Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

skkn một số biện pháp khắc phục tình trạng học sinh học yếu , kém môn ngữ văn ở trường thpt trần phú

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.79 KB, 23 trang )

A- ĐẶT VẤN ĐỀ
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Một năm bắt đầu từ
mùa xuân, đời người bắt đầu từ tuổi trẻ”. Nhà nước ta xem giáo dục
là quốc sách hàng đầu, là nghề không cho phép tạo ra phế phẩm.
Giáo dục trong nhà trường bắt đầu từ tuổi trẻ, từ thế hệ trẻ. Vì vậy,
người giáo viên có vai trò, chức năng và nhiệm vụ hết sức quan
trọng trong việc đào tạo thế hệ trẻ. Bởi mục đích của giáo dục là đào
tạo nên những con người có đủ tài và đức để phục vụ cho sự tiến bộ
xã hội.
Thế kỉ XXI đã và sẽ chứng kiến tốc độ phát triển như vũ bão
của khoa học và công nghệ. Do đó không quá khó hiểu khi giới trẻ
hiện nay có xu hướng tìm đến ngoại ngữ, tin học và các môn khoa
học tự nhiên như một sự bảo đảm cho tương lai. Điều đó đã dẫn đến
một thực trạng đáng buồn là một bộ phận học sinh coi nhẹ môn Ngữ
văn và một số môn xã hội nhân văn nói chung, dẫn đến thiếu đầu tư,
yếu kém về năng lực cảm thụ
Dạy văn trong nhà trường phổ thông đang là một thử thách lớn
đối với giáo viên hiện nay. Dạy như thế nào cho hay, cho hiệu quả
cao, tạo được sự hứng thú, say mê cho học sinh nhằm giảm thiểu số
lượng học sinh yếu kém quả thực là cả một vấn đề lớn. Có nhiều
nguyên nhân dẫn tới việc học sinh học yếu kém môn ngữ văn như:
Giáo viên dạy không hay; không cuốn hút; giáo viên chưa có những
phương pháp thích hợp kích thích sự say mê học, cảm thụ văn học
của học sinh…
1
Môn ngữ văn có vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục đạo
đức cho học sinh . Vậy, là một giáo viên giảng dạy môn ngữ văn thì
ta phải làm gì đối với những học sinh yếu kém? Đó là vấn đề mà tôi
rất quan tâm và nó luôn thôi thúc tôi trong suốt quá trình dạy học.
Thật khó nói phải có một kiến thức như thế nào cho đủ, nhưng
dạy văn phải có một kiến thức chuyên môn vững vàng. Kiến thức ấy


thể hiện ở chỗ nắm vững lịch sử văn học, hệ thống được từng vấn đề
cơ bản, chắc chắn ở từng phân môn. Chẳng hạn, cũng là văn nhưng
văn thời trung đại khác thời hiện đại về quan niệm thẩm mĩ, về thi
pháp. Cũng là văn nhưng lối tư duy của văn học dân gian và văn
chương bác học không trùng nhau. Kiến thức của người thầy mỏng
sẽ làm loạn sự tiếp nhận của học trò, không thuyết phục được đối
tượng tiếp nhận, nhất là đối tượng học sinh yếu kém.
Trong quá trình công tác tại trường THPT Trần Phú, tôi luôn
được sự hướng dẫn tận tình của BGH nhà trường, sự hướng dẫn tận
tình của tập thể HĐSP. Đặc biệt là những khó khăn mà tôi gặp phải
trong quá trình giảng dạy, rèn luyện học sinh yếu kém luôn được
đồng nghiệp chia sẻ, quan tâm. Chính sự chia sẻ nhiệt tình đó cộng
với lòng yêu nghề, luôn trăn trở trước những học sinh yếu kém đã
giúp tôi đến với đề tài: “Một số biện pháp khắc phục tình trạng
học sinh học yếu kém môn ngữ văn ở trường THPT Trần Phú”.
Đề tài nhằm đưa ra những biện pháp giúp các em học sinh yếu kém
không ngừng cố gắng học tập, góp phần đưa chất lượng giáo dục
dạy và học của nhà trường ngày một đi lên.

