáng kiến kinh nghiệm Ngữ Văn
từng địa phương. Các trọng điểm chính tả này càng được xác định cụ thể, chi
tiết càng tốt.
- Rõ ràng, mỗi địa phương có một số trọng điểm chính tả riêng. Chính vì vậy,
GV cần chú ý vận dụng nguyên tắc dạy chính tả theo địa phương, theo khu vực.
Nguyên tắc này yêu cầu GV trước khi dạy cần tiến hành điều tra cơ bản để nắm lỗi
chính tả phổ biến của HS, từ đó lựa chọn nội dung giảng dạy thích hợp. Ở đây cũng
lưu ý GV cần tăng cường sự linh hoạt, sáng tạo trong giảng dạy, cụ thể trong việc
xây dựng nội dung bài sao cho sát hợp với đối tượng HS lớp mình dạy. Ở một
chừng mực nào đó, có thể lược bớt những nội dung giảng dạy trong sách giáo khoa
xét thấy không phù hợp với HS lớp mình dạy, đồng thời bổ sung những nội dung
dạy cần thiết mà không có trong sách giáo khoa.
- Với kết quả nghiên cứu của mình, tôi không có tham vọng đưa ra các biện
pháp nhằm giải quyết vấn đề một cách tổng thể mà chỉ xin nêu một số kinh
nghiệm ít ỏi của cá nhân tôi tích luỹ được trong quá trình giảng dạy. Rất mong
nhận được ý kiến đóng góp để vấn đề nghiên cứu này được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
14