Luận văn
Hoàn thiện thanh tra, kiểm tra
thuế theo cơ chế tự khai tự nộp
thuế ở Phú Yên
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Thanh tra, kiểm tra là một trong những hoạt động hết sức quan trọng nhằm đảm
bảo an toàn, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh trong nền sản xuất hàng hoá, vận
hành theo cơ chế thị trường. Trong đó, thanh tra, kiểm tra thuế là một trong những hoạt
động mang tính chất đặc thù. Thanh tra, kiểm tra thuế trong thời gian qua không chỉ có
những đóng góp đáng kể vào chống thất thu thuế mà còn nhằm đảm bảo công bằng,
động viên đối với các chủ thể kinh tế phát huy nguồn lực của mình đẩy mạnh sản xuất,
nâng cao năng suất lao động. Tuy nhiên, thanh tra, kiểm tra thuế vẫn còn có những hạn
chế đòi hỏi phải được nghiên cứu nhằm cải tiến, đổi mới và hoàn thiện hơn nữa để đáp
ứng yêu cầu thực tiễn đang đặt ra. Với sự đòi hỏi cấp thiết đó, chúng tôi chọn đề tài:
“ HOÀN THIỆN THANH TRA, KIỂM TRA THUẾ THEO CƠ CHẾ TỰ KHAI -
TỰ NỘP THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ YÊN ” làm luận văn thạc sỹ kinh tế.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI.
- Góp phần làm rõ lý luận về thanh tra, kiểm tra nói chung và trong ngành thuế
nói riêng.
- Khẳng định sự cần thiết khách quan của việc tăng cường đổi mới, hoàn thiện
thanh tra, kiểm tra thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp thuế trên địa bàn tỉnh Phú Yên.
- Nghiên cứu thực trạng thanh tra, kiểm tra thuế trên địa bàn tỉnh Phú Yên giai
đoạn 2003-2007, trên cơ sở đó rút ra những thành tựu và những nguyên nhân hạn chế
của thanh tra, kiểm tra thuế tại tỉnh Phú Yên.
- Trên cơ sở định hướng đổi mới, hoàn thiện thanh tra, kiểm tra thuế theo cơ chế
tự khai, tự nộp và những nguyên nhân hạn chế, luận văn đề xuất giải pháp đẩy nhanh
vững chắc thanh tra, kiểm tra thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp thuế trên địa bàn tỉnh
Phú Yên.
3.
ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
- Nghiên cứu lý luận về thanh tra, kiểm tra thuế.
- 2 -
- Phạm vi nghiên cứu là thực trạng thanh tra, kiểm tra thuế tại tỉnh Phú Yên thời
gian qua. Trên cơ sở đó tìm kiếm, đề xuất giải pháp đẩy nhanh vững chắc thanh tra,
kiểm tra thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp góp phần phát triển sản xuất, kinh doanh trên
địa bàn tỉnh Phú Yên.
Các vấn đề khác được đề cập trong luận văn chỉ nhằm phục vụ cho việc làm rõ
mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
4. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI:
Đề tài có nhiều giải pháp thiết thực phù hợp với thực tiễn công tác thanh tra,
kiểm tra thuế ở Phú Yên hiện tại và trong thời gian tới. Tạo cơ sở khoa học cho Cục
thuế tỉnh Phú Yên có những định hướng và quyết định trong quản lý thuế mang lại
hiệu quả cao. Mặt khác đề tài cũng là tài liệu tham khảo hữu ích đối với những người
quan tâm đến lĩnh vực thuế, chống thất thu thuế nhằm đảm bảo công bằng, động viên
đối với các chủ thể kinh tế phát huy nguồn lực của mình đẩy mạnh sản xuất, nâng cao
năng suất lao động.
5. KẾT CẤU VÀ NỘI DUNG ĐỀ TÀI:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn có 3 Chương:
Chương I: Lý luận tổng quan về cơ chế tự khai tự nộp thuế.
Chương II: Thực trạng thanh tra, kiểm tra thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp thuế
trên địa bàn tỉnh Phú Yên.
Chương III: Giải pháp hoàn thiện thanh tra, kiểm tra thuế theo cơ chế tự khai, tự
nộp trên địa bàn tỉnh Phú yên.
Nội dung cụ thể từng chương của luận văn như sau:
- 3 -
Chương I
LÝ LUẬN TỔNG QUAN VỀ CƠ CHẾ TỰ KHAI TỰ NỘP THUẾ
1.1 TỔNG QUAN VỀ CƠ CHẾ TỰ KHAI TỰ NỘP THUẾ
1.1.1. Khái niệm cơ chế TKTN:
- Tự khai - tự nộp (Self assessment): tự xác định (lượng giá) căn bản thuế nhằm
mục đích tính thuế.
