1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sốt rét là một bệnh truyền nhiễm có tính chất lưu hành tại địa phương, dễ
lây lan trong cộng đồng, dễ gây thành dịch, gây nên hậu quả nghiêm trọng về
kinh tế, xã hội và sức khỏe con người. Hơn nửa thế kỷ qua, nhân loại không
ngừng nỗ lực kiên trì thực hiện công tác phòng chống sốt rét (PCSR), thế nhưng
bệnh sốt rét vẫn là vấn đề nan giải, là một hiểm họa cho loài người đặc biệt
nghiêm trọng ở những nước đang phát triển và các nước thuộc vùng nhiệt đới
[18].
Trong lịch sử thế giới, bệnh sốt rét đã gây ra nhiều vụ dịch lớn, số người
mắc lên tới số hàng trăm triệu người, hàng triệu người đã chết vì sốt rét. Trên thế
giới có 2,7 tỷ người sống trong vùng sốt rét lưu hành (khoảng 40% dân số thế
giới). 300-500 triệu người mắc sốt rét mỗi năm, 1,2- 2,7 triệu người chết vì sốt
rét. [30].
Chương trình tiêu diệt sốt rét và PCSR đã mang lại một số kết quả, song
trong khoảng 15 năm trở lại đây chương trình gặp một số khó khăn nên bệnh sốt
rét vẫn được coi là một trong những bệnh gây tác hại hàng đầu cho một số nước
Châu Phi , Châu Á và cho toàn nhân loại.
Ở Việt Nam tình hình sốt rét cũng rất nghiêm trọng, vì Việt Nam là nước
nằm trong vùng khí hậu gió mùa, nhiệt độ và độ ẩm rất thích hợp cho bệnh phát
triển. Các yếu tố về kinh tế, xã hội như nghèo đói, dân trí thấp, giao thông đi lại
khó khăn, di biến động dân cư, phát triển các dự án kinh tế (như thủy điện, trồng
rừng, khai thác khoáng sản, làm đường ) tại các vùng sốt rét lưu hành tác động
không nhỏ đến hạn chế hay gia tăng của bệnh sốt rét. Việc thực hiện các chiến
lược thanh toán bệnh sốt rét và PCSR đã được Đảng và Nhà nước, cũng như của
các tổ chức phi chính phủ trên toàn cầu quan tâm đầu tư. Từ năm 1958-1990,
Việt Nam đã đạt được nhiều thành quả trong công tác PCSR, song do thiếu điều
2
kiện để duy trì thành quả, bệnh sốt rét đã quay lại trong vòng 10 năm từ 1991-
2000 có 10.184 người chết vì sốt rét (đỉnh cao là năm 1991: 4.646 người), 309
vụ dịch sốt rét lớn nhỏ xảy ra, có những vụ dịch làm tử vong đến 500 người như
vụ dịch sốt rét ở huyện Quế Phong tỉnh Nghệ An, năm 1991. Từ năm 1991 đến
nay Việt Nam tiến hành chương trình PCSR và đã thu được nhiều kết quả. Từ
năm 1991-2000: BNSR giảm 73,15%, tử vong SR giảm 96,81%, số vụ dịch SR
giảm rõ 98,60%. Trong chiến lược PCSR giai đoạn 2001-2010 mục tiêu chung
của nước ta vẫn là: Tiếp tục đẩy lùi bệnh sốt rét ở vùng sốt rét lưu hành nặng và
phát triển các yếu tố bền vững PCSR ngăn ngừa bệnh sốt rét quay lại [28].
Năm 1997, Quảng Nam được tách ra từ tỉnh Quảng Nam- Đà Nẵng cũ,
tình hình sốt rét của tỉnh có nhiều biến động do hầu hết các huyện miền núi đều
thuộc địa phận hành chính tỉnh Quảng Nam.
Phước Sơn là một huyện miền núi của tỉnh, nhiều năm không có dịch SR
xảy ra, tuy nhiên gần đây tình hình sốt rét cũng biến động, chủ yếu tại một số xã
vùng cao vì đây là vùng sốt rét lưu hành nặng, trong đó có xã Phước Chánh và
Phước Đức. Nhằm góp phần nghiên cứu tình trạng sốt rét, xác định tỷ lệ BNSR,
KSTSR, SRAT đồng thời đánh giá nhận thức của người dân về công tác PCSR
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá tình hình sốt rét và nhận thức
của người dân về phòng chống sốt rét tại một số xã ở huyện Phước Sơn , tỉnh
Quảng Nam” nhằm mục tiêu:
1. Đánh giá tình hình sốt rét tại huyện 3 năm, từ năm 2006 đến năm 2008.
2. Đánh giá nhận thức của người dân 3 xã Phước Chánh, Phước Đức và Phước
Hiệp về phòng chống sốt rét.
3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 LƯỢC SỬ BỆNH SỐT RÉT:
Khoảng 400 năm trước Công nguyên Hypocrat (Hy Lạp) đã mô tả chi tiết
triệu chứng lâm sàng của bệnh sốt rét. Năm 1880 Lavenran (Pháp) khám phá và
mô tả KSTSR trong máu người ở Angiêri. Năm 1886 Golgi mô tả ở Ý 2 loại
KSTSR của người là Plasmodium (P).vivax và P.malariae. Năm 1889-1890 Celli
và Marchifava mô tả P.falciparum.
Năm 1891: Romanovsky tìm thấy thuốc nhuộm và cách nhuộm KSTSR
trên lam máu.
Năm 1922: Stephens phát hiện một loại KSTSR đó là P.ovale.
Năm 1897: Ronald Ross (Anh) lần đầu tiên phát hiện KSTSR ở người
phát triển ở cơ thể muỗi (An. Stephensi) tại Ấn Độ
Năm 1898: Ronald Ross thí nghiệm KSTSR ở người và chim, xác định
muỗi Anopheles là trung gian truyền bệnh sốt rét cho người.
Năm 1898: Grassi, Bignami, Bastianelli (Ý) thí nghiệm toàn bộ chu kỳ
phát triển của KSTSR ở muỗi và người, họ đã khẳng định kết quả nghiên cứu
của Ronald Ross.
Năm 1900 Manson bằng thực nghiệm trên người tình nguyện chứng minh
vai trò truyền bệnh của muỗi Anopheles trong bệnh sốt rét.
Các năm 1934-1953 Raffele, Garnham, Shortt… tìm ra và mô tả thể tế bào
(ngoại hồng cầu) của KSTSR ở người, động vật có vú và gà. Năm 1980 tìm ra
thể ngủ của P.Cynomolgi và gợi ý vai trò thể ngủ của P.vivax trong việc gây tái
phát xa.
4
Các năm 1976-1983: Trager và Jensen (1976) người Mỹ thành công trong
việc nuôi cấy liên tục P.falciparum trong ống nghiệm (invitro). Năm 1983 dùng
kỹ thuật sinh học phân tử đã ghép và nhân AND của P. falciparum trong E.coli
đem lại khả năng chế tạo vaccine phòng sốt rét.
Năm 1987-1992 hoàn thành một số vaccine phòng sốt rét và đã thử trên
người tình người, bắt đầu thử trên thực địa. Năm 1992-1994 M.E.Patarroyo đã
hoàn chỉnh vaccine hóa học tổng hợp đầu tiên SPf 66 và đang thử ở các nước
Colombia, Tanzania, Thái lan…[18], [19].
1.2 CÁC KHÁI NIỆM, ĐỊNH NGHĨA LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC VÀ
CHƯƠNG TRÌNH PHÒNG CHỐNG SỐT RÉT:
1.2.1 Định nghĩa:
Bệnh sốt rét là bệnh truyền nhiễm, lưu hành ở địa phương (có thể phát
thành dịch), do ký sinh trùng sốt rét Plasmodium gây nên. Bệnh truyền theo
đường máu, chủ yếu do muỗi Anopheles (côn trùng trung gian) truyền bệnh, biểu
hiện điển hình bằng những cơn sốt rét với 3 triệu chứng cơ bản: rét run, sốt, ra
mồ hôi. Bệnh phát triển có chu kỳ; sơ phát; tái phát và có hạn định không bị tái
nhiễm. Bệnh gây miễn dịch đặc hiệu nhưng không tuyệt đối và là một trong
những bệnh có thuốc điều trị đặc hiệu [18].
1.2.2 Ký sinh trùng sốt rét:
KSTSR Plasmodium là mầm gây bệnh, thuộc họ Plasmodidae, lớp Protoa.
Trên trái đất có gần 120 loài Plasmodium, trong đó chỉ có 4 loài KSTSR ở người
là: P.falciparum, P.vivax, P.malariae và P.ovale, số còn lại sống ký sinh ở động
vật có vú, ở các loài chim và bò sát, ếch nhái.
Ở Việt Nam có 3 loài phổ biến: P.falciparum (80-85%), P.vivax (15-20%),
P.malariae (1-2%). Chỉ có vài tác giả đề cập đến P.ovale với số lượng rất ít.
5
Chu kỳ phát triển của Plasmodium gồm hai giai đoạn: giai đoạn vô tính
trong cơ thể người và giai đoạn hữu tính trong muỗi Anophenles truyền bệnh.
Chu kỳ sinh học của 4 loài có khác nhau về thời gian, nhưng có thể chia
làm 2 chu kỳ như sau [18]:
- Chu kỳ phát triển vô tính ở người: Gồm 2 giai đoạn: Giai đoạn phát triển
ở gan (chu kỳ tiền hồng cầu) và giai đoạn trong hồng cầu (chu kỳ phát triển trong
hồng cầu):
+ Sau khi xâm nhập vào cơ thể người, các thoa trùng nhập vào máu trong
khoảng 3 phút, sau đó xâm nhập tế bào gan. Trong tế bào gan chúng lớn lên và
phân chia thành các thể hoa cúc. Đối với các loài P. Falciparum thì tất cả các
thoa trùng khi vào gan đều phát triển và trưởng thành, phân chia thành các thể
tiểu hoa cúc rồi vào máu trong một thời gian ngắn. Còn P.vivax và có thể
P.ovale, một số thoa trùng không trưởng thành ngay mà ở thể ngủ. Sau khoảng
1-6 tháng, chúng phát triển thành các thể tiểu hoa cúc rồi vào máu gây nên
những cơn tái phát.
+ Trong máu, các thể tiểu hoa cúc xâm chiếm hồng cầu và phát triển một
chu kỳ vô tính ở đó qua các thể nhẫn, thể tư dưỡng, thể phân liệt. Cuối chu kỳ
hồng cầu vỡ ra và các thể tiểu hoa cúc lại xâm chiếm các hồng cầu mới.
- Chu kỳ phát triển hữu tính xảy ra trong muỗi Anopheles: Sau khi được
muỗi Anopheles hút vào dạ dày, các giao bào đực và cái phát triển trở thành giao
tử. Giao tử đực và cái phối hợp với nhau tạo thành hợp tử rồi thành trứng di
động. Trứng di động chui qua thành dạ dày của muỗi, phát triển trên mặt ngoài
của thành dạ dày, tròn lại, to dần và phân chia thành nhiều thoa trùng ở bên
trong. Cuối cùng các thoa trùng được giải phóng, di chuyển về tuyến nước bọt
của muỗi, khi muỗi đốt người thoa trùng xâm nhập vào cơ thể người và bắt đầu
chu kỳ sinh sản vô tính ở trong cơ thể người.
6
- Thể vô tính (tư dưỡng phân liệt)
- Thể hữu tính (giao bào hay giao tử)
Ký sinh trùng sốt rét trong cơ thể người gây bệnh sốt rét. KSTSR có kích
thước rất nhỏ và chỉ có thể thấy được bằng kính hiển vi.
Đời sống KSTSR ở người có hạn định, tùy theo loại KSTSR mà chúng tồn
tại trong cơ thể từ 6 tháng đến 3 năm, một số trường hợp có thể tồn tại lâu hơn,
trên 10 năm như P.malaria 1[9], [29].
1.2.3 Muỗi Anophen truyền bệnh sốt rét:
Anopheles thuộc họ Culicidae, họ phụ Anophelinae. Chu kỳ sinh sản gồm
hai giai đoạn: giai đoạn dưới nước (trứng, bọ gậy), giai đoạn trên cạn (muỗi
trưởng thành). Sự sinh sản và phát triển của muỗi phụ thuộc vào các yếu tố: nhiệt
độ, lượng mưa, độ ẩm, điểm nước, sinh cảnh, môi trường. Thời gian phát triển từ
trứng đến muỗi trưởng thành ở 20
0
C là 28 ngày, 31
0
C là 7 ngày. Muỗi
Anopheles đực không hút máu nên không có vai trò truyền bệnh, chỉ có muỗi
Anopheles cái đốt người và truyền bệnh sốt rét. Trên thế giới có khoảng 400 loài
Anopheles nhưng chỉ có 60 loài có khả năng truyền bệnh. Việt Nam có 59 loài
Anopheles trong đó có 15 loài đã được xác định véc tơ chính, véc tơ phụ và véc
tơ nghi ngờ. Ở mỗi sinh- địa cảnh đều có số loài Anopheles đặc trưng của mình.
Các loại véc tơ truyền bệnh sốt rét ở Việt Nam và miền Trung-Tây Nguyên có:
- Loài truyền bệnh chính:
+ An.minimus: muỗi sống ở bìa rừng, rừng, savan, bọ gậy sống ở ven suối
quang, nước chảy chậm.
+An.dirus: Muỗi sống ở rừng rậm, bìa rừng, rừng thưa, bọ gậy sống ở
vũng nước đọng, dưới bóng râm trong rừng.
- Loại truyền bệnh phụ:
+ An.aconitus, An. maculatus, An.jeyporiensis (vùng núi)
7
+ An.sundaicus, An.suppictus (ven biển nước lợ) [30].
1.2.4 Vật cảm nhiễm (con người):
Hầu hết mọi người đều cảm nhiễm đối với 4 loại plasmodium của người
(những người chưa có miễn dịch, nhỏ dưới 1 tuổi, người lớn ở vùng không có sốt
rét khi bị Anopheles đốt và truyền thoa trùng). Khi KST vào cơ thể người song
song với quá trình sinh bệnh có một quá trình tạo nên tính miễn dịch của cơ thể
nhiễm bệnh. Đặc điểm của miễn dịch sốt rét là đặc hiệu với từng loại KST và
trong từng loại nó lại đặc hiệu với từng giai đoạn phát triển. Đó là một miễn dịch
tốt nhưng không tuyệt đối, nên không loại trừ được tái phát và tái nhiễm. Miễn
dịch này chỉ mạnh khi người sống lâu năm trong vùng sốt rét và mất dần sau khi
ra khỏi vùng đó. Miễn dịch bệnh sốt rét thể hiện ở các mức độ khác nhau: có sốt
và trong máu có KST; không sốt và trong máu có KST, còn gọi người mang
KST lạnh; không sốt và không có KST trong máu ngoại vi [18], [19].
1.3 PHÂN VÙNG SỐT RÉT VÀ DỊCH TỄ CAN THIỆP:
Phân vùng dịch tễ sốt rét (DTSR) là một công việc hết sức quan trọng và
cần thiết giúp cho các nhà chuyên môn cũng như các nhà quản lý cập nhật được
tình hình sốt rét, nắm được mức độ lưu hành và diễn biến dịch tễ của bệnh dưới
tác động của chương trình phòng chống. Phân vùng sốt rét giúp cho chúng ta xác
định được các đối tượng nguy cơ ở các mức độ khác nhau, từ đó với một nguồn
tài chính và nhân lực nhất định, các biện pháp can thiệp sẽ được ưu tiên tập trung
vào các đối tượng nguy cơ cao vì vậy tính hiệu quả của các biện pháp phòng
chống được nâng cao.
Trên thế giới đã có nhiều tác giả đưa ra các phương pháp phân vùng sốt rét
khác nhau. Gill (1938) dựa vào khí hậu đã phân sốt rét thành các vùng: Sốt rét
nhiệt đới do P.falciparum; Sốt rét ôn đới do cả P.falciparum và P.vivax và Sốt rét
hàn đới chỉ có P.vivax với á chủng ủ bệnh dài, tái phát xa. Mac Donald (1957)
8
dựa vào các yếu tố khí hậu, địa hình, sinh cảnh, mức sốt rét và các véc tơ truyền
bệnh sốt rét từ đó phân chia các vùng sốt rét trên thế giới thành 12 vùng sốt rét
khác nhau.
Ở Thái Lan người ta phân vùng sốt rét thành vùng không có lan truyền
bệnh và vùng phòng chống lan truyền bệnh. Vùng phòng chống sốt rét lan truyền
bệnh được chia thành 2 tiểu vùng là vùng lan truyền quanh năm và vùng lan
truyền có chu kỳ. Ở Malaysia người ta dựa vào chỉ số KST hàng năm là cơ bản
để phân ra 3 vùng sốt rét: vùng có sốt rét, vùng có khả năng sốt rét và vùng
không có sốt rét .
Tại Việt Nam, trong những năm 1931 đến 1934 các tác giả Pháp dựa vào
nguyên tắc sinh thái- địa lý để xác định được các vùng sốt rét và đã phân thành 6
vùng từ vùng 0 đến vùng 5, trong từng vùng các tác giả cũng phát hiện thấy có
các ổ sốt rét đặc biệt [15].
Từ năm 1956 đến 1958, giáo sư Đặng Văn Ngữ và A.I Lysenko đã đề xuất
cách phân vùng ở miền Bắc Việt Nam và phân thành 7 vùng. Cách phân vùng
này dựa vào nguyên tắc sinh địa cảnh- dịch tễ học và sự phân bố của muỗi truyền
bệnh là Anopheles minimus để phân thành các vùng có mức độ lưu hành sốt rét
khác nhau. Giáo sư Vũ Thị Phan và cộng sự đã đề xuất một phương pháp phân
vùng mới gọi là phân vùng dịch tễ sốt rét và lưu hành. Cách phân vùng này dựa
chủ yếu vào các yếu tố: thiên nhiên, côn trùng, ký sinh trùng, sinh thái con
người, kinh tế xã hội, các yếu tố về tổ chức màng lưới y tế và sự đáp ứng của các
biện pháp thanh toán sốt rét. Từ cách này đồng thời sử dụng kết quả phân vùng
sốt rét trước đây, các tác giả đã phân thành 5 vùng sốt rét khác nhau (tên gọi là từ
vùng A đến vùng E hay vùng 1 đến vùng 5) mức độ SRLH được xếp theo thứ tự
tăng dần từ 1 đến 5).
9
Ở Việt Nam sau hơn 40 năm phòng chống đặc biệt sau 10 năm tích cực
thực hiện công tác phòng chống sốt rét, từ năm 1991-2002 tại tất cả các tuyến
cùng với sự quan tâm, đầu tư của Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền,
chúng ta đã được những thành công to lớn. So với năm 1991 các chỉ số dịch tễ
về tình hình sốt rét của năm 2002 đã giảm rất nhiều: tỷ lệ mắc giảm 77%; tỷ lệ
chết giảm 96%; Số xã có KSTSR nội địa giảm. Tuy nhiên vùng sốt rét lưu hành
và số người có nguy cơ sốt rét vẫn chưa được xác định một cách toàn diện và
chính xác [25], [26].
Như vậy mức độ sốt rét lưu hành thực tế hiện nay đã thay đổi và không
còn phù hợp với các vùng trước đây. Phương pháp phân vùng SR mới tương đối
đơn giản, dễ áp dụng và giúp cho công tác lập kế hoạch và lựa chọn các biện
pháp can thiệp thích hợp trong giai đoạn hiện nay khi mức độ bệnh đã giảm. Do
môi trường và điều kiện kinh tế - xã hội không ngừng phát triển và thay đổi, để
phù hợp với sự thay đổi đó cùng với sự thay đổi tình hình sốt rét việc phân vùng
dịch tễ sốt rét và can thiệp sẽ được thực hiện và điều chỉnh sau nhiều năm [25].
1.3.1 Mục tiêu phân vùng dịch tễ sốt rét và can thiệp:
+ Xác định được các vùng dịch tễ sốt rét theo mức độ lưu hành khác nhau
và dân số nguy cơ của từng vùng.
+ Xây dựng chiến lược, biện pháp can thiệp phù hợp, làm cơ sở lập kế
hoạch phòng chống sốt rét về phòng chống véc tơ, điều trị và quản lý bệnh nhân
sốt rét cho từng vùng.
1.3.2 Phương pháp phân vùng và các chỉ số áp dụng:
1.3.2.1 Phân vùng theo quốc tế:
Căn cứ vào mức lưu hành đã được TCYTTG công nhận, Mac Donald đã
phân làm 4 vùng sốt rét [40]: vùng SRLH nhẹ, vùng SRLH vừa, vùng SRLH
nặng, vùng SRLH rất nặng.
10
1.3.2.2 Phân vùng sốt rét của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay:
- Tên gọi phân vùng: Phân vùng sốt rét lần này đã được thống nhất gọi là
“Phân vùng Dịch tễ sốt rét và can thiệp”.
- Tên gọi của mỗi vùng: Được thể hiện mức độ lưu hành của bệnh sốt rét,
cụ thể phân thành 5 vùng như sau: 1.Vùng không có SRLH; 2.Vùng nguy cơ sốt
rét quay lại; 3.Vùng SRLH nhẹ; 4.Vùng SRLH vừa; 5.Vùng SRLH nặng [28].
Các yếu tố và chỉ số sau sử dụng để phân vùng:
* Vùng địa lý bao gồm: Núi cao, núi đồi, núi rừng nước chảy, núi nhô ra
biển, đồng bằng/đồng bằng ven biển/nước lợ, thị trấn, thị xã, thành phố, cao
nguyên
* Sinh cảnh: Rừng rậm, rừng thưa, rừng tái sinh (rừng trồng), rừng xen kẽ,
rừng cây công nghiệp/ăn quả, ven rừng, savan, trảng cỏ, cây bụi, rừng ngập mặn.
* Độ cao: Địa hình có độ cao trên 1.000 mét ở miền Bắc và trên 1.500 mét
ở miền Nam (từ đèo Hải Vân trở vào).
* Chỉ số bệnh nhân sốt rét: (Số liệu trong 5 năm liên tục trước thời điểm
tiến hành phân vùng 1998-2002)
* Tỷ lệ bệnh nhân sốt rét hàng năm/1.000 dân (sốt rét lâm sàng và
KSTSR).
* Tỷ lệ P.falciparum (%) trong tổng số ca sốt có ký sinh trùng.
* Tỷ lệ sốt rét ở trẻ em.
* Sự có mặt của KSTSR nội địa (lây truyền tại chỗ), ngoại lai (nhiễm từ
nơi khác về địa phương), trong vòng 5 năm trở về trước kể từ thời điểm phân
vùng.
* Chỉ số côn trùng: Sự có mặt của các véc tơ chính: An.minimus, An.dirus
và An.sundaicus.
11
1.3.2.4 Định nghĩa và thống kê dân số vùng sốt rét lưu hành và dân số nguy cơ
sốt rét ở các phân vùng:
* Dân số vùng sốt rét lưu hành: Là dân số sống trong vùng có sốt rét lây
truyền tại chỗ (dân số bản xứ sống cố định, hoặc từ nơi khác đến đã định cư trên
5 năm trở thành người địa phương).
* Dân số nguy cơ sốt rét: Là dân số giao lưu tới vùng SRLH hoặc vùng
nguy cơ sốt rét quay lại giao lưu tới vùng SRLH.
1.3.3 Các yếu tố cơ bản trong quá trình lây truyền sốt rét:
Nguồn bệnh, vectơ truyền bệnh và cơ thể cảm thụ phải được gắn liền với
nhau thì quá trình này mới xảy ra thông suốt, hay nói một cách khác: Muỗi
Anopheles phải đốt người có giao bào sốt rét trong máu, phải sống đủ lâu để giao
bào phát triển thành thoa trùng và cuối cùng phải đốt được người chưa có miễn
dịch sốt rét hoặc đã có miễn dịch nhưng thấp thì mới có lây truyền sốt rét.
Tóm tắt
Hình 1.1 Quá trình lây truyền sốt rét
Môi trường tự nhiên và sinh học: Sinh địa cảnh, độ cao, độ
ẩm, lượng mưa…thảm thực vật, côn trùng, động vật.
Bệnh nhân, người
lành mang KST lạnh
Vectơ truyền
bệnh: Anopheles
Cơ thể, tập thể
cảm thụ
Môi trường kinh tế, xã hội: hoạt động kinh tế, trình độ xã
hội, nghề nghiệp, phong tục, y tế, bảo đảm xã hội
12
Hình 1.2 Chu trình lây truyền bệnh sốt rét
Muốn PCSR cần phải:
-Diệt vectơ truyền bệnh.
-Điều trị triệt để bệnh nhân sốt rét, người lành có KST.
-Bảo vệ khối cảm thụ (người lành).
Chúng ta không thể cắt đứt 1 khâu mà có thể giải quyết tận gốc vấn đề SR.
1.3.4 Xác định ca bệnh sốt rét:
1.3.4.1 Bệnh nhân xác định là sốt rét:
Bệnh nhân có KSTSR thể vô tính ở trong máu. Xét nghiệm lam máu bằng
phương pháp nhuộm Giêm sa hoặc test chẩn đoán nhanh dương tính.
1.3.4.2 Bệnh nhân sốt rét lâm sàng:
Trường hợp không được xét nghiệm máu, hoặc xét nghiệm âm tính, hoặc
chưa có kết quả xét nghiệm có 4 đặc điểm sau:
- Hiện đang sốt ( ≥ 37
0
C) hoặc sốt trong vòng 3 ngày gần đây.
- Không giải thích được các nguyên nhân gây sốt khác.
- Đang ở hoặc qua lại vùng sốt rét trong vòng 6 tháng gần đây.
- Điều trị bằng thuốc sốt rét có đáp ứng tốt trong vòng 3 ngày [3], [27].
Nguồn bệnh: B.n
mang KST lạnh
Vectơ truyền
bệnh: Anopheles
Khối cảm thụ:
Người lành
13
1.3.5 Chẩn đoán bệnh sốt rét:
Chẩn đoán sốt rét có thể dựa trên các tiêu chuẩn chẩn đoán lâm sàng, yếu
tố dịch tễ, các kỹ thuật xét nghiệm phát hiện ký sinh trùng trong máu.
1.3.5.1 Yếu tố dịch tễ liên quan đến sốt rét:
Những người sống trong vùng sốt rét hoặc qua lại vùng có sốt rét lưu hành
hoặc có tiền sử bị sốt rét trong 6 tháng gần đây, đôi khi lâu hơn như trường hợp
tái phát do P.vivax [29].
1.3.5.2 Chẩn đoán lâm sàng:
Biểu hiện lâm sàng sốt rét thường rất đa dạng, tùy thuộc loại KST nhiễm,
miễn dịch của cơ thể (bị sốt rét nhiều lần hay lần đầu), trẻ em hay người lớn, phụ
nữ mang thai.
* Sốt rét thường: Dựa vào 3 yếu tố:
- Dịch tễ: Những người sống trong vùng sốt rét hoặc qua lại vùng có sốt
rét lưu hành hoặc có tiền sử bị sốt rét trong 6 tháng gần đây, đôi khi lâu hơn như
trường hợp tái phát do P.vivax.
- Lâm sàng:
+ Có cơn sốt điển hình: Rét run- sốt nóng- ra mồ hôi hoặc
+ Có cơn sốt không điển hình như:
. Sốt không thành cơn: Ớn lạnh, gai rét (hay gặp trẻ nhỏ và người sống lâu
vùng SRLH).
. Sốt liên tục hoặc dao động trong vòng 5-7 ngày đầu, rồi thành cơn (ở
bệnh nhân bị sốt rét lần đầu).
+ Những dấu hiệu khác: Thiếu máu, lách to.
- Xét nghiệm:
+ Xét nghiệm tìm KSTSR, nếu kết quả lần đầu âm tính phải xét nghiệm 2-
3 lần/ngày vào lúc sốt.
14
+ Sử dụng que thử chẩn đoán nhanh KSTSR để hổ trợ chẩn đoán khi lam
âm tính.
+ Nơi không có kính hiển vi thì lấy lam máu gởi đến điểm kính gần nhất.
* Chẩn đoán sốt rét ác tính (SRAT):
- Phòng ngừa sốt rét ác tính:
Nguyên tắc chẩn đoán và điều trị sớm đặc biệt người bị sốt rét lần đầu,
phụ nữ có thai và trẻ em. Theo dõi bệnh nhân sốt rét phát hiện ngay khi bệnh có
dấu hiệu đe dọa ác tính, xử trí kịp thời như SRAT để giảm tỷ lệ tử vong, hạn chế
biến chứng trong các trường hợp sau:
+ Rối loạn tâm thần nhẹ thoáng qua.
+ Sốt cao liên tục.
+ Nôn nhiều lần trong ngày.
+ Nhức đầu và đau toàn thân dữ dội.
+ Thiếu máu nặng nhanh chóng.
+ Mật độ KST cao (P.f + + + + hoặc từ 100.000 KST/µl máu), có thể phân
liệt trong máu ngoại vi.
- Chẩn đoán xác định sốt rét ác tính:
SRAT là trường hợp sốt rét do P.falciparum hoặc nhiễm phối hợp trong đó
có P.f, có một nhiều biến chứng sau đây đe dọa tính mạng bệnh nhân:
+ Hôn mê (đánh giá độ hôn mê theo thang điểm Glasgow).
+ Rối loạn nước – điện giải, thăng bằng kiềm toan.
+ Xuất huyết (tiêu hóa hoặc dưới da, niêm mạc).
+ Vàng da, vàng mắt. + Suy thận cấp.
+ Trụy tim mạch. + Suy hô hấp cấp.
+ Hạ đường huyết. + Đái huyết cầu tố.
+ Thiếu máu nặng. + Rối loạn tiêu hóa [3], [17].
15
1.3.6 Dịch sốt rét:
* Định nghĩa: Dịch sốt rét là khi ở một nơi có mức bệnh (ca mắc mới)
hoặc tử vong tăng nhiều và đột ngột so với diễn biến bình thường trong một quần
thể dân cư, tối thiểu một thôn bản, cụm dân cư, có lây truyền tại chỗ. Để cụ thể
hóa hơn về định nghĩa trên, dự án Quốc gia PCSR đã thống nhất gọi ” một vụ
dịch sốt rét” sau:
- Ở một nơi không có SRLH, nay nếu có trên 5 BNSR nội địa có KST
trong vòng 1-2 tuần ở thôn bản, ấp.
- Ở một nơi vùng SRLH mà 3 năm liền không có BNSR nay nếu có trên 5
BNSR nội địa có KST trong vòng 1-2 tuần ở thôn bản, ấp.
- Ở một nơi SRLH khi có số BNSR hoặc số người có KSTSR trong tháng
tăng lên trên trị số trung bình tháng cùng kỳ của 3 năm liên tục cộng với 2 độ
lệch chuẩn (Mean + 2SD) của một xã [11], [12].
1.4 CHƯƠNG TRÌNH PHÒNG CHỐNG VÀ TIÊU DIỆT BỆNH SỐT RÉT
TRÊN THẾ GIỚI:
Bệnh sốt rét có từ thời thượng cổ, theo nhiều tác giả trên thế giới có thể
bệnh sốt rét (BSR) xuất hiện trước tiên là ở Châu Phi, vì ở đây hội đủ các điều
kiện thuận lợi về đặc điểm tự nhiên xã hội, sinh cảnh môi trường, sinh học để sốt
rét tồn tại và phát triển. Từ Châu Phi, BSR lan sang bán đảo Mesopotamia, Ấn
Độ, Nam Trung Hoa qua thung lũng sông Nil. Từ đây BSR lan sang bờ Địa
Trung Hải và xa hơn. Từ Ấn Độ và Trung Quốc, sốt rét lan sang Châu Á đặc biệt
Đông Nam Á rồi đến Châu Đại Dương. Sốt rét có mặt ở Châu Âu nửa sau thế kỷ
18 và Châu Mỹ nửa sau thế kỷ 19. Đầu thế kỷ 20, BSR được coi như đã phát
triển tới mức rộng nhất của bệnh đó trên thế giới [30].
Theo nhiều tác giả vào các năm 30 của thế kỷ 20, hàng năm trên toàn thế
giới có 700 triệu BNSR, 6 - 7 triệu người đã chết vì sốt rét. Vụ dịch Pen Giáp ở
16
Ấn Độ (1898) giết hại 307.000 người, vụ dịch ở Srilanca và Ceylon (1934) giết
hại 82.000 người. Ở Liên Xô (cũ), từ năm 1923 - 1926 có trên 10 triệu BNSR và
hơn 60.000 chết do sốt rét; Ở Châu Mỹ như Srilanca, Braxin có từ 100.000 - 3
triệu người mắc sốt rét, tử vong 14.000 – 82.000 người đã chết vì sốt rét. Những
năm 90 của thế kỷ 20, sốt rét vẫn lưu hành với mức độ trên 100 nước, làm chết
1,5 – 1,7 triệu người. Hiện nay sốt rét còn đe dọa sức khỏe và tính mạng của một
nửa dân số trên thế giới [19], [29].
1.4.1 Chương trình tiêu diệt sốt rét (TDSR) trên thế giới 1955 – 1968:
Nhờ vào tiến bộ khoa học kỹ thuật những năm 1950 con người đã hiểu
biết cơ bản về bệnh sốt rét. Năm 1955 cuộc họp lần thứ XIV của Tổ chức Y tế
Thế giới đã đề ra chương trình TDSR trên toàn thế giới có thời hạn (10-12 năm)
với 4 giai đoạn: Chuẩn bị (2 năm); Tấn công (4 năm); Củng cố (3 năm) và Bảo
vệ (nhiều năm). Trong 10 năm đầu (1956-1965) chương trình này tiến hành
thuận lợi, nhờ vậy bệnh sốt rét đã bị tiêu diệt ở các nước Châu Âu, một phần
Châu Á của Liên Xô (cũ), một số nước Cận Đông, Bắc Mỹ, Châu Úc, một số
nước của Châu Á (Nhật Bản, Triều Tiên, Singapore). Từ năm 1966 trở đi chương
trình tiến triển chậm, có nơi sốt rét quay lại (Ấn Độ, Srilanka, Nam Mỹ, Đông
Nam Á). Vì thế, tại cuộc họp lần thứ 17 của Hội đồng chuyên viên sốt rét -
TCYTTG đã tìm ra 12 khó khăn trong việc tiến hành công trình tiêu diệt SR,
trong đó có 3 khó khăn về kỹ thuật: muỗi SR kháng hóa chất; muỗi SR trú ẩn
ngoài nhà; KSTSR kháng thuốc [28], [29].
1.4.2 Chương trình phòng chống sốt rét trên thế giới từ 1969 đến nay:
Ở kỳ họp 22 TCYTTG (1969) đã xét lại tình hình và đưa ra chiến lược
mới, một chương trình chống sốt rét không hạn định về thời gian và mục tiêu lâu
dài là tiến tới tiêu diệt sốt rét trên phạm vi toàn thế giới. Từ năm 1969 – 1979,
mỗi nước có chiến lược khác nhau, nhưng thực tế khách quan đã chứng minh là
17
những nước vùng nhiệt đới (Đông Nam Á, Châu Phi, Nam Mỹ) việc tiêu diệt sốt
rét trong thời gian có hạn định là không thể thực hiện được [27].
Từ năm 1979, sau một năm khi Chiến lược chăm sóc sức khỏe ban đầu ra
đời với tuyên ngôn Alma Ata, TCYTTG quyết định chuyển sang chiến lược
”Phòng chống sốt rét” toàn cầu, một lần nữa cảnh báo nguy cơ và tác hại của
bệnh sốt rét đối với loài người [46].
Từ năm 1979 trở đi tình hình sốt rét trên thế giới đã thay đổi rất ít, 12 khó
khăn trên vẫn còn trở ngại lớn đối với chương trình PCSR. Năm 1985 TCYTTG
chủ trương đưa công tác PCSR vào nội dung Chăm sóc sức khỏe ban đầu [46].
Tháng 10/1992 tại Hội nghị Bộ trưởng y tế các nước về sốt rét họp tại
Amsterdam đã khẳng định lại chiến lược PCSR trên toàn cầu với mục tiêu: Giảm
mắc, giảm chết và giảm thiệt hại do sốt rét.
Tháng 1/1998 TCYTTG phát động chiến dịch “Đẩy lùi sốt rét”, đây không
phải là chiến dịch mới để PCSR mà là một sự chung sức, phối hợp hoạt động vì
mục đích chung là giảm gánh nặng do sốt rét. Mục tiêu của “Đẩy lùi sốt rét” là:
giảm được ít nhất 50% gánh nặng do sốt rét (BNSR, tử vong sốt rét và dịch sốt
rét) trên thế giới vào năm 2010 [27], [46].
1.5 CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG SỐT RÉT TẠI VIỆT NAM, NHỮNG
KHÓ KHĂN THÁCH THỨC VÀ NHỮNG NỖ LỰC:
Bệnh sốt rét (BSR) đã được đề cập đến trong y văn Việt Nam từ thế kỷ thứ
13, Tuệ Tĩnh và Hải Thượng Lãn Ông gọi sốt rét là ”ngược tật”, hai ông đã mô
tả và để lại các bài thuốc nam chữa trị sốt rét. Trong nhân dân BSR được gọi là
sốt rét ngã nước, sốt rét rừng. Bên cạnh các thầy thuốc y học cổ truyền, nhiều tác
giả người Pháp và Việt Nam đã điều tra nghiên cứu về sốt rét và PCSR. Giống
như các nước ở khu vực Đông Nam Á, ở Việt Nam trong từng thời kỳ dịch bệnh
sốt rét đã diễn ra phức tạp, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe nhân dân,
18
nền kinh tế - xã hội đất nước, nặng nề nhất là nhân dân vùng miền núi, vùng sâu
vùng xa. Cụ thể trong giai đoạn 1965 – 1975, ở Miền Bắc trong vòng 11 năm đã
có 321 vụ dịch lớn nhỏ xảy ra, trung bình 30 vụ dịch sốt rét/năm. Các địa
phương xảy ra dịch đáng lưu ý là: Quỳnh Thế, Tương Dương, Đường 7 Nghệ
An; Mường Mán, Tuần Giáo, Dương Châu, Quảng Đông, Quảng Bình. Giai
đoạn sau chiến tranh khi cả nước thống nhất, từ năm 1975 – 1997, tổng cộng có
1.435 vụ dịch, trên 400.000 BNSR, trên 8.000 SRAT, 3.725 ca tử vong. Thời kỳ
có nhiều vụ dịch nhất và dịch lớn nhất là từ 1986 – 1980, chủ yếu ở Miền Bắc.
Thời gian từ 1990-1991 các khu vực có nhiều vụ dịch nhất là các tỉnh Miền Bắc
(Tây Bắc, Khu IV cũ và Việt Bắc), các tỉnh phía Nam có: Miền Trung - Tây
Nguyên, Nam Bộ, Lâm Đồng cũng có dịch nhưng thấp hơn [2], [46].
1.5.1 Giai đoạn 1958-1975: Do đất nước bị chia cắt nên chương trình TDSR
được tiến hành riêng biệt ở hai miền Nam - Bắc:
- Miền Bắc: 1958-1960 chuẩn bị; 1961-1964 tấn công; 1965-1975 cuối tấn
công. Kết quả: KSTSR 5/vạn dân vào năm 1975.
- Miền Nam: 1958-1959 chuẩn bị; 1960-1964 tấn công; 1965-1975 bỏ dở
tấn công. Kết quả: Sốt rét tăng cao, dịch bùng nổ nhiều nơi vào năm 1975.
1.5.2 Giai đoạn 1976-1990:
Chương trình TDSR chuyển qua thanh toán sốt rét trong cả nước theo mục
tiêu 4 của TCYTTG. Trong hơn 30 năm (1958-1990) tiến hành phòng chống sốt
rét, Việt Nam đã được nhiều thành tích, song do thiếu điều kiện để duy trì thành
quả, sốt rét đã quay trở lại trong phạm vi cả nước mà đỉnh cao là năm 1991 cả
nước có hơn 1 triệu người mắc, 4.646 người chết, gây chấn động dư luận xã hội.
Từ năm 1992, Chính phủ đã quan tâm thực sự đến chương trình PCSR [29].
19
1.5.3 Giai đoạn từ năm 1991 đến nay: Việt Nam tiến hành PCSR
* Mục tiêu 1991-2000: Từ 1991-1995 là khống chế tốc độ tăng sốt rét
(chết, mắc, dịch sốt rét; 1991-1993), tiến tới ổn định tình hình (không tăng) và
bắt đầu giảm trở lại (1994-1995).
* Mục tiêu giai đoạn 1996-2000: là giảm tỷ lệ mắc 50% so với năm 1995,
không để dịch lớn xảy ra, từng bước phát triển các yếu tố bền vững và không để
sốt rét quay trở lại.
* Mục tiêu PCSR 2001-2005: Tiếp tục đẩy lùi BSR tập trung cao độ vùng
SRLH nặng, vào các nhóm dân nguy cơ cao, dân di biến động vào các vùng
LHSR. Phát triển và các tố yếu tố bền vững PCSR, ngăn ngừa BSR quay trở lại.
Mục tiêu cụ thể: giảm chết sốt rét 5%, dưới 0,03/100.000 dân, Giảm mắc sốt rét
5%, dưới 1,5/1.000 dân, không có dịch sốt rét xảy ra.
* Định hướng chương trình PCSR 2006-2010: Tiếp tục đẩy lùi sốt rét và
phát triển các yếu tố bền vững trong PCSR. Phấn đấu làm cho sốt rét không còn
là vấn đề sức khỏe quan trọng trong cộng đồng, góp phần phát triển kinh tế- xã
hội ở Việt Nam đến năm 2010. Mục tiêu cụ thể: Giảm mắc sốt rét 50% (
0,8/1.000 dân), Giảm chết sốt rét 75% (0,02/100.000 dân). Không có dịch sốt rét
lớn xảy ra [24].
Phân tích và đánh giá tình hình sốt rét ở Việt Nam 2000-2007 đã cho thấy
trong giai đoạn này, trung bình mỗi năm cả nước có 140.000 đến 150.000 bệnh
nhân mắc sốt rét, trong đó tỷ lệ người có ký sinh trùng sốt rét chiếm 24%, nhiễm
P.falciparum 75% và tỷ lệ lam dương tính 1,42%. Tỷ lệ mắc giảm mạnh từ 6,9
%o năm 2000 xuống 2,21%o năm 2007. Tỷ lệ chết giảm từ 0,19/100.000 xuống
0,02/100.000. Mắc sốt rét trẻ em: 9,65% và tỷ lệ chết do sốt rét chiếm 30-40%
tổng số chết chung. Phụ nữ có thai mắc tỷ lệ rất thấp: 0,36%. Số BNSR được
điều trị hàng năm trung bình từ 150.000 – 160.000 và giảm dần qua các
20
năm.v.v…Kết quả đã phản ánh bệnh sốt rét ở Việt Nam tiếp tục giảm mạnh
trong 8 năm qua từ 2000 – 2007 [46].
1.5.4 Những khó khăn và thách thức hiện tại:
- Dân số trong môi trường sốt rét lớn: 37 triệu người (43% dân số toàn
quốc), trong khi đó độ bao phủ và chất lượng PCSR còn hạn chế (phòng chống
véc tơ cho 11 triệu người, điều trị sốt rét cho 2 triệu lượt người).
- Người mắc sốt rét, mang KSTSR ở cộng đồng còn cao.
- Di biến động dân, dân ngủ lại trong rừng còn nhiều.
- Kinh tế, tập quán, nhận thức, hành vi PCSR của dân còn thấp.
- Màng lưới y tế cơ sở còn thiếu, yếu; quản lý y dược tư nhân còn yếu.
- Nguồn lực PCSR không ổn định.
- Chính quyền và y tế địa phương một số nơi còn chủ quan, lơ là đối với
công tác PCSR.
Với những lý do trên nguy cơ sốt rét quay trở lại còn lớn [29].
1.6 CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG SỐT RÉT TẠI TỈNH QUẢNG NAM VÀ
HUYỆN PHƯỚC SƠN
1.6.1.Tình hình chung
Quảng Nam là một tỉnh nghèo gồm 16 huyện thị và 2 thành phố, trong đó
có 8 huyện miền núi. Tình hình sốt rét biến động phức tạp, đặc biệt tại 6/8 huyện
miền núi cao: Bắc Trà My, Nam Trà My, Phước Sơn, Nam Giang, Đông Giang
và Tây Giang. Quảng Nam được xem là tỉnh trọng điểm sốt rét của khu vực
Miền Trung- Tây Nguyên, toàn tỉnh có diện tích 10.408 km
2
, trên 2/3 diện tích là
rừng núi, số dân 1.515.564 người. Có 126 xã vùng sốt rét/218 xã phường toàn
tỉnh (chiếm 57,8%), dân số vùng sốt rét 511.285/1.402.700 người chiếm 36,45%.
Trong đó 6 huyện miền núi cao gồm 65 xã, 373 thôn bản, 140.138 dân với
27,4% dân số vùng sốt rét, là vùng trọng điểm sốt rét của tỉnh [26], [38].
21
Trong lĩnh vực PCSR được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, sự quan
tâm của chương trình mục tiêu Quốc gia PCSR, sự tài trợ của Dự án Quỹ Toàn
cầu; sự nỗ lực của trung tâm chuyên ngành, của các huyện miền núi và tại các
địa phương có SRLH nói chung thu được những kết quả tốt.
Từ năm 1991-2000: BNSR giảm 73.73%, KSTSR/1.000 DSC giảm
91,72%, tử vong sốt rét giảm 96,82% chỉ có 1 vụ dịch sốt rét xảy ra ở huyện
Nam Trà My. Từ năm 2006-2008 BNSR có xu hướng giảm, năm 2006 so với
2007 giảm 26,93%, so năm 2008 giảm 61,22%. Tử vong sốt rét 1 cas (2008),
không có dịch sốt rét [32].
Bảng 1.1: Tình hình sốt rét tỉnh Quảng Nam từ năm 2006 đến 2008
Năm
BNSR
SRAT
Tử vong
sốt rét
KSTSR
Lam
(+)
2006
3.427
3
0
78.228
1.790
2007
2.504
6
0
73.138
1.111
2008
1.329
5
1
54.066
484
1.6.2. Những khó khăn khi triển khai công tác phòng chống sốt rét tại tỉnh
Quảng Nam:
- Đời sống dân cư: 80% dân sống nghề nông, mức sống giữa thành thị và
nông thôn chênh lệch nhau, đặc biệt người dân sống ở miền núi còn rất khó
khăn, tình hình đói nghèo còn cao (>30%). Đồng bào dân tộc thiểu số sống chủ
yếu ở miền núi chiếm tỷ lệ khoảng 5% dân số, còn tập quán du canh du cư, hoặc
định cư nhưng du canh, làm nương rẫy chủ yếu, phong tục tập quán còn lạc hậu,
nhận thức về y tế, vệ sinh phòng bệnh còn thấp.
22
- Tình hình kinh tế văn hóa- xã hội nhiều khó khăn, thường xuyên bị chi
phối bởi thiên tai, thời tiết, đời sống gắn liền ốm đau bệnh tật, nhất là bệnh sốt
rét. Địa bàn phân bố sốt rét rộng (126/218 xã, phường), giao lưu đi lại khó khăn,
trở ngại khi triển khai giám sát dịch tễ sốt rét, nhất là vào mùa mưa, lũ.
- Mặc dù tình hình sốt rét có giảm qua từng năm, nhưng tiềm ẩn các nguy
cơ có thể xảy ra dịch. Ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc điều trị [7], [33].
- Màng lưới y tế cơ sở miền núi còn mỏng, chất lượng hoạt động chuyên
môn còn thấp. Công tác xã hội hóa PCSR còn thấp.
- Kinh phí và vật tư PCSR còn hạn hẹp, nguồn viện trợ thường bị động.
Do vậy, ngành y tế không chủ quan với thành quả đạt được, mà lâu dài
công tác PCSR bao giờ cũng phải được đặt lên hàng đầu trong tất cả các chương
trình y tế quốc gia khi triển khai ở các huyện miền núi.
1.7 SƠ LƯỢC VÀI NÉT VỀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU VÀ MẠNG LƯỚI
Y TẾ CƠ SỞ TẠI HUYỆN:
1.7.1 Giới thiệu về địa điểm nghiên cứu:
Phước Sơn là một huyện vùng núi cao, nằm về phía tây tỉnh Quảng Nam,
cách thành phố Tam Kỳ 130 km về hướng Tây, cách thành phố Đà Nẵng 145 km
về phía Tây Nam. Huyện có 10 xã và 1 thị trấn, có tất cả 66 thôn, tổng diện tích
toàn huyện là 114.127 ha với 22.276 người, có 15 thành phần dân tộc sinh sống,
người dân tộc thiểu số chiếm 70%, chủ yếu là người Bh'noong. Có 5 xã vùng
cao: Phước Lộc, Phước Thành, Phước Kim, Phước Công và Phước Chánh; 3 xã
vùng trung: Phước Mỹ, Phước Năng và Phước Đức; 3 xã vùng thấp: Phước Hiệp,
Phước Xuân và thị trấn Khâm Đức. Hầu hết các xã đều nằm trong vùng SRLH
nặng, chỉ có thị trấn Khâm Đức nằm trong vùng SRLH nhẹ. Huyện nhiều năm
liền không có dịch sốt rét xảy ra, nhưng tại các thời điểm năm 1998-2005 tình
hình sốt rét còn nhiều diễn biến phức tạp [37], [38].
23
Điều kiện vi khí hậu ở huyện Phước Sơn nhất là cả xã vùng cao có hai
mùa rõ rệt, mùa nắng và mùa mùa mưa, tạo điều kiện thuận lợi cho muỗi phát
triển và truyền bệnh quanh năm.
Nghề nghiệp người dân của huyện đa số làm rẫy, một số làm ruộng nước.
Có thói quen đi rừng săn bắt, hái lượm, lấy mây rừng. Có sự giao lưu giữa các
vùng SRLH trên địa bàn, giữa các nhóm khai thác khoáng sản trong rừng thiếu
biện pháp phòng chống sốt rét thuộc địa bàn các xã và cận xã bị mắc bệnh sốt rét
vào khu dân cư và ngược lại. Từ đặc điểm tạo điều kiện thuận lợi cho việc lây
truyền và biến động về tình hình sốt rét tại huyện.
Đời sống kinh tế khó khăn , có nhiều xã có tỷ lệ hộ đói nghèo cao, chiếm
tỷ lệ trên 50%. Dân trí thấp, nhận thức của người dân ở các xã này về mọi mặt xã
hội còn hạn chế. Còn nhiều phong tục, tập quán lạc hậu như cúng bái, ma chay,
ăn kiêng, ở cữ v.v Giao thông đi lại từ huyện đến các xã, thôn còn nhiều khó
khăn: đường rừng, dốc, nhiều khe suối, nhất là về mùa mưa.
1.7.2 Tình hình tổ chức mạng lưới y tế cơ sở ở huyện Phước Sơn:
Trung tâm y tế huyện Phước Sơn gồm có Bệnh viện đa khoa, đội YTDP
và 11 trạm y tế xã với cơ cấu như sau:
Bảng 1.1 Tình hình nhân lực y tế TTYT huyện Phước Sơn
Tên đơn vị
Tổng
số
Cơ cấu trình độ chuyên môn
Sau
đại học
Đại
học
Trung cấp
y dược
Sơ cấp
y dược
Cán bộ
khác
Y tế xã
51
0
7
40
4
0
Bệnh viện đa khoa
49
3
8
20
10
8
Đội YTDP
17
1
1
9
4
2
Cộng:
117
4
16
69
18
10
24
Mạng lưới nhân viên y tế thôn bản đã có từ năm 2000, nay đang được
củng cố và từng bước ổn định hoạt động. Hiện tại huyện có 66 thôn đều có y tế
thôn bản, đa số là người dân tộc thiểu số tại chỗ chiếm tỷ lệ 94%.
Hình 1.3 Tổ chức xây dựng mạng lưới y tế tại huyện
1.7.3 Các biện pháp phòng chống SR:
1.7.3.1 Công tác truyền thông giáo dục sức khoẻ (TTGDSK) về PCSR:
Công tác TTGDSK được xã hội hoá, ngành y tế cùng với các cấp chính
quyền, các ban ngành khác; đặc biệt là văn hoá thông tin, giáo dục và các tổ chức
xã hội, tổ chức TTGDSK về PCSR với nhiều kênh, nhiều hình thức đa dạng và
phong phú như : qua phương tiện thông tin đại chúng (đài, báo, tivi), qua tranh
ảnh, tờ rơi, áp phích, tranh gấp…, qua truyền thông giáo dục trực tiếp (tại các
cuộc họp), giảng dạy trong các trường học… [22], [32].
1.7.3.2 Giám sát, phát hiện chủ động, điều trị sớm bệnh nhân sốt rét :
- Giám sát: Hàng tháng, mạng lưới y tế xã tổ chức giám sát SR tại các thôn
bản, đặc biệt là các thôn bản trọng điểm để phát hiện, điều trị sớm những trường
TTYT huyện Phước Sơn
Các khoa lâm sàng
Đội YTLĐ
Khoa CLS
PKĐKKV, Trạm y
tế các xã, thị trấn
Y tế thôn bản
25
hợp có SR tại nhà. Hàng năm triển khai 2 đợt chiến dịch PCSR vào những tháng
cao điểm [32], [45].
- Xây dựng và củng cố các điểm kính hiển vi tại các trạm y tế. Đến nay
27,3 % số trạm y tế đều được trang bị kính hiển vi.
- Hệ thống thông tin báo cáo được cập nhật thường xuyên, từ huyện đến
xã, đến thôn bản và từng cụm dân cư. Theo dõi số bệnh nhân và số KSTSR trên
biểu đồ và dự báo dịch một cách chặt chẽ.
1.7.3.3 Công tác phun tẩm hoá chất phòng chống vector:
Được thực hiện định kỳ mỗi năm 1 lần đối với tẩm màn ở các xã vùng
trung, vùng thấp (trừ thị trấn) và 2 lần đối với phun hoá chất tồn lưu. Trước khi
triển khai đều tiến hành điều tra số nhà, số màn hiện có và chỉ tiêu phun tẩm phải
đạt 85% trở lên [32], [41].
1.7.3.4 Công tác xã hội hoá:
Ngành y tế phối hợp với các cấp chính quyền, các ban ngành đoàn thể, các
tổ chức xã hội bằng các hợp đồng trách nhiệm cụ thể để các cấp, các ngành, các
tổ chức tham gia TTGDSK và vận động nhân dân tham gia các biện pháp PCSR .
1.7.3.5 Tổ chức đánh giá định kỳ:
Tổ chức giao ban hàng tháng và tổng kết sau mỗi đợt chiến dịch. Điều tra
đánh giá định kỳ theo phương pháp điều tra cắt ngang ngẫu nhiên để đánh giá
tình hình SR và hoạt động PCSR từ đó điều chỉnh các biện pháp cho phù hợp
[37].
1.7.3.6 Củng cố mạng lưới y tế cơ sở:
Củng cố công tác tổ chức tại các cơ sở, đưa bác sỹ về xã, đến nay 6/11 xã,
thị trấn đã có bác sỹ công tác. Từng bước hoàn thiện mạng lưới y tế thôn bản đặc
biệt ở các vùng sâu, vùng xa. Đào tạo và đào tạo lại các kiến thức và kỹ năng
chuyên khoa về PCSR.