Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NHỮNG BIỆN PHÁP ĐỂ LÀM TỐT CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.8 KB, 19 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NHỮNG BIỆN PHÁP ĐỂ LÀM TỐT CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM
ĐẶT VẤN ĐỀ
Giáo viên chủ nhiệm (GVCN) đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình giáo
dục học sinh. Chính vì vậy, muốn làm tốt công tác chủ nhiệm, trước hết người
GVCN cần nắm vững chức năng, nhiệm vụ và nội dung của công tác chủ nhiệm.
1, Nhiệm vụ, chức năng và nội dung của người giáo viên chủ
nhiệm.
a, Chức năng, nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm lớp.
Giáo viên chủ nhiệm lớp trước hết phải quản lí toàn diện lớp học và cần nắm
vững: hoàn cảnh và những thay đổi, những tác động của gia đình đến học sinh của
lớp chủ nhiệm; quản lí toàn diện đặc điểm học sinh của lớp. Nắm vững mục tiêu
đào tạo cả về mặt nhân cách và kết quả học tập của học sinh, … để kết hợp giáo
dục.
Giáo viên chủ nhiệm lớp phải thực hiện tốt nhiệm vụ của một thầy cô giáo nói
chung, mẫu mục về đạo đức, gương mẫu trong việc chấp hành pháp luật và những
quy định của nhà nước; nắm vững đường lối, quan điểm giáo dục và vận dụng sáng
tạo vào thực tiễn dạy học. Người giáo viên phải tham gia các hoạt động chính trị -
xã hội với tư cách là lực lượng tri thức trong công cuộc đổi mới, phát huy những
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Giáo viên chủ nhiệm còn có trách nhiệm nắm vững tình hình học sinh của lớp
về mọi mặt, báo cáo cho hiệu trưởng và BGH kịp thời các vấn đề của lớp chủ
nhiệm để giải quyết. Kịp thời kiểm tra đánh giá công bằng, khách quan quá trình
rèn luyện, phấn đấu, tu dưỡng của học sinh.
Có kế hoạch tổ chức hoạt động của tập thể học sinh thực hiện nhiệm vụ chung
của nhà trường cùng với các tập thể lớp khác làm chủ lớp chủ nhiệm trở thành
thành viên tích cực của cộng đồng trường học. Thông qua tổ chức hoạt động tự
quản của tập thể mà rèn luyện nhân cách, khả năng ứng xử, năng lực sáng tạo, khả
năng vận dụng tri thức vào thực tiễn cuộc sống.
Giáo viên chủ nhiệm cùng giáo viên bộ môn phối hợp với các tổ chức, đoàn thể
khác tổ chức cho học sinh có điều kiện tham gia vào các hoạt động của nhà trường,


xã hội, …
Giáo viên chủ nhiệm là cầu nối giữa BGH, các tổ chức trong trường, các giáo
viên bộ môn với tập thể học sinh lớp chủ nhiệm. Nói cách khác, giáo viên chủ
nhiệm là người đại diện cho hai phía, một mặt đại diện cho các lực lượng giáo dục
của nhà trường, mặt khác đại diện cho tập thể học sinh. Với tư cách là người đại
1
diện cho lớp chủ nhiệm, GVCN có trách nhiệm bảo vệ, bênh vực những quyền lợi
chính đáng cho học sinh của lớp.
GVCN là cố vấn tổ chức hoạt động tự quản của tập thể học sinh
Học sinh lớp 12 là những em ở lứa tuổi thanh niên – lứa tuổi giàu ước mơ, đang
muốn khẳng định mình, năng động, dám nghĩ dám làm … nhưng còn thiếu kinh
nghiệm, khi có thành công thì dễ tự tin quá mức, gặp thất bại lại dễ mất niềm tin,
… Vì vậy, việc định hướng, giúp đỡ học sinh kịp thời là rất cần thiết. Chức năng cố
vấn có ý nghĩa quan trọng nhất đối với giáo viên chủ nhiệm vì chức năng này, về
bản chất là sự điều chỉnh, vai trò định hướng, điều khiển quá trình tự giáo dục của
từng học sinh và tập thể học sinh, phát huy vai trò chủ thể của học sinh trong giáo
dục.
Cố vấn còn là quá trình giáo dục, định hướng của giáo viên chủ nhiệm lớp đối
với hoạt động tự quản của tập thể học sinh lớp chủ nhiệm, giáo viên chủ nhiệm
không trực tiếp tham gia điều khiển công việc của lớp, không làm thay cho các em
mọi hoạt động.
Chức năng cố vấn đối với học sinh phải quán triệt được toàn bộ nội dung giáo
dục, kế hoạch hoạt động của cá nhân và tập thể lớp chủ nhiệm bao gồm từ học tập,
rèn luyện đạo đức, thể dục thể thao, … diễn ra trong nhà trường và ngoài xã hội.
GVCN cần tư vấn cho học sinh trong quan hệ ứng xử xã hội, gia đình, cộng đồng
và trong bạn bè, định hướng nghề nghiệp , … cho học sinh, đặc biệt là học sinh lớp
12 – lớp học cuối cấp.
b, Nội dung công tác của người giáo viên chủ nhiệm.
Người giáo viên chủ nhiệm cần nắm vững đường lối, quan điểm, lí luận giáo
dục để vận dụng vào công tác chủ nhiệm lớp… Đặc biệt cần nắm vững phương

pháp, nghệ thuật sư phạm.
Ví dụ: Nắm vững các yếu tố ảnh hưởng tới sự hình thành nhân cách, vai trò
của giáo dục, hoạt động; mối quan hệ giữa giáo viên với học sinh; các phương
pháp tác động song song, tác động tay đôi, bùng nổ sư phạm, … đó là những lí
luận mà người giáo viên chủ nhiệm cần nắm vững.
Giáo viên chủ nhiệm có kế hoạch nghiên cứu đặc điểm gia đình và đặc điểm
tâm sinh lí của từng học sinh. Điều đặc biệt quan trọng đối với giáo viên chủ nhiệm
là bằng các phương pháp, phân tích cho được nguyên nhân của các hiện tượng, đặc
điểm của từng học sinh.
Lập kế hoạch chủ nhiệm cho từng tháng, cho năm học để đảm bảo tính hệ thống
phát triển nhân cách học sinh. Kế hoạch chủ nhiệm lớp cần thể hiện một số nội
dung sau:
Khái quát chung về đặc điểm lớp chủ nhiệm.
Có kế hoạch bồi dưỡng học sinh khá – giỏi, phụ đạo học sinh yếu – kém.
2
Giáo viên chủ nhiệm phải dạy tốt môn học được phân công dạy ở lớp chủ
nhiệm và các lớp khác.
Giáo viên chủ nhiệm phải không ngừng tự hoàn thiện bản thân về mọi mặt, là
tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
2, Lý do chọn đề tài.
Trong thời gian qua, Việt Nam đã hội nhập mạnh mẽ với thế giới bên ngoài.
Những thành quả gặt hái được trong quá trình đó thì ai cũng có thể thấy được.
Nhưng cũng có một thực tế rõ ràng, cùng với những giá trị tốt đẹp thì nhiều mặt trái
của hội nhập cũng theo gót vào Việt Nam. Chính điều đó đã làm băng hoại, xói
mòn nhiều giá trị tốt đẹp của dân tộc.
Ta thường nói rằng: tâm hồn học sinh là một tờ giấy trắng mà ai cũng có thể vẽ
lên đó những nét bút cho dù là nét đẹp hay xấu. Nói cách khác, học sinh là đối
tượng dễ bị ảnh hưởng bởi các luồng văn hóa từ ngoài vào. Đặc biệt trong thời đại
bùng nổ công nghệ thông tin thì điều đó lại càng dễ dàng.
Thực tế cho thấy có rất nhiều học sinh tốt, có ý thức, chịu học, …nhưng số học