- Tự khai - tự nộp: nghĩa hẹp, đối tượng nộp thuế tự xác định căn bản thuế, tự
tính thuế, tự xác định số thuế phải nộp và tự nộp thuế theo đúng thời hạn qui định.
- Tự khai - tự nộp: nghĩa rộng, đang được sử dụng: là một phương thức quản lý
thuế được xây dựng trên nền tảng sự tuân thủ của ĐTNT được cụ thể bằng việc ĐTNT
tự thực hiện các nghĩa vụ mà Luật qui định và cơ quan thuế được tổ chức và thực hiện
các biện pháp quản lý thuế phù hợp với nguyên tắc đó.
Từ đó ta có khái niệm về cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế:
Tự kê khai, tự nộp thuế là cơ chế quản lý thuế trong đó người nộp thuế tự giác
tuân thủ thực hiện các nghĩa vụ thuế: người nộp thuế căn cứ các qui định tại các Luật
thuế để xác định nghĩa vụ thuế của mình, kê khai chính xác, nộp tờ khai thuế và nộp
thuế đúng thời hạn. Cơ quan thuế không can thiệp vào việc thực hiện nghĩa vụ thuế của
người nộp thuế nếu người nộp thuế tự giác tuân thủ nghĩa vụ. Cơ quan thuế có trách
nhiệm tuyên truyền, hỗ trợ, hướng dẫn để người nộp thuế hiểu rõ và tự giác thực hiện
nghĩa vụ thuế, đồng thời giám sát chặt chẽ việc tuân thủ nghĩa vụ thuế của người nộp
thuế và thông qua công tác kiểm tra, thanh tra để phát hiện, xử lý kịp thời, đúng đắn
những hành vi gian lận, trốn thuế của người nộp thuế. Việc giám sát, kiểm tra của cơ
quan thuế được thực hiện trên cơ sở có đầy đủ thông tin về người nộp thuế và thực
hiện phân tích thông tin, đánh giá những rủi ro để lựa chọn chính xác những trường
hợp có vi phạm cần thanh tra, kiểm tra. Điều này sẽ giúp khắc phục được việc thanh
tra, kiểm tra tràn lan, gây lãng phí nguồn lực cho cơ quan thuế và phiền hà cho người
nộp thuế.
[20]
- 4 -
1.1.2. Các điều kiện để thực hiện cơ chế tự khai tự nộp thuế:
Để thực hiện tốt cơ chế tự khai, tự nộp thuế đòi hỏi phải có đầy đủ và đồng bộ
nhiều yếu tố như: trình độ và sự nhận thức của người dân về nghĩa vụ thuế, chính sách
thuế, tổ chức quản lý thuế, nghiệp vụ quản lý thuế, trình độ của công chức thuế và các
thẩm quyền cần thiết của cơ quan thuế trong quản lý thuế:
- Người dân phải có được hiểu biết cơ bản về nghĩa vụ thuế, ĐTNT có ý thức
tuân thủ nghĩa vụ thuế, cộng đồng lên án những hành vi gian lận trốn thuế.
- Các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm cung cấp cho cơ quan
thuế những thông tin về ĐTNT có liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế của
ĐTNT.
- Chính sách thuế phải rõ ràng, dễ hiểu và dễ thực hiện như : thuế GTGT chỉ có
1 mức thuế suất, ít miễn giảm trong thuế thu nhập doanh nghiệp…, các qui định về kê
khai, nộp thuế thuận lợi, phù hợp với điều kiện kinh doanh của đối tượng nộp thuế.
- Bộ máy quản lý thuế ở cơ quan thuế các cấp phải tổ chức tập trung theo các
chức năng: tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT; theo dõi, xử lý việc kê khai thuế; đôn đốc thu
nợ và cưỡng chế thuế; thanh tra, kiểm tra thuế để nhằm chuyên môn hóa, nâng cao
năng lực quản lý thuế ở từng chức năng. Trên cơ sở đó có:
+ Hệ thống dịch vụ hỗ trợ ĐTNT toàn diện, có chất lượng.
+ Hệ thống cưỡng chế thuế, thu nợ có hiệu quả.
+ Hệ thống thanh tra, kiểm tra có mục tiêu rõ ràng.
- Hệ thống xử phạt nghiêm khắc. Cơ quan thuế có đủ thẩm quyền về điều tra, đủ
điều kiện về cưỡng chế thuế để phát hiện và xử lý nghiêm, kịp thời những trường hợp
gian lận, trốn thuế, chây ỳ nợ thuế, thu hồi đủ tiền thuế cho NSNN và đảm bảo sự công
bằng trong quản lý thuế.
- Hệ thống giải quyết khiếu nại hoạt động có hiệu quả.
- Quản lý thuế phải dựa trên kỹ thuật quản lý hiện đại- kỹ thuật quản lý rủi ro,
trên cơ sở đó nâng cao hiệu quả quản lý thông qua việc tập trung phân bổ nguồn lực
- 5 -
quản lý đối với các đối tượng nộp thuế không tuân thủ nghĩa vụ thuế gây rủi ro cao,
ảnh hưởng lớn đến nguồn thu NSNN.
Để thực hiện được quản lý thuế theo kỹ thuật quản lý rủi ro, cơ quan thuế cần
phải có:
+ Thông tin đầy đủ và liên tục về ĐTNT trong một khoảng thời gian nhất định
(ít nhất là 5 năm). Trên cở các thông tin đó cơ quan thuế phân tích, phân loại ĐTNT để
xác định biện pháp quản lý phù hợp với từng đối tượng.
+ Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc tập hợp, khai thác, sử dụng thông tin
về ĐTNT và ở tất cả các hoạt động quản lý của cơ quan thuế.
- Quy trình quản lý của cơ quan thuế tốt và được hỗ trợ tin học hoá
- Công chức thuế được đào tạo có đủ kiến thức, năng lực để thực hiện quản lý
thuế chuyên sâu, chuyên nghiệp theo từng chức năng quản lý. [20]
1.1.3. Các đặc trưng về quản lý:
- Trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn, nhất là trách nhiệm về hành vi, được qui
định rõ ràng cho từng phía: chủ thể quản lý - cơ quan thuế và đối tượng quản lý -
ĐTNT.
- Dân chủ trong quan hệ giữa cơ quan quyền lực Nhà nước và ĐTNT.
- Nhà nước (cơ quan thuế) không can thiệp và không làm thay trách nhiệm của
ĐTNT.
- Nhà nước (cơ quan thuế) chuyển đổi từ việc chủ yếu dùng quyền lực để quản
lý chuyển sang lấy hỗ trợ là chính. Đây là nền tảng cho một cuộc cải cách toàn diện hệ
thống quản lý thuế (cải cách thể chế, cải cách bộ máy, cải cách phương pháp quản lý,
cải cách các thủ tục hành chính…) .
- Chế độ kiểm tra thuế của cơ quan thuế được chuyển từ “tiền kiểm” sang “hậu
kiểm”.
[20]
1.1.4. Sự cần thiết phải chuyển đổi theo cơ chế tự kê khai, tự tính thuế và
nộp thuế:
- 6 -
Thứ nhất: Đối với tổ chức, cá nhân nộp thuế
- Được quyền tự thực hiện các nghĩa vụ của mình.
- Ngoài các trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn được qui định một cách rõ ràng,
các quyền của người nộp thuế được xác lập và có xu hướng tăng (đối lại đối với cơ
quan thuế là giảm).
- Tăng cơ hội bảo vệ các lợi ích cho chính doanh nghiệp ( tự mình hoặc có sự
trợ giúp từ bên ngoài, nhất là đối với các quyết định đưa ra từ phía cơ quan thuế mà
doanh nghiệp cho rằng quyết định đó xâm phạm đến quyền lợi của doanh nghiệp).
- Được cơ quan thuế, các công chức thừa hành trong hệ thống ngành thuế tôn
trọng.
- Được hưởng các dịch vụ thuế ngày càng có chất lượng hơn do thành quả thu
được từ công cuộc cải cách hành chính từ phía cơ quan thuế, tiết kiệm được chi phí,
các phiền hà trong hành chính được giảm thiểu.
- Được hưởng sự hỗ trợ tối đa của cơ quan thuế trong việc cung cấp các thông
tin, phương tiện, các trợ giúp để kê khai thuế, nộp thuế vì đây là nhiệm vụ chính của cơ
quan thuế.
[20]
Thứ hai: Đối với cơ quan thuế
- Cơ quan thuế có điều kiện để cải tiến cơ cấu tổ chức nhằm sử dụng hiệu quả
nhất các nguồn lực hiện có, công tác quản lý thuế được tổ chức theo hướng ngày càng
hiện đại và chuyên môn hóa.
- Cơ quan thuế có điều kiện tập trung nguồn lực vào công tác phục vụ, hỗ trợ
các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho cơ sở kinh doanh hiểu và
tự giác thực hiện các nghĩa vụ thuế của mình đối với NSNN.
- Cơ quan thuế có điều kiện để tăng cường thanh tra, kiểm tra và cưỡng chế thuế
có hiệu quả hơn đối với người nộp thuế có khả năng rủi ro cao trong việc không tuân
thủ thực hiện nghĩa vụ thuế.
- 7 -
- Triển khai thực hiện cơ chế này sẽ tạo điều kiện cho ngành thuế đẩy mạnh hiện
đại hoá quản lý thuế mà cụ thể là đẩy mạnh việc áp dụng công nghệ thông tin trong
quản lý thuế. [20]
1.2.SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN NÂNG CAO VAI TRÒ THANH
TRA, KIỂM TRA THUẾ THEO CƠ CHẾ TỰ KHAI, TỰ NỘP THUẾ
1.2.1. Mục đích, yêu cầu của thanh tra, kiểm tra thuế:
1.2.1.1. Khái niệm về thanh tra, kiểm tra thuế:
a. Khái niệm về thanh tra thuế:
Thanh tra ( tiếng Anh là Inspect) xuất phát từ nguồn gốc La tinh (Inspectare) có
nghĩa là “nhìn vào bên trong”, chỉ một sự kiểm tra, xem xét từ bên ngoài đối với hoạt
động của một số đối tượng nhất định. Theo Từ điển pháp luật Anh-Việt, thanh tra “là
sự kiểm soát, kiểm kê đối với đối tượng bị thanh tra”.Từ điển Luật học (tiếng Đức) giải
thích thanh tra “là sự tác động của chủ thể đến đối tượng đã và đang thực hiện thẩm
quyền được giao nhằm đạt được mục đích nhất định -sự tác động có tính trực thuộc”.
Theo Từ điển tiếng Việt “ thanh tra là kiểm soát, xem xét tại chỗ việc làm của địa
phương, cơ quan, xí nghiệp”. Với nghĩa này, Thanh tra bao hàm nghĩa kiểm soát nhằm:
“ xem xét và phát hiện ngăn chặn những gì trái với quy định”. Thanh tra thường đi kèm
với một chủ thể nhất định: “ người làm nhiệm vụ thanh tra”, “đoàn thanh tra của Bộ”
và “đặt trong phạm vi quyền hạn của chủ thể nhất định.
Như vậy Thanh tra là một chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước, là hoạt
động kiểm tra, xem xét việc làm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân; thường
được thực hiện bởi một cơ quan chuyên trách theo một trình tự, thủ tục do pháp luật
quy định, nhằm kết luận đúng, sai, đánh giá ưu, khuyết điểm, phát huy nhân tố tích
cực, phòng ngừa, xử lý các vi phạm, góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền, lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức và cá nhân”.
[23]
- 8 -
Từ phân tích trên ta có khái niệm thanh tra thuế: là một chức năng thiết yếu
trong quản lý thuế, kiểm tra, xem xét việc tuân thủ pháp luật thuế của người nộp
thuế được cơ quan thuế thực hiện theo trình tự thủ tục do pháp luật quy định
nhằm kết luận đúng, sai, đánh giá ưu, khuyết điểm, phát huy nhân tố tích cực,
phòng ngừa, xử lý các vi phạm pháp luật về thuế, góp phần hoàn thiện cơ chế
quản lý thuế, chính sách thuế, pháp luật thuế, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền, lợi ích hợp pháp của người nộp
thuế.
b. Khái niệm về kiểm tra thuế:
Theo Từ điển tiếng Việt thì “ kiểm tra là xem xét tình hình thực tế để đánh giá,
nhận xét”. Xét về chủ thể thì phạm vi chủ thể tiến hành hoạt động kiểm tra đa dạng hơn
thanh tra rất nhiều. Chủ thể tiến hành kiểm tra có thể là Nhà nước hoặc cũng có thể là
một chủ thể phi nhà nước, chẳng hạn như hoạt động kiểm tra của một tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội (Đảng, Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ…), hoạt
động kiểm tra trong nội bộ một doanh nghiệp: kiểm tra của Giám đốc đối với các
phòng, ban, kiểm tra của Quản đốc đối với nguời lao động. Trên một bình diện rộng
hơn nữa, kiểm tra có thể là sự xem xét thực tế để đánh giá, nhận xét của bất kỳ một cá
nhân nào trong xã hội trong bất cứ hoạt động nào.Theo nghĩa hẹp kiểm tra là hoạt động
của chủ thể nhằm tiến hành xem xét, xác minh việc gì đó của đối tượng bị quản lý xem
có phù hợp hay không phù hợp trạng thái đã quy định trước. Chủ thể kiểm tra có thể áp
dụng một chế tài pháp lý nhất định như áp dụng xử phạt vi phạm hành chính hoặc buộc
phải thực hiện một số biện pháp ngăn chặn hành chính. Khái niệm kiểm tra nằm trong
khái niệm thanh tra “ tổ chức thanh tra là công cụ đắc lực của Đảng, của chính quyền
trong việc kiểm tra sự chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật, kế hoạch
của Nhà nước, Pháp lệnh thanh tra năm 1990 cũng quy định: “Thanh tra Bộ, Ủy ban
Nhà nước hướng dẫn, kiểm tra thủ trưởng các cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý
(Điều 14).
[23]
Ban dang xem mot so trang mau. Vui long download file day du ve de xem!