Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Chuyên đề tốt nghiệp Phân tích tình hình thực hiện thu BHXH ở huyện Tĩnh Gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.68 KB, 59 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
LỜI CẢM ƠN 2
CHƯƠNG 2 23
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CÔNG TÁC THU BHXH
TẠI BHXH HUYỆN TĨNH GIA 23
Sơ đồ cơ quan BHXH huyện Tĩnh Gia 26
1
LỜI CẢM ƠN
Qua chuyên đề tốt nghiệp này tôi xin trân trọng cảm ơn toàn thể cán
bộ công chức, viên chức trong cơ quan BHXH Huyện Tĩnh Gia, cảm ơn
Giám đốc Nguyễn Đức Dương đã tận tình giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận
lợi cho tôi trong suốt thời gian thực tập tại cơ quan. Đồng thời qua đây tôi
xin trân trọng cảm ơn cô giáo hướng dẫn TS Phạm Thị Định,người đã tận
tình hướng dẫn tôi trong quá trình thực tập thực tế.
Ngày 16 tháng 4 năm 2008
Sinh viên thực tập
Nguyễn Đình Hải
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan chuyên đề thực tập của tôi là do tự bản thân tôi nghiên
cứu trong suốt thời gian thực tập, cùng với kinh nghiệp và kiến thức đã
được học, đồng thời tham khảo các tài liệu, các văn bản, các nghị định,
thông tư chỉ thị,nghị quyết của chính phủ về lĩnh vực Bảo Hiểm Xã Hội để
hoàn thành luận văn.Tuyệt đối không có sự sao chép các bài viết của sinh
viên khác. Nếu sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Người cam đoan
Sinh Viên
Nguyễn Đình Hải
3
LỜI NÓI ĐẦU


* Tính Cấp thiết của đề tài:
Bảo Hiểm Xã Hội (BHXH ) là một chính sách lớn của Đảng và Nhà
nước, được thực hiện ở nước ta ngay từ những ngày đầu thành lập nước. Ngày
01/11/1945 Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 54/ SL qui định điều
kiện cho công nhân viên chức nghỉ chế độ hưu trí. Sắc lệnh này ra đời đã góp
phần đảm bảo ổn định đời sống cho công nhân viên chức, quân nhân và người
lao động, ổn định chính trị, an toàn xã hội, thúc đẩy công cuộc xây dựng đất
nước, bảo vệ Tổ quốc.
Từ đó đến nay chính sách chế độ BHXH không ngừng được Đảng và
Nhà nước sửa đổi, bổ xung cho phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất
nước. Nhằm không ngừng chăm lo đời sống, thu nhập, sức khoẻ của người
tham gia BHXH và người thụ hưởng BHXH.
Thực hiện tốt chính sách BHXH chính là thực hiện nhiệm vụ nâng cao
cuộc sống con người, vì dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Ngành BHXH nói chung, BHXH Huyện Tĩnh Gia nói giêng vinh dự
được thực hiện một phần quan trọng nhiệm vụ phục vụ con người của chế độ
Xã hội chủ nghĩa, đi theo suốt cuộc đời của mỗi con người từ khi được sinh ra
cho đến khi về già. Vì mục đích an toàn xã hội, an sinh hạnh phúc là những
điều mà cả xã hội, mọi người, mọi cộng đồng đều mơ ước.Tuy nhiên do chính
sách BHXH thường xuyên bổ xung và sửa đổi nên không chánh khỏi những
thiếu sót sơ hở để cho chủ sử dụng lao động và người tham ra BHXH có
những hành vi trục lợi. Công tác thu BHXH-BHYT còn gặp nhiều khó khăn
do sự nhận thức của chủ sử dụng lao động và người lao động còn có nhiều
hạn chế gây không ít khó khăn cho cơ quan BHXH trong việc thực hiện chế
độ chính sách cho người lao động. Đây cũng là lý do mà em lựa chọn đề tài
“Phân tích tình hình thực hiện thu BHXH ở huyện Tĩnh Gia ” làm chuyên
đề tôt nghiệp của mình .
4
*Mục đích nghiên cứu của chuyên đề :
Mục đích nghiên cứu của chuyên đề là vấn đề về thực hiện thu BHXH

sao cho thật đầy đủ, chính xác, kịp thời, thực hiện thu đúng, thu đủ thông qua
các thực trạng về chi và thu BHXH. Từ đó rút ra những ưu điểm, những vấn
đề còn tồn tại. Đề xuất những kiến nghị, giải pháp cần làm để đạt được hiệu
quả cao nhất trong việc thực hiện thu BHXH ở Huyện Tĩnh Gia.
*Đối tượng nghiên cứu là: Công tác thu BHXH tại BHXH huyện Tĩnh
Gia- Thanh Hóa
* Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu là thực hiện công tác thu tai BHXH Huyện Tĩnh Gia
giai đoạn 2004-2007.
* Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu là căn cứ vào nguồn tư liệu thực hiện chính
sách thu, chi ở BHXH Huyện Tĩnh Gia. Căn cứ các nghị định, thông tư, nghị
quyết của chính phủ, các chỉ thị, văn bản chỉ đạo của BHXH Việt Nam và các
ngành có liên quan. Tìm hiểu về tình hình phát triển kinh tế xã hội của huyện
liên quan đến việc thực hiện thu BHXH trên địa bàn, mục tiêu quan điểm, giải
pháp của các cấp chính quyền đối với việc thực hiện chính sách, chế độ
BHXH như thế nào ?. Dùng phương pháp phân tích, so sánh tổng hợp từ đó
rút ra những vấn đề đã thực hiện được, những yếu điểm còn tồn tại để đề xuất
những kiến nghị cho phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương
Kết Cấu Chuyên Đề gồm:
Ngoài phần Lời mở đầu,Kết luận chuyên đề có ba chương
Chương 1: Khái niệm và nội dung nghiên cứu việc thực hiện công tác
thu ở BHXH huyện Tĩnh Gia.
Chương 2: Phân tích thực trạng công tác thu BHXH ở Huyện Tĩnh Gia.
Chương 3: Những giải pháp hoàn thiện công tác thu ở BHXH Huyện
Tĩnh Gia.
5
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BHXH VÀ VAI TRÒ CỦA
CÔNG TÁC THU BHXH

I/ KHÁI NIỆM BHXH:
Theo từ điển bách khoa Viêt Nam thì :“Bảo Hiểm xã hội là sự
đảm bảo, thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao
động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn
lao động và bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất, dựa
trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia
BHXH, có sự bảo hộ của nhà nước theo pháp luật, nhằm bảo đảm an
toàn đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần
bảo đảm an toàn xã hội”.
II-BẢN CHẤT BHXH:
1- Về phương diện cá nhân:
Ở trong một xã hội có công bằng nói chung ai có làm thì có hưởng,
có cống hiến thì có hưởng thụ, làm việc với năng suất, chất lượng, hiệu
qủa thế nào thì được hưởng thành quả một cách tương ứng, nói cách
khác là có đóng BHXH thì có hưởng. Người lao động trong suốt thời kỳ
lao động, làm việc của mình phải có đóng góp một phần tiền lương của
mình được coi như '' của để dành ''để khi ốm đau, bệnh tật, lúc về già
yên tâm hưởng chế độ BHXH.
2- Về góc độ kinh tế:
Ra đời và phát triển cùng với nền kinh tế thị trường, BHXH đã xuất
hiện từ hàng trăm năm nay và có mặt ở hầu hết các nước trên thế giới.
6
Trình độ phát triển của BHXH được quyết định bởi mức độ phát triển
của nền kinh tế. Nền kinh tế càng phát triển thì mức độ hoàn thiện của
BHXH ngày càng cao. Ngựơc lại hoạt động BHXH kém hiệu quả sẽ gây
ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế.
BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối
với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất
khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một
quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia

đình họ.
3- Về phương diện chính trị:
BHXH là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, mang trong
nó bản chất nhân văn sâu sắc, vì cuộc sống an lành, hạnh phúc của con
người.
Chính vì vậy ngay từ khi thành lập nước- Nước Việt nam dân chủ cộng
hoà đã làm tròn nhiệm vụ lịch sử mà dân tộc và nhân dân giao phó là
giành độc lập, xoá bỏ chế độ thực dân phong kiến, xây dựng nền dân
chủ cộng hoà và chăm no đến đời sống của nhân dân dân. Trải qua thời
kỳ xây dựng và kiến thiết đất nước, Đảng và nhà nước ta ngày càng phát
huy cao “ dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc ".
Mục đích của chủ nghĩa xã hội là vì con người, đem lại dân chủ đi
vào cả chiều sâu, chiều rộng gắn với hạnh phúc của con người, an sinh
xã hội ở mức độ cao hơn. “ BHXH Việt Nam được vinh dự thực hiện
một phần quan trọng nhiệm vụ phục vụ con người của chế độ XHCN đi
theo suốt cuộc đười của con người từ lúc sịnh ra đến khi về già và mất
đi. Con người ai cũng trải qua Sinh – Lão - Bệnh - Tử “
1
vì vậy mà an
1
Tác giả Hồ Tế- Chủ Tịch HĐQL BHXH Việt Nam –BPB Đặc trưng, tính chất của mô hình tổ chức
BHXH Việt Nam và phương hưởng phát triển của BHXH VN trang 16
7
toàn xã hội- an sinh hạnh phúc là những điều mà cả xã hội, mọi con
người, mọi cộng đồng đều mơ ước.
4- Về phương diện xã hội
“Xét về mặt bản chất BHXH là hoạt động mang tính nhân đạo, tính
nhân văn sâu sắc. Dùng tiền đóng góp khi còn trẻ, còn khoẻ để dùng vào
những lúc ốm đau, lúc tuổi già.BHXH còn là sự đóng góp ít của nhiều
người để cứu trợ nhiều cho ít người ''

2
. Bảo hiểm trong chế độ ta còn thể
hiện tính chất nhân đạo của chế độ XHCN do tính chất tập trung ngoài
tài chính BHXH còn có khả năng tập trung nguồn lực cho sự phát triển
của ngành.
III.QUỸ BHXH:
1-Nguồn hình thành quỹ:
Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau đây:
-Người lao động đóng góp.
-Người sử dụng lao động đóng góp.
-Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm.
-Các nguồn khác như lãi do đầu tư Quỹ nhàn rỗi.
Trong nền kinh tế hàng hóa, trách nhiệm tham gia đóng góp BHXH cho
người lao động được phân chia cho cả người sử dụng lao động và người
lao động trên cơ sở quan hệ lao động.Điều này không phải là phân chia
rủi ro, mà là lợi ích giữa hai bên.Về phía người sử dụng lao động,sự
2
2. Tác Giả Đào Duy quát phó trưởng ban tư ởng văn hoá trung ướng –Bài PB vai trò lãnh đạo của đảng
đối với BHXH Vn trang 60
8
đóng góp một phần BHXH cho người lao động sẽ tránh được thiệt hại
kinh tế do phải chi ra một khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra với người
lao động mà mình thuê mướn.Đồng thời nó còn góp phần làm giảm bớt
tình trạng tranh chấp, kiến tạo được mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ-
thợ.Về phía người lao động, sự đóng góp một phần để BHXH cho mình
vừa biểu hiện sự tự gánh chịu trực tiếp rủi ro của chính mình, vừa có ý
nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ.
Mối quan hệ chủ- thợ trong BHXH thực chất là mối quan hệ lợi ích. Vì
thế, cũng như nhiều lĩnh vực khác trong quan hệ lao động,BHXh không
thể thiếu được tham gia đóng góp của Nhà nước.

Nguồn quỹ được hình thành chưa sử dụng tới sẽ được đem đầu tư sinh
lời,sau đó bổ sung vào Quỹ.
Ở Việt Nam hiện nay quy định mức đóng như sau:
-Người sử dụng lao động đóng bằng 15 % Tổng quỹ lương.
-Người lao động đóng bằng 5 % tiền lương.
- Nhà nước đóng và hỗ trợ giúp thực hiện các chế độ BHXH.
2- Mục đích sử dụng Quỹ BHXH:
Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu để chi trả cho các mục đích sau đây:
- Chi trợ cấp cho các chế độ BHXH
− Chi cho sự nghiệp quản lý BHXH
− Chi đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH
Trong 3 nội dung chi trên thì chi trả trợ cấp BHXH theo các chế độ là
lớn nhất và quan trọng nhất
Theo Công ước 102( Công ước về Quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội)
9
thì chính sách BHXH bao gồm 9 chế độ:
− Chăm sóc y tế
− Trợ cấp ốm đau
− Trợ cấp thất nghiệp
− Trợ cấp tuổi già
− Trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp
− Trợ cấp gia đình
− Trợ cấp thai sản
− Trợ cấp tàn tật
− Trợ cấp tiền tuất
Còn theo điều 2 của Điều lệ BHXH Việt Nam,BHXH nước ta bao
gồm 5 chế độ: Chế độ ốm đau,chế độ trợ cấp thai sản,chế độ trợ cấp
tai nạn lao động,bệnh nghề nghiệp,chế độ hưu trí và chế độ tử tuất.
IV. CÔNG TÁC THU BHXH:
1-Vai trò của công tác thu BHXH:

* BHXH là một trong những chính sách của Đảng và Nhà nước nó thể
hiện tính ưu việt của chế độ XHCN, tính nhân văn.Vì mục đích an sinh
xã hội lấy “số đông bù số ít”
3
nó khác hẳn với các loại hình bảo hiểm
khác.
Sự cần thiết của chính sách BHXH trong một quốc gia có thể hiểu
thông qua 4 vấn đề sau:
+ Thứ nhất, hoạt động BHXH có thể đảm bảo cuộc sống tối
3
Tác giả-PTS. Nguyễn Huy Ban –Tổng giám đốc BHXH Việt Nam trong bài phát biểu những định hướng
phát triển ngành BHXH VN đên năm 2010.
10
thiểu cho người lao động và giữ vững ổn định chính trị xã hội.bởi vì
khi cuộc sống của người lao động được đảm bảo sẽ hạn chế được sự
phân biệt giầu nghèo, phân biệt đối xử. Giúp cho người lao động yên
tâm làm việc lúc còn sức lao động thì nhà nước mới đảm bảo được an
sinh xã hội, có động lực phát triển kinh tế xã hội.
+ Thứ hai, Trên cơ sở hoạt động của BHXH và sự phát triển
của nền kinh tế hiện nay, nhà nước sẽ là người trung gian đứng ra điều
chỉnh các mối quan hệ xã hội, điều chỉnh thu nhập giữa các tầng lớp
người lao động và tầng lớp dân cư trong các độ tuổi khác nhau, đảm
bảo sự công bằng xã hội đối với mọi người dân, mọi người lao động
trong các thành phần kinh tế bằng hệ thống chính sách BHXH.
+ Thứ ba, Thực hiện chiến lược phát triển nền kinh tế, và công
cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhất là trong su thế hội
nhập đã làm tăng nhu cầu về mở rộng hoạt động BHXH. Cùng với
việc phát triển khoa học kỹ thuật sẽ xuất hiện nhiều những rủi ro mới
và nghiêm trọng hơn đối với người lao động. Nhiều công việc, nghề
nghiệp mới phát sinh làm tăng tình trạng tai nạn lao động và xuất

hiện nhiều bệnh nghề nghiệp mới, tình trạng thất nghiệp gia tăng do
sử dụng ngày càng nhiều máy móc hiện đại, dây truyền sản xuất tự
động.
+Thứ tư, trong bất kỳ hoàn cảnh nào nhà nước đứng sau và
luôn luôn là người hỗ trợ cho hoạt động BHXH vì: Hoạt động BHXH
hình thành nên nguồn quỹ BHXH và đó là quỹ của người lao động
tiết kiệm được trong quá trình đóng góp hàng tháng, hàng kỳ để dành
lúc ốm đau, thai sản, tai nạn lao đông, bệnh nghề nghiệp hoặc lúc về
già. Nhà nước có trách nhiệm duy trì và bảo toàn quỹ của người lao
động để thực hiện các chế độ trợ cấp, nếu không thì xã hội sẽ bất ổn,
11
nền kinh tế trì trệ kém phát triển.Do đó việc nghiên cứu công tác thu
BHXH để hình thành quỹ là một vấn đề tất yếu và hiết sức cần thiết
• Thực hiện tốt chế độ BHXH sẽ góp phần tích cực thúc đẩy nền
kinh tế của đất nước phát triển làm cho dân giầu, nước mạnh xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.việc tham gia đóng BHXH sẽ
trở thành ý thức trung của cộng đồng, sự nghiệp BHXH sẽ có
bước phát triển mới tạo tiền đề cho thuận lợi cho tiến bộ xã hội.
2- Quy định pháp luật về thu BHXH ở Việt Nam:
Trong bất kỳ một lĩnh vực nào đó của đời sống kinh tế xã hội đều
phải tuân theo những quy định cụ thể của pháp luật. Nếu như quy định
đó xuất phát từ thực tiễn phù hợp với quy luật khách quan thì sẽ có tác
dụng thúc đẩy sự phát triển và ngược lại sẽ trở thành vật cản ở lĩnh vực
đó nói riêng và với toàn xã hội nói chung. Hoạt động của BHXH, BHYT
ngay từ khi chính sách BHXH,BHYT được triển khai thực hiện, nhà
nước đã có những văn bản, quy phạm pháp luật để điều chỉnh như :
Luật, sắc lệnh, nghị định, thông tư, quyết định .
• Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959:
Tháng 8 năm 1945 nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời.
Tháng 12/1946 quốc hội đã thông qua hiến pháp đầu tiên của nhà nước

dân chủ nhân dân. Trong hiến pháp có xác định quyền được hưởng trợ
cấp của người tàn tật và người già.
Ngày 12/3/1947 chủ Tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 29/SL
quy định chế độ trợ cấp cho công nhân.
Ngày 20/5/1950, Hồ Chí Minh đã ký hai sắc lệnh số 76 và 77 quy
định thực hiện các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hưu trí cho
cán bộ, công nhân viên chức.
12
Đặc điểm của chính sách pháp luật BHXH thời kỳ này do thực
dân pháp xâm chiếm Việt Nam nên trong hoàn cảnh kháng chiến gian
khổ, khó khăn việc thực hiện BHXH rất hạn chế, các loại trợ cấp đều
thực hiện bằng gạo. Đây cũng là thời kỳ đánh dấu sự quan tâm rất lớn
của đảng và nhà nước về chính sách BHXH. Đồng thời những quy định
về BHXH của nhà nước ở thời kỳ này là cơ sở cho sự phát triển BHXH
sau này.
* Từ năm 1960 đến năm 1994:
Điều 14 của hiến pháp năm 1959 quy định: “Công nhân viên chức
nhà nước có quyền hưởng BHXH”.
Ngày 27/12/1961 Chính phủ ban hành nghị định 218/ CP kèm
theo điều lệ tạm thời về BHXH. Điều lệ qui định những nội dung sau:
-Về đối tượng áp dụng: là cán bộ, công nhân viên chứ trong
biên chế nhà nước.
-Về hệ thống trợ cấp: Bao gồm 6 chế độ là chế độ ốm đau,thai
sản,tai nạn laođộng- bệnh nghề nghiệp,mất sức lao động, hưu tri,tử tuất.
-Về tài chính BHXH: các cơ quan đơn vị đóng 4.7% so với tổng quỹ
lương vào BHXH nằm trong ngân sách nhà nước (NSNN ). Chi phí
BHXH nếu vượt quá số lượng đóng góp thì NSNN cấp bù.
-Về tổ chức quản lý thực hiện: Bộ Lao động- thương binh và xã hội
quản lý 3 chế độ: Mất sức lao động. Hưu trí, tử tuất. Tổng liên đoàn lao
động Việt Nam quản lý thực hiện 3 chế độ là ốm đau, thai sản,tai nạn

lao động và bệnh nghề nghiệp.
Bắt đầu từ năm 1985 khi nghị định 236/HĐBT ngày 18/9/1985 ra đời
đã bổ xung và sửa đổi một số chính sách về thương binh xã hội cùng với
13
thông tư số 48-TBXH ngày 30/9/1985 hướng dẫn thực hiện nghị định số
236/ HĐBT. Quy định điều kiện nghỉ hưu, thời gian công tác và chuyển
đổi lại tiền lương cho người về hưu, mất sức lao động. Nghị định này ra
đời trong bối cảnh đất nước vừa trải qua chiến tranh đang xây dựng và
kiến thiết đất nước do đó hoàn toàn phù hợp với thực tiễn lúc bấy giờ nó
đã góp phần cải thiện đời sống cho người lao động, ổn định tình hình
chính trị xã hội.
Mặt hạn chế của nghị định này là những năm đó công tác lưu trữ hồ
sơ của người lao động của các cơ quan, xí nghiệp còn chưa được coi
trọng, để thất lạc nhiều. Mặt khác do biến động của đất nước như thiên
tai, chiến tranh, hồ sơ gốc của người lao động bị mất nhiều phải khôi
phục lại. Cho nên một số người lao động và chủ sử dụng lao động đã lợi
dụng thời cơ này để khai man lại tuổi đời, man thời gian công tác và ghi
lại nơi công tác ở những vùng có chiến tranh, vùng khó khăn gian khổ
để được qui đổi thời gian công tác được 1+6 họăc 1+4 để được nghỉ chế
độ hưu trí, dẫn đến kết quả là ngân sách nhà nước phải gánh chịu chi trả
cho những người hưởng sai chế độ.Nhất là những năm 1992,1993 ,
19994 số người về hưu ồ ạt càng nhiều thì những sai phạm càng lớn.
Qua công tác thanh kiểm tra, thanh tra tỉnh Thanh Hóa đã phát hiện ra
rất nhiều trường hợp hưởng sai chế độ chính sách đã chuyển toàn bộ hồ
sơ của những người sai phạm sang BHXH làm lại hồ sơ xuống hưởng
chế độ mất sức lao động hoặc hưởng một lần thu hồi lại tiền cho ngân
sách nhà nước. Hậu quả để lại làm ảnh hưởng rất lớn đến tình hình
chính trị ở địa phương gây mất lòng tin cho người lao động.
Tiếp theo là quyết định số 60/HĐBT ngày 1/3/1990 của hội đồng bộ
trưởng đã sửa đổi chế độ trợ cấp đối với công nhân, viên chức nghỉ việc

14
vì mất sức lao động (MSLĐ) kèm theo thông tư số 05/LĐTBXH-TT
ngày 24/4/1990 hướng đẫn thi hành chế độ mất sức lao động theo quyết
định số 60/HĐBT.
Nội dung sửa đổi là công nhân, viên chức đã nghỉ việc vì MSLĐ chỉ
được hưởng 1/2 thời gian công tác (TGCT) đã qui đổi. Những đối tượng
đặc biệt sau đây sau khi hết hạn hưởng trợ cấp theo qui định ở điều 1
vẵn tiếp tục được hưởng trợ cấp MSLĐ hàng tháng là;
1-Anh hùng lực lượng vũ trang
2-Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh được sếp
hạng thương tật
3-Những người bị tai nạn lao động, hoặc bệnh nghề nghiệp được xếp
hạng thương tật.
4-Những người bị MSLĐ từ 81% trở lên.
5-Những người khi về nghỉ đã hết tuổi lao động (nam đủ 60 tuổi nữ đủ
55 tuổi)
6-Những người không nơi nương tựa, không có nguồn thu nhập.
7-Những người có đủ 5 năm công tác thực tế ở các chiến trường B,K,C
ở biên giới, đảo xa, vùng có nhiều khó khăn gian khổ
8-những người có đủ 25 năm công tác quy đổi trở lên
9-Những người tính đến ngày 1/1/1990 đã hết tuổi lao động
Quyết định này ra đời đã đem lại sự công bằng cho người lao động
giữa cống hiến và hưởng thụ ai làm nhiều thì hưởng nhiều, ai làm ít thì
hưởng ít và có chính sách ưu tiên cho những người có cống hiến đặc
biệt.
15
Mặt hạn chế là ở điều kiện 4 “những người bị MSLĐ từ 81% trở
lên.”khi người lao động chuẩn bị cắt chế độ họ đi nằm viện và họ có thể
móc nối với các bác sỹ bệnh viện bệnh thế là “ bệnh án nhẹ thành
nặng”sau đó làm đơn đề nghị cơ quan BHXH xin được đi giám định lại

sức khoẻ và tiếp tục thể hiện “tiêu cực” đến cái đích cuối cùng là MSLD
81% để được hưởng lại chế độ.
Ở điều kiện số 9 ‘Những người tính đến ngày 1/1/1990 đã hết tuổi lao
động”.
Điều kiện này có lợi cho người lao động nhiều nhất nhưng điểm bất
hợp lý ở đây là có nhiều người họ chỉ có thời gian công tác thực tế từ
10 đến dưới 15 năm quy đổi ra thì chỉ được 15->16 năm nhưng thời
gian hưởng của họ được vĩnh viễn đến lúc chết ví dụ cụ thể:
Bà Nguyễn Thị H số sổ MSLĐ là 89859 sinh năm 1931 công tác ở
nhà máy điện lao cai có thời gian thực tế là 11 năm 10 tháng quy đổi
15 năm 9 tháng nghỉ MSLĐ ngày 01/11/1979 tính đến tháng 1/1990
bà Huỳnh đã hết tuổi lao động được hưởng trợ cấp MSLĐ vĩnh viễn
tính đến năm 2006 bà đã hưởng chế độ 27 năm gần gấp 2.5 lần thời
gian công tác thực tế và tiếp tục hưởng có thể là đến 40 năm hoặc hơn
nữa tuỳ theo tuổi thọ của bà.
Như vậy là chính sách có những điều bất hợp lý, những trường hợp
tương tự như vậy nên chuyển sang cho họ hưởng trợ cấp 91 thì hợp lý
hơn. bởi vì có rất nhiều trường hợp họ có từ 15-> 17 năm công tác
thực tế qui đổi dưới 20 năm tuổi đời thấp, lại bị cắt chế độ vì ra giám
định sức khoẻ không được 81%.
Chính sách BHXH trong thời kỳ này có những đặc điểm sau:
+ Đã xây dựng được hệ thống trợ cấp BHXH khá toàn diện
16
( ngoài 6 chế độ quy định, nhà nước còn thực hiện chế độ khám chữa
bệnh không mất tiền, chế độ trợ cấp thôi việc, chế độ trơ cấp cho
người ăn theo)
+ Chính sách BHXHđã góp phần tích cực vào việc ổn định
đời sống của cán bộ, công nhân viên chức góp phần xây dựng đất
nước.
+ Do hoàn cảnh đất nước, nền kinh tế trong thời kỳ này còn

thấp kém chủ yếu là theo cơ chế bao cấp cho nên chính sách BHXH
được áp dụng còn hạn hẹp về đối tượng và tài chính đảm bảo cho các
chế độ trợ cấp phần lớn là do NSNN đài thọ, không thành lập quỹ
BHXH.
*Giai đoạn từ năm 1995 trở đi:
Trong điều kiện nền kinh tế xã hội của đất nước ta ngày càng phát
triển thì thì các nghị định, quyết định của chính phủ cũng được sửa
đổi, bổ xung và ngày càng hoàn thiện. Nhất là từ năm 1995 trở lại đây
khi điều lệ BHXH ra đời kèm theo nghị định 12 CP và thông tư 66
hướng dẫn thực hiện đã có những thay đổi rất cơ bản về cơ chế, về
chính sách.
Hiến pháp năm 1992 qui định “ Nhà nước quy định thời gian lao
động, chế độ tiền lương, chế độ nghỉ ngơi và chế độ BHXH đối với
viên chức nhà nước và người làm công ăn lương, khuyến kích phát
triển các hình thức BHXH khác đối với người lao động”.
Ngày 23/6/1994, quốc hội đã thông qua Bộ luật Lao động trong đó
chương XII qui định về BHXH.
Ngày 26/1/1995, Chính phủ đã ban hành nghị định số 12/CP kèm
theo điều lệ BHXH đối với công nhân viên chức nhà nước và người
17
lao động.
Ngày 15/7/1995 Chính phủ ban hành nghị định số 45/CP kem theo
điều lệ BHXH đối với quân nhân trong lực lượng vũ trang.
Những nội dung cơ bản của pháp luật BHXH hiện hành trong gia
đoạn này bao gồm:
-Từng bước mở rộng đối tượng áp dụng BHXH đến người lao động
làm công ăn lương trong các thành phần kinh tế.
- Hệ thống BHXH trong giai đoạn này gồm 5 chế độ:
+ Chế độ trợ cấp ốm đau
+ Chế độ trợ cấp thai sản

+ Chế độ trợ cấp TNLD, bệnh nghề nghiệp
+ Chế độ hưu trí
+ Chế độ tử tuất.
-Thành lập quỹ BHXH tập trung, độc lập với ngân sách nhà nước, từng
bước thực hiện việc cân đối thu, chi BHXh. Quỹ BHXH có 3 nguồn đống
góp là nhà nước, chủ sử dụng lao động và người lao động.
Việc tổ chức quản lý nhà nước về BHXH do Bộ Lao động –Thương
binh và xã hội đảm nhiệm. Việc tổ chức quản lý thực hiện pháp luật
BHXH do BHXH Việt Nam đảm nhận.
Đặc điểm của chính sách, pháp luật BHXH hiện hành là:
Pháp luật BHXH được xây dựng phù hợp với điều kiện kinh tế nhiều
thành phần theo định hướng XHCN của đảng và nhà nước.
-Thực hiện công bằng về quyền được hưởng trợ cấp BHXH của mọi
người lao động.
18
-Thực hiện quan hệ hữu cơ giữa nghĩa vụ về đóng góp và quyền lợi
hưởng thụ về BHXH.
-Mở rộng mạng lưới trợ cấp BHXH đến mọi người lao động nhằm đảm
bảo an toàn xã hội.
-Thành lập quỹ BHXH do ba bên đóng góp, hạch toán độc lập với
NSNN để chi trả các chế độ BHXH.
-Tổ chức bộ máy chuyên trách quản lý thực hiện chính sách BHXH.
Đi sâu vào phân tích 5 chế độ BHXH theo quy định của điều lệ
BHXH thấy có những ưu điểm sau:
+ Đối với chế độ ốm đau quy định thêm thời gian hưởng trợ cấp đối
với người lao động thuộc các ngành nghề hoặc công việc nặng nhọc,
độc hại và làm việc ở những nơi có phụ cấp khu vực có hệ số từ 0,7 trở
lên. Mức trợ cấp của những người mắc bệnh cần chữa sau 180 ngày
trong 1 năm bằng 70% (nếu có thời gian đóng BHXH từ 30 năm trở
lên ) hoặc 65%(nếu có thời gian đóng BHXH dưới 30 năm ) mức lương

hưởng trước khi ốm đau ( trước đây quy định bằng 70% mức lương tối
thiểu). Chế độ ốm đau lần này còn được mở rộng để thực hiện cho
những người thực hiện các biện pháp kế hoạch hoá dân số tức là được
nghỉ việc và hưởng trợ cấp như nghỉ việc do ốm đau.
+ Đối với chế độ thai sản, theo quy định trước đây thì thời gian nghỉ
để hưởng trợ cấp là 120 ngày đối với lao động nữ làm việc trong điều
kiện bình thường,150 ngày đối với lao động nữ làm việc trong điều kiện
nặng nhọc,độc hại. Điều lệ BHXH quy định thêm thời gian nghỉ đẻ
hưởng trợ cấp 180 ngày đối với lao động nữ làm việc ở nơi có phụ cấp
khu vực hệ số 01. Người làm công việc đặc biệt theo danh mục của bộ y
tế ban hành.
19
+ Đối với chế độ tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, điều lệ
quy định rõ trách nhiệm của chủ sử dụng lao động đối với người lao
động khi xảy ra tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp là phải chịu
mọi khoản chi phí về sơ cứu, cấp cứu, điều trị, tiền lương trong thời
gian điều trị và bồi thường nếu người lao động bị tàn phế hoặc chết. Sau
khi vết thương ổn đình thì phải có trách nhiệm bố trí công việc phù hợp
cho người bị tai nạn và tổ chức BHXH giới thiệu đi giám định khả năng
lao động
Khi người lao động giám định y khoa mà bị suy giảm khả năng lao
động do bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp thì được quỹ BHXH
trợ cấp tuỳ theo mức độ suy giảm khả năng lao động từ 5 đến 30%
được trợ cấp một lần, từ 31% trở lên được trợ cấp hàng tháng với mức
trợ cấp hàng tháng tuỳ thuộc vào mức suy giảm khả năng lao động.
Khác với quy định trước đây từ 61% trở lên mới được hưởng trợ cấp
hàng tháng
+ Đối với chế độ hưu trí. Điều lệ BHXH quy định Nam đủ 60 tuổi,
nữ đủ 55 tuổi, có thời gian công tác đủ 20 năm trở lên thì được về nghỉ
hưởng chế độ hưu trí, ngoài ra điều lên BHXH còn quy định rõ hơn các

trường hợp chưa đủ tuổi đời, cũng được hưởng lương hưu hàng tháng.
Quy định này nhằm giải quyết tình hình thực tế thường xảy ra có nhiều
trường hợp tuy chưa hết tuổi lao động nhưng vì bị suy giảm khả năng
lao động từ 61% trở lên đến mức không thể tiếp tục làm việc được.
Nhưng do nghỉ hưu trước tuổi hoặc thời gian đóng BHXH ngắn (15 năm
và đủ tuổi đời) nên hưởng mức lương hưu hàng tháng không thể như
những đối tượng nghỉ hưu đủ tuổi đời, thời gian đóng BHXH nhiều (30
năm trở lên). Đây cũng là thể hiện sự công bằng giữa thực hiện nghĩa vụ
và quyền lợi được hưởng vì cùng đóng BHXH nhưng người đóng
20
BHXH và thời gian làm việc dài hơn thì được hưởng tiền trợ cấp hưu trí
cao hơn.
Điều lệ cũng quy định rõ tất cả những người nghỉ hưu nếu có mức
lương hưu thấp hơn mức tiền lương tối thiểu thì được điều chỉnh bằng
mức lương tối thiểu. Đây là sự đảm bảo của nhà nước và xã hội để góp
phần ổn định đời sống cho đối tượng.
Về tỷ lệ lương hưu tối đa là 75% của mức bình quân đóng BHXH,
thấp hưn trước đây quy định tối đa là 95%. Sự điều chỉnh xuống 75% là
xuất phát từ thực tế sau:
-Trước đây do chính sách BHXH thể hiện các việc ưu đãi xã hội khi
tính lương hưu, nay chính sách ưu đãi xã hội được tách riêng ra, thể
hiện trong pháp lệnh người có công.
-Tiền lương hưu trước đây cao nhất được tính bằng 95%,vì tiền
lương trước khi nghỉ hưu chỉ tính trên phần tiền lương bằng tiền, không
tính phần tiền lương bằng hiện vật. Còn lương hưu hiện nay được tính
bằng 75% của tiền lương đã được tiền tệ hoá.
-Với mức lương bằng 75% này, thì những người có lương thấp hơn
cũng còn có nhiều khó khăn về đời sống. Nhưng với mức đó đến thời
điểm nào đó ngân sách nhà nước phải hỗ trợ cho quỹ BHXH thể hiện ở
các kỳ tăng tiền lương(46% hoặc 42%, 38.1% ). Vì mức đóng 15%

( riêng cho chế độ hưu trí ) mà hưởng 75% thì quỹ sẽ không thể thực
hiện cân bằng thu chi khi số lượng nghỉ hưu hàng năm tăng cao. Các
nước trên thế giới tỷ lệ lương hưu thường quy định từ 40% đến 60%
mức tiền lương trung bình.
+ Đối với chế độ tử tuất, Điều lệ đã quy định mức tiền tuất hàng tháng
được nâng lên bằng 40% mức lương tối thiểu và trong các trường hợp
21
người lao động chết mà gia đình có nhiều thân nhân như bố, mẹ hai bên,
vợ chồng đã hết tuổi lao động, không có nguồn thu nhập, con dưới 18
tuổi còn đang đi học cũng được xem xét giải quyết. Những thân nhân
mồ côi cả cha lẫn mẹ thì được trợ cấp tuất nuôi dưỡng hàng tháng và
mức trợ cấp này sẽ cao hơn so với quy định.Với mức tiền tuất này sẽ
đảm bảo quan hệ cân bằng với các đối tượng được trợ cấp thuộc các
diện chính sách xã hội khác.
Tiếp theo đến nghị định 01/2003/NĐ-CP ngày 09 tháng 01 năm 2003
về sửa đổi bổ xung một số điều của điều lệ BHXH ban hành kèm theo
nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 của chính phủ bổ xung sửa đổi
điều 3,10,bổ xung điều 24a là người lao động tham ra BHXH bắt buộc
được hưởng chế độ nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ, sửa đổi bổ
xung điều 2, bổ xung điều 29,35a,36, 36a.Bãi bỏ nghị định số
93/1998/NĐ-CP ngày 12/11/1998 của chính phủ về viêc sửa đội, bổ
xung một số điều của điều lệ BHXH ban hành kèm theo nghị định số
12/CP ngày 26/01/1995 của chính phủ và quyết định số 37/QĐ-TTG
ngày 21/3/2001 của chính phủ về chế độ dưỡng sức phục hồi sức khoẻ
của người lao động.
Quyết định số 20/2002/QĐ-TTG về việc chuyển bảo hiểm y tế Việt
Nam sang BHXH Việt Nam và nghị định số 100/2002/NĐ-CP quy định
chức năng, nhịêm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam
qui định chế độ khám chữa bệnh cho người lao động và ngườiđược thụ
hưởng BHXH.

22
CHƯƠNG 2
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CÔNG TÁC
THU BHXH TẠI BHXH HUYỆN TĨNH GIA
I- ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ- XÃ HỘI CỦA HUYỆN TĨNH GIA :
Tĩnh Gia là huyện cực nam của tỉnh Thanh Hóa,với tổng diện tích tự
nhiên là 45.733 ha phía Nam giáp tỉnh Nghệ An,phía Đông giáp biển,phía Bắc
giáp huyện Quảng Xương,Tây giáp huyện Nông Cống và Như Thanh.Với vị
trí địa lý nói trên cho thấy Tĩnh Gia có sự hội tụ của cả 3 vùng sinh thái: vùng
biển và ven biển,vùng đồng bằng và trung du,miền núi. Với số lượng 33 xã và
01 thị trấn; dân số 230.000 người.Huyện lỵ huyện Tĩnh Gia đặt tại Thị trấn
Tĩnh Gia (trước gọi là phố Còng).Với vị trí địa lý như vậy đã tạo cho huyện
Tĩnh Gia một thế “mở” khá rộng đặc biệt là về phía Nam,tạo cơ hội cho sự
hình thành các mô hình Kinh tế liên tỉnh và thực hiện các dự án liên kết kinh
tế.Khu kinh tế Nam Thanh Bắc Nghệ đã ra đời đặc biệt là hóa lọc dầu, trong
tương lai sẽ trở thành khu vực sầm uất và thịnh vượng tại miền Trung.
Là huyện miền biển, tiếp giáp với huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An), khu
công nghiệp Nghi Sơn mới bước đầu phát triển nên tiềm năng kinh tế còn
nhiều hạn chế với sự phát triển của kinh tế hàng hoá và dịch vụ chưa đồng
đều nên ảnh hưởng trực tiếp đến việc tham gia BHXH trên địa bàn Huyện.
I I- GIỚI THIỆU VỀ BHXH HUYỆN TĨNH GIA:
1.Quá trình hình thành và phát triển của BHXH Huyện Tĩnh Gia:
Cùng với sự ra đời của BHXH Việt Nam-BHXH Tỉnh,Thành phố và các
Huyện,Thị xã (Thành phố) trong cả nước đều được hình thành.BHXH Huyện
23
Tĩnh Gia được thành lập theo Quyết định số192/QĐ-TCBH Ngày 28/8/1995
của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam .Các hoạt động về nghiệp vụ BHXH và
tổ chức bộ máy dưới sự chỉ đạo của BHXH Tỉnh Thanh Hóa
. Ngay từ khi đi vào hoạt động BHXH Huyện Tĩnh Gia đã khẩn trương
tiếp nhận số đối tượng hưởng chế độ BHXH do Phòng Tổ chức - Lao động

Thương binh Xã hội và Liên Đoàn Lao Động bàn giao. Lúc đầu do trình độ
dân trí còn không đồng đều, hiểu biết về lĩnh vực BHXH còn mơ hồ, cơ cấu
kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, các đơn vị sản xuất kinh doanh phần lớn ở qui
mô nhỏ và đang gặp không ít khó khăn. Số lao động tham gia BHXH và
hưởng chế độ BHXH không nhiều lại phân tán. Trong khi nhân lực, trình độ
cán bộ công chức, cơ sở vật chất những ngày đầu còn hạn chế, lại vừa
phải ổn định tổ chức, vừa phải giải quyết một lượng lớn công việc khi mới tái
lập, vẫn phải lo đảm bảo chế độ cho những người tham ra BHXH thì quả là
một thách thức không nhỏ.
Nhưng với sự nỗ lực làm việc vượt qua mọi khó khăn của cán bộ công
chức trong cơ quan. Qua mấy năm làm việc công việc của BHXH đã đi vào
nề nếp và hoạt động ngày càng có hiệu quả. Mặt khác được sự quan tâm chỉ
đạo của các cấp, các ngành cùng với sự chỉ đạo trực tiếp của BHXH tỉnh về
lĩnh vực chuyên môn nghiệp vụ mà từng bước BHXH huyện đã hoàn thành
công việc được giao.
Đặc biệt ngày 20 tháng 07 năm 2008, BHXH Tĩnh Gia cùng với BHXH
Huyện Mỏ Cày tỉnh Bến Tre là 2 đơn vị cấp huyện duy nhất được BHXH
Việt Nam tặng Huy hiệu công nhận Chiến sĩ Thi đua toàn ngành .
BHXH Huyện Tĩnh Gia là cơ quan trực thuộc BHXH Tỉnh, trụ sở đặt tại
trung tâm văn hóa , chính trị của Huyện, nằm trong hệ thống tổ chức của BHXH
Việt Nam.Có chức năng tham mưu giúp Giám đốc BHXH Tỉnh tổ chức thực hiện
24
và giải quyết các chể độ chính sách BHXH , quản lý Thu-Chi các chế độ BHXH
trên địa bàn và chịu sự quản lý hành chính trên địa bàn lãnh thổ thuộc UBND
Huyện .BHXH Huyện Tĩnh Gia có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản
riêng.
BHXH huyện Tĩnh Gia có Giám đốc và 01 Phó Giám đốc, các bộ phận
chức năng có nhiệm vụ thu chi các chế độ BHXH .Với 6.643 đối tượng nghỉ
hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng, cùng lượng tiền chi trả là 6702,6609 triệu
đồng/tháng. Quản lý 07 đầu mối thu BHXH gồm các đơn vị hành chính sự

nghiệp, khối các doanh nghiệp kinh doanh và các đơn vị khác với số thu một
năm trên 6 Tỷ đồng. Điều kiện này đòi hỏi mỗi cán bộ trong đơn vị phải nâng
cao ý thức trách nhiệm, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
25

×