2
B - GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
M. Go - rơ - ki từng nói“Văn học là nhân học”, văn học có
vai trò quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của
con người.Văn học là nghệ thuật của cuộc sống, là quà tặng tinh
thần của con người, có khả năng khơi nguồn sáng tạo mãnh liệt cho
con người và tiếp tục làm phong phú cho tâm hồn bao thế hệ. Ngữ
văn là môn học chính yếu trong nhà trường phổ thông nhằm trau dồi
kiến thức cũng như rèn luyện kĩ năng nói, viết cho học sinh. Ngoài
ra, môn Ngữ văn còn góp phần hình thành nhân cách đạo đức và

nuôi dưỡng tâm hồn, ý thức dân tộc trong mỗi học sinh. Nó cung
3
cấp những kiến thức về văn học, tiếng Việt, tập làm văn Rèn luyện
năng lực tư duy cho học sinh theo hướng rèn luyện nhận thức, lí giải
và tự đề ra được những quyết định, nhằm giải quyết có hiệu quả các
tình huống có vấn đề trong học tập và đời sống. Giúp các em học
tập tốt các bộ môn khác, tiếp thu kiến thức ở các lĩnh vực đời sống
khác để học sinh trở thành những người có năng lực thực hành.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
1. Thực trạng
Ở các trường THPT, việc dạy và học văn hiện nay là vấn đề
đáng suy nghĩ. Môn ngữ văn không được đón nhận nồng nhiệt như
các môn học khác. Học sinh thờ ơ với những vấn đề đặt ra trong tác
phẩm . Số phận nhân vật, tiếng nói tâm tình của tác giả ít gây được
sự đồng cảm với các em học sinh.
Riêng ở trường THPT Trần Phú, một trường thuộc huyện, xa
thành phố, học sinh đại bộ phận là con em nông dân nghèo khó, chất
lượng đầu vào thấp. Mặt khác học sinh đầu tư nhiều vào các môn tự
nhiên, ít có điều kiện đọc sách báo, thông tin xã hội ít tiếp xúc… Vì
vậy môn văn đối với các em như một cực hình, đa số cá em học để
đối phó với kiểm tra thi cử. Thậm chí có rất nhiều em không chịu
học bài. Bài giảng tuần này tuần sau đã quên hoặc chỉ nhớ
loáng thoáng. Khi cho đề về nhà thì lên mạng chép vào, cho
lập dàn ý thì không biết cách diễn đạt thành bài văn hoàn
chỉnh.
4
Từ những sự việc trên, chúng tôi mạn phép đưa ra một
số giải pháp khắc phục tình trạng học sinh học yếu môn ngữ
văn ở trường THPT Trần Phú.
2. Kết quả của thực trạng trên.

Khi được phân công giảng dạy môn ngữ văn khối 10 ở các lớp
10B, 10I, 10H, tôi từng bước nhận diện học sinh yếu kém, phát hiện
các nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh yếu kém trước khi tìm
các biện pháp giúp đỡ các em. Ngay từ đầu năm học, sau khi tiến
hành khảo sát chất lượng đầu năm, phân tích, đánh giá kết quả đạt
được của học sinh, tôi đưa ra các dự báo về học sinh yếu kém cho
môn ngữ văn của mình. Kết quả của dự báo được cụ thể hơn khi tôi
cho các em đọc bài trên lớp và viết bài văn số 2- sau bài làm văn số
1 (bài kiểm tra chất lượng đầu năm). Kết quả thu được như sau:
Lớp 10B
HS giỏi: 1
HS khá: 7/44
HS TB: 17/44
HS yếu: 15/44
HS kém: 4/44
Lớp 10I
HS giỏi: 0
HS khá: 6/43
HS TB: 16/43 hs
HS yếu: 16/43 hs
HS kém: 5/43 hs
5
Lớp 10H
HS giỏi: 0
HS khá: 5/44 hs
HS TB: 17/44 hs
HS yếu: 16/44 hs
HS kém: 6/ 44 hs
Từ thực trạng trên, tôi mạnh dạn áp dụng một số phương pháp để
công tác dạy và học được tốt hơn, nhằm giảm thiểu số lượng học

sinh yếu kém.
III. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Rèn luyện kĩ năng đọc- hiểu.
Đọc hiểu là hoạt động duy nhất để học sinh tiếp xúc trực tiếp
với các giá trị văn học. Đọc hiểu bắt đầu từ đọc chữ, đọc câu, hiểu
nghĩa của từ và sắc thái biểu cảm, hiểu nghĩa của hình thức câu,
hiểu mạch văn, bố cục và nắm được ý chính cũng như chủ đề của
tác phẩm. Lí giải là hiểu đặc sắc về nghệ thuật và ý nghĩa xã hội
nhân văn của tác phẩm trong ngữ cảnh của nó. Trong quá trình học
đọc những học sinh khá giỏi sẽ biết cách đọc để lí giải, đọc để đánh
giá và đọc sáng tạo, phát hiện. Còn học sinh yếu kém không phải hễ
“đọc” là “hiểu”. Làm sao để biến “cái hiểu của thầy” thành cái “tự
hiểu” của trò. Đọc là cả một núi kiến thức và một núi công việc.
Đối với học sinh yếu kém trong quá trình nhận thức, đọc hiểu
văn bản. Một, tôi giúp học sinh phát hiện những chỗ không hiểu, đối
thoại để bộc lộ chỗ chưa hiểu. Giúp học sinh phát hiện những chỗ
mâu thuẫn, phi lí phi logich, khó hiểu trong văn bản, phải tìm cái
6
chưa hiểu thì mới kích thích hứng thú tìm hiểu của học sinh. Hai,
những chỗ học sinh đã hiểu mà cũng nêu vấn đề thì thực vô ích và
nhàm chán. Vì thế không đòi hỏi cái gì cũng dạy. Cần tập trung vào
chỗ học sinh khó hiểu hay không hiểu, tô đậm hay “lạ hóa” những
chỗ ấy, tạo thành vấn đề cho học sinh. Ba, vận dụng những điều đã
cung cấp, đã biết để lí giải chỗ không hiểu đó. Không bao giờ cung
cấp sẵn ngay kết quả đọc- hiểu cho học sinh.
Rèn luyện phương pháp đọc - hiểu cho học sinh đây cũng là
một trong những phương pháp đổi mới dạy học, phát huy tính tích
cực của học sinh khi làm việc với văn bản. Đối với học sinh yếu
kém, tôi đặc biệt quan tâm nhiều đến phương pháp dạy các em làm
việc nhiều với văn bản văn học từ ba cấp độ của cấu trúc văn bản:

