Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Hoàn thiện việc điều hành chính sách tiền tệ nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 100 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU, ĐỒ THỊ
TÓM TẮT LUẬN VĂN
CHƯƠNG 1 4
ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VỚI MỤC TIÊU 4
KIỂM SOÁT LẠM PHÁT CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG 4
1.1. KHÁI QUÁT VỀ LẠM PHÁT VÀ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT 4
1.2.1.1. Khái niệm chung về CSTT 12
1.2.1 2. Các mục tiêu của CSTT 13
Nguyên nhân của lạm phát 32
Nguyên nhân lạm phát 35
M c tiêu v n i dung i u h nh CSTT trong n m 2006 v 2007ụ à ộ đề à ă à 57
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CSTT Chính sách tiền tệ
NH Ngân hàng
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTMQD Ngân hàng thương mại quốc doanh
NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần
NHNN Ngân hàng Nhà Nước
NHTW Ngân hàng Trung ương
Fed Ngân hàng trung ương Mỹ
GDP Tổng sản phẩm quốc dân
MT Mục tiêu
VN Việt Nam
MAS Cơ quan quản lý tiền tệ của Singapore
MMD Phòng quản lý tiền tệ
TCTD Tổ chức tín dụng
IMF Tổ chức tiền tệ quốc tế
DTBB Dự trữ bắt buộc
ECB Ngân hàng Trung ương Châu âu


MS Cung tiền
ADB Ngân hàng Phát triển Châu á
MB Lượng tiền cơ bản
M2 Tổng phương tiện thanh toán
CPI Chỉ số giá tiêu dùng
OMO Nghiệp vụ thị trường mở
SWAP Nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
WTO Tổ chức thương mại thế giới
VND Việt Nam đồng
USD Đồng đô la Mỹ
DN Doanh nghiệp
ODA Hỗ trợ phát triển chính thức
DANH MỤC BẢNG BIỂU, ĐỒ THỊ
BẢNG BIỂU
CHƯƠNG 1 4
ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VỚI MỤC TIÊU 4
KIỂM SOÁT LẠM PHÁT CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG 4
1.1. KHÁI QUÁT VỀ LẠM PHÁT VÀ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT 4
1.2.1.1. Khái niệm chung về CSTT 12
1.2.1.1. Khái niệm chung về CSTT 12
1.2.1 2. Các mục tiêu của CSTT 13
1.2.1 2. Các mục tiêu của CSTT 13
Nguyên nhân của lạm phát 32
Đơn vị: triệu USD 33
Nguyên nhân lạm phát 35
M c tiêu v n i dung i u h nh CSTT trong n m 2006 v 2007ụ à ộ đề à ă à 57
b/ Công cụ nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM) 89
c/ Công cụ tái cấp vốn 90
ĐỒ THỊ

Đồ thị 2.1: Diễn biến lạm phát từ 2003-2006 Error: Reference source not found
Đồ thị 2.2: Diễn biến CPI chung và CPI bình quân từ 2005-2007 Error: Reference
source not found
Đồ thị 2.3: Đóng góp của nhóm LTTP và phi LTTP vào lạm phát so với cùng kỳ
trong năm 2006-2007 Error: Reference source not found
Đồ thị 2.4: Diễn biến giá dầu thô trên thị trường quốc tế Error: Reference source
not found
Đồ thị 2.5: Diễn biến nguồn vốn FDI vào Việt Nam Error: Reference source not
found
Đồ thị 2.6: Cơ cấu cán cân vốn của Việt Nam Error: Reference source not found
Đồ thị 2.7: Dự trữ ngoại hối của Việt Nam và các nước trong khu vực Error:
Reference source not found
Đồ thị 2.8: So sánh mức tăng của M2 và GDP của Việt Nam với các nước khác
trong khu vực Error: Reference source not found
Đồ thị 2.9: Mối quan hệ giữa M2 và CPI (độ trễ 1 quý) Error: Reference source
not found
Đồ thị 2.10: Diễn biến lãi suất nghiệp vụ thị trường mở và lãi suất liên ngân hàng
giai đoạn 2003-2007 Error: Reference source not found
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Trước những năm 20 của thế kỷ XX, nền kinh tế vận hành theo cơ chế tự tác
động và điều tiết giữa các lực lượng trên thị trường, không có sự can thiệp của
Chính phủ. Điều này được thể hiện qua học thuyết “bàn tay vô hình” của A.Smith.
Nhưng cuộc đại khủng hoảng 1929-1933 đã kéo tất cả mọi người từ nhà lập chính
sách đến người dân buôn bán bình thường, từ những người theo trường phái cổ điển
cho đến những người phản đối học thuyết này trở về với thực tế rằng bàn tay vô
hình là không hữu hiệu. Bàn tay hữu hình ra đời từ bối cảnh đó mà người đi đầu là
J.M. Keynes. Theo học thuyết Keynes thì cần phải có sự can thiệp của nhà nước vào
nền kinh tế thay cho một bàn tay vô hình nào đó khi thị trường gặp phải thất bại.
Công cụ để điều hành nền kinh tế của một quốc gia chính là các chính sách kinh tế

tài chính của chính bản thân quốc gia đó. Trong đó, CSTT là một trong những bộ
phận quan trọng nhất cấu thành hệ thống chính sách này.
Ngân hàng Trung ương các quốc gia có nhiệm vụ thiết lập và thực thi CSTT
thông qua các công cụ. Ngân hàng Trung ương căn cứ vào mục tiêu kinh tế vĩ mô
cơ bản và trạng thái kinh tế của quốc gia từng thời kỳ mà xác định mục tiêu chính
của CSTT. Mục tiêu chính sách tiền tệ hầu như thống nhất ở các nước. Sự điều
chỉnh lượng tiền cung ứng nhằm mục tiêu trước hết là ổn định giá trị tiền tệ, trên cơ
sở đó góp phần tăng trưởng kinh tế và công ăn việc làm.
Đối với Việt Nam, trong thời gian qua, NHNN đã đóng một vai trò quan
trọng trong việc thực thi mục tiêu cơ bản của CSTT là kiềm chế, kiểm soát lạm phát
như đã thành công trong việc chống lại hiện tượng lạm phát cao từ những năm đầu
90 (năm 1990: 67,1%, năm 1994 chỉ còn 14,4%).
Tuy nhiên, tại thời điểm này, sau 11 năm liên tục lạm phát được kìm giữ ở
mức thấp (1 con số), đến năm 2007 lạm phát đã quay trở lại tốc độ "phi mã" với
mức 12,63%, cao gấp rưỡi tốc độ tăng trưởng kinh tế (8,44%). Lạm phát tăng cao
đã tác động nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội, làm chao đảo cuộc sống của
dân chúng.
1
Ngoài những nguyên nhân khách quan (giá cả thế giới biến động, thiên tai,
dịch bệnh ) giá cả tăng cao là do điều hành chính sách tiền tệ chưa khoa học, bị
động, lúng túng, đi sau diễn biến thị trường cũng là nguyên nhân góp phần làm giá
cả biến động và chỉ số CPI tăng cao. Trước tình hình đó, một câu hỏi lớn cần đặt ra:
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam cần điều hành CSTT như thế nào nhằm
kiểm soát được lạm phát đang có xu hướng gia tăng? Chính vì vậy tôi đã lựa chọn,
nghiên cứu đề tài: "Hoàn thiện việc điều hành chính sách tiền tệ nhằm mục tiêu
kiểm soát lạm phát ở Việt Nam"
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Làm rõ các vấn đề lý thuyết về lạm phát, kiểm soát lạm phát và điều hành
CSTT với mục tiêu kiểm soát lạm phát.
- Làm rõ các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả điều hành CSTT trong việc