sinh chưa tốt cũng không ít. Bất cứ lớp học nào cũng có học sinh chưa tốt, học sinh
hư, học sinh “lạc đường” trong nhận thức vấn đề. Lớp học do tôi chủ nhiệm cũng
không là ngoại lệ.
Bên cạnh đó, trong quá trình làm công tác chủ nhiệm, ở những năm trước tôi
chưa đi sâu vào vấn đề chủ nhiệm mà chỉ ở mức hoàn thành nhiệm vụ, chủ yếu tôi
tập trung vào công tác chuyên môn. Chính vì vậy, ở những năm trước số học sinh
trong lớp tôi chủ nhiệm có tiến bộ về mặt đạo đức chưa nhiều, tôi chưa phát huy
được vai trò trung tâm, khả năng tự quản của các em; có một số học sinh chưa có ý
thức tổ chức kỉ luật; chưa giúp Ban cán sự lớp hoạt động hiệu quả, … vì vậy không
tạo được một điểm nào nổi bật ở lớp chủ nhiệm.
Những vấn đề trên đã làm tôi suy nghĩ rất nhiều. Khi nhìn lại quá trình làm
công tác chủ nhiệm tôi thấy mình còn nhiều hạn chế cần khắc phục. Điều đó làm
cho tôi luôn suy nghĩ, tìm tòi để nâng cao khả năng công tác của mình. Nhiều biện
pháp đã được tôi nghĩ đến và thử nghiệm. Và đến nay tôi đã bước đầu đạt được
những thành công trong công tác chủ nhiệm.
Tất cả những gì tôi tìm tòi và áp dụng thành công sẽ được tôi trình bày trong
“NHỮNG BIỆN PHÁP ĐỂ LÀM TỐT CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM ”.
Những biện pháp này được tôi áp dụng từ năm học 2008 – 2009 và hoàn thiện
ở năm học 2009 – 2010.
3, Phạm vi nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu và tìm tòi, tôi không tập trung vào tất cả các vấn đề
mà tập trung nhiều vào các vấn đề sau:
Ý thức chấp hành nội quy của học sinh.
Ý thức học tập.
Khả năng tự quản.
3
Xây dựng đội ngũ BCS lớp.
Vận dụng tâm lý và dựa vào tính cách, thái độ của học sinh để xử lý tình
huống…
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

Giáo dục là một quá trình lâu dài, trong đó người làm giáo dục phải áp dụng
nhiều biện pháp, từ khâu tổ chức, giáo dục, đến tác động vào từng cá nhân và tập
thể. Quá trình đó cũng không phải chỉ diễn ra trong một hay hai ngày mà là quá
trình tác động lâu dài, như dân gian thường nói “mưa dầm thấm lâu” .
1, Đặc điểm tình hình của lớp chủ nhiệm.
Năm học 2009 – 2010, lớp tôi có 54 học sinh, trong đó có:
44 học sinh nữ.
10 học sinh nam
52 học sinh là Đoàn viên TNCS Hồ Chí Minh
Đầu năm học lớp có một số thuận lợi và khó khăn như sau:
1.1, Thuận lợi.
- Được sự quan tâm của BGH, Đoàn và các tổ chức trong nhà trường.
- Có một số học sinh có ý thức học tập tốt, nhiệt tình, năng động, …
- Ban cán sự (BCS) lớp có năng lực, tinh thần trách nhiệm cao.
- Lớp có tinh thần đoàn kết, không chia phe – nhóm.
- Trong lớp có một số học sinh nhà gần trường …
1.2, Khó khăn.
- Đa số học sinh nhà ở xa trường rất khó khăn trong việc đi lại.
- Lớp có 2 học sinh có hoàn cảnh gia đình đặc biệt( bố mẹ li hôn) nhiều học
sinh có mẹ đi nước ngoài, 1 học sinh có cha mẹ bất hòa đã lâu năm.
- Nhiều học sinh ý thức học tập chưa cao, còn ham chơi, thậm chí tham gia
tệ nạn xã hội (cá cược, điện tử ).
- Nhiều cha mẹ học sinh chưa quan tâm đến việc học của con em.
- Môi trường xã hội xung quanh trường học tương đối phức tạp, làm ảnh
hưởng không tốt đến học sinh.
1.3, Kết quả chất lượng hai mặt giáo dục ở năm học 2008 – 2009:
4
Hạnh kiểm Học lực
Tốt 22 Giỏi /
Khá 32 Khá 18

TB / TB 36
Yếu / Yếu /
2, Biện pháp thực hiện – cách làm mới:
2.1, Nhận lớp chủ nhiệm.
Trước ngày khai giảng, GVCN nhận sự phân công của BGH nhà trường nhận
lớp chủ nhiệm. Sau khi có danh sách học sinh, GVCN cố gắng nhớ hết tên học sinh
trong lớp. Đây là điều rất quan trọng. Bởi con người, ai cũng muốn mình là người
quan trọng đối với người khác, là người được người khác tôn trọng. Việc giáo viên
gọi tên các em học sinh ngay khi mới gặp nhau là biểu hiện của điều đó. Học sinh
sẽ rất vui, bất ngờ vì việc này. Chính việc này sẽ giúp người giáo viên chủ nhiệm
nhanh chóng để lại ấn tượng của mình trong các em. Điều quan trọng là các em
cảm nhận được sự tôn trọng của GVCN đối với mỗi học sinh.
Ví dụ: Khi BGH trao cho tôi danh sách lớp, tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần để
nhớ tên của học sinh lớp mình và tôi cố gắng biết mặt của 1/3 số học sinh trong
lớp trước ngày tôi gặp lớp. Khi vào lớp tôi gọi tên những học sinh mà tôi biết mặt
để hỏi thăm tình hình trong dịp nghỉ hè. Trước việc làm đó học sinh đã rất bất ngờ
vì không biết tại sao cô chủ nhiệm lại biết tên trong lúc chưa tiếp xúc lần nào.
Thực sự các em rất thích thú về điều đó.
Tiếp theo GVCN sẽ gặp những giáo viên chủ nhiệm cũ kết hợp với buổi học
nội quy, buổi lao động đầu năm của các em để nắm bắt tình hình chung, tình hình
của một số học sinh trong lớp (như học sinh giỏi, học sinh cá biệt, học sinh có hoàn
cảnh đặc biệt, …). Cũng qua đó GVCN sẽ định hình được đội ngũ BCS lớp sau này
cũng như đưa ra được biện pháp giáo dục học sinh phù hợp.
Ví dụ: Sau khi nhận lớp, tôi đã gặp GVCN cũ. Qua đó tôi nắm được một số
thông tin quan trọng về một số học sinh do tôi chủ nhiệm như sau:
Học sinh trong lớp sống ở nhiều địa bàn khác nhau, có những học sinh nhà rất
xa trường; trong lớp có 2 học sinh cha- mẹ ly hôn, 1 học sinh nhà rất nghèo, 1 học
sinh có cha mẹ đang trong tình trạng bất ổn về hôn nhân, …
Trên cơ sở những thông tin này, trước các hành vi ứng xử của học sinh, GVCN
sẽ đưa ra được biện pháp xử lý phù hợp, có thái độ, lời nói đúng mực. Tránh được

việc đụng chạm đến những vấn đề nhạy cảm của các em cũng như có thể động viên
các em kịp thời.
Khi mới nhận lớp GVCN không nên áp đặt ngay những quy định của lớp, buộc
các em vào khuôn khổ ngay lập tức. Vì điều này tạo cho các em sự gò bó, mất tự do
mà tự do là điều mà đa số các em đang muốn có.
5
Ví dụ: Ở lớp tôi chủ nhiệm hiện nay áp dụng nhiều quy định riêng của lớp như
xếp hạnh kiểm theo thang điểm, vi phạm nội quy sẽ phải làm vệ sinh phòng học,
không thuộc bài ở nhà thì cuối buổi phải ở lại học thuộc rồi mới về …Tất cả các
biện pháp này đều áp dụng từ từ, điều quan trọng là tôi đã áp dụng nó đúng lúc.
Chính vì vậy mà tôi đã được các em ủng hộ.
2.2, Bầu ban cán sự (BCS) lớp – chia tổ.
a, Cơ sở chọn BCS lớp – chia tổ.
Để bầu BCS lớp đạt hiệu quả - hoạt động tốt, GVCN tham khảo ý kiến của
GVCN cũ bởi họ là người nắm rõ khả năng của các em học sinh.
Một cán bộ lớp tốt phải là người năng động, nhiệt tình, biết sống vì tập thể,
không ích kỉ, … cho nên khi chọn BCS lớp giáo viên cần chú ý đến tính cách của
người học sinh mà mình chọn.
Ở đầu năm học lớp có một buổi lao động, giáo viên cũng có thể quan sát những
học sinh mà mình có ý định đưa vào BCS lớp. Trong khi các em lao động, giáo
viên quan sát để đánh giá về ý thức, tác phong, khả năng phối hợp với các bạn
khác. Đặc biệt trong giờ lao động, người giáo viên có thể sẽ chọn được một lớp phó
lao động tốt. Khi quan sát, không nhất thiết là luôn có mặt ở bên lớp mà giáo viên
nên quan sát học sinh từ xa vì khi đó thái độ, ý thức, khả năng và uy tín của các em
mới thật sự bộc lộ.
Ngoài ý thức trách nhiệm các thành viên trong BCS còn phải có năng lực tốt.
Muốn biết điều này cần phải dựa vào học bạ.
Khi chọn BCS lớp, cố gắng bảo đảm ở mỗi địa bàn cư trú có một thành viên
của BCS lớp. Làm được như vậy thì trong quá trình hoạt động giáo viên có thể để
nắm tình hình các thành viên trong lớp thông qua các em.

Ví dụ: Ở lớp tôi có lớp trưởng ở Thượng Đạt, lớp phó học tập ở CộngHòa, tổ
trưởng tổ 1 ở Hiệp Cát, tổ trưởng tổ 2 ở Hồng Phong, tổ trưởng 3 ở Minh Tân, tổ
trưởng tổ 4 ở An Lâm …
Vai trò của GVCN trong việc chọn BCS lớp rất quan trọng nhưng các thành
viên trong lớp cũng có vai trò không kém. Vì vậy khi lựa chọn giáo viên cần căn cứ
vào sự tín nhiệm của tập thể, điều này thể hiện qua việc bình bầu dân chủ đầu năm.
Khi tiến hành chia tổ, GVCN cần tạo sự đồng đều trong tổ. Có nghĩa là mỗi tổ
sẽ có các đối tượng học sinh có học lực, ý thức chấp hành nội quy khác nhau. Nói
cách khác, mỗi tổ phải bảo đảm nhiều đối tượng: có học sinh yếu, học sinh giỏi,
học sinh ở địa bàn xa – gần, có học sinh ngoan, học sinh cá biệt, … Làm được như
vậy thì trong quá trình học tập các em có thể hỗ trợ nhau, nhắc nhở nhau trong học
tập, trong lao động.
Ví dụ: Lớp tôi đầu năm có 54 học sinh, tôi chia làm bốn tổ:
6
Tổ 1 gồm 14 thành viên, có một số học sinh có học lực nổi bật như Nguyễn Thị
Oanh, Nguyễn Thị Vân, Nguyễn Thị Hiền , …một số học sinh có ý thức chưa tốt
như Nguyễn Văn Bình, Nguyễn Văn Việt …
Tổ 2 gồm 15 học sinh, có 2 học sinh nổi bật về học lực là em Nguyễn Thị Yến,
Trần Thị Ly; một số học sinh ý thức chưa tốt như Nguyễn Văn Tùng, Nguyễn Thị
Diệu
Trong quá trình chia tổ, tôi đưa học sinh mà mình dự định cho làm tổ trưởng
vào tổ đó.
b, Tiến hành bầu BCS lớp.
Trước khi tiến hành bầu, giáo viên chủ nhiện nêu ý kiến: “BCS lớp do thầy
chọn hay các em chọn?” Khi học sinh quyết định do các em chọn thì giáo viên chủ
nhiệm thỏa thuận: “Thầy đồng ý cho các em chọn nhưng khi chọn xong các em
phải tôn trọng, hoạt động theo sự điều hành của các bạn trong BCS lớp”.
Việc bầu chọn BCS lớp được tiến hành trong tiết sinh hoạt của tuần thứ nhất
hoặc tuần thứ hai đầu năm học.
Trước khi bầu, GVCN thông qua tiêu chuẩn của các chức danh được bầu.

Ví dụ: Tiêu chuẩn của lớp trưởng: Học lực từ khá trở lên, hạnh kiểm tốt, năng
động, nhiệt tình, có khả năng tổ chức, có uy tín với bạn trong lớp…
Tiêu chuẩn của lớp phó học tập: học lực giỏi, nhiệt tình giúp đỡ bạn, tính tình
hòa đồng, …
Ở các chức danh khác giáo viên cũng đưa ra tiêu chuẩn tương tự.
Sau khi thông qua tiêu chuẩn các chức danh, GVCN đề cử luôn chức danh lớp
trưởng và các lớp phó.
Ví dụ: Chức danh lớp trưởng: Nguyễn Văn Tư, Phạm Thị Trang
Lớp phó học tập: Nguyễn Thị Hoà, Đoàn Thị Hạnh
Lớp phó lao động: Nguyễn Thị Oanh, Đào Xuân Thành …
Qua việc nêu tiêu chuẩn và đề cử thì các em học sinh đã định hình được những
người mà mình sẽ chọn. Bây giờ cho các em tiến hành ứng cử, đề cử và tiến hành
biểu quyết chọn BCS lớp.
Chọn xong lớp trưởng và các lớp phó, GVCN cho các tổ tự bầu tổ trưởng trên
cơ sở tiêu chuẩn đã đưa ra. Khi bầu tổ trưởng, giáo viên cũng nên định hướng cho
các em.
Kết quả bầu chọn BCS lớp ở lớp như sau:
Lớp trưởng: Nguyễn Văn Tư
Lớp phó học tập: Nguyễn Thị Hoà
Lớp phó lao động: Đào Xuân Thành
Lớp phó văn – thể: Vương Thị Thu Trang
Thủ quỹ: Nguyễn Thị Lan
Tổ trưởng tổ 1: Nguyễn Thị Oanh
Tổ trưởng tổ 2: Nguyễn Thị Yến
7
Tổ trưởng tổ 3: Nguyễn Thị Dương
Tổ trưởng tổ 4: Vương Thị Linh
Là một trường học ở vùng nông thôn nên các vấn đề của lớp không nhiều
nên tôi chỉ chọn tổ trưởng mà không chọn tổ phó. Thiết nghĩ đó cũng là điều hợp lí.
Qua quá trình hoạt động của lớp, tôi thấy rằng BCS làm việc hiệu quả, được

các thành viên trong lớp tôn trọng. Chính điều này là nhân tố tích cực giúp lớp tôi
luôn hoàn thành nhiệm vụ và luôn nằm trong tốp 5 lớp dẫn đầu về thi đua giữa các
lớp.
c, Phân công nhiệm vụ cho BCS lớp.
BCS lớp là đại diện cho lớp, chịu trách nhiệm trước GVCN về toàn bộ hoạt
động học tập, rèn luyện của lớp trong thời gian học. BCS lớp do tập thể lớp bầu ra,
được GVCN quyết định công nhận. Nhiệm kì của BCS lớp là một năm.
Cơ cấu của BCS lớp gồm: 1 lớp trưởng
3 lớp phó
1 thủ quỹ
4 tổ trưởng
Ngoài ra còn có 2 cờ đỏ (1 cờ đỏ nội, 1 cờ đỏ ngoại), có BCH chi đoàn gồm: 1 bí
thư, 1 phó bí thư và 1 ủy viên.
Nhiệm vụ của lớp trưởng:
Là người chịu sự điều hành, quản lí trực tiếp của GVCN. Lớp trưởng là
người điều hành, quản lí toàn bộ các hoạt động của lớp và từng thành viên trong
lớp. Theo dõi, đôn đốc lớp chấp hành đầy đủ và nghiêm chỉnh nội quy của trường,
quy định của lớp. Thực hiện nề nếp tự quản trong lớp.
Lớp trưởng là người thay mặt GVCN quản lí lớp, kịp thời nắm bắt thông tin
của lớp, báo cáo cho giáo viên chủ nhiệm.
Cuối tuần, trong tiết sinh hoạt chủ nhiệm, lớp trưởng tổng kết, đưa ra đánh
giá, nhận xét về quá trình hoạt động của lớp. Trên cơ sở báo cáo của tổ trưởng, lớp
trưởng xếp loại hạnh kiểm cho các thành viên trong lớp…
Ví dụ: Nếu học sinh nào trong lớp nghỉ quá 2 ngày thì lớp trưởng sẽ báo
với GVCN, báo cáo tình hình 15 phút đầu buổi…
Nhiệm vụ của các lớp phó:
+ Lớp phó lao động: phân công, theo dõi, đôn đốc các thành viên trong lớp
ở các buổi lao động. Theo dõi công tác trực nhật hàng tuần của các tổ, ý thức giữ vệ
sinh của cá nhân các thành viên trong lớp. Cuối tuần báo cáo hoạt lao động (nếu
có), vệ sinh của lớp…

+ Lớp phó học tập: đôn đốc, nhắc nhở các thành viên trong lớp học tập.
Giúp đỡ những học sinh yếu trong khả năng của mình. Kiểm tra bài cũ đối với các
thành viên trong lớp ở 15 phút đầu buổi học…
8
+ Lớp phó văn – thể: chịu trách nhiệm về các hoạt động văn nghệ, thể dục
– thể thao.
Ví dụ: Em Vương Thị Thu Trang là lớp phó văn - thể. Khi nghe thầy Bí thư
Đoàn trường thông báo là có Hội diễn văn nghệ chào mừng Ngày nhà giáo Việt
Nam 20 – 11 thì em đã chủ động nắm bắt thể lệ, chủ đề, hình thức thi từ Ban tổ
chức để thông báo cho lớp. Sau khi có ý kiến của GVCN thì em Trang tập hợp các
bạn có năng khiếu để tổ chức tập luyện …
Nhiệm vụ của thủ quỹ: thu và quản lí các khoản quỹ của lớp, cuối tháng
– cuối học kì – cuối năm báo cáo công khai hoạt động thu chi quỹ lớp.
Nhiệm vụ của các tổ trưởng: phân công, theo dõi, đôn đốc các thành viên
trong tổ làm trực nhật, vệ sinh. Theo dõi, báo cáo hoạt động hàng tuần của các tổ
viên. Kiểm tra bài cũ các thành viên trong tổ ở 15 phút đầu buổi,…
2.3, Lập sơ đồ lớp học.
Sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh tuy dễ nhưng sắp xếp như thế nào cho hiểu
quả lại không dễ chút nào.Để lập sơ đồ lớp tốt, GVCN dựa vào các căn cứ sau:
- Học lực của học sinh: xen kẽ học sinh yếu kém với học sinh khá giỏi.
- Thể chất của học sinh: học sinh thấp ngồi trước, cao ngồi sau; mắt yếu ngồi
gần bảng.
- Nhiệm vụ của BCS lớp: tổ trưởng(lớp trưởng) thường ngồi giữa hoặc ngồi
sau của tổ (lớp).
- Ý thức của học sinh: học sinh nói chuyện nhiều, không chú ý học thì cho
ngồi trước.
Trên cơ sở các căn cứ đó, GVCN lập sơ đồ lớp sao cho phù hợp.
Lập sơ đồ tổ chức lớp học theo căn cứ trên có tác dụng:

- Giúp phát huy được vai trò của BCS lớp trong việc quản lý lớp học

- Các em học tốt có thể hỗ trợ được cho những học sinh học còn yếu.
- Những học sinh ở xa nếu có đi học muộn vào ngày mình trực nhật thì
các bạn trong có thể hỗ trợ làm trực nhật kịp thời, …
2.4, Xây dựng tiêu chí đánh giá, xếp loại học lực học sinh.
Một tập thể muốn hoạt động tốt, có nề nếp, …không chỉ dựa vào người chỉ
huy mà còn cần có những nguyên tắc hoạt động của nó. Với một lớp học, ngoài
những quy định chung đó của nhà trường cần có những quy định riêng của lớp
được xây dựng trên cơ sở quy định chung của trường.
Ở lớp tôi, ngay từ những tuần đầu của năm học GVCN cùng BCS lớp đã xây
dựng “Tiêu chí đánh giá, xếp loại hạnh kiểm” cho từng thành viên trong lớp.
9
Tiêu chí đánh giá xếp loại được xây dựng trên cơ sở “Bảng thi đua” giữa các
lớp của Đoàn trường.
Sau khi xây dựng xong “Tiêu chí đánh giá, xếp loại hạnh kiểm”, trong tiết
sinh hoạt chủ nhiệm, lớp trưởng tiến hành lấy ý kiến của các thành viên trong lớp
để điều chỉnh cho hợp lý. Sau đó GVCN đưa ra quyết định cuối cùng.
Việc lấy ý kiến của học sinh là rất quan trọng vì các em sẽ thấy mình được
tôn trọng. Vì vậy, các em sẽ có ý thức tổ chức tốt hơn trong học tập.
Ví dụ: Khi tiến hành lấy ý kiến của học sinh, các em có đề nghị về điểm số
như sau: Nói tục, chửi thề từ - 3 tăng lên – 5
Vô lễ với giáo viên từ - 7 tăng lên – 10
Vắng không phép từ - 2 giảm xuống – 1
Điểm tốt từ + 1 tăng lên + 2
Mẫu Bảng “Tiêu chí đánh giá, xếp loại hạnh kiểm HS”:
- 1 Không mặc đồng phục
NỘI
QUY
- 1 Để tóc dài( với nam)
- 1 Không sơ vin
- 2 Đi muộn

- 2 Vắng không phép
- 5 Nói tục, chửi thề
- 10 Vô lễ với giáo viên, người lớn
TB/năm Đánh nhau
- 3 Làm việc riêng trong giờ học
- 1 Lớp ồn
+ 2 Tiết A
- 5 Không thuộc bài
HỌC
TẬP
- 3 Không ghi bài
- 4 Không làm bài tập về nhà
+ 2 Điểm tốt
- 2 Không trực nhật
VỆ
SINH
- 2 Không nhặt rác
- 5 Bỏ trực nhật
- 2 Viết, vẽ bậy lên bàn, lên bảng
- 1 Ra muộn
THÊ
DỤC
- 1 Không nghiêm túc, tập sai động tác
- 3 Bỏ tập thể dục
Sau khi thống nhất thang điểm, GVCN cho tổ chức thực hiện. Mỗi tổ trưởng
có một cuốn sổ theo dõi các thành viên trong lớp dựa trên thang điểm đã thống
nhất. Cuối tuần, vào tiết sinh hoạt chủ nhiệm, các tổ trưởng lên báo cáo trên bảng
10
tình hình các thành viên trong tổ. Sau khi báo cáo xong, tổ trưởng sẽ giải trình ý
kiến của tổ viên (nếu có). Nếu ý kiến vượt quá nhiệm vụ của tổ trưởng thì lớp

trưởng hoặc GVCN giải trình.
Trên cơ sở báo cáo của tổ trưởng, lớp trưởng quy ra điểm rồi xếp loại hạnh
kiểm trong tuần cho các thành viên trong lớp.
Vào thứ bẩy của tuần cuối cùng trong tháng, GVCN họp cùng BCS lớp để
xếp loại hạnh kiểm tháng cho học sinh trong lớp.
Với việc xếp loại hạnh kiểm theo thang điểm như vậy thì việc đánh giá hạnh
kiểm của học sinh là tương đối chính xác. Tuy nhiên có những vi phạm của học
sinh là ngoài ý muốn của các em. Vì vậy trong quá trình thực hiện GVCN cần có
cách xử lý phù hợp, nếu là trường hợp ngoài ý muốn thì không nên trừ điểm của
các em nhưng cần chú ý để không bị học sinh nói dối. Những học sinh vi phạm,
giáo viên cũng nên cho các em “lập công chuộc tội”. Nếu như đẩy các em vào
đường cùng, không có điều kiện sửa sai thì dễ làm cho các em chán nản, thất vọng,
mất động cơ để phấn đấu.
Ví dụ 1: Trong thang điểm tôi có đưa ra trường hợp:
- Trong tuần nếu bị hạnh kiểm loại TB hoặc khá nhưng đạt 3 điểm tốt
và có ý thức sửa sai thì sẽ được nâng một bậc hạnh kiểm.
- Trong tuần đạt 3 điểm tốt, không vi phạm nội quy thì được tuyên
dương trước lớp và trước trường, …
Ví dụ 2: Học sinh nghỉ học không phép, giáo viên tìm hiểu lí do, nếu nghỉ vì
lý do chính đáng nhưng không kịp viết đơn thì chấp nhận cho các em nộp đơn vào
ngày đi học sau đó.
Một điều cần chú ý trong khi xử lí các hành vi phạm của học sinh nữa là
phải tìm hiểu lý do dẫn đến những vi phạm của học sinh. Nếu cách xử lí không phù
hợp với lý do, trừ điểm mà các em không “tâm phục khẩu phục” sẽ dễ dẫn đến thái
độ bất mãn nơi các em.
Ví dụ: Lớp có 2 học sinh thường xuyên đi học muộn là Nguyễn Văn Bình và
Nguyễn Thị Vân. Qua tìm hiểu tôi biết được rằng nhà của em ở xa trường
Ở hai trường hợp này nếu không biết lí do mà cứ trừ điểm liên tục thì cứ thể
đây là một trong những nguyên nhân nếu các em nghỉ học. Trong trường hợp này
tôi thường hỏi lí do và ít trừ điểm nên càng về sau các em càng cố gắng.

2.5, Phát huy vai trò của BCS lớp.
Trong những năm trước, khi làm công tác chủ nhiệm, tôi không chú ý đến vai
trò của BCS lớp. Lớp trưởng, các lớp phó, các tổ trưởng chỉ là chức danh, không
hoạt động đúng vai trò và chức năng của mình. Hay nói đúng hơn là chỉ mang tính
hình thức. Chính vì vậy, GVCN phải làm nhiều việc của lớp, thêm vào đó mọi
thành viên trong lớp không tiến bộ, đặc biệt là trong việc thực hiện nội quy. Giáo
viên khó nắm tình hình lớp kịp thời.
Một lớp học muốn tiến bộ, tự quản tốt thì vai trò của BCS lớp rất quan trọng.
Các em cùng học chung một lớp, chung độ tuổi,chung tâm lý, … nên dễ nắm tình
11
hình lớp, dễ hiểu nhau, … đó là điều kiện để lớp hoạt động tốt, giáo viên có thể
nắm được tình hình lớp mà không phải ngày nào cũng trực ở lớp.
Vậy làm sao phát huy được vai trò của BCS lớp?
Trước hết giáo viên phải tạo được thiện cảm và niềm tin, quan trọng hơn là
dám tin và đám giao nhiệm vụ cho các em. Bên cạnh đó là sự định hướng và hướng
dẫn của GVCN.
Ví dụ: Để chào mừng Ngày nhà giáo Việt Nam 20 – 11, Đoàn trường tổ
chức hội thi văn nghệ, tôi đã để cho các em tự chọn tiết mục để tham gia. Trong đó
lớp phó văn nghệ là người tổ chức và chịu trách nhiệm. Tôi chỉ đóng vài trò là
người hướng dẫn, tham gia ý kiến ở nội dung, cố vũ động viên các em, cho các em
thấy ý nghĩa của việc tự mình tổ chức sẽ có lợi cho các em như thế nào.
Cùng chung một lớp, chung độ tuổi, chung địa bàn cư trú nên học sinh
thường hiểu nhau, nắm được thông tin của bạn mình. Các em có thể tâm sự với
nhau những điều mà chúng khó tâm sự với GVCN. Vì vậy GVCN nên tận dụng ưu
điểm này ở BCS lớp để nắm tình hình của các thành viên trong lớp. Không những
thế, GVCN còn có thể “nhờ” các em giải quyết những vấn đề mà bản thân mình
khó giải quyết.
Ví dụ: Thông qua BCS lớp tôi có thông tin về học sinh như:
Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Như Đức là những lao động chính trong
nhà (nuôi lợn, thả cá), đây cũng là hai học sinh tham gia đá gà ở nhà.

Học sinh Nguyễn Văn Bình ở nhà chỉ có cha, còn mẹ bỏ đi. Em rất
thương người cha của mình (có thể kiểm chứng qua việc đầu năm ghi sơ
yếu lí lịch em nói rằng: “Em không có mẹ”).
Tuy nhiên để làm được như vậy, GVCN phải có định hướng, hướng dẫn cho
các em làm việc.
Ví dụ: Em Vương Thị Linh là học sinh có năng lực, bản tính hiền nhưng ở
nhà cha mẹ bất hoà, Linh ở với người dì, em có tư tưởng chán nản, bất cần, thích
thì đi học không thích thì nghỉ. Em sống khép kín, ít nói chuyện, tôi cũng khó gần.
Trong trường hợp này tôi không trực tiếp giúp em hoà đồng mà trao lại việc
này cho lớp phó văn - thể và lớp phó học tập và định hướng cho các em: luôn coi
bạn là quan trọng, là người có thể tâm sự chia sẻ những việc mà mình đang gặp
khó; nếu biết bạn làm được việc gì đó (như giải được bài tập) khi có điều kiện thì
trao đổi với bạn; rủ bạn tham gia các hoạt động của lớp, cho dù đó chỉ là việc đi
mua khăn phủ bàn, … và trong phòng học tôi không quên dán hai khẩu hiệu:
“Đừng đợi đến lúc cô đơn mới nhớ ra bạn bè”
“Tha thứ là cách trả thù vinh quang nhất”
Sau 2 tháng, em Linh đã có nhiều chuyển biến về tinh thần: vui vẻ, nói nhiều,
điểm cao hơn và đặc biệt từ giữa tháng 11 có mong muốn được ngồi gần lớp phó
12
học tập để được giúp đỡ nhiều hơn. Dì của Linh nói rằng: “Không biết sao bây giờ
Linh thay đổi như vậy”.
Ví dụ 2: Lớp tôi có nhiều học sinh có học lực TB và có cả học sinh có học
lực yếu nhưng lại không bao giờ hỏi thầy bộ môn, hỏi bạn dù không biết. Trong
trường hợp này tôi cho lớp phó tập trung những học sinh khá giỏi các môn của lớp
lại và định hướng cho các em cách giúp: có gắng gần gũi bạn và nhờ bạn làm một
việc gì đó mà bạn thích; không ngại hỏi ý kiến bạn ở những bài tập mà bạn biết
làm, từ từ chuyển qua trao đổi bài tập với nhau và khi bạn đã nhận sự giúp sức của
mình thì luôn tạo cho bạn cảm giác là bạn tìm ra đáp số, …
Đến giữa học kì I thì đa số những học sinh yếu đã mạnh dạn hỏi bạn, lớp học
sôi động, đa số các thầy cô rất thích khi vào dạy ở lớp.

Trong một lớp học thường học sinh học yếu, TB ít vì lí do từ năng lực mà
phần nhiều do lười biếng, không học bài, làm bài ở nhà. Khi về nhà chủ yếu đi
chơi, làm việc, cha mẹ không quan tâm – không quản lí con.
Đối với những học sinh này nếu giáo viên chỉ động viên, bắt ép học bài hay
xử phạt nhiều thì vấn đề không giải quyết được là bao.
Trong trường hợp này, kết hợp với việc BCS lớp và những học sinh khá giỏi
hỗ trợ cho các em thì GVCN giao cho BCS lớp việc giám sát học tập: kiểm tra bài
cũ, bài tập làm ở nhà, … trong 15 phút đầu giờ. Việc này được làm hàng ngày, mọi
thành viên trong lớp đều được tổ trưởng, lớp phó học tập kiểm tra.
Nếu học sinh nào chưa thuộc bài, không làm bài thì cuối buổi sẽ phải ở lại
học thuộc, làm bài dưới sự hướng dẫn, quản lý của BCS lớp xong rồi mới về.
Nhưng để làm việc này thì trong kì họp phụ huynh đầu năm phải có được sự đồng ý
của cha mẹ học sinh.
Cho BCS lớp giám sát việc học của các thành viên trong lớp, các em phải ở
lại cuối buổi để hướng dẫn các bạn của mình còn có tác dụng làm cho BCS lớp ý
thức trách nhiệm hơn đối với công việc mình làm.
Ví dụ: Ở lớp, tôi đã áp dụng biện pháp này. Kết quả có nhiều khả quan, như
em Bình, em Hùng, em Tùng, em Dung, …ở lớp chú ý học bài, về nhà cũng chịu
làm bài và đặc biệt trong lớp khi giáo viên kiểm tra bài cũ thì ít khi học sinh không
thuộc bài.
Tóm lại, nếu giáo viên chủ nhiệm biết phát huy vai trò của BCS lớp thì lớp sẽ
hoạt động có nề nếp, GVCN dễ dàng nắm tình hình lớp hàng ngày.
Khi để BCS lớp quản lí lớp, GVCN cần nhắc nhở các em cách ứng xử với
các thành viên trong lớp để tránh tình trạng các em có những lời nói hoặc hành
động xúc phạm bạn của mình. Nếu việc này xảy ra thì việc mất đoàn kết trong lớp
là khó tránh khỏi.
Khi quy trình này được tiến hành thì lớp học sẽ trở thành lớp tự quản (vì đa
số các thành viên đã ý thức được vài trò của mình trong lớp) trong đó vai trò của
BCS lớp rất lớn. Lớp tự quản không chỉ thể hiện ở những việc làm trên mà còn thể
13

hiện ở tiết sinh hoạt chủ nhiệm. Có thể kiểm chứng qua các hoạt động của tiết sinh
hoạt được trình bày sau đây:
Hoạt động 1:
- Các tổ trưởng báo cáo lên bảng tình hình học tập của các thành viên
trong tổ. Giải trình ý kiến của tổ viên (nếu có), nếu tổ trưởng không giải trình
được thì lớp trưởng hoặc GVCN giải trình.
- Lớp trưởng đánh giá nhận xét và đề xuất ý kiến (nếu có). Trên cơ sở báo
cáo của tổ trưởng, lớp trưởng quy ra điểm rồi xếp loại hạnh kiểm tuần cho các
thành viên trong lớp.
- Nếu là cuối tháng thì lớp trưởng đọc luôn hạnh kiểm tháng cho cả lớp (đã
được GVCN và BCS lớp họp xét vào tiết cuối của ngày thứ sáu cuối tháng).
Hoạt động 2:
- Giáo viên chủ nhiệm đánh giá nhận xét tình hình học tập trong tuần.
- Đưa ra hình thức tuyên dương, phê bình, hình thức xử phạt đối với các
hành vi tương ứng.
Hoạt động 3: Thủ quỹ báo cáo tình hình thu chi quỹ lớp trong tháng (hoạt
động này chỉ diễn ra ở tuần cuối tháng).
Hoạt động 4:
- Lớp trưởng tổ chức cho lớp nêu ý kiến về việc dạy và học ở các môn học.
- GVCN giải trình.
Hoạt động 5: GVCN thông báo kế hoạch tuần tiếp theo.
Qua các bước hoạt động trong tiết sinh hoạt chủ nhiệm có thể thấy học sinh
là trung tâm của tiết sinh hoạt còn giáo viên chỉ đóng vai trò là người tông kết vấn
đề.
Trên đây chỉ là một số trong những biện pháp cụ thể để phát huy vai trò của
BCS lớp trong toàn bộ quá trình hoạt động của lớp.
2.6, Phương pháp giáo dục cá biệt và phương pháp tác động tập thể.
Người GVCN muốn làm tốt công tác chủ nhiệm phải biết vận dụng nhiều
phương pháp giáo dục khác nhau trong đó có phương pháp giáo dục cá biệt và giáo
dục tập thể.

Phương pháp giáo dục cá biệt ở đây không nên hiểu là giáo dục học sinh cá
biệt mà cần hiểu phương pháp giáo dục cá biệt là sự tác động tới từng cá nhân một
cách chuyên biệt để đảm bảo tính phù hợp với đối tượng.
Ví dụ: Cùng một biểu hiện có lỗi như nhau, nhưng có em phải phê bình
nghiêm khắc, có em lại nhắc nhẹ, có khi nhắc chung chung, có lúc lại nhắc nhở
riêng (trực tiếp), có khi phải tách học sinh ra khỏi tập thể để giáo dục riêng, …
14
Thực chất của quá trình giáo dục cá biệt là vận dụng “Tâm lý học lứa tuổi”
để giáo dục học sinh, xử lý các tình huống mà người giáo viên gặp phải trong dạy
học nói chung và trong công tác chủ nhiệm nói riêng.
Vận dụng phương pháp giáo dục cá biệt và giáo dục tập thể người giáo viên
phải đo được mức độ hành vi, nắm được tâm lí chung của tập thể cũng như tâm lý
chung của cá nhân. Nếu không đáng khen mà khen quá lời, chỉ đáng nhắc nhở
nhưng vì lẽ nào đó giáo viên cảnh cáo, phê bình sẽ dễ làm cho học sinh chán nản,
mất lòng tin, bi quan, …
Để vận dụng phương pháp này hiệu quả, người giáo viên chủ nhiệm cần nắm
được tâm lý của từng cá nhân trong lớp cũng như tâm lí – tính cách chung của học
sinh lớp mình chủ nhiệm. Trên cơ sở đó việc chủ nhiệm sẽ hiệu quả hơn.
Muốn hiểu tâm lý học sinh, giáo viên cần quan sát vào hoạt động thực tế của
học sinh ở lớp học, cộng đồng, gia đình, …Nghiên cứu đặc điểm học sinh là việc
làm hết sức quan trọng. Vì chỉ trên cơ sở hiểu biết từng em mới có khả năng phân
loại nhóm theo các đặc điểm về học lực, tính cũng như hoàn cảnh.
Ví dụ: Giáo viên có thể hiểu rõ tính cách của học sinh mình nếu chịu quan
sát kĩ các em qua các buổi lao động, sinh hoạt chủ nhiệm, các buổi hội thao, …
Điều đặc biệt quan trọng đối với giáo viên chủ nhiệm là bằng các biện pháp
nghiên cứu, phân tích được nguyên nhân của các hiện trạng, đặc điểm của từng học
sinh. Chỉ trên cơ sở biết được nguyên nhân dẫn tới các đặc điểm tâm lý của học
sinh thì giáo viên chủ nhiệm mới có giải pháp tác động, giáo dục phù hợp, mang lại
hiệu quả cao.
Ví dụ 1: Đều là hiện tượng học yếu nhưng có em do trí tuệ chậm phát triển,

có em do hoàn cảnh gia đình khó khăn, có em do phân tán tư tưởng trong quá trình
tiếp thu bài, …
Ví dụ 2: Trong lớp tôi, đầu năm học có hai học sinh có biểu hiện chán học,
thường xuyên nghỉ học không phép, trốn tiết là emLinh và em Tùng. Qua tìm hiểu
cùng với các thông tin từ BCS lớp có thể chỉ ra các nguyên nhân:
Đối với em Linh chủ yếu do sự bất hòa trong gia đình, em Linh sống với dì.
Em Tùng chán học do tham gia đá gà ở nơi cư trú, ở nhà gia đình không
quản lý.
Khi giáo viên đã nắm được nguyên nhân của hành vi thì trên cơ sở tâm lý –
tính cách của học sinh giáo viên đưa ra biện pháp xử lý kịp thời với học sinh. Việc
xử lý kịp thời các hành vi sai trái rất quan trọng. Nếu không xử lý kịp thời thì có
thể dẫn đến những hậu qủa khó lường bởi tính hiếu thắng, muốn khẳng định mình
của học sinh. Trong quá trình lý thì cần chú ý đến tính cách của học sinh để có biện
pháp phù hợp, nếu không sẽ phản tác dụng.
Ví dụ: Nếu một học sinh có lòng tự trọng cao thì không nên trách móc, bới
tội trước lớp. Trong trường hợp này giáo viên nên gặp trực tiếp.
Cách xử lý trên cũng phù hợp với học sinh có lỗi mà biết nhận lỗi và sửa,
học sinh dễ “mủi lòng”. Trong trường hợp này giáo viên nên sử dụng nhiều câu
biểu cảm, thể hiện thái độ, tâm trạng của chính mình.
15
Trước học sinh lỳ lợm, bất cần đời thì biện pháp tốt nhất là tìm hiểu điểm
yếu về tình cảm của đó, từ đó tác động trực tiếp. Những học sinh kiểu này giáo
viên không nên la mắng, khiêu khích vì các em rất dễ làm liều.
Với học sinh có tính ganh đua thì nên khiêu khích, so sánh em đó với một
học sinh nào đó hơn em…
Lê- nin từng có khẩu hiệu trong Cách mạng tháng 10 là: “hòa bình bánh mì”.
Tuy học hành sẽ mang lại cái lợi lâu dài nhưng các em cũng không quên cái lợi
trước mắt cũng giống như hòa bình mà không có gì ăn mà chiến tranh có cái ăn còn
hơn. Chính vì vậy cho các em thấy cái lợi trước mắt cũng là một biện pháp giúp các
em học tốt. Bên cạnh đó cũng không quên cho các em thấy cái lợi lâu dài của việc

học.
Ví dụ: Cái lợi trước mắt có thể là: được phiếu học tốt, tuyên dương trước
cờ, có giấy khen – phần thưởng ở cuối học kì, … Cái lợi lâu dài thì tùy thuộc vào
từng môn.
Lợi ích lâu dài có thể là: nếu có nghề nghiệp thì không phải “bán mặt cho
đất, bán lưng cho trời” như làm ruộng nhưng tiền lương vẫn cao, làm việc trong
phòng máy lạnh, được đi đây đi đó, …
Học sinh cũng như bất cứ người nào, khi có lỗi thường che dấu. Bởi vậy
trước khi xử lý, bằng mọi cách phải cho các em thấy lỗi và nhận lỗi của mình. Làm
vậy trước hết học sinh sẽ nể vì các em không thể dấu nổi hành vi sai trái của mình
và học sinh sẽ có cảm giác thầy luôn biết những việc mình làm. Đó là cơ sở để các
biện pháp xử lý của mình có hiệu quả.
Khi xử lý tình huống cần bảo đảm giữ được thể diện cho các em, làm cho
học sinh thấy mình được tôn trọng nhưng cũng cần cho học sinh thấy sự nghiêm
túc và cứng rắn của thầy.
Ví dụ: Ở lớp 12C có hai học sinh thường xuyên tham gia cá cược ở nơi sống (em
Bình và em T ùng). Trước tình huống này tôi không xử lý trước lớp mà gọi các em lên văn
phòng. Trước hết tôi đặt câu hỏi cho hai em tự nhận lỗi nhưng các em lại chối lỗi. trước
tình hình đó tôi đặt câu hỏi:
- Các em có biết chú Nghĩa ở Hiệp Cát không?
- Em có biết.
- Chú ấy là công an xã Hiệp Cát . Hôm trước cô qua xã có nghe chú Nghĩa nói là
có một số học sinh Hiệp Cát học ở tham gia cá cược đá gà. Số học sinh này đã được lập
danh sách để gửi về trường. Cô mượn danh sách thì trong đó có hai em.
Trước câu nói đó của tôi thì hai em cúi mặt, im lặng. Tôi tiếp:
- Nếu các em nói không tham gia thì có lẽ bên an ninh xã họ nhầm tên. Nhưng nếu
có, họ gửi danh sách qua trường thì chắc chắn các em sẽ bị kỉ luật. Bây giờ nên nói thật
để cô còn biết đường.
Nghe xong cả hai đều nói:
- Có, chúng em có tham gia. Bây giờ làm sao hả cô?

Như vậy học sinh đã nhận lỗi, lo lắng về hành vi của mình và sơ bị kỉ luật. Có
nghĩa là các em vẫn coi trọng việc học. Từ đó tôi giải thích cho các em cái hại của việc
16
tham gia đá gà cũng như các trò cờ bạc. Tôi yêu cầu các em viết bản tự kiểm. Cả hai đều
hứa sẽ không lặp lại hành vi này. Cho đến bây giờ, qua quá trình theo dõi của em Bình
thì không thấy hai học sinh này tham gia nữa.
Điều quan trong trong việc vận dụng phương pháp giáo dục cá biệt là phải
tìm hiểu nguyên nhân của hành vi, tính cách tâm lí, thái độ từ đó có biện pháp xử lý
phù hợp. Trong xử lý cần tôn trọng nhân cách học sinh và phải cho các em thấy
được điều này.
Muốn phát huy hiệu qủa của phương pháp giáo dục trong tập thể, giáo viên
chủ nhiệm trước hết phải là người có uy tín, có trách nhiệm, nắm vững đối tượng,
xây dựng được tập thể học sinh thành một tập thể vững mạnh:
+ Đảm bảo quyền lợi, nghĩa vụ chung của từng thành viên của lớp.
+ Tổ chức những hoạt động chung để thực hiện mục tiêu.
+ Lớp có đội ngũ tự quản có uy tín, có trách nhiệm, có năng lực, bản lĩnh.
+ Có kỉ luật chặt chẽ, có qui định, nội qui phải rõ ràng, được mọi người tôn
trọng và tự giác chấp hành.
+ Có dư luận tập thể lành mạnh, dư luận của tập thể là phản ánh sức mạnh, là
bản lĩnh của mỗi thành viên.
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Trên đây là một số biện pháp giúp làm tốt công tác chủ nhiệm ở lớp mà tôi
đã thực hiện. Sau đây tôi xin nêu một vài kết quả đạt được để minh họa.
1. Kết quả
1.1, Duy trì sĩ số:
Đầu năm lớp có 54 học sinh. Cuối học kì lớp có 54 học sinh, không giảm sĩ
số.
1.2, Chất lượng hai mặt giáo dục ở HK I
Tổng hợp chất lượng hai mặt ở HK I
Hạnh kiểm Học lực

Tốt 24 Giỏi /
Khá 30 Khá 19
TB / TB 35
Yếu / Yếu /
1.3, Tham gia phong trào:
- Lớp tham gia tất cả các phong trào do nhà trường cũng như các tổ chức phát
động và đạt được một số kết quả như sau:
1. Giải nhì đợt trang trí phòng học đầu năm.
17
2. Giải nhì hội thi nội san chào mừng 20- 11
3. Giải nhất cầu lông nữ Hội thao chào mừng Ngày nhà giáo Việt Nam 20 –
11
4. Giải nhì Hội diễn văn nghệ chào mừng Ngày nhà giáo Việt Nam 20 – 11
2. Bài học kinh nghiệm:
Trong quá trình thực hiện đề tài tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm như
sau:
Muốn cho học sinh làm một việc gì đó thì người giáo viên phải tạo cho các
em ham muốn làm việc đó, cho các em thấy được lợi ích của nó.
Luôn tôn trọng học sinh, nhất là ở nơi đông người.
Luôn đặt lợi ích của học sinh làm đầu, xem các em là trung tâm của mọi vấn
đề trong lớp học.
Từng bước rèn luyện cho các em năng lực tự quản, tự giải quyết các vấn đề.
Từ đó học sinh sẽ cảm nhận được vai trò làm chủ của mình.
Người GVCN tuy cho lớp tự quản nhưng phải luôn luôn đồng hành cùng các
em, nhanh chóng nắm bắt tình hình lớp để giải quyết những vấn đề vượt khỏi phạm
vi của các em. Việc đồng hành cùng các em cũng làm cho học sinh cảm thấy an
tâm vì thầy cô luôn ở bên – các em sẽ tự tin hơn trong mọi hoạt động…
Chúng ta không nên áp dụng dập khuôn máy móc bấc kỳ một phương pháp
giáo dục nào bởi lẽ sản phẩm đây chính là “con người”.
Để đạt được mục đích giáo dục, ta cần phải biết chọn điểm xuất phát thích hợp

với đặc điểm riêng của từng trường, từng lớp, từng HS,…
Sau một thời gian thực hiện và áp dụng SKKN này tôi nhận thấy một vấn đề
cần phải nghiên cứu, đó là: “Vai trò giáo viên chủ nhiệm lớp trong việc nâng cao
chất lượng học tập của học sinh cuối cấp THPT”.
Sự thành công trong công tác chủ nhiệm lớp, một nhân tố quan trọng mà
chúng ta nên thận trọng cân nhắc khi quyết định lựa chọn, đó chính là “lớp truởng”.
Muốn làm tốt được những điều trên đòi hỏi người GVCN lớp phải là người có
uy tín, có năng lực thực sự để chỉ đạo, dám nghĩ, dám làm đi trước, đề xuất được
các vấn đề giá trị, tập hợp được sức mạnh tổng hợp, vai trò con chim đầu đàn là yếu
tố có phần lớn lao, tạo nên sự thành công hay thất bại ở mỗi HS, mỗi lớp học, mỗi
trường học…
3. Kiến nghị (đối với nhà trường):
Thành lập tổ chủ nhiệm trong trường, thông qua đó các GVCN có thể trao
đổi, học hỏi kinh nghiệm của nhau để giúp nhau làm tốt hơn nữa công tác chủ
nhiệm.
Tạo điều kiện để mọi giáo viên đều được làm công tác chủ nhiệm. Chỉ khi
không hoàn thành nhiệm vụ mới bãi nhiệm và giao lớp đó cho giáo viên khác.
4. Lời kết:
18
Trên đây là những kinh nghiệm mà tôi đã học hỏi, đúc rút và thực hiện trong
quá trình làm công tác chủ nhiệm. Tôi rất mong sự đóng góp ý kiến và chỉ bảo của
BGH nhà trường, của các đồng chí tổ trưởng, các đồng chí đồng nghiệp giàu kinh
nghiệm để giúp hoàn thành tốt công việc được giao và thành công trong sự nghiệp
trồng người của mình.
19

×