ngôn từ, hình tượng, ý nghĩa. Trước hết học sinh phải hiểu nghĩa từ
và nghĩa câu theo theo ngữ pháp. Thứ hai phải hiểu nghĩa giữa các
câu, tức là nghĩa ngoài lời. Ví dụ nghĩa của câu:“Giật mình mình lại
thương mình xót xa” (đoạn trích Nỗi thương mình – Truyện Kiều
của Nguyễn Du) thì không phải chỉ thể hiện nỗi bàng hoàng, đau
xót, cô đơn, thương thân của Thúy Kiều, mà còn phải nêu được sự
thương cảm của nhà thơ đối với nhân vật Thúy Kiều. Nghĩa ngoài
dòng gắn với ý nghĩa của văn bản, gắn với ngữ cảnh của văn bản.
2. Rèn chính tả và chữ viết cho học sinh
Nhiều học sinh nói như thế nào thì viết như vậy. Giáo viên cần
chú ý rèn cách phát âm cho học sinh khi các em nói chưa chuẩn. Ở
lớp 10B, 10I, 10H trường THPT Trần Phú, tôi tập trung vào uốn nắn
học sinh mắc những lỗi về phát âm như:
7
Chưa chuẩn “n” và “ l”, “ x” và “s” “ ch” và Tr”
Học sinh ngọng dấu ngã, nói “ gỗ” thành “ gố” “ mỡ” thành “
mớ”… Có thể đưa ra các từ, các câu có dấu ngã để học sinh luyện.
Chưa chuẩn âm cuối như “ đêm khuya” thành “ đêm khuê”, “
thuyền” thành “ thuền”…
Giáo viên rèn cho học sinh các phân biệt phụ âm đầu, các âm
đệm, âm chính, âm cuối.
Luyện phát âm:
Muốn học sinh viết đúng chính tả, giáo viên phải chú ý luyện
phát âm cho học sinh để phân biệt các thanh, các âm đầu, âm chính,
âm cuối vì chữ quốc ngữ là chữ ghi âm - âm thế nào, chữ ghi lại thế
ấy.
Ghi nhớ mẹo chính tả, giải nghĩa từ.
Giáo viên phải đặc biệt chú ý rèn chữ cho học sinh. Yêu cầu
những em chữ xấu, viết ẩu phải có vở tập viết. Giáo viên thường
xuyên giao bài và kiểm tra. Khen thưởng kịp thời những em có tiến

bộ.
3. Rèn kĩ năng dùng từ cho học sinh
Đây là một kĩ năng khó đòi hỏi người dạy và người học phải
kiên trì. Giáo viên sửa cách dùng từ cho học sinh khi ở trên lớp trả
lời bài và sửa trong bài làm văn của học sinh. Khi chấm bài làm văn
của các em, giáo viên đánh dấu những lỗi dùng từ. Sau đó yêu cầu
học sinh sửa lại trong vở sửa lỗi. Có thể đưa ra những tình huống để
học sinh tìm từ phù hợp. Các em cũng có thể học cách dùng từ của
những bạn học tốt.
8
4. Rèn luyện năng lực viết văn nghị luận.
Nghị luận là một hoạt động phức tạp, phong phú và đa
dạng của tư duy và ngôn ngữ, là một năng lực rất tinh vi của trí tuệ
con người. Phải thông qua rèn luyện lâu dài, bền bỉ mới đạt đến
trình độ cao. Ở trường phổ thông, học sinh phải kiên trì học tập để
dần dần có năng lực và trình độ nghị luận ngày một nâng cao. Nghị
luận thường xuất hiện dưới dạng bài văn nghị luận. Đối với đối
tượng học sinh yếu kém trước khi cho các em viết thành bài, nghị
luận cần trải qua bước thành câu và thành đoạn.
4.1 Câu nghị luận
Rèn luyện học sinh yếu kém là cả một quá trình. Với những
học sinh này, mỗi giáo viên cần có phương pháp dạy thích hợp. Để
viết được một đoạn văn nghị luận, khi dạy tôi đưa ra nhiều câu văn
để các em so sánh đối chiếu từ đó nhận biết được đâu là câu nghị
luận.
Ví dụ:
Tôi viết các câu:
Những giọt sương sớm mai đang long lanh trên những chùm
lá biếc (câu 1).
Trên những cành cây đan kết thành một tán rợp, những con

chim vừa nhảy nhót chuyền cành vừa hót líu lo (câu 2).
Tình bạn là một trong những tình cảm tốt đẹp của con người
(câu 3).
9
Những khi chúng ta phải sống trong cảnh vắng vẻ, cô đơn,
chúng ta cảm thấy cần có những người bạn thân để trao đổi, giãi
bày tâm sự (câu 4).
Trên đây là 4 câu văn, hai câu trên không phải là văn nghị
luận. Câu thứ nhất là một câu miêu tả. Câu thứ hai là một câu tự sự.
Cho nên hai câu trên có thể gọi là hai câu miêu tả - tự sự. Làm văn
miêu tả hay tự sự, chúng ta thường viết những câu tương tự như
vậy. Câu 3 và câu 4 là hai câu văn nghị luận. Câu thư nhất là một
câu phán đoán, đưa ra một nhận xét, một ý kiến về tình bạn. Câu
thứ hai là một câu suy luận, đặt ra một tình huống để làm nổi bật sự
cần thiết của bạn bè, của tình bạn đối với con người.
Câu nghị luận có nhiều dạng khác nhau, song hai dạng nêu
trên là tương đối phổ biến. Trong quá trình giảng dạy học sinh yếu
kém, giáo viên có thể tóm tắt dạng câu nghị luận thành hai công
thức cho học sinh dễ hiểu: Câu phán đoán và câu suy luận.
(1)A là B (Câu phán đoán)
(2)Vì A nên B (Câu suy luận)
Công thức (1) cũng có thể có những dạng phán đoán khác như:
Tuy A nhưng B; A có thể B vv…
Đối với học sinh khá giỏi, câu nghị luận hay không nhất thiết phải
khuôn vào một công thức có sẵn nào mà phải luôn sáng tạo. Nhưng
ở học sinh yếu kém yêu cầu các em tập viết đúng kiểu câu nghị luận
đã là một thành công bước đầu của người dạy.
4.2. Đoạn nghị luận
10
Đối với đối tượng học sinh yếu kém, rèn luyện cho các em viết

được và viết đúng một đoạn văn nghị luận là cả một quá trình nỗ lực
không ngừng của thầy và trò.
Có khi một ý nghị luận đòi hỏi nhiều câu hợp thành một đoạn
nghị luận. Trở lại câu nghị luận về tình bạn ở phần trên, về tình bạn,
chúng ta có thể viết thành một đoạn. Ví dụ:
Nhiều người nghĩ rằng sống không có bạn bè, không có tình
bạn cũng không sao. Thực ra, tình bạn là một trong những tình cảm
tốt đẹp của con người. Những lúc chúng ta phải sống trong cảnh
vắng vẻ, cô đơn, chúng ta cảm thấy cần có những người bạn thân
để trao đổi, giãi bày tâm sự. Một người bạn tốt có thể giúp đỡ ta, an
ủi ta, khuyến khích ta. Ta cần đến bạn và ta cũng cần cho bạn nữa.
Trong quá trình giảng dạy học sinh yếu kém, ở đoạn văn nghị
luận về tình bạn trên, tôi giúp học sinh phân biệt:
1 câu mở đoạn
3 câu thân đoạn (hay phát triển đoạn)
1 câu kết đoạn
Đồng thời giúp học sinh thấy được một sự nghị luận đầy đủ
thường bao gồm ba khâu chính:
(1)đề xuất vấn đề trong phần mở bài
(2)giải quyết vấn đề trong phần thân bài
(3)kết thúc vấn đề trong phần kết bài
Ba phần trên đây là ba phần chủ yếu chung cho mọi bài văn
nghị luận,
dù các dạng của chúng có thể biến hóa vô cùng.
11
Làm văn là hoạt động tư duy và ngôn ngữ mang tính chủ động
và sáng tạo. Vì là đối tượng học sinh yếu kém nên trong quá trình
giảng dạy đối tượng này tôi đưa ra những đề bài phù hợp với khả
năng của các em, để các em không cảm thấy quá sức khi viết bài.
Để học sinh yếu kém viết được và viết tốt một bài văn nghị luận cần

kiên trì rèn luyện cách viết cho học sinh từ mỗi câu, mỗi đoạn cho
đến cả bài
4.3. Bố cục một bài văn nghị luận
Sau khi đã cung cấp kiến thức về bố cục bài văn cho học sinh,
giáo viên cần kiểm tra thường xuyên và yêu cầu các em thực hành.
Đối với học sinh , yêu cầu các em phải viết đúng: mở bài, các ý
phần thân bài và kết bài. Giáo viên phải giao bài thường xuyên cho
học sinh và yêu cầu các em viết bài nhiều. Khi học sinh viết xong,
giáo viên cần chấm kĩ và sửa lỗi, chỉ ra những điểm đã được và
chưa được yêu cầu học sinh phát huy và khắc phục, tránh viết nhận
xét chung chung. Giáo viên cần dành thời gian và tâm huyết cho
việc này
5. Rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh.
Làm thế nào để giúp học sinh xây dựng được ý thức tự học,
phát huy tính chủ động trong giờ học? Đây là một trong những yêu
cầu đối với giáo viên khi muốn đổi mới phương pháp dạy học. Tự
học ở nhà là một trong những nhiệm vụ chính của học sinh. Tuy
nhiên, làm thế nào để tự học có hiệu quả? Trước hết, học sinh nên
có một số sách tham khảo, vì sách tham khảo là thứ cẩm nang
không thể thiếu trong việc mở mang kiến thức. Sách tham khảo sẽ
12
giúp học sinh thuận lợi hơn trong việc tự học, dễ dàng trả lời được
những câu hỏi khó mà trong SGK không có đáp án. Nếu không có
điều kiện thì nên đến thư viện để tìm và đọc các loại sách tham
khảo, tự soạn trước bài mới ở nhà theo sự hướng dẫn cụ thể của giáo
viên.
Ngoài việc học và làm bài, học sinh yếu kém nên dành thời
gian để luyện tập viết đoạn văn, viết bài hoàn chỉnh, hoặc đọc các
sách phê bình, sách văn học để học tập thêm kỹ năng hành văn, diễn
đạt… Ngoài ra, các em nên có một cuốn Sổ tay văn học để ghi chép

lời hay ý đẹp, những câu danh ngôn, những đoạn văn - câu thơ
nhằm bổ sung thêm vốn kiến thức hoặc những lỗi chính tả thường
hay mắc phải để ghi nhớ cách viết đúng. Các em nên mua Từ điển
chính tả để tra cứu nghĩa khi gặp những từ khó hiểu và làm giàu
thêm vốn từ vựng tiếng Việt. Trong quá trình giảng dạy, tôi đã
hướng dẫn chi tiết, đặt yêu cầu cụ thể những nội dung tự học cho
tiết học sau, tuần sau rồi nâng dần yêu cầu ngày càng cao hơn để
các em có thời gian và kế hoạch học trước ở nhà. Sau đó hướng dẫn
các em soạn bài bằng các câu hỏi đọc hiểu văn bản ở SGK Ngữ văn,
các câu hỏi tìm hiểu kiến thức hoặc bài tập trong các bài tiếng Việt
hay các bài làm văn. Tôi lựa chọn một số bài đọc hiểu tác phẩm văn
học cho học sinh tự cảm nhận (cá nhân hoặc nhóm) lên lớp trình bày
sự cảm nhận của mình, tập thể lớp và giáo viên nhận xét, góp ý,
định hướng, củng cố lại. Hướng dẫn học sinh sử dụng triệt để SGK
bằng cách gạch chân những ý quan trọng bằng bút chì. Điều này
13
giúp học sinh tiết kiệm được thời gian trên lớp và có thể ôn lại bài
một cách dễ dàng trước các kỳ thi.
Việc tự học không chỉ diễn ra ở nhà mà còn cả trên lớp. Trước
giờ học các em có thể chia ra từng cặp để trao đổi bài vở, ôn luyện
và dò bài. Trong giờ học, giáo viên nên tránh tình trạng “độc diễn”
mà nên giao việc cho học sinh tích cực thảo luận, trao đổi nhóm.
Sau nội dung bài học, giáo viên dành ít thời gian để học sinh hội ý
nhóm giải quyết bài tập, những băn khoăn vướng mắc nếu có, các
thành viên còn lại hỗ trợ nhau để trình bày vấn đề. Các cá nhân khác
thống nhất ý kiến hoặc phản bác nếu có sai sót. Sau giờ học, nếu
học sinh còn có thắc mắc thì chủ động trao đổi với bạn bè hoặc
thầy, cô giáo để hiểu và nắm vững kiến thức.
Vấn đề tự học là vô cùng quan trọng. Nếu rèn luyện cho học
sinh có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ

tạo cho học sinh lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi
con người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Vì vậy, trong
quá trình dạy học, giáo viên cần nhấn mạnh mặt hoạt động học, nỗ
lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang học tập chủ
động, người giáo viên không chỉ giúp học sinh yếu kém biết cách tự
học ở nhà sau bài lên lớp mà cả tự học trong tiết học có sự hướng
dẫn của giáo viên.
6. Xây dựng các “mô hình” học tập
Ở các trường học, chúng ta vẫn thấy có phong trào đôi bạn
cùng tiến, nhóm học tập, câu lạc bộ học tập… Tôi thấy đó chính là
những mô hình hay để giúp đỡ học sinh có học lực yếu kém. Không
14
chỉ giáo viên chủ nhiệm mà cả giáo viên bộ môn cũng cần phải hiểu
rõ học sinh của từng lớp mình dạy về ưu điểm, nhược điểm, tính
cách, sự tiến bộ, suy nghĩ, tình cảm, sự trăn trở của các em… đặc
biệt là những em có học lực yếu kém để có thể xây dựng những “mô
hình học tập” phù hợp trong phạm vi từng lớp mà mình dạy.
Trên lớp, tôi cho học sinh yếu môn của mình ngồi bên cạnh
học sinh khá, giỏi để mỗi khi ra chơi có những chỗ chưa hiểu từ bài
giảng của giáo viên thì học sinh có thể trao đổi, hỏi han lẫn nhau.
Học sinh không chỉ giúp nhau ở lớp mà tôi còn định hướng, trao đổi
với bạn học sinh khá, giỏi luôn dạy kèm và giúp đỡ học sinh yếu
kém ở nhà. Tôi tin, sự giúp đỡ tận tình của không chỉ giáo viên mà
của những học sinh khá giỏi của lớp sẽ giúp những học sinh yếu
kém tiến bộ, tất nhiên sự tiến bộ ấy phải là cả một quá trình.
Ở mỗi lớp mình dạy, giáo viên có thể xây dựng 3 dến 4 nhóm
học tập, học sinh yếu kém chia đều cho mỗi nhóm. Sau mỗi buổi
học, giáo viên đưa ra câu hỏi cho các nhóm về nhà tự thảo luận và
học sinh yếu kém sẽ đại diện nhóm trả lời trong buổi học hôm sau.
Có như vậy sẽ kích thích được sự trao đổi, thảo luận, lòng ham tìm

tòi học hỏi ở học sinh, giúp các em xóa bỏ mặc cảm yếu kém và tự
tin hơn trong học tập.
7. Kết hợp phương pháp dạy học hiện đại với dạy học
truyền thống
Bên cạnh các phương pháp truyền thống như thuyết giảng,
đàm thoại, đóng tiểu phẩm, đọc diễn cảm, ngâm thơ… cũng thu hút
các em vào bài học. Khi dạy đoạn trích Trao duyên hay đoạn trích
15
Nỗi thương mình (Trích Truyện Kiều của Nguyễn Du) tôi gọi một
học sinh đọc văn bản, sau đó tôi ngâm cho các em nghe. Với hình
thức ngâm thơ như vậy, đã kích thích được các em vào bài học, đặc
biệt là đối tượng học sinh yếu kém.
Hiện nay công nghệ thông tin đã rất phát triển và được áp
dụng trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, trong đó có giáo dục. Tuy
nhiên, qua thử nghiệm và theo dõi, tôi thấy không phải bài nào cũng
có thể áp dụng công nghệ thông tin thành công. Nên chăng có lẽ chỉ
nên áp dụng nó ở phân môn tiếng việt hay tạp làm văn, còn môn
giảng văn… có lẽ nên để cho học sinh thả sức tung hoành trí tưởng
tượng của mình theo những hình tượng văn học dưới sự chỉ đạo
hướng dẫn của thầy. Bản thân tôi cũng đã từng soạn và dạy nhiều
bài giáo án điện tử như: Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, Những
yêu cầu về sử dụng tiếng việt, Lập dàn ý bài văn nghị luận, Hiền tài
là nguyên khí quốc gia, đoạn trích Trao Duyên (Tryện Kiều –
Nguyễn Du)… học sinh nghe chăm chú, thảo luận sôi nổi cũng như
ghi chép đầy đủ. Song tôi thấy, nên dạy công nghệ thông tin ở
những giờ tập làm văn, tiếng việt thì hợp hơn, dễ thành công hơn
8. Luôn gần gũi và đặc biệt quan tâm tới học sinh yếu kém.
Đối với những đối tượng học sinh yếu kém không có ý thức
học tập thì nhất định các em về nhà sẽ không học bài và làm bài. Vì
thế, để khắc phục tình hình đó, tôi đã đề ra cách giải quyết như:

trong học tập tôi thường xuyên gọi các em này phát biểu ý kiến hay
đại diện nhóm của mình trình bày kết quả thảo luận. Thường xuyên
16
gọi các em đọc bài để các em thấy rằng việc học của mình luôn
được thầy cô quan tâm.
Giáo viên thường xuyên kiểm tra bài cũ học sinh yếu kém và
kiểm tra vở soạn văn, vở luyện viết ở nhà nhiều hơn nhằm nhắc nhở
những đối tượng yếu kém chịu khó khắc phục để vươn lên trong học
tập. Việc làm trên có tác động to lớn đến nhận thức của học sinh,
giúp học sinh khắc sâu kiến thức đã học. Bên cạnh đó, phải thường
xuyên gần gũi, động viên và hướng dẫn các em, kịp thời khen ngợi
và tuyên dương trước lớp về sự tiến bộ của các em đó dù rằng sự
tiến bộ là rất ít. Có làm như vậy thì các em cảm thấy tự tin và hứng
thú hơn trong học tập. Thỉnh thoảng, giáo viên cũng gặp riêng
những học sinh yếu kém để tìm hiểu tình hình học tập và hoàn cảnh
từng em để hiểu rõ từng đối tượng mà giảng dạy cho phù hợp. Hơn
nữa, người giáo viên cũng phải chú ý đến việc coi học sinh như
người em, người bạn… của mình. Tình cảm thân tình ấy sẽ giúp cả
thầy và trò có được sự gần gũi để sẻ chia cảm xúc, suy nghĩ của
mình.
Giúp đỡ học sinh yếu kém gắn với cuộc vận động “Xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực” và “Mỗi thầy cô giáo là
một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”. Bồi dưỡng học sinh
yếu kém bằng tâm lí sư phạm, kiên trì và dài lâu, dùng các biện
pháp kích thích, động viên các em là chính, khơi dậy trong học sinh
ý chí vượt khó để tiến bộ vươn lên.
IV. HIỆU QUẢ TRONG VIỆC TRIỂN KHAI SKKN
17
Qua việc áp dụng một số phương pháp nhằm giảm thiểu học
sinh yếu kém cho học sinh môn ngữ văn khối 10, áp dụng cho các

lớp 10B, 10I, 10H, tôi thấy bước đầu đã rèn luyện cho học sinh
phương pháp đọc- hiểu. Học sinh ban đầu đọc chữ, đọc câu đã dần
biết đọc hiểu nghĩa của từ và sắc thái biểu cảm, hiểu nghĩa của hình
thức câu, hiểu được mạch văn, bố cục, nắm được chủ đề tác phẩm.
Học sinh yếu kém ít nhiều đã biết cách viết câu văn, đoạn văn, bài
văn nghị luận như thế nào. Học sinh hứng thú trong cách tìm hiểu
tác phẩm, tự giác, chủ động trong học tập, đặc biệt trong học bài cũ
và soạn bài ở nhà. Tạo không khí sôi nổi trong tranh luận tìm hiểu
vấn đề, có những phát hiện mới mẻ có tính sáng tạo trong giờ học.
Các em học sinh yếu kém đã tích cực hơn trong học tập như thường
xuyên trao đổi bài với nhau, hỏi bài với thầy cô mỗi khi gặp các bài
khó hoặc không hiểu, tích cực làm việc theo nhóm trong các tiết học
trên lớp và trao đổi thảo luận nhóm ở nhà. Nhờ đó mà số học sinh
yếu kém đã giảm rõ rệt.
Kết quả đầu năm ( trước khi áp
dụng- Thông qua khảo sát chất lượng
đầu năm)
Kết quả cuối học kì I (sau
khi áp dụng)
TS HS Giỏi Khá TB Yếu Kém Giỏi Khá TB Yếu Kém
10B(44) 1 7 17 15 4 1 12 22 7 2
10I(43) 0 6 16 16 5 1 10 23 6 3
10H(42) 0 5 17 14 6 1 9 24 6 2
Kết quả cả năm
Kết quả cả năm thông qua điểm TB các điểm bài kiểm tra
Tổng số
HS
Giỏi Khá Trung
bình
Yếu Kém

18
10B(44) 3 15 24 2 0
10I(43) 2 14 25 2 0
10H(42) 3 12 26 1 0
C- KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
* Kết luận:
Trên đây là những kinh nghiệm của bản thân tôi trong quá
trình dạy học đã áp dụng. Tất nhiên, mong muốn bao giờ cũng vượt
quá tầm thực tại của mình nên những gì đạt được tôi thấy còn chưa
thể hài lòng được. Bởi vậy, tôi mong muốn được trao đổi, chia sẻ
với các quý vị, các bạn đồng nghiệp nhiều hơn để cùng nhau rút ra
cách thức, phương pháp dạy học tốt nhất, phù hợp và mang lại hiệu
quả lớn nhất. Khi thực hiện và vận dụng SKKN, bản thân tôi đã rút
ra bài học:
Đầu năm học giáo viên phải kiểm tra khả năng tiếp thu bài của
học sinh để phân loại trình độ học sinh. Tìm hiểu và theo dõi tâm lí
của từng đối tượng học sinh. Động viên các em học yếu thông qua
các tấm gương phấn đấu trong học tập của các lớp đàn anh đi trước.
Đưa ra phương pháp học nhóm phù hợp gây hứng thú cho học sinh.
Lựa chọn cho các em những bài tập phù hợp từ đơn giản đến khó
dần. Động viên, khuyến khích các em khi có sự chuyển biến tốt (dù
chỉ là rất nhỏ). Trong quá trình rèn luyện cho các em, không nên
nóng vội mà tạo tâm lí thoải mái cho các em.
* Kiến nghị đề xuất:
Nhà trường cần quan tâm hơn nữa, tìm ra các phương pháp và
biện pháp thiết thực hơn nữa để giúp đỡ học sinh yếu kém, đồng
19
thời cần hướng dẫn cụ thể công tác phụ đạo học sinh yếu kém đến
từng giáo viên.
Cả gia đình, nhà trường và xã hội phải chia sẻ trách nhiệm

trong công tác khắc phục tình trạng học sinh yếu kém (không nên
đổ lỗi hoặc giao hẳn trách nhiệm cho giáo viên).
Thư viện của nhà trường cần có thêm nhiều tranh ảnh về tác
giả, tác phẩm, cả các tác giả và tác phẩm văn học nước ngoài,thêm
băng đĩa để giáo viên trình chiếu, giới thiệu cho học sinh, đặc biệt là
các học sinh yếu kém có điều kiện hiểu hơn về bài học.
Con đường dẫn đến thành công trong việc giảng dạy tạo cho
học sinh hứng thú học tập và học tập tiến bộ môn ngữ văn có lẽ
không phải là một con đường bằng phẳng, nhưng tôi tin các bạn sẽ
tìm cho mình một con đường với những giải pháp hay nhất để vượt
qua tất cả và hoàn thành nhiệm vụ quan trọng nặng nề mà xã hội
giao cho. Đó là “sự nghiệp trồng người”.
Nội dung SKKN trên là một phần không thể thiếu góp phần
giúp tôi hoàn thành tốt quá trình dạy học, nâng cao chất lượng dạy
học nhằm giảm thiểu học sinh yếu kém tại trường THPT Trần Phú.
Rất mong sự góp ý chân thành của quý thầy cô, nhằm giúp tôi
hoàn thiện hơn trong công tác.
Tôi xin chân thành cảm
ơn!

20
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Thanh Hóa, ngày 25
tháng 5 năm 2013
Tôi xin cam đoan đây là
SKKN của
mình viết, không sao chép
nội dung
của người khác.
Trần Thị Thùy
Dung

MỤC LỤC:
Trang
A - ĐẶT VẤN ĐỀ
………………………………………………………… 1
21
B - GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
……………………………………………… 3
I. CƠ SỞ LÍ
LUẬN……………………………………………………….3
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
……………………………… 3
1. Thực
trạng………………………………………………………… 3
2. Kết quả của thực
trạng…………………………………………… 4
III. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC
HIỆN……………………… . 5
1. Rèn luyện kĩ năng đọc –
hiểu………………………………………. 5
2. Rèn chính tả và chữ viết cho học
sinh……………………………… 6
3. Rèn kĩ năng dùng từ cho học
sinh…………………………………. 7
4. Rèn luyện năng lực viết văn nghị
luận……………………………. 7
4.1. Câu nghị
luận……………………………………………… 7
4.2. Đoạn nghị
luận………………………………………………… . 8
22

4.3. Bố cục một bài văn nghị
luận…………………………………. 9
5. Rèn luyện kĩ năng tự học cho học
sinh……………………………. 10
6. Xây dựng các “mô hình” học
tập………………………………… 11
7. Kết hợp phương pháp dạy học hiện đại với dạy học truyền
thống.12
8. Luôn gần gũi và đặc biệt quan tâm tới học sinh yếu
kém………. 13
IV. HIỆU QUẢ TRONG VIỆC TRIỂN KHAI
SKKN………………. 14
C- KẾT LUẬN VÀ ĐỀ
XUẤT 15

TÀI LIỆU THAM KHẢO
23
1. Phương pháp giảng dạy văn học – Phan Trọng Luận ( NXB
Giáo dục)
2. Sách giáo khoa và sách giáo viên ngữ văn 10
3. 199 bài và đoạn văn hay lớp 10 (NXB ĐHQG Hà Nội)
4. Đổi mới giảng dạy văn trong nhà trường (ĐHSP Huế 2002)
5.Tạp chí Văn học và tuổi trẻ
24

×