kiểm soát lạm phát
- Thông qua thực trạng về lạm phát và điều hành CSTT của Việt Nam từ năm
1990-nay để đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện việc điều hành CSTT nhằm
mục tiêu kìm chế lạm phát trong thời gian tới.
3. Nội dung nghiên cứu
1. Hệ thống lý luận về lạm phát, CSTT, điều hành chính sách nhằm mục tiêu
kiểm soát lạm phát
2. Thực trạng điều hành CSTT trong việc kiểm soát lạm phát từ năm 1990
đến nay.
3. Các giải pháp nhằm hoàn thiện việc điều hành chính sách tiền tệ nhằm
mục tiêu kiểm soát lạm phát ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1. Đối tượng: Điều hành chính sách tiền tệ nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát
trên giác độ của NHNN.
2. Phạm vi nghiên cứu: những vấn đề lý luận chung về CSTT với mục tiêu
kiểm soát lạm phát, và thực trạng điều hành CSTT của Việt Nam từ năm 1990
đến nay.
2
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử làm cơ sở phương pháp luận. Các phương pháp được sử dụng trong
nghiên cứu đề tài bao gồm: phương pháp thống kê và miêu tả, phương pháp tổng
hợp, phương pháp so sánh.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, danh mục các từ viết tắt, danh mục bảng,
biểu, danh mục tài liệu tham khảo và kết luận, luận văn được kết cấu gồm 3
chương như sau:
Chương 1: Điều hành chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát
của NHTW.
Chương 2: Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát

lạm phát ở Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện điều hành chính sách tiền tệ nhằm mục tiêu
kiểm soát lạm phát ở Việt Nam.
7. Dự kiến đóng góp của luận văn
- Nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề lý luận về lạm phát, kiểm soát
lạm phát và điều hành CSTT nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát.
- Thông qua thực trạng điều hành CSTT của Việt Nam, luận văn đưa ra một
số giải pháp hoàn thiện điều hành chính sách tiền tệ nhằm mục tiêu kiểm soát lạm
phát ở Việt Nam trong thời gian tới.
3
CHƯƠNG 1
ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VỚI MỤC TIÊU
KIỂM SOÁT LẠM PHÁT CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
1.1. KHÁI QUÁT VỀ LẠM PHÁT VÀ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT
1.1.1. Khái niệm và phân loại lạm phát
Các định nghĩa lạm phát được đưa ra thường tiếp cận từ hai khía cạnh chủ
yếu: hoặc từ nguyên nhân hoặc từ những ảnh hưởng của nó.
Theo cách tiếp cận thứ nhất, thì “lạm phát là quá nhiều tiền đi săn quá ít
hàng” hoặc “lạm phát là khi tiền lương danh nghĩa tăng nhanh hơn năng suất lao
động”. Cách định nghĩa này thực chất chỉ là đưa ra các cách giải thích khác nhau về
nguyên nhân của lạm phát mà không phải là định nghĩa về lạm phát theo đúng nghĩa
của nó.
Theo cách tiếp cận thứ hai thì lạm phát là mức giá cả chung tăng lên. Tuy
nhiên, sự tăng giá mới chỉ phản ánh hình thức biểu hiện của lạm phát còn bản chất
của nó được thể hiện ở tính chất của sự tăng giá là giá tăng cao và kéo dài hay chỉ là
tạm thời?
Tóm lại, lạm phát là việc giá cả tăng nhanh và kéo dài trong một thời gian.
Tuy nhiên, cần phải rất thận trọng với định nghĩa về lạm phát bởi vì không phải bất
cứ lúc nào giá cả tăng cũng là lạm phát mà phải là giá cả tăng kéo dài với tốc độ
tăng giá có xu hướng tăng kèm theo giá trị tiền tệ giảm sút.

Lạm phát là sự tăng giá hàng hoá ở tất cả mặt hàng và muốn biết được tình
trạng tăng giá, người ta phải so sánh giá cả giữa hai thời điểm khác nhau t
0
và t
1
.
Tuy nhiên, trong một nền kinh tế có nhiều loại hàng hoá nên trong khoảng thời gian
t
0
- t
1
, mỗi loại hàng hoá có mức tăng giá (P t
1
- P t
0
) khác nhau. Do vậy để tính
được tỷ lệ lạm phát chung cho nền kinh tế, người ta phải lấy chỉ số giá cả bình quân
của cả nước làm chuẩn. 3 loại chỉ số giá cả bình quân được sử dụng là giá cả hàng
tiêu dùng (CPI-Consumer price index); giá cả hàng sản xuất bình quân (PPI-
Producer price index) và giá cả bán lẻ bình quân (RPI-retail price index). Thông
4
thường, thì người ta thường sử dụng hai loại chỉ số giá cả đầu để tính lạm phát, đặc
biệt là CPI. Cuối cùng, lạm phát thường được đo bằng chỉ số %, tức là tỷ lệ lạm
phát (%) giữa hai thời điểm t
0
và t
1
là bằng mức tăng giá cả hàng hoá bình quân giữa
hai thời điểm, chia cho giá ban đầu và nhân với tỷ lệ %:
Tỷ lệ lạm phát (t

0
và t
1
) =
Pto
PtoPt −1

Phân loại lạm phát.
- Phân loại theo định lượng: có lạm phát một con số (là loại lạm phát nhỏ
hơn 10%/năm), lạm phát hai con số, lạm phát phi mã và siêu lạm phát (là loại lạm
phát rất cao từ 3 con số)
- Phân loại theo định tính: có lạm phát thuần tuý (là trường hợp đặc biệt khi
giá cả hàng hoá tiêu dùng và hàng hoá sản xuất đều tăng lên gần như cùng một tỷ lệ
trong cùng một đơn vị thời gian, lúc này nhu cầu tiền thực tế tăng cùng chiều và khá
tương đương với cung ứng tiền thực tế); lạm phát dự đoán trước (lạm phát dự đoán
trước là việc người ta nhìn thấy trước về lạm phát và tin rằng nó sẽ xảy ra bởi các
nguyên nhân của nó đã lộ diện) và lạm phát bất thường; lạm phát cân bằng và
không cân bằng (cân bằng ở đây là cân bằng với thu nhập)
- Căn cứ vào mức độ biểu hiện giá cả trên thị trường: có lạm phát ngầm lạm
phát công khai
- Căn cứ vào phạm vi ảnh hưởng về mặt không gian: có lạm phát quốc gia và
thế giới
- Căn cứ vào tính lịch sử: lạm phát cổ điển (gắn với xung đột chiến tranh) và
lạm phát hiện đại (gắn với hoà bình).
Nguyên nhân của lạm phát
- Trường phái tiền tệ: M. Friedman cho rằng: ‘lạm phát bao giờ và ở đâu
cũng là một hiện tượng tiền tệ’. Theo quan điểm của trường phái này thì cho rằng
lạm phát nhanh có thể do sự tăng cao của cung tiền tệ thúc đẩy.
Chúng ta có thể sử dụng mô hình AD-AS để giải thích cho quan điểm của
trường phái tiền tệ.

5


Ban đầu, nền kinh tế ở điểm 1, với sản phẩm tại mức tỷ lệ tự nhiên và giá cả
tại P1- giao điểm của đường tổng cầu AD1 và đường tổng cung AS1. Nếu cung tiền
tăng đều đặn dần dần trong suốt cả năm, thì đường tổng cầu di chuyển sang phải
đến AD2. Trong một thời gian rất ngắn, nền kinh tế có thể chuyển động đến 1’ và
sản phẩm có thể tăng cao hơn mức tự nhiên Y’, nhưng kết quả giảm thất nghiệp
xuống dưới mức tỷ lệ tự nhiên sẽ làm cho lương tăng lên và đường tổng cung sẽ
nhanh chóng dịch chuyển vào trong và sự dịch chuyển ấy sẽ dừng khi nào đạt đến
AS2, sản lượng quay trở lại mức tự nhiên của đường tổng cung dài hạn. tại thời
điểm cân bằng mới thì P2 cao hơn P1. Nếu cung tiền tiếp tục trong những năm tiếp
theo, thì nền kinh tế sẽ tiếp tục chuyển động đến mức giá cả cao hơn và khi mà cung
tiền còn tăng thì quá trình này sẽ tiếp tục và lạm phát sẽ xảy ra. Tóm lại, trường
phái tiền tệ cho rằng lạm phát nhanh có thể do sự tăng cao của cung tiền tệ thúc đẩy.
- Trường phái Keynes: Cách phân tích của trường phái Keynes cũng cho
rằng cung tiền tệ tăng kéo dài sẽ có ảnh hưởng giống đối với đường tổng cung và
đường tổng cầu mà chúng ta thấy đã phân tích ở hình 1.1. Đường tổng cầu sẽ dịch
chuyển sang phải và đường tổng cung sẽ di chuyển vào. Chỉ có điều khác biệt là
Keynes tin rằng đường tổng cung sẽ di chuyển vào chậm hơn so với cách phân tích
của trường phái tiền tệ. Keynes cho rằng cung ứng tiền danh nghĩa tăng khi giá chưa
thay đổi, làm cung tiền thực tế tăng dẫn đến đường LM dịch chuyển khá mạnh qua
P
3
P
4
P
2
P
1

4
3’
3
2’
2
1
1’
AD
4
AD
3
AD
2
AD
1
Y
n

Y’
P
AS
4
AS
3
AS
AS
1
6
phải, sản lượng tăng khá nhanh.Tiếp đó tổng cầu tăng gây ra lạm phát. Lạm phát sẽ
làm cho mức cung tiền thực tế nhỏ lại so với ban đầu. Tức là lúc này đường LM qua

trái một ít, sản lượng tụt, tuy vẫn cao hơn mức ban đầu.
- Lạm phát do chi phí đẩy:
Ngay cả khi sản lượng chưa đạt đến tiềm năng nhưng vẫn có khả năng xảy ra
lạm phát và trên thực tế đã xảy ra ở nhiều nước. Loại lạm phát này được gọi là lạm
phát chi phí đẩy, vừa lạm phát vừa suy giảm sản lượng, tăng thêm thất nghiệp. Các
cơn shock giá cả của thị trường đầu vào đặc biệt là vật tư thiết bị cơ bản (xăng dầu,
điện ) là nguyên nhân chủ yếu khiến cho đường AS dịch chuyển lên trên. Tổng cầu
không thay đổi nhưng giá cả đã tăng và sản lượng lại giảm xuống.
- Lạm phát do cầu kéo:
Lạm phát do cầu kéo xảy ra khi tổng cầu tăng lên mạnh mẽ tại mức sản
lượng đã đạt hoặc vượt quá mức tiềm năng. Bản chất của lạm phát cầu kéo là chi
tiêu quá nhiều tiền để mua một lượng cung hạn chế về hàng hoá có thể sản xuất
được trong điều kiện thị trường lao động đã đạt cân bằng. Trong thực tế, khi xảy ra
lạm phát cầu kéo, thì lượng tiền trong lưu thông và khối lượng tín dụng tăng đáng
kể và vượt quá khả năng có giới hạn của mức cung hàng hoá.
- Lạm phát theo tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái liên quan chặt chẽ tới giá cả hàng hoá xuất nhập khẩu. Tỷ
giá giữa tiền nội địa và tiền nước ngoài càng lên (tiền trong nước mất giá) thì hàng
hoá càng lên giá. Và đến lượt mình, giá hàng hoá kéo tỷ giá lên nhanh hơn, gây ra
tình trạng lạm phát. Suy cho cùng, mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá có thể quy
về sự gia tăng của cung ứng tiền. Tuy nhiên, các nhà kinh tế đều thoả thuận với
nhau rằng có yếu tố tâm lý trong khuynh hướng kéo hàng hoá lên theo tỷ giá trong
khi lạm phát đã hình thành và khuynh hướng này rất phổ biến trong khu vực xuất
nhập khẩu. [30], [26].
Hậu quả của lạm phát
- Lạm phát làm thay đổi lãi suất nhưng lãi suất là một chỉ số kinh tế vĩ mô cơ
bản tác động đến thu nhập, tiêu dùng và đầu tư. Do vậy, thông qua lãi suất, lạm phát
7
tác động đến nhiều khía cạnh của đời sống kinh tế. Chẳng hạn đối với ngành ngân
hàng, để hoạt động vững vàng thì lãi suất thực tế phải ổn định mà lãi suất thực tế =

lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát. Để lãi suất thực tế không đổi, thì lãi suất danh
nghĩa phải tăng cùng tỷ lệ lạm phát. Khi hệ thống ngân hàng và tài chính tăng lãi
suất danh nghĩa thì nền kinh tế sẽ gặp khó khăn, thất nghiệp gia tăng, nhu cầu đầu
tư giảm, tiềm năng sản xuất bị lãng phí.
- Lạm phát làm giảm thu nhập thực tế.
- Lạm phát làm cho giá trị của tiền tệ không còn ổn định và không giữ được
chức năng thước đo giá trị. Xã hội gặp khó khăn trong việc tính toán tính hiệu quả,
điều chỉnh các hoạt động kinh doanh của mình.
- Lạm phát khiến cho việc phân phối thu nhập không bình đẳng. Một số
người nắm giữ các hàng hoá có giá cả tăng đột biến sẽ giàu lên, còn những người có
hàng hoá mà giá không tăng hoặc tăng ít hoặc những người giữ tiền nghèo đi.
- Sản xuất phát triển không đều, vốn chảy vào những ngành có lợi nhuận cao
nếu như lạm phát xảy ra.
- Chính phủ sẽ gặp khoản bội chi ngày càng tăng trong khi các khoản thu về
ngày càng giảm giá trị.
- Kích thích tâm lý đầu cơ tích trữ hàng hoá, bất động sản, vàng bạc gây ra
tình trạng khan hiếm hàng hoá không bình thường và lãng phí nguồn lực.
Tóm lại, lạm phát cao có ảnh hưởng rất nghiêm trọng tới nền kinh tế. Chính vì
vậy, việc kiểm soát lạm phát trở thành mối quan tâm hàng đầu của các nhà chức trách
nói chung và các nhà hoạch định chính sách nói riêng. Muốn kiểm soát lạm phát cần
phải áp dụng hàng loạt các biện pháp, chính sách khác nhau, tuy nhiên, ngày nay người
ta cho rằng CSTT góp phần rất đáng kể vào việc kiểm soát.
Để có thể đánh giá cụ thể hơn tác động của CSTT tới việc kiểm soát lạm phát
như thế nào, chúng ta sẽ tiếp tục nghiên cứu ở phần tiếp theo.
1.1.2. Kiểm soát lạm phát và điều kiện để kiểm soát lạm phát
Kiểm soát lạm phát là việc cơ quan quản lý sử dụng và điều hành các công
cụ, chính sách tài chính- tiền tệ nhằm mục tiêu kìm chế sự gia tăng của lạm phát để
8
đạt được theo đúng mục tiêu đã đặt ra.
Về mặt dài hạn, việc kiềm chế lạm phát, giữ cho tiền tệ ổn định sẽ tạo điều

kiện tăng sản lượng thực tế và giảm thất nghiệp. Vì thế, duy trì sự ổn định tiền tệ là
mục tiêu dài hạn của bất kỳ nền kinh tế nào, nhưng trong từng thời kỳ việc kiềm chế
lạm phát cũng như liều lựợng tác động của nó phải phù hợp với yêu cầu tăng trưởng
và các áp lực xã hội mà nền kinh tế phải gánh chiụ. Chính phủ các nước có thể chọn
chiến lược giảm lạm phát từ từ ít gây biến động cho nền kinh tế hoặc chiến lược
giảm tỷ lệ lạm phát nhanh chóng tạo nên sự giảm mạnh về sản lượng trong quá trình
điều chỉnh.
Việc đưa ra các giải pháp chống lạm phát thường xuất phát từ sự phân tích
đúng đắn nguyên nhân gây nên lạm phát, bao gồm nguyên nhân sâu xa và nguyên
nhân trực tiếp. Nguyên nhân trực tiếp của bất kỳ cuộc lạm phát nào cũng xuất phát
từ các lý do đẩy tổng cầu tăng quá mức hoặc tổng cung giảm do chi phí tăng lên.
Tuy nhiên nguồn gốc tạo ra các lý do làm dịch chuyển đường tổng cầu và đường
tổng cung lại rất khác nhau ở các cuộc lạm phát khác nhau; có thể là do cơ chế quản
lý kinh tế không phù hợp, nền kinh tế thiếu tính cạnh tranh và do đó không hiệu
quả, cơ cấu kinh tế mất cân đối, các năng lực sản xuất không được khai thác, trình
độ lao động và công nghệ lạc hậu Để giải quyết nguyên nhân sâu xa này cần phải
có thời gian và đi kèm với các cuộc cải cách lớn. Thông thường để tác động vào các
nguyên nhân trực tiếp của lạm phát và kiềm chế lạm phát ở tỷ lệ mong muốn, Chính
phủ các nước sử dụng một hệ thống các giải pháp nhằm làm giảm sự gia tăng của
tổng cầu hoặc khắc phục các nguyên nhân làm gia tăng chi phí như:
Tác động vào tổng cầu
Các giải pháp này nhằm hạn chế sự gia tăng quá mức của tổng cầu. Trước
hết là thực hiện một chính sách tiền tệ khan hiếm. Nguyên nhân cơ bản của lạm phát
cầu kéo là sự gia tăng của tiền cung ứng, sự hạn chế cung ứng tiền sẽ có hiệu quả
ngay đến sự giảm sút của nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội. Một chính
sách tiền tệ khan hiếm được bắt đầu bằng việc kiểm soát và hạn chế cung ứng tiền
trung ương, từ đó mà hạn chế khả năng mở rộng tín dụng của hệ thống ngân hàng
9
thương mại. Lãi suất ngân hàng và lãi suất thị trưòng tăng lên sau đó sẽ làm hạn chế
nhu cầu tiêu dùng và đầu tư, giảm áp lực đối với hàng hoá và dịch vụ cung ứng.

Cùng với việc thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt là sự kiểm soát gắt gao chất lượng
tín dụng cung ứng nhằm hạn chế khối lượng tín dụng, đồng thời đảm bảo hiệu quả
của kênh cung ứng tiền cũng như chất lượng tiền tệ.
Kiểm soát chi tiêu của Ngân sách Nhà nước từ trung ương đến địa phương
nhằm đảm bảo tiết kiệm và hiệu quả trong chi tiêu ngân sách; rà soát lại cơ cấu chi
tiêu, cắt giảm các khoản đầu tư không có tính khả thi và các khoản chi phúc lợi vượt
quá khả năng của nền kinh tế, cải tiến lại bộ máy quản lý Nhà nước vốn cồng kềnh,
không hiệu quả gây lãng phí ngân sách. Khai thác các nguồn thu, đặc biệt là thu
thuế nhằm giảm mức bội chi, cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước Và cuối
cùng là hạn chế phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt ngân sách.
Thực hiện chính sách khuyến khích tiết kiệm giảm tiêu dùng. Lãi suất danh
nghĩa được đưa lên cao hơn tỷ lệ lạm phát để hấp dẫn người gửi tiền. Biện pháp
này thường đước sử dụng trong trường hợp lạm phát cao và có tác động tức thời.
Tuy nhiên trong thời gian áp dụng chính sách lãi suất cao, cần có sự điều chỉnh linh
hoạt cho phù hợp với mức độ biến động của lạm phát và hạn chế hậu quả tiềm năng
cho các tổ chức nhận tiền gửi.
Trong điều kiện nền kinh tế mở, sự can thiệp vào tỷ giá nhằm điều chỉnh tỷ
giá dần dần theo mức độ lạm phát cũng được sử dụng như một giải pháp nhằm giảm
cầu do tác động vào nhu cầu xuất khẩu. Mặt khác, sự điều chỉnh tỷ giá từ từ cũng sẽ
làm cho giá nội địa của hàng nhập trở nên rẻ hơn, giảm bớt áp lực tăng mặt bằng giá
trong nước. Đối với những nước phụ thuộc vào hàng nhập khẩu điều này đặc biệt có
ý nghĩa. Tuy nhiên hành động can thiệp này có thể làm cạn kiệt nguồn dự trữ quốc
tế. Chính vì thế việc sử dụng giải pháp này cũng cần cân nhắc đến khả năng dự trữ
ngoại hối cũng như khả năng phục hồi nguồn dự trữ của quốc gia.
Tác động vào cung
Giải pháp quan trọng nhất là tác động vào mối quan hệ giữa mức tăng tiền
lương và mức tăng của năng suất lao động xã hội. Thực chất là thiết lập một cơ chế
10
để đảm bảo mức chi trả tiền lương phù hợp với hiệu quả kinh doanh của từng doanh
nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế. Sự thành công của cơ chế này sẽ hạn chế

những đòi hỏi tăng tiền lương (chi phí chủ yếu trong giá thành sản phẩm) bất hợp lý
dẫn đến vòng luẩn quẩn tăng lương - tiền - giá - tăng lương Việc thiết lập cơ chế
tiền lương trong khuôn khổ hiệu quả kinh doanh được thực hiện bằng các phương
pháp khác nhau; có thể Nhà nước tham gia ấn định các mức thu nhập một cách đơn
phương (Mỹ), có thể trên cơ sở thoả thuận giữa Nhà nước, giới chủ và tổ chức công
đoàn để xây dựng một hệ thống các mức thu nhập (Thuỵ Điển, úc), hoặc thoả thuận
tiền lương được thực hiện ngay tại cơ sở kinh doanh giữa giới chủ và đại diện công
đoàn. Chính sách kiểm soát giá cả phải được tiến hàng đồng thời với cơ chế tiền
lương nhằm hạn chế sự biến động của tiền lương thực tế, tránh rơi vào vòng xoáy
lạm phát lương - giá - tiền.
Các giải pháp tác động vào chi phí ngoài lương nhằm tạo ra sự sử dụng các
nguồn lực một cách tiết kiệm và có hiệu quả. Xây dựng định mức tiêu hao nguyên
liệu và kỷ luật lao động nhằm tôn trọng định mức đó. Hợp lý hoá nguồn khai thác,
vận chuyển và sử dụng nguyên liệu, hạn chế tối đa các chi phí trung gian làm tăng
giá nguyên liệu. Trong trường hợp sử dụng nguyên liệu nhập ngoại, cần quan tâm
đến những ảnh hưởng bên ngoài đến gía nhập khẩu và có xu hướng tìm nguyên liệu
thay thế nếu giá tăng quá cao, sự giúp sức của chính sách tỷ giá cũng như thuế nhập
khẩu đóng một vai trò quan trọng trong việc giảm giá nội địa nguyên liệu nhập.
Ngoài ra các chi phí quản lý gián tiếp cũng như các chi phí liên quan đến việc bố trí
dây chuyền công nghệ bất hợp lý cũng phải được xem xét và giảm thiểu tối đa.
Mở rộng khả năng cung ứng hàng hoá
Giải pháp tình thế và tác động tức thời đến cân đối tiền hàng là nhập khẩu
hàng hoá, nhất là các hàng hoá đang khan hiếm góp phần làm giảm áp lực đối với
giá cả. Tuy nhiên giải pháp này chứa đựng những nguy cơ tiềm năng: làm cạn kiệt
nguồn dự trữ quốc tế, tạo thói quen dùng hàng ngoại và đặc biệt, làm suy giảm sức
sản xuất trong nước.
Tăng khả năng sản xuất hàng hoá trong nước được coi là giải pháp chiến
11
lược cơ bản nhất tạo cơ sở ổn định tiền tệ một cách vững chắc. Thực chất đây là giải
pháp nhằm tăng mức sản lượng tiềm năng của xã hội. Đây là chiến lược dài hạn, tập

trung vào việc khai thác triệt để năng lực sản xuất của xã hội, nâng cao trình độ của
lực lượng lao động, đổi mới thiết bị, hiện đại hóa dây truyền sản xuất và quan trọng
nhất là đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, khuyến khích cạnh tranh và hiệu quả.
1.2. ĐIỀU HÀNH CSTT VỚI MỤC TIÊU KIỂM SOÁT LẠM PHÁT
1.2.1. Tổng quan về CSTT
1.2.1.1. Khái niệm chung về CSTT
Trong kinh tế học vĩ mô, CSTT được coi là một công cụ quản lý kinh tế vĩ
mô do NHTW thực hiện. Bằng cách NHTW tác động đến cung ứng tiền (money
supply) làm thay đổi cung ứng tiền để tác động đến lãi suất, từ đó ảnh hưởng đến
chi tiêu của các khu vực nền kinh tế, cuối cùng CSTT có tác động quan trọng đến
GDP thực, GDP tiềm năng và lạm phát. Như vậy có thể khái quát quá trình hoạt
động của CSTT, như là một quá trình được khởi đầu từ những hành động của
NHTW làm thay đổi cung tiền của toàn bộ nền kinh tế (hành động này chứa đựng ý
muốn chủ quan của con người), và kết quả cuối cùng của hành động đó là tác động
đến GDP (thực và tiềm năng) và lạm phát. Thực tế cũng cho chúng ta thấy khi
muốn tăng trưởng kinh tế chống suy thoái, NHTW có thể tăng cung tiền nhằm hạ lãi
suất để thúc đẩy hoạt động kinh tế. Ngược lại, khi muốn hạn chế tăng trưởng kinh
tế, giảm lạm phát NHTW đã tác động giảm cung tiền làm tăng lãi suất, giảm đầu tư.
Do vậy, CSTT phải là cách thức hay tổng thể các biện pháp, công cụ của NHTW
nhằm góp phần đạt được các mục tiêu của chính sách kinh tế, thông qua việc chi
phối, điều tiết quá trình cung ứng tiền và tín dụng, tức là thông qua chi phối dòng
chu chuyển tiền và khối lượng tiền.
Có thể nói CSTT là một trong những vấn đề hấp dẫn nhất, quan trọng nhất và
gây nhiều tranh cãi nhất trong kinh tế học vĩ mô vì tính chất đa dạng của nó. Tuy
điều hành CSTT rất khác nhau giữa các thời kỳ, các giai đoạn phát triển kinh tế,
khác nhau giữa các nước, song việc xây dựng và thực thi CSTT của NHTW đều
tuân theo một qui trình của khuôn khổ nhất định- khuôn khổ CSTT. Khuôn khổ này
12
thường xuyên được xem xét, điều chỉnh cho phù hợp với sự biến động không ngừng
của môi trường kinh tế, tài chính.

Qui trình hoạt động của khuôn khổ CSTT có thể tóm tắt như sau:
Công cụ CSTT MT hoạt động MT trung gian MT cuối cùng
1.2.1 2. Các mục tiêu của CSTT
Trong qui trình xây dựng và thực hiện CSTT, việc lựa chọn các mục tiêu
CSTT được coi là vấn đề quan trọng nhất, khó khăn nhất, nó quyết định tính hiệu
quả hay không hiệu quả của CSTT, bởi vì mục tiêu CSTT quyết định cả một khuôn
khổ hay chiến lược CSTT.
(i) Về mục tiêu cuối cùng:
Mục tiêu cuối cùng của CSTT phải là mục tiêu trung hạn, vì tính tác động
trễ của tiền tệ đến sản lượng và lạm phát. Mục tiêu này nói chung ít phải bàn cãi
nhiều, vì CSTT là một công cụ quản lý kinh tế vĩ mô, nên mục tiêu CSTT theo
đuổi không ngoài mục tiêu của kinh tế vĩ mô. Trên thực tế NHTW các nước
điều hành CSTT đều theo đuổi mục tiêu trên. Tuy nhiên, CSTT không phải là
duy nhất để nền kinh tế đạt được sự ổn định kinh tế vĩ mô với mức tăng trưởng
bền vững, công ăn việc làm cao và lạm phát thấp, mà để đạt được điều đó phải
đồng thời thực hiện nhiều chính sách khác trong sự phối hợp đồng bộ với
nhau, như chính sách tài khoá, chính sách thu nhập, chính sách đối ngoại Do
vậy, mục tiêu cuối cùng của CSTT được NHTW các nước đặt ra một cách cụ
thể hơn, đôi khi là gián tiếp để đạt được mục tiêu của kinh tế vĩ mô - có thể
khái quát hoá mục tiêu cuối cùng của CSTT là ổn định hệ thống tiền tệ, hỗ trợ
sự phát triển kinh tế bền vững, ổn định giá cả hay là kiểm soát được lạm phát ở
mức mong muốn. Hiện nay hầu hết NH TW các nước đều theo đuổi mục tiêu
cuối cùng của CSTT là ổn định giá cả ở mức hợp lý, bởi vì suy cho cùng sự
ổn định giá cả sẽ hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế.
(ii) Về mục tiêu trung gian:
- Mục tiêu trung gian là những biến số tiền tệ có thể đo lường được, NHTW
có thể kiểm soát được và phải có tác dụng dự báo được mục tiêu cuối cùng. Điều đó
13
có nghĩa rằng biến số tiền tệ đó có mối liên kết với mục tiêu hoạt động và có thể tác
động đến mục tiêu cuối cùng của CSTT.

Qua đúc kết kinh nghiệm của các nước, IMF đã chia mục tiêu trung gian
thành 3 loại:
+ Mục tiêu trung gian là tổng tiền (M1 hoặc M2, hoặc D-tín dụng nền kinh
tế): Phản ứng chính sách trong mục tiêu tổng tiền là khi mức tăng tiền vượt mức
mục tiêu phải tăng lãi suất, và khi mức tăng tiền dưới mức mục tiêu phải hạ lãi suất.
+ Mục tiêu trung gian là tỷ giá: Là điều hành CSTT hướng về tỷ giá mục
tiêu. Mục tiêu này thường được thực hiện trong điều kiện là nền kinh tế mở và
CSTT của nước chọn mục tiêu trung gian là tỷ giá phụ thuộc vào chính sách tiền tệ
của nước neo tỷ giá. Phản ứng chính sách khi theo đuổi mục tiêu này là khi tỷ giá
thấp hơn so với mục tiêu thì phải tăng lãi suất, và ngược lại khi tỷ giá cao hơn mục
tiêu thì phải hạ lãi suất.
+ Mục tiêu trung gian là lãi suất thị trường: Lựa chọn lãi suất là mục tiêu
trung gian đồng nghĩa với sự hạn chế tác động của sự biến động mức cầu tiền đến
tổng cầu của nền kinh tế. Khi NHTW lựa chọn mục tiêu trung gian là lãi suất thị
trường thì không thể đồng thời chọn tổng tiền là mục tiêu trung gian, do vậy khi đó
NHTW phải chấp nhận sự giao động tăng hoặc giảm tổng tiền để duy trì mức lãi
suất theo mục tiêu. Và điều đó có thể dẫn đến những tác động của CSTT đến mức
lạm phát. Sự lựa chọn lãi suất thị trường thường được đi liên với sự lựa chọn mục
tiêu hoạt động là lãi suất, vì lãi suất với lãi suất thường được gắn kết với nhau, qua
đó tính khó đo lường của lãi suất phần nào được hạn chế.
Nói tóm lại, mục tiêu trung gian là tổng tiền, hoặc tỷ giá hối đoái, hoặc lãi
suất thị trường đã được áp dụng trong nhiều thập kỷ qua, qua đó cho thấy mỗi một
mục tiêu được lựa chọn gắn liền với những diễn biến kinh tế và của thị trường tài
chính trong từng giai đoạn phát triển, gắn liền với mục tiêu, giải pháp đảm bảo sự
ổn định vĩ mô. Như vậy, để lựa chọn được mục tiêu trung gian thích hợp đòi hỏi sự
phân tích kỹ lưỡng về các diễn biến kinh tế, tiền tệ hiện tại và dự báo trong tương
14
lai, và xác định rõ định hướng phát triển kinh tế.
(iii) Mục tiêu hoạt động:
- Mục tiêu hoạt động là những biến tiền tệ, nghĩa là NHTW có thể tác động

hay kiểm soát một cách trực tiếp bằng các công cụ CSTT nhằm thay đổi mục tiêu
trung gian, qua đó tác động đến mục tiêu cuối cùng của CSTT. Theo như Mishkin,
tiêu chuẩn để lựa chọn mục tiêu hoạt động, đó là những chỉ tiêu tiền tệ có thể dự
báo được mục tiêu trung gian và chịu tác động trực tiếp của công cụ CSTT. Mục
tiêu hoạt động có vai trò quan trọng đối với việc điều hành CSTT, đây là điểm khởi
đầu trong cơ chế chuyển tải của CSTT, là biến số chủ yếu để NHTW thực thi
CSTT. Ngoài ra mục tiêu hoạt động còn ảnh hưởng trực tiếp đến việc sử dụng công
cụ CSTT và đến những thay đổi trên bảng cân đối tiền tệ của NHTW.
Cũng như mục tiêu trung gian, mục tiêu hoạt động cũng được chia thành hai
loại mục tiêu:
+ Mục tiêu hoạt động là giá cả tiền tệ: Nghĩa là NHTW kiểm soát lãi suất
ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng. NHTW thông qua các công cụ CSTT có
thể kiểm soát trực tiếp lãi suất này. Việc qui định lãi suất trần và lãi suất sàn của
NHTW trên thị trên thị trường liên ngân hàng nhằm tạo ra hành lang giao động cho
lãi suất ngắn hạn trên thị trường theo mức mong muốn của NHTW, thông qua sự tác
động của công cụ CSTT, như nghiệp vụ thị trường mở v.v. Trong trường hợp việc
chỉ đạo CSTT hầu hết thông qua sự can thiệp của NHTW trên thị trường ngoại hối
hơn là việc điều chỉnh lãi suất thì tỷ giá được xem như là mục tiêu hoạt động.
+ Mục tiêu hoạt động là khối lượng tiền tệ: Tức là kiểm soát tiền cơ bản
(MB), hoặc các cấu thành của nó, gồm Dự trữ quốc tế ròng, Dự trữ của các NHTM,
hoặc Net tài sản có trong nước trên bảng cân đối của NHTW. Thông qua các công
cụ CSTT NHTW có thể kiểm soát trực tiếp tiền cơ bản, một hành động bơm tiền
hoặc rút tiền của NHTW sẽ làm cho MB tăng hoặc giảm. Để kiểm soát khối lượng
tiền tệ NHTW phải đặt mức tăng cụ thể của MB trong một thời gian nhất định (ví
dụ 2% hoặc 3%trong một quí hoặc một năm).
* Mối quan hệ giữa các mục tiêu:
15
Về mặt dài hạn, đường cong Philip trở nên thẳng đứng, ngụ ý rằng sẽ không
có mâu thuẫn giữa các mục tiêu của CSTT nếu xét về dài hạn. Tuy nhiên, hình dạng
đường cong Philip ngắn hạn chỉ rõ sự mâu thuẫn giữa giá cả tăng trưởng và tỷ lệ

thất nghiệp.
Thứ nhất, việc giảm tỷ lệ lạm phát đồng nghĩa với việc thực hiện một
CSTT thắt chặt, lãi suất tăng lên làm giảm các nhân tố cấu thành tổng cầu và do
đó đến tổng cầu của nền kinh tế. Thất nghiệp, vì thế có xu hướng tăng lên. Mặt
khác, việc duy trì một tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn thường kéo theo CSTT mở rộng
và sự tăng giá.
Thứ hai, mục tiêu công ăn việc làm mâu thuẫn với mục tiêu ổn định giá cả
còn thể hiện thông qua sự phản ứng của NHTW đối với các cú shock cung nhằm
đảm bảo mức cầu tiền thực tế, kết quả là giá cả tăng lên.
Thứ ba, mâu thuẫn này còn được thể hiện thông qua định hướng điều chỉnh tỷ
giá; Bằng việc hạ giá đồng bản tệ, các ngành công nghiệp xuất khẩu có khả năng mở
rộng. Tỷ lệ thất nghiệp vì thế giảm thấp kèm theo sự tăng lên của mức giá chung.
Như vậy, việc duy trì một mức tỷ giá ổn định và thích hợp sẽ làm giảm tỷ lệ công ăn
việc làm, trong khi một mức tỷ giá cao hơn sẽ góp phần giảm tỷ lệ lạm phát.
Thất nghiệp và tăng trưởng không có sự mâu thuẫn cả trong ngắn và dài hạn.
Công ăn việc làm cao sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển và ngược lại. Tuy nhiên mối
quan hệ giữa sự tăng trưởng và ổn định giá cả lại tương đối phức tạp; chúng mâu
thuẫn nhau trong ngắn hạn nhưng lại bổ sung nhau trong dài hạn.
Như vậy trong ngắn hạn, NHTW không thể đạt được tất cả các mục tiêu trên.
Phần lớn NHTW các nước coi sự ổn định giá cả là mục tiêu chủ yếu và dài hạn của
CSTT, nhưng trong ngắn hạn đôi khi họ phải tạm thời từ bỏ mục tiêu chủ yếu để
khắc phục tình trạng thất nghiệp cao đột ngột hoặc các ảnh hưởng của các cú shock
cung đối với sản lượng. NHTW được coi là có quyền lực làm việc này vì nó nắm
trong tay các công cụ điều chỉnh lượng tiền cung ứng. Có thể nói NHTW theo đuổi
một mục tiêu về dài hạn và đa mục tiêu trong ngắn hạn.
1.2.2. Điều hành CSTT với mục tiêu kiểm soát lạm phát
16
1.2.2.1. Điều hành bằng công cụ dự trữ bắt buộc
- DTBB là số tiền mà các NHTM buộc phải duy trì trên một tài khoản tiền
gửi không hưởng lãi tại NHTW. Nó được xác định bằng một tỷ lệ phần trăm nhất

định trên tổng số dư tiền gửi tại một khoảng thời gian nào đó. Mức dự trũ bắt buộc
được quy định khác nhau căn cứ vào thời hạn tiền gửi, vào quy mô và tính chất hoạt
động của NHTM.
- Cơ chế tác động của DTBB: Việc thay đổi tỷ lệ DTBB và do đó mức
DTBB ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng như sau: tỷ lệ DTBB tăng lên sẽ làm
giảm khả năng cho vay của hệ thống NHTM, giảm hệ số tạo tiền và do đó khả năng
mở rộng tiền gửi của hệ thống NH, giảm mức cung vốn NHTW trên thị trường liên
NH. Quyết định giảm tỷ lệ DTBB sẽ gây nên những ảnh hưởng ngược lại.
Về nguyên tắc, dự trữ bắt buộc được tính như sau:
Mức dự trữ bắt buộc = Tỷ lệ dự trữ bắt buộc x Số dư bình quân tài khoản
thuộc đối tượng dự trữ bắt buộc kỳ xác định
Kỳ xác định là kỳ (hay số ngày) được sử dụng để tính số dư bình quân của
các tài khoản phải tính dự trữ bắt buộc.
Số dư bình quân của tài
khoản phải tính dự trữ
bắt buộc
=
Tổng số dư cuối ngày của các tài khoản phải
dự trữ bắt buộc
Số ngày của kỳ xác định
Mức dự trữ bắt buộc tính vào cuối kỳ xác định được dùng làm căn cứ để xem
xét việc chấp hành qui định về dự trữ bắt buộc trong kỳ duy trì.
Kỳ duy trì dự trữ bắt buộc là khoảng thời gian mà đối tượng thực hiện dự trữ
bắt buộc phải thực hiện theo mức đã được tính toán vào cuối kỳ xác định. Điều này
nghĩa là trong suốt kỳ duy trì, dự trữ bình quân thực sự phải luôn luôn lớn hơn hoặc
tối thiểu phải bằng mức dự trữ bắt buộc đã tính toán vào cuối kỳ xác định.
1.2.2.2. Công cụ tái chiết khấu
Công cụ tái chiết khấu bao gồm các quy định và điều kiện cho vay của NHTW
đối với các NHTM. NHTW cho vay ngắn hạn trên cơ sở chiết khấu các chứng từ có
giá ngắn hạn; chủ yếu là tín phiếu kho bạc và thương phiếu. Các NHTM đi vay

NHTW nhằm bù đắp hoặc bổ sung nhu cầu vốn khả dụng và hình thành nên bộ phận
17
dự trữ đi vay nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán của nền kinh tế, ngăn chặn nguy cơ
mất khả năng thanh toán của các NH khi cần thiết. Điểm khác biệt chủ yếu giữa dự
trữ đi vay và dự trữ khác là chúng phải được trả lại cho NHTW khi đến hạn.
Cơ chế ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng: đối với công cụ này NHTW ấn
định hạn mức TCK, lãi suất TCK và các điều kiện TCK. Những thay đổi này ảnh
hưởng đến mục tiêu cuối cùng chỉ khi các NHTM có nhu cầu vay NHTW và ảnh
hưởng qua cả hai con đường: khối lượng (hạn mức) và giá (lãi suất TCK).
Công cụ này có khả năng điều tiết một cách linh hoạt các mục tiêu trung gian.
Tuy nhiên, mức độ phát huy hiệu quả của công cụ này căn cứ vào mức độ phụ thuộc về
vốn của NHTM vào NHTW. Vì thế, nó là công cụ kém chủ động. Để khắc phục nhược
điểm này người ta thường sử dụng kết hợp với công cụ DTBB.
1.2.2.3. Công cụ hạn mức tín dụng
Hạn mức tín dụng là mức dự nợ tối đa mà NHTW buộc các tổ chức tín dụng
phải tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Mức dư nợ được quy định cho từng
NH căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của từng NH (cơ cấu khách hàng, mức rủi ro),
định hướng cơ cấu kinh tế tổng thể, nhu cầu tài trợ các đối tượng chính sách và nó
phải nằm trong giới hạn của tổng dư nợ tín dụng dự tính của toàn bộ nền kinh tế
trong một khoảng thời gian nhất định. Công cụ này thường được sử dụng trong
trường hợp lạm phát cao nhằm khống chế trực tiếp và ngay lập tức lượng tín dụng
cung ứng. Trong trường hợp khi các công cụ gián tiếp không phát huy hiệu quả do
thị truờng tiền tệ chưa phát triển hoặc do mức cầu tiền tệ không nhạy cảm với sự
biến động lãi suất hay NHTW không có khả năng khống chế và kiểm soát được sự
biến động của lượng vốn khả dụng của hệ thống NHTM thì công cụ hạn mức tín
dụng là cứu cánh của NHTW trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng. Tuy nhiên
hiệu quả điều tiết của công cụ này không cao bởi nó thiếu linh hoạt và đôi khi đi
ngược lại chiều hướng biến động của thị trường tín dụng, do đó, đẩy lãi suất lên cao
hoặc làm suy giảm khả năng cạnh tranh của các NHTM.
1.2.2.4. Công cụ thị trường mở

NVTTM là các hoạt động của NHTW trên TTM thông qua việc mua bán các
18
chứng khoán. Các hoạt động này ảnh hưởng trực tiếp đến dự trữ của các NHTM và
ảnh hưởng gián tiếp đến các mức lãi suất.
Cơ chế tác động của NVTTM: (1) khi NHTW mua (bán) các chứng khoán,
nó sẽ làm giảm (tăng) ngay lập tức dự trữ của các NHTM dù người bán là NHTM
hay khách hàng của nó. Vì thế khả năng tạo tiền gửi thông qua cung ứng tín dụng
của hệ thống NH giảm xuống ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng; (2) khi vốn khả
dụng của từng NH, cá nhân giảm (tăng) do tác động của hoạt động thị trường mở, mức
cung vốn trên thị trường tiền tệ liên NH giảm xuống (tăng), trong điều kiện các yếu tố
liên quan không đổi, lãi suất thị trường liên NH tăng lên (giảm xuống). Thông qua các
hoạt động kinh doanh chênh lệch về lãi suất, ảnh hưởng này được truyền đến các mức
lãi suất của các công cụ thị trường mở, và lãi suất thị trường trái phiếu. Kết quả là chi
phí cơ hội đối với người có vốn dư thừa và giá vốn đầu tư đối với người thiếu hụt vốn
tăng lên (giảm xuống), làm giảm nhu cầu đầu tư và nhu cầu tiêu dùng của xã hội, và do
đó mà giảm sản lượng, giá cả và công ăn việc làm; (3) hoạt động TTM còn ảnh hưởng
đến cung cầu và do đó giá các chứng khoán thuộc phạm vị can thiệp, chủ yếu là tín
phiếu kho bạc. Trong trường hợp NHTW bán chứng khoán, lượng chưng khoán tăng
lên trong khi nhu cầu chứng khoán không tăng, làm cho giá cả các chứng khoán giảm
xuống, mức sinh lời của chúng tăng lên. Điều này buộc các tổ chức nhận tiền gửi phải
tăng lãi suất để hạn chế tình trạng “phi trung gian hoá”. Đồng thời lãi suất của các
chứng khoán mới phát hành cũng bị kịch thích tăng tương ứng.
Đây là công cụ điều tiết các mục tiêu trung gian có hiệu quả nhất vì nó rất
linh hoạt và chủ động. Hơn nữa sự tác động của NVTTM là lợi dụng cơ chế của thị
trưòng nên các đối tượng chịu sự tác động thường khó chống đỡ hoặc đảo ