Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Đánh giá kết quả của phác đồ hóa xạ trị đồng thời trong ung thư vòm họng (UTVH)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.35 MB, 55 trang )

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư vòm họng (UTVH) hay ung thư biểu mô mũi họng
(Nasopharyngeal carcinoma) là loại ung thư đứng đầu trong các ung thư vùng
đầu mặt cổ. UTVH có đặc điểm dịch tễ học, đặc điểm mô học và cả chiến
lược điều trị đều khác biệt so với các nhóm ung thư đầu cổ khác.
UTVH là bệnh hiếm gặp trên thế giới nhưng xuất hiện nhiều ở Trung
Quốc, Châu Phi và một số nước ở Đông nam Á, nhưng rất hiếm gặp ở châu
Âu, châu Mỹ. Bệnh có tỷ lệ mắc cao ở vùng Nam Trung Quốc và Hồng
Kông: 30-100/100.000 dân. Nhóm tuổi có nguy cơ mắc cao từ 40-50, nam/
nữ là 2/1 đến 3/1.
Ở Việt Nam, UTVH có tỷ lệ mắc cao, là một trong mười loại ung thư
phổ biến nhất. Theo ghi nhận ung thư Hà Nội, giai đoạn 2001-2004, thì
UTVH là bệnh đứng thứ tư trong các loại ung thư nói chung ở nam giới, hàng
thứ 7 ở nữ giới. Tỷ lệ mắc ở nam là 7.8 và ở nữ là 3.3/ 100.000 dân . Mô bệnh
học chủ yếu là týp ung thư biểu mô không biệt hoá .
Những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước xạ trị đơn thần vẫn là
phương pháp điều trị chính cho UTVH. Các chuyên gia trong ngành ung thư
đều cho rằng loại UTVH rất khó được kiểm soát nếu chỉ dùng xạ trị, vì tỷ lệ
thất bại tại chỗ và di căn xa sau điều trị tương đối cao. Tỷ lệ sống thêm 5 năm
của bệnh nhân UTVH giai đoạn I, II là trên 70%, tuy nhiên khi bệnh ở giai
đoạn tiến triển tại chỗ hoặc lan tràn (giai đoạn III, IV) thì dù kiểm soát khối u
và hạch khá tốt sau điều trị xạ trị đơn thuần nhưng tỷ lệ tái phát tại chỗ và di
căn xa sau điều trị tương đối cao, có thể lên tới 21,7% và 46,4%, do vậy tỷ lệ
sống thêm 5 năm ở giai đoạn này chỉ còn khoảng 10- 40%.
2
Do UTVH khá nhạy cảm với xạ trị và hóa chất nên đã có nhiều nghiên
cứu phối hợp hóa xạ trị đã được thực hiện. Năm 1998 thử nghiệm lâm sàng
0099 tại bắc Mỹ đã đưa ra kết quả của điều trị pha III hóa xạ trị đồng thời
kèm theo hóa chất bổ trợ cho UTVH giai đoạn III, IV và đã trở thành phác đồ
điều trị chuẩn (Guideline- NPC), sau đó một số tác giả ở Hồng Kông và


Singapo cũng tiến hành áp dụng phác đồ này. Tuy kết quả của các nghiên cứu
này cũng cải thiện thời gian sống thêm của bệnh nhân nhưng tỷ lệ hoàn thành
đủ theo phác đồ của điều trị không được như mong đợi và thời gian gián đoạn
điều trị kéo dài do biến chứng cấp.
Từ năm 2009, Bệnh viện Ung bướu Hà nội đã áp dụng xạ trị gia tốc
trong điều trị, kỹ thuật xạ trị theo không gian 3 chiều này kiểm soát đường
đồng liều và liều xạ chính xác cho phép xạ trị liều cao mà giảm biến chứng.
Bệnh nhân UTVH được điều trị hóa xạ trị đồng thời theo phác đồ chuấn của
Hoa Kỳ. Theo phác đồ hóa xạ trị (HXT): xạ trị máy gia tốc kết hợp với điều trị
hóa trị bằng cisplatin liều thấp hàng tuần trong 6 tuần kèm hóa chất bổ trợ sau
đó. Kết quả đánh giá bước đầu cho thấy: Độc tính cấp của phác đồ thấp, tỷ lệ
chấp nhận phác đồ cao hơn và đáp ứng điều trị khá tốt. Để đánh giá kết quả của
phác đồ hóa xạ trị đồng thời trong UTVH, nghiên cứu này được tiến hành .
Với những lý do nghiên cứu trên, chúng tôi đặt ra 2 mục tiêu:
1. Nhận xét một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của ung thư vòm
họng giai đoạn IIB- IVB tại BV Ung Bướu Hà Nội năm 2009-2012
2. Đánh giá kết quả điều trị phối hợp Hoá xạ trị đồng thời tại BV Ung
Bướu Hà Nội năm 2009-2012
3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Sơ lược giải phẫu vòm họng
- Vòm mũi họng là một khoang mở nằm ngay dưới nền sọ, phía sau hốc
mũi có kích thước 6 x 4 x 3 cm.
- Phía trước vòm họng thông với hốc mũi qua cửa mũi sau. Liên quan
phía trước với hốc mũi, hố mắt, xoang hàm và xoang sàng.
- Thành sau nằm ngang với mức của hai đốt sống cổ đầu tiên và liên tiếp
với nóc vòm.
- Thành trên (nóc vòm) hơi cong úp xuống tương đương với thân xương
chẩm và mỏm nền xương bướm.

4
- Thành bên có lỗ vòi Eustachian thông với tai giữa, xung quanh có
nhiều mô bạch huyết gọi là hạch nhân vòi, phía sau là hố Rosenmuller (là nơi
hay xuất hiện các khối u vòm họng).
- Thành dưới hở, tạo bởi mặt trên của khẩu cái mềm, trải rộng từ bờ sau
xương vòm miệng đến bờ tự do của màn hầu mềm.
1.2. Hệ thống phân loại hạch cổ Robin
Vùng đầu cổ có một mạng lưới bạch huyết rất phong phú, và UTVH
cũng như các ung thư vùng đầu cổ khác có thể di căn hạch ngay cả khi bệnh ở
giai đoạn rất sớm. Vì vậy hiểu biết giải phẫu bình thường của các hạch bạch
huyết cổ là rất quan trọng trong điều trị ung thư đầu cổ. Năm 1991 hệ thống
phân loại hạch cổ Robbin được đề xuất bởi nhóm Memorial Sloan Kettering
Cancer Group và được thông qua bởi ủy ban phẫu thuật đầu cổ tai mũi họng
Mỹ. Hệ thống này phân chia hệ thống hạch cổ thành 6 nhóm dựa trên ranh
giới những cấu trúc có thể nhìn thấy khi phẫu thuật đầu cổ như: xương, cơ,
mạch máu, dây thần kinh Hệ thống Robbin được chấp nhận rộng rãi bởi các
nhà xạ trị khi điều trị ung thư đầu cổ. Một số cấu trúc như mạch máu dây thần
kinh không nhìn thấy rõ trên phim chụp CT và MRI vùng đầu cổ. Do đó xác
định ranh giới cấu trúc giải phẫu của các nhóm hạch cổ trên phim CT và MRI
là cần thiết cho các nhà xạ trị khi lập kế hoạch điều trị tia xạ. Năm 2003
hướng dẫn phân nhóm hạch cổ trên phim CT được thông qua với sự đồng
thuận cao của các học giả đến từ các tổ chức nghiên cứu ung thư lớn như
EORTC, RTOG, NCIC
5
Bảng 1.1: Hệ thống phân loại hạch cổ Robbin
Nhóm hạch Vị trí hạch
Ia
Ib
II
III

IV
V
VI
Nhóm dưới cằm
Nhóm dưới hàm
Nhóm cảnh cao
Nhóm cảnh giữa
Nhóm cảnh dưới
Nhóm tam giác cổ sau
Nhóm trước khí quản
Hình 1.3: Hệ thống phân loại hạch cổ Robbin
1.3. Dịch tễ học
* Trên thế giới: Ung thư vòm họng là một ung thư hiếm gặp, bệnh chỉ
chiếm tỷ lệ chưa tới 1% các loại ung thư toàn thân, hàng năm tỷ lệ mắc <
(1/100.000 dân) .
Tại Mỹ: Tỷ lệ mắc bệnh ung thư vòm họng hằng năm là 0,8/100.000
dân ở nam và 0,3/100.000 dân ở nữ .
6
Tại Châu Âu: tỷ lệ mắc bệnh ung thư vòm hằng năm < 2/100.000 dân
và các nước Nam Âu có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn các nước Bắc Âu .
Ngay tại Trung Quốc mỗi năm cũng chỉ có tỉ lệ mắc bệnh ung thư vòm
khoảng 2-3/100.000 dân trong khi đó ở Hồng Kông - Quảng Đông có tỷ lệ
mắc bệnh cao nhất: từ 20-50/100.000 dân, nhất là những người được sinh ra
và lớn lên ở Quảng Đông .
* Tại Việt Nam: Theo ghi nhận ung thư Hà Nội ung thư vòm họng là
bệnh đứng hàng đầu trong các loại ung thư đầu cổ, đứng thứ 5 ở nam giới (tỷ
lệ mắc bệnh chuẩn theo tuổi là 7,3/100.000 dân ở nam và đứng thứ 8 ở nữ với tỷ lệ
mắc bệnh chuẩn theo tuổi là 4/100.000 dân .
1.4. Các yếu tố nguy cơ
Yếu tố môi trường: sự ô nhiễm môi trường khói, bụi, hoá chất được

xem là yếu tố nguy cơ cao đối với ung thư vòm họng, nhưng được nói đến
nhiều nhất là tập quán ăn uống. Qua các nghiên cứu của Ho cho thấy tỷ lệ
mắc bệnh cao ở những người đánh cá ở Hồng Kông so với những người làm
công việc khác. Tập quán ăn cá muối, chế độ ăn nghèo Vitamin, hoa quả đã được
chứng minh làm tăng tỉ lệ mắc bệnh ung thư vòm.Trong cá muối có chứa rất cao
hàm lượng Nitrosamin là chất gây ung thư trên thực nghiệm .
Virus Epstein - Barr
Virus Epstein - Barr là virus Herpes ở người, nó là một tác nhân gây ra
bệnh Lymphoma Burkitt ở người và ung thư vòm mũi họng, người ta thấy
Epstein - Barr có mã di truyền trong ADN được tìm thấy tại tế bào biểu mô
vòm họng và các tế bào LyB.
Sự phối hợp giữa virus Epstein - Barr và Ung thư vòm họng đã rất rõ
ràng và được chứng minh bằng phản ứng miễn dịch, IgA/VCA và IgA/ EA
tăng cao ở người đã nhiễm virus Epstein - Barr từ lâu hơn nữa sự tồn tại của
IgA, VCA và EA hiếm thấy ở những người không bị ung thư vòm họng .
7
Yếu tố gen di truyền
Gần đây một số tác giả có báo cáo là những người cùng huyết thống có
khả năng cùng mắc ung thư vòm họng nhiều hơn so với các loại ung thư khác.
Tỉ lệ này hay gặp ở thế hệ dọc (ông bà, cha mẹ, con cái) hơn là thế hệ ngang
(anh, chị, em). Tại Hồng Kông số người bị ung thư vòm họng trong một gia
đình chiếm 7,2%; ở Quảng Châu là 5,9% .
Gần đây người ta cũng đã đề cập tới sự liên quan giữa ung thư vòm
họng và HLA cũng như nói đến nhiễm sắc thể 6,3 .
1.5. Chẩn đoán ung thư vòm họng
Chẩn đoán sớm đem lại kết quả thuận lợi trong điều trị bệnh nhân UTVH.
Mặc dù gần đây có nhiều tiến bộ trong chẩn đoán ung thư vòm như nội soi, các
kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh và chẩn đoán huyết thanh hiện đại nhưng chỉ
khoảng 10% bệnh nhân UTVH được phát hiện ở giai đoạn sớm .
1.5.1.Triệu chứng lâm sàng

Giai đoạn sớm
Các triệu chứng sớm thường nghèo nàn, bệnh nhân không để ý và hay
nhầm với các triệu chứng bệnh tai mũi họng. Các dấu hiệu thường là đau đầu
âm ỉ không thành cơn, ù tai một bên, ù tiếng trầm như tiếng xay thóc, ngạt tắc
mũi một bên, có thể chảy máu mũi một bên, các dấu hiệu này có tính chất một
bên và tăng dần, đôi khi xuất hiện hạch cổ ngay từ đầu, hạch nhỏ, di động.
Giai đoạn muộn
Các triệu chứng lâm sàng của bệnh phụ thuộc vào vị trí, mức độ xâm
lấn của khối u và tình trạng di căn xa.
+ Hạch cổ: Đây là triệu chứng phổ biến nhất khiến bệnh nhân đi khám
và khoảng 43% bệnh nhân có hạch cổ khi đến viện. Thường gặp là có hạch cổ
cùng bên ở vị trí cao phần lớn phát triển nhanh thành khối hạch. Một số
trường hợp có nổi hạch cổ 2 bên hoặc hạch cổ bên đối diện. Một số tác giả
8
nhận xét u ở nóc vòm thường có hạch cổ 2 bên, u ở hố Rosenmuller thường
có hạch cùng bên .
+ Triệu chứng mũi: Đây là dấu hiệu dễ bỏ qua hoặc chẩn đoán nhầm
sang bệnh lý khác. Biểu hiện ngạt tắc mũi 1 bên thời kỳ đầu không thường
xuyên, thời gian sau liên tục. Kèm theo bệnh nhân có thể có chảy máu mũi, xì
ra nhầy lẫn máu do hoại tử u. Khoảng 30% bệnh nhân có các triệu chứng này .
+ Triệu chứng tai: Triệu chứng thường gặp nhất là nghe kém do tràn
dịch tai giữa gây ra bởi tắc nghẽn ống Eustachian, hay gặp kèm theo ù tai
tiếng trầm ở một bên. Một số trường hợp bị chảy mủ tai (viêm tai thanh dịch).
+ Triệu chứng mắt: ở giai đoạn muộn u xâm lấn rộng gây chèn ép tổn
thương dây thần kinh II, III, IV, VI bệnh có biểu hiện: nhìn đôi, lác, sụp mi,
giảm thị lực…
+ Triệu chứng thần kinh: Là triệu chứng thường gặp ở bệnh nhân giai
đoạn muộn, phụ thuộc vào vị trị xâm lấn của khối u. Tổn thương các dây thần
kinh thường gặp nhất là dây V,VI . Các hội chứng liệt thường gặp là:
- Hội chứng khe bướm: liệt toàn bộ nhãn cầu (tổn thương các dây III, IV,

VI) và đau nhức vùng trán, ổ mắt (tổn thương nhánh mắt của dây V).
- Hội chứng đỉnh hố mắt: mù mắt do tổn thương ống thị giác.
- Hội chứng đá bướm Jacod: liệt hoàn toàn nhãn cầu, mù mắt, liệt cơ
nhai, mất cảm giác nửa bên mặt và giác mạc kèm theo điếc tai giữa (do tổn
thương các dây II, III, IV, V, VI)
- Hội chứng lỗ rách sau của Vernet: Liệt họng, liệt màn hầu, liệt thanh
quản, liệt cơ ức đòn chũm, liệt cơ thang, mất cảm giác họng (do liệt các dây
IX, X, XI).
- Hội chứng lồi cầu lỗ rách sau của Colet và Sicart: Gồm hội chứng Vernet
thêm liệt lưỡi (do liệt các dây IX, X, XI, XII).
- Hội chứng Garcin liệt 12 dây thần kinh sọ cùng bên về khối u.
9
Sự phát triển của khối u
Khối u vòm họng không được phát hiện sớm để điều trị kịp thời sẽ phát
triển tự nhiên theo các hướng liên quan với vị trí giải phẫu của vòm họng.
+ Phát triển ra phía trước: Thông thường trong thể này khối u ở bờ trên
cửa mũi sau. Thường tắc mũi xuất hiện trước, nói giọng mũi, soi cửa mũi
trước thấy u sùi dễ chảy máu, u đẩy ra phía trước có thể gây lồi mắt.
+ Phát triển ra phía sau: Khối u có thể xâm lấn vào đốt sống cổ C1-2
làm cứng gáy, không quay được đầu, không cúi được đầu, bệnh cảnh giống
lao đốt sống cổ.
+ Phát triển xuống phía dưới: Khối u lan về phía họng miệng, có thể
nhìn thấy khối u khi vén nhẹ màn hầu lên. chúng ta hay gặp hội chứng Trotter
gồm có: đau dây thần kinh hàm dưới, khít hàm, điếc tai giữa, và liệt màn hầu
do sự thâm nhiễm của tế bào khối u trực tiếp vào khoang hàm hầu.
+ Phát triển ra phía ngoài: Khối u có thể chui qua lỗ bướm khẩu cái và
xâm nhập hố chân bướm hàm gây ra tổn thương dây thần kinh hàm trên và
khít họng do tổn thương cơ nhai. Khối u có thể phát triển dọc theo vòi nhĩ gây
ra viêm tai giữa hoặc xâm nhập hòm nhĩ và lan ra ống tai ngoài.
+ Phát triển lên trên: Khối u có thể phát triển trực tiếp theo đường

xương, đi từ nóc vòm vào xoang bướm, vào mỏm xương đá, vào mỏm nền
xương chẩm, vào cánh lớn xương bướm. Khối u có thể xâm lấn vào các dây
thần kinh gây ra các hội chứng liệt thần kinh .
1.5.2. Khám lâm sàng
Soi vòm họng gián tiếp qua gương
Sử dụng phương pháp soi vòm gián tiếp qua gương của Hopkin để phát hiện u
tại vòm đồng thời sinh thiết u làm chẩn đoán mô bệnh học.
Soi vòm bằng ống soi mềm
10
Là phương pháp tốt nhất để đánh giá tổn thương qua đó sinh thiết u một
cách chính xác. Góc độ quan sát của ống soi mềm có thể đạt tới hướng nhìn là
360
o
. Dưới sự phóng đại của ống soi mềm cho phép ta quan sát đánh giá kỹ,
và phát hiện các bệnh tích khi còn nhỏ, thâm nhiễm, vết loét trợt nông ở bề
mặt niêm mạc .
Sinh thiết
Sinh thiết khối u vòm là cần thiết để chẩn đoán xác định ung thư vòm
họng. Với đặc điểm vòm họng nằm ở vị trí sâu, các tổn thương ở dạng u sùi,
hoại tử hay ở dạng thâm nhiễm dưới da nên sinh thiết có thể phải làm nhiều
lần mới có kết quả mô bệnh học dương tính.
Khám phát hiện
Hạch cổ di căn.
Khám phát hiện các hội chứng tổn thương các dây thần kinh sọ.
Khám toàn thân đánh giá tình trạng chung.
1.5.3. Chẩn đoán cận lâm sàng
Chẩn đoán hình ảnh
Vai trò chính của chẩn đoán hình ảnh đối với UTVH là xác định chính
xác sự lan rộng của u nguyên phát. Điều này là rất quan trọng vì UTVH điều
trị chủ yếu bằng xạ trị và trường chiếu xạ phải bao gồm toàn bộ khối u

nguyên phát và hạch bạch huyết vùng có thể di căn. Ngoài ra chẩn đoán hình
ảnh có vai trò quan trọng trong chẩn đoán đối với thể dưới niêm mà nội soi
không thể phát hiện được.
+ Chụp XQ qui ước
- Thường sử dụng 2 tư thế chụp là tư thế Blondeau và Hirtz.
Trên phim Blondeau chủ yếu đánh giá hình ảnh:
+ Tổn thương mờ khối xoang mặt một bên hoặc cả hai bên, bờ xương
thành xoang liên tục hay không.
11
+ Tổn thương mờ hốc mũi.
Trên phim Hirtz có thể thấy hình ảnh:
+ Tăng vôi bất thường hoặc mất các vân xương bình thường của xương
chân bướm hàm.
+ Tổn thương rộng các lỗ xương nền sọ và mất tính liên tục của bờ xương.
+ Tổn thương mờ các xoang sàng.
Các dấu hiệu trên chỉ có ý nghĩa định hướng tổn thương.
- Chụp XQ phổi phát hiện di căn phổi.
+ Siêu âm
Siêu âm là một phương tiện chẩn đoán hình ảnh trong y học dựa trên
sóng siêu âm dùng để quan sát cơ và những cơ quan bên trong cơ thể bao gồm
kích thước, cấu trúc và có thể cả những bệnh lý và tổn thương của chúng.
Siêu âm ổ bụng nhằm đánh giá tổn thương đã di căn hay chưa là một xét
nghiệm thường quy nên làm ngay trước, trong và sau khi điều trị. Quá trình theo
dõi định kỳ cũng cần đến xét nghiệm này để đánh giá tiến triển của bệnh.
Siêu âm vùng cổ
Phát hiện các tổn thương hạch vùng cổ: hình ảnh tổn thương tròn hay
bầu dục, bờ gọn hay dính với nhau tạo thành khối lớn, cấu trúc âm thay đổi có
thể tăng âm, đồng âm, hay giảm âm.
Hướng dẫn chọc dò sinh thiết hạch.
Siêu âm Doppler được thực hiện để khảo sát mạch cảnh, mạch sống cổ

khi nghi ngờ UTVH xâm lấn phần mềm thành bên họng, tổ chức phần mềm
quanh bó mạch cảnh .
12
+ Chụp MRI
Hình ảnh vòm họng bình thường trên phim chụp MRI: Vòm họng có
hình chữ J đảo ngược phía trước là cửa mũi trước, phía dưới là họng miệng,
nóc vòm tiếp giáp với sàn xoang bướm, phía sau trên tiếp giáp với phần dốc
của xương bướm.
Đối với UTVH, nhờ đặc điểm đối quang của tổ chức phần mềm rất cao và
có thể tạo hình ảnh trên nhiều mặt phẳng khác nhau nên hình ảnh của MRI ưu
thế hơn nhiều kỹ thuật khác trong chẩn đoán và đánh giá giai đoạn bệnh. Chụp
MRI có giá trị trong đánh giá tổn thương phần mềm, nó đặc biệt có giá trị khi
chẩn đoán sự xâm nhiễm của tế bào ung thư vào hệ thống bạch huyết ở vùng cổ.
Chụp MRI cho các hình ảnh giải phẫu chi tiết nhất ở T1, trong khi T2 cho ra ảnh
có độ đối quang cao giữa các tổ chức khác nhau, vì vậy cho phép nhận biết rõ
giới hạn u và nhất là đánh giá xâm lấn tổ chức phần mềm lân cận.
+ Chụp CT
Chụp cắt lớp điện toán (CT Scan) đây là phương pháp chụp hiện đại sử
dụng tia X và hệ thống detector thu thập tín hiệu khác nhau của từng điểm
trong cơ thể sau đó tái tạo lại hình ảnh theo từng lớp cắt. Phương pháp này có
thể xác định chính xác hình ảnh khối u vòm họng: kích thước, vị trí, sự lan
rộng của khối u và tổn thương hạch vùng, nó đặc biệt có giá trị khi đánh giá
tổn thương xương nền sọ. Chụp CT góp phần quan trọng trong đánh giá giai
đoạn bệnh, tiên lượng, giúp các nhà xạ trị lập kế hoạch điều trị tia xạ và theo
dõi sau điều trị.
Chụp SPECT (Single Photon Emission Computerized Tomography:
Chụp cắt lớp bằng bức xạ đơn photon)
Máy xạ hình SPECT (Single Photon Emission Computed Tomography)
là một trong những thiết bị chẩn đoán hình ảnh hiện đại hiện nay. Về nguyên
lý tạo ảnh, SPECT cũng giống như CT (Kỹ thuật SPECT phát triển trên cơ sở

13
CT- Scanner), chỉ khác ở chỗ, với CT thì chùm pho-ton được tạo ra bên
ngoài, xuyên qua cơ thể và được ghi nhận ở detector phía đối diện nguồn tia
X. Cùng với SPECT, chùm bức xạ photon được phát ra từ bên trong cơ thể do
phát ra đồng vị phóng xạ được đưa (uống, tiêm ) vào nơi cần chụp ảnh và
chùm bức xạ phát ra được ghi nhận đồng thời bởi hệ detector quay quanh
bệnh nhân. Các dược chất phóng xạ được sử dụng với một lượng nhỏ sẽ tập
trung về các cơ quan cần ghi hình tuân theo các đặc điểm sinh lý và bệnh lý
của ảnh thu được cho ta thông tin về chức năng (Functional image) của cơ
quan muốn thăm khám.
Phương pháp này giúp phát hiện các thay đổi về bệnh học ở mức độ
phân tử trước khi hoàn thành nên sự thay đổi cấu trúc giải phẫu để có thể nhìn
thấy được trên hình ảnh CT, MRI Máy SPECT cho phép hiển thị hình ảnh
không gian 3 chiều giúp đánh giá chức năng các bộ phận trong cơ thể, chuyển
hóa tế bào. Máy SPECT có thể chụp toàn thân (Whole body), tĩnh (Static),
động (Dynamic), 3 Pha, ảnh cắt lớp tomo… Đối với UTVH chụp SPECT giúp
đánh giá các tổn thương, đặc biệt là các tổn thương tái phát và di căn xương .
+ PET/CT
Máy PET/CT (Positron Emission Tomography – Computed
Tomography) là một hệ thống kết hợp giữa máy PET (Positron Emission
Tomography: Máy chụp cắt lớp bằng bức xạ Positron) và máy chụp cắt lớp vi
tính (CT–Scanner: Computed Tomography). Đó không chỉ là sự kết hợp về
nguyên tắc vật lý, nguyên tắc hoạt động, PET/CT cũng là sự kết hợp giữa
hình ảnh chức năng, chuyển hoá ở mức độ tế bào, mức độ phân tử, giúp chẩn
đoán sớm, đặc hiệu của PET với hình ảnh cấu trúc giải phẫu rõ nét của các cơ
quan, định vị chính xác của CT. Do vậy PET/CT có khả năng phát hiện tổn
thương và các biến đổi bất thường trong cơ thể ở những giai đoạn rất sớm –
mức độ phân tử - đặc biệt là sự hình thành, phát triển và di căn của các khối u.
Các kết quả ghi bằng máy PET/CT góp phần nâng cao chất lượng chẩn đoán
14

và điều trị ung thư; đặc biệt là đánh giá được đáp ứng của bệnh sau mỗi đợt
điều trị, giúp các nhà xạ trị lựa chọn các thể tích cần tia một cách tối ưu đảm
bảo hiệu quả điều trị cao nhất cho bệnh nhân .
Huyết học
Đánh giá tình trạng toàn thân qua công thức máu, xét nghiệm sinh hoá
máu đánh giá chức năng gan, thận.
Các phản ứng huyết thanh tìm hiệu giá kháng nguyên-kháng thể với vi
rus Epstein- Barr trước, trong, và sau điều trị để đánh giá tiên lượng bệnh:
IgA/VCA: kháng thể kháng kháng nguyên vỏ của EBV
IgA/EA: kháng thể kháng kháng nguyên sớm của EBV
IgA/EBNA: kháng thể kháng kháng nguyên nhân của EBV
Trong các bệnh nhân UTVH thấy có tăng nồng độ kháng thể kháng các
kháng nguyên qua xét nghiệm Elisa test nó có giá trị để sàng lọc, phát hiện
sớm trong những quần thể người ở vùng có nguy cơ cao mắc UTVH. Với
phản ứng PCR có thể tìm thấy DNA của EBV ở trong mô sinh thiết. Các xét
nghiệm này có độ nhậy và độ đặc hiệu rất cao, hiện nay được coi là tiêu chuẩn
vàng cùng với MBH để chẩn đoán xác định UTVH.
Chẩn đoán mô bệnh học
Ung thư biểu mô mũi họng (Nasopharyngeal carcinoma - NPC) là ung
thư biểu mô phát sinh từ biểu mô bề mặt và được xếp loại theo Tổ chức y tế
thế giới (WHO) thành hai loại mô học, sừng hoá (WHO1) và không sừng hoá.
Loại không sừng hoá được chia tiếp thành biệt hoá không sừng hoá (WHO2)
và không biệt hoá không sừng hoá (WHO3).
Hình ảnh đại thể của ung thư biểu mô vòm mũi họng thay đổi từ chỗ
phồng niêm mạc với một biểu mô lành lặn phủ trên tới một khối có thể thấy
rõ được với sự lan rộng của biểu mô bề mặt hoặc trái lại là một tổn thương
hoàn toàn không thể xác định được và chẩn đoán mô bệnh học được xác định
nhờ việc lấy bệnh phẩm một cách ngẫu nhiên.
15
Ba loại mô học được xác định dựa trên hình ảnh chiếm ưu thế.

Ung thư biểu mô tế bào vảy: thông thường sừng hoá có đặc điểm là sự sừng
hoá và các cầu nối gian bào và được xếp loại thành các loại biệt hoá cao, vừa hoặc
kém biệt hoá. Phản ứng xơ với hình thái phát triển xâm nhập của loại mô học này
của ung thư biểu mô vòm mũi họng là điển hình. Ở các nước có tỷ lệ ung thư vòm
mũi họng thấp như Mỹ, ung thư biểu mô vòm mũi họng sừng hoá chiếm khoảng
25% tất cả các ung thư biểu mô vòm mũi họng và hiếm khi xảy ra ở các bệnh nhân
dưới 40 tuổi. Tuy nhiên ở Việt nam loại này chiếm tỷ lệ rất thấp.
Ung thư biểu mô không sừng hoá: có ít hoặc không sừng hoá và có
hình thái phát triển giống ung thư biểu mô chuyển tiếp của bàng quang, bao
gồm các tế bào lát tầng và đường giới hạn rõ với mô đệm xung quanh. Trong
những trường hợp điển hình u không có phản ứng xơ với sự phát triển xâm
nhập của u. Các u này có thể tạo thành các nang có hoại tử kết hợp và có thể
di căn tới vùng cổ. Loại này của ung thư biểu mô ít gặp nhất và chiếm khoảng
12% tất cả các ung thư biểu mô vòm họng ở Mỹ. Tại Việt nam loại này cũng
chiếm tỷ lệ thấp .
Ung thư biểu mô không biệt hóa: chiếm khoảng 63% các loại ung thư
biểu mô vòm mũi họng ở Mỹ, trong khi ở Việt nam hầu hết các ung thư biểu
mô vòm mũi họng thuộc loại này. Loại ung thư biểu mô không biệt hoá cũng
là loại chiếm tỷ lệ cao nhất ở các nhóm bệnh nhi. Các tế bào u có đặc điểm
bởi các nhân tròn, hạt nhân ưa toan nổi rõ, chất nhiễm sắc của nhân phân tán
và bào tương nghèo nàn, ưa toan đến ưa cả hai màu. Không có sừng hoá, nhân
chia tăng, bao gồm cả các thể không điển hình. Thành phần lympho bào
không phải u chiếm ưu thế kết hợp với sự xâm nhập của các tế bào biểu mô ác
tính. Loại u này có thể có hình thái phát triển hợp bào với các tế bào dính
nhau và tạo thành ổ hoặc có thể có hình thái xâm nhập tế bào lan toả của các
tế bào không dính nhau. Các loại Rigaud và Schmincke của ung thư biểu mô
16
vòm mũi họng tương ứng với các u có các hình thái phát triển xâm nhập của
các tế bào hợp bào hay riêng lẻ, theo thứ tự. Các cách đặt tên này không mang
ý nghĩa sinh học của bệnh. Hình thái phát triển của loại u này nói chung

không gây nên phản ứng sinh xơ của túc chủ. Sự thiếu phản ứng sinh xơ này
có thể gây khó khăn trong chẩn đoán khi các mẫu sinh thiết nhỏ vì u có thể bị
xâm nhập lan tràn của các lympho bào vào mô bào lành tính và dễ bị bỏ qua.
Tương tự như vậy, các di căn tới hạch cổ có thể không gây nên phản ứng xơ
trong hạch bị xâm nhập .Ở Việt Nam tỷ lệ ung thư BM không biệt hoá: 86,6%
Hóa mô miễn dịch
Đây là phương pháp làm bộc lộ kháng nguyên của mô bằng kháng
thể đặc hiệu. Sau khi có được sự kết hợp kháng nguyên – kháng thể, phức
hợp này sẽ được nhận diện thông qua phản ứng hóa mô tạo mầu để có thể
nhìn được dưới kính hiển vi quang học. Áp dụng trong chẩn đoán UTVH,
nguyên lý của phương pháp này như sau: cytokeratins là các protein có
trong bào tương của các tế bào biểu mô, các tế bào ung thư biểu mô vòm
họng có thể phát hiện được bằng nhuộm hóa mô miễn dịch với kháng thể
kháng cytokeratin .
Xét nghiệm tế bào học
Đây là xét nghiệm đơn giản dễ làm và có thể thực hiện được ở cả hai vị
trí khối u vòm mũi họng và hạch cổ.
Với khối u: Có thể quệt lấy tế bào bong ở vòm họng hoặc bấm sinh thiết
khối u rồi áp lam kính vào khối bệnh phẩm sau đó nhuộm và đọc tiêu bản.
Với hạch: Dùng kim to chọc hút lấy tế bào trực tiếp lấy tế bào từ khối
hạch nghi ngờ rồi phết lên lam kính, nhuộm và đọc.
Chẩn đoán tế bào học chỉ có tác dụng giúp định hướng chẩn đoán
không có vai trò quyết định trong chẩn đoán. Nó có vai trò nhất định trong
sàng lọc phát hiện sớm ung thư, có thể thực hiện ở tuyến y tế cơ sở.
17
1.5.4. Chẩn đoán xác định
- Dựa vào các triệu chứng lâm sàng, soi vòm họng gián tiếp và trực tiếp,
- Dựa vào chẩn đoán mô bệnh học.
1.5.5. Phân loại giai đoạn bệnh
Hệ thống phân loại của tổ chức chống ung thư quốc tế UICC 2002.

T: (khối u nguyên phát).
Tis: Ung thư biểu mô tại chỗ.
Tx: Không đánh giá được u nguyên phát.
T1: U giới hạn trong vòm họng.
T2: U xâm lấn ra phần mềm ngoài vòm họng.
T2a: U xâm lấn khoang miệng/ hốc mũi nhưng không lan vào
khoảng cận hầu.
T2b: U xâm lấn khoảng cận hầu.
T3: U xâm lấn xương và/ hoặc các xoang cạnh mũi.
T4: U xâm lấn vào trong sọ não hoặc các dây thần kinh, hố thái
dương dưới, hạ họng hoặc hốc mắt.
N (Hạch vùng):
Nx: Không xác định được di căn hạch vùng.
N0: Không di căn tại hạch vùng.
N1: Hạch cùng bên kích thước ≤ 6cm trên hố thượng đòn.
N2: Hạch hai bên ≤ 6cm trên hố thượng đòn.
N3a: Hạch > 6 cm.
N3b: Hạch thượng đòn.
M (Di căn xa):
Mx: Không thể xác định được di căn.
M0: Không có di căn xa.
M1: Có di căn xa. (gan, xương, phổi, não).
18
Giai đoạn bệnh:
Giai đoạn 0: Tis No Mo
Giai đoạn I: T1 No Mo
Giai đoạn IIA: T2a No Mo
Giai đoạn II2B: T1,2a N1 Mo
T2b No,1 Mo
Giai đoạn III: T1 N2 Mo

T2a, 2b N2 Mo
T3 No,1,2 Mo
Giai đoạn IVA: T4 No,1,2 Mo
IVB: Bất kỳT N3 Mo
IVC: Bất kỳT Bất kỳ N M1
1.6. Điều trị
1.6.1. Xạ trị
Xạ trị là phương pháp điều trị chính và chủ yếu hiện nay của ung thư
vòm họng.
Xạ trị có thể điều trị khỏi 70-90% ung thư vòm ở giai đoạn I, II và 45%
ung thư vòm ở giai đoạn III và 15% ở giai đoạn IV .
Xạ trị áp sát
Do tính chất cường độ bức xạ thoái giảm rất nhanh trong khoảng cách rất
ngắn của những đồng vị phóng xạ, xạ trị áp sát cho phép chuyển giao một liều
bức xạ cao tại khối u mà không gây ảnh hưởng bức xạ đáng kể nào đến những
tổ chức bình thường quanh khối u. Thông thường xạ trị áp sát được chỉ định
trong các trường hợp sau:
19
+ Khi thiết kế đường cong đồng liều cho UTVH có một chỗ thấp hơn làm
cho toàn bộ vùng khối u không đều nhau, có thể nghiêng đi một phần do cấu
trúc của khối xương mặt .
+ Những bệnh nhân có nguy cơ thất bại tại chỗ cao cần phải được điều trị
áp sát như một điều trị thường qui.
+ Nhóm bệnh nhân có khối u tan không hoàn toàn sau xạ ngoài liều
triệt căn.
Xạ trị áp sát có thể được tiến hành bằng phương pháp nội khoang
(intracavitary) hoặc cắm xen vào tổ chức. Những hạt vàng phóng xạ cắm xen
vào khoảng giữa tổ chức rất có hiệu quả cho những thương tổn tại niêm mạc
VMH. Tuy nhiên, bên trong sâu VMH, thậm chí dùng đèn nội soi để chiếu
sáng, việc cấy những hạt vàng nhỏ xíu này thực sự rất khó về mặt kỹ thuật.

Cắt dọc buồm mềm cho phép thao tác dễ dàng hơn. Nhưng tổn thương lại quá
nặng nề, hơn nữa, những hạt vàng phóng xạ chỉ thích hợp cho những thương
tổn niêm mạc bề mặt và tương đối nhỏ. Một khuôn chứa dây Iridium phóng
xạ được đặt sát vị trí tổn thương thích hợp cho cả niêm mạc lẫn phần mềm mà
vẫn không ảnh hưởng tới tổ chức xung quanh. Tuy nhiên, sự chuẩn khuôn yêu
cầu nhiều kỹ năng và có thể ảnh hưởng tới kỹ thuật viên phải chịu một mức
phóng xạ cao không chấp nhận được, chính vì vậy người ta phải tính đến hệ
thống nạp phóng xạ sau .
Xạ trị áp sát nạp sau qua mũi hoặc qua miệng, tiến hành dưới gây tê tại
chỗ cho phép đưa một liều thích hợp tới vòm họng, hốc mũi và phía trên sau
họng miệng. Nó là được xem là phương pháp thực tiễn nhất để điều trị tăng
cường tại chỗ cho UTVH.
20
Xạ trị từ xa
Ngày 3/2/1896 trường hợp thành công đầu tiên dùng tia X trong điều trị
giảm đau một bệnh nhân ung thư vòm 86 tuổi được Voight báo cáo tại hội
nghị các thầy thuốc Hamburg tại Đức .
Mãi đến tận những năm 1920 ung thư vòm họng mới được coi là loại
bệnh có thể điều trị được bằng phóng xạ. Một phần do trước thập kỷ đó các
ống tia X còn ít, hoạt động ở mức điện áp 200 KV hoặc cao hơn và khả năng
đâm xuyên của chùm tia X rất hạn chế.
Giai đoạn từ năm 1950-1970 chúng ta được chứng kiến việc sử dụng
rộng rãi các máy xạ trị từ xa dùng nguồn Cobalt 60 và sự xuất hiện các máy
tia X hàng triệu vôn (Megavoltage- MV). Ban đầu cũng chỉ có một số ít máy
Van de Graff hoạt động với điện áp cỡ 2MV được lắp đặt tại một số khoa xạ trị.
Khoảng năm 1970 những máy gia tốc thẳng đã bắt đầu được lắp đặt ở những
trung tâm xạ trị lớn trên thế giới. Tuy nhiên, những thiết bị đó cũng chưa hoàn
toàn thay thế các máy Cobalt ngay cả ở những nước công nghiệp phát triển.
Những kết quả điều trị một số bệnh nhân Ung thư vòm họng bằng
chùm tia X hoạt động ở mức điện áp 2MV được công bố năm 1963 tại bệnh

viện đa khoa Massachuset có tỉ lệ sống thêm 5 năm tới 45%. Đây là công
trình nghiên cứu đầu tiên đã xét yếu tố giai đoạn bệnh để phân tích tỷ lệ thất
bại. Họ đã báo cáo rằng những trường hợp có tiên lượng xấu thường có liên
quan đến tổn thương thần kinh, xương bướm, hay nền sọ.
Mối quan hệ liều lượng sự đáp ứng
Tác giả Fletcher đã tiến hành một nghiên cứu quan trọng về xác xuất
kiểm soát khối u và liều chiếu xạ đã đi đến kết luận rằng 50 Gy có thể kiểm
soát được 60% các ung thư vòm ở giai đoạn T1. Tại trung tâm nghiên cứu
MD Anderson có tỉ lệ khoảng 20% bệnh nhân thất bại tại chỗ, 13% thất bại
tại vùng, 29% có di căn xa, khi liều lượng tại vòm đã lên tới 60 Gy với
21
T1,T2 và 70 Gy với T3, T4. Từ năm 1972 liều lượng từ 5-7,5 Gy được tăng
cường tại vòm cho giai đoạn T1, T2 đã làm giảm tỉ lệ tái phát tới 6 % .
Sự phân liều biến đổi
Sự phân liều biến đổi là một phương pháp nhằm đạt được liều cao theo
từng mức độ (theo bậc) đồng thời cũng tạo khả năng hồi phục cho các mô lành.
Một số cơ sở đã triển khai kỹ thuật phân bố liều lượng theo cách này và theo dõi
bệnh nhân một cách thường xuyên. Bệnh viện Massachuset đã sử dụng cách
phân liều 1,6 Gy, 2 lần/ngày và nghỉ 2 tuần giữa các đợt. Công tác nghiên cứu
được tiến hành từ năm 1970- 1994 các kết quả cho thấy việc phân liều 2
lần/ngày đã cải thiện một cách đáng kể xác suất kiểm soát tại chỗ của khối u và
tỉ lệ sống thêm. Trong số này trường hợp những bệnh nhân được phân liều một
lần/ngày có xác suất kiểm soát tại chỗ của khối u trong 5 năm là 60%, còn tỉ lệ
sống thêm không bệnh là 49%. Những số liệu về phương pháp phân liều 2
lần/ngày tương ứng là 69% (P = 0,008) và 69% (P = 0,0001) .
Kỹ thuật xạ trị hiện đại đòi hỏi từ việc thay vì đánh dấu trường chiếu trên
da người ta dùng các thiết bị cố định và khung định vị, thay vì các thiết bị chỉ thị
trước và sau người ta dùng hệ thống đèn Lazer để thiết lập tư thế bệnh nhân.
Hệ thống lập kế hoạch theo 3 D
Hệ thống lập kế hoạch theo 3D là một tiến bộ trong tính toán phân bố

tối ưu liều lượng và cải thiện cho các mô lành liên quan. Kỹ thuật xạ trị 3
chiều theo hình dạng khối u (3 Dimensional Comformal Radiotherapy) cho
biết các thông tin rõ ràng về tổng liều điều trị, liều lượng mỗi buổi chiếu, liều
lượng tại các tổ chức nguy cấp như: thần kinh thị giác, thân não, tuỷ sống hay
các thuỳ thái dương… và sự khác nhau về liều lượng trên từng vùng thể tích
trong điều trị ung thư vòm góp phần cải thiện và nâng cao chất lượng điều trị.
Tác giả Fang FM và cs (2007) đã so sánh kết quả điều trị ung thư vòm họng
bằng xạ trị kinh điển và xạ trị 3 chiều theo hình dạng khối u tại bệnh viện
22
Chang Gung Đài Loan. Các tác giả rút ra nhận xét xạ trị 3 chiều theo hình
dạng khối u làm tăng chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân sau điều trị. Khi
nghiên cứu kết quả xạ trị 3 chiều theo hình dạng khối u trên 87 bệnh nhân ung
thư vòm họng từ tháng 3 năm 2001 đến tháng 4 năm 2004 tác giả Tang YQ và
cs (Quảng Châu Trung Quốc) (2006) thấy rằng tỷ lệ kiểm soát tại chỗ tại vùng
3 năm là 90,2%. Tỷ lệ biến chứng muộn độ III,IV trên 62 bệnh nhân sống
thêm không bệnh 12 tháng là 9,7%. Tỷ lệ sống thêm 3 năm toàn bộ và không
bệnh tương ứng là 88,2% và 80,3%. Các tác giả rút ra kết luận xạ trị 3 chiều
theo hình dạng khối u ung thư vòm họng làm tăng tỷ lệ kiểm soát tại chỗ, và
giảm tỷ lệ biến chứng muộn.
Kỹ thuật IMRT (Intensity Modullated Radiation Therapy)
Vào những năm 1990 kỹ thuật IMRT ra đời (kỹ thuật điều biến liều
lượng theo hình thái khối u) dựa trên 3 kỹ thuật:
+ Chế tạo các khối che chắn
+ Máy tính điều khiển tự động hệ Collimator nhiều lá MLC (Multileaf
Collimator)
+ Kỹ thuật điều biến liều lượng(Peacok system) bằng hệ Collimator
nhiều cửa (Multivane Intensity Modullating Collimator) (MIMiC).
Chương trình máy tính 3D lập kế hoạch điều trị được sử dụng cho hai
kỹ thuật đầu. Còn kỹ thuật lập kế hoạch nghịch đảo được sử dụng cho kỹ
thuật thứ 3. Kỹ thuật IMRT có khả năng tạo ra sự chênh lệch về liều lượng

ngay trên một trường chiếu để tạo ra sự phân bố liều lượng theo hình thái khối
u và giảm thiểu liều lượng đối với tổ chức lành liền kề. Một lợi thế của kỹ
thuật IMRT là có thể tránh cho tuỷ sống và tuyến mang tai.Tại viện phóng xạ
Mallinkrodt người ta đã đạt được kết quả rất tốt là chỉ khoảng 27% ± 8% thể
tích tuyến mang tai điều trị với liều lượng hơn 30 Gy, trong khi trung bình
3,3%± 0,6% thể tích bia nhận được thấp hơn liều chỉ định là 95%.
23
Kỹ thuật JO- IMRT
Kỹ thuật IMRT có thể thực hiện trên các máy gia tốc được trang bị
MLC, nhưng ứng dụng lâm sàng của IMRT có thể phức tạp hơn đối với
những máy gia tốc không thuộc thế hệ MLC. Từ thực tế đó các nhà chuyên
môn đã nghiên cứu khả năng thực hiện kỹ thuật IMRT chỉ bằng hệ thống jaw
chuyển động độc lập (jaw only). Theo cách này hàng loạt trường chiếu nhỏ,
chữ nhật được hình thành từ mỗi hướng của chùm tia để tạo ra các mô hình
liều lượng phức hợp. Các nhà khoa học đã sử dụng khả năng tối ưu hoá độ mở
trực tiếp của collimator (Direct Aperture Opimasation- DAO) để tạo ra hiệu
quả IMRT bằng jaw only. Điều này đã mở ra triển vọng cho những cơ sở xạ
trị không có điều kiện trang máy gia tốc thế hệ có MLC qua việc ứng dụng
jaw chuyển động. Các nghiên cứu đã khẳng định rằng với JO-IMRT vẫn tạo
ra sự phân bố tối ưu tại các thể tích bia tương tự những gì thực hiện trên MLC
IMRT. Tuy nhiên ở những vùng thể tích lớn, hình dạng u phức tạp và các
mức liều lượng chênh lệch nhau thì JO IMRT khó đạt được chất lượng như
MLC IMRT. Thời gian điều trị cho một bệnh nhân áp dụng JO IMRT trung
bình khoảng 18 phút.
Sự ưu việt của máy gia tốc trong xạ trị
Trước đây xạ trị bằng bức xạ γ chủ yếu là nhờ vào nguồn phóng xạ γ
Co
60
có năng lượng trung bình 1,250MeV hoặc dùng kim Ra phóng xạ và
năng lượng trung bình của các tia γ khoảng 1MeV. Do năng lượng γ nhỏ nên

việc điều trị thường áp dụng đối với các khối u ở nông trên mặt da. Muốn
điều trị các khối u sâu hơn phải kéo dài thời gian chiếu xạ. Điều này ảnh
hưởng xấu đối với bệnh nhân. Riêng đối với nguồn Co
60
là nguồn đồng vị
phóng xạ có thời gian bán huỷ tương đối ngắn do đó hoạt độ phóng xạ giảm
đáng kể theo thời gian. Để đảm bảo liều điều trị phải tăng thời gian chiếu xạ
làm giảm hiệu qủa điều trị.
24
Ngày nay một phương pháp hiện đại áp dụng cho xạ trị đó là sử dụng
máy gia tốc. Về thuật ngữ “máy gia tốc” là thiết bị tăng tốc chùm điện tử (các
electron) đến một giá trị năng lượng nào đó theo yêu cầu đặt ra. Trong thực tế
lâm sàng, người ta sử dụng các máy gia tốc điều trị với 2 loại bức xạ. Chùm
Electron (qua hệ thống lái tia và các bộ lọc thích hợp) chùm Photon do chùm
Electron đập vào bia phát ra bức xạ hãm (gọi là tia X). Thông thường các
chùm eletron có 6 mức năng lượng khác nhau (ví dụ 5,6,8,10,12,14MeV).
Chùm Photon có 2 mức năng lượng (ví dụ 6,15MV). Máy gia tốc có ưu điểm
là bảo đảm liều chiếu ổn định, hạn chế thời gian xạ trị và có thể điều trị các
loại u ở các vị trí khác nhau trong cơ thể con người từ các u nông trên mặt da
đến các u sâu trong cơ thể (các nhà xạ trị có thể lựa chọn loại bức xạ cũng
như năng lượng phù hợp với độ nông sâu của khối u). Cùng với việc đóng
góp của hệ thống mô phỏng, hệ thống lập kế hoạch điều trị theo không gian 3
chiều, độ chính xác của các trường chiếu xạ được tăng lên, liều lượng tại u
được phân bố 1 cách tối ưu qua đó kết quả điều trị được nâng cao .
1.6.2. Điều trị hoá chất
Ngày nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ của ngành dược học, cùng
với các thử nghiệm lâm sàng làm thay đổi chiến lược trong điều trị ung thư
vòm họng, đó là điều trị kết hợp hoá chất và xạ trị. Kết hợp hoá xạ trị bao
gồm điều trị hoá chất bổ trợ trước, hoá chất bổ trợ sau và hoá xạ trị đồng thời.
Điều trị hoá chất bổ trợ trước (Neoajuvant Chemotherapy): Điều trị hoá

chất trước với mục đích làm khư trú tổn thương.
Điều trị hoá xạ đồng thời (Concurrent Chemoradiotherapy): Hoá chất
được đưa vào cơ thể ngay trong quá trình xạ trị.
Điều trị hoá chất bổ trợ sau (Ajuvant Chemotherapy): Điều trị hoá chất
tiến hành sau khi xạ trị.
25
Trước đây điều trị hoá chất thường được sử dụng để điều trị ung thư
vòm họng ở giai đoạn muộn khi đã có di căn xa hoặc tái phát. Từ những năm
1980 các tác giả một số nước và khu vực như Hồng Kông, Đài loan…đã đề
cập đến phối hợp hoá xạ trị. Nhiều thử nghiệm lâm sàng với sự hiện diện của
Cisplatin trong phác đồ kết hợp hoá xạ trị ung thư vòm tỏ ra hiệu quả với việc
làm nhỏ u và đặc biệt hạch nguyên phát. Đến đầu thập kỷ 90 các nhà nghiên
cứu thấy rằng việc truyền hoá chất trước tia (Neoajuvant Chemotherapy) làm
mất cơ hội điều trị bệnh mà vốn thường đến muộn, họ chuyển hướng nghiên
cứu hoá xạ đồng thời và đã thu được kết quả tốt. Hoá xạ trị đồng thời làm
tăng nhậy cảm của tế bào ung thư với tia, đồng thời hạn chế tái phát và di căn
xa. Gần đây nhiều thử nghiệm lâm sàng sử dụng hoá xạ trị bổ trợ sau hoá xạ
trị đồng thời đem lại sự cải thiện kiểm soát tại chỗ, kéo dài thời gian sống
thêm, hạn chế tái phát và di căn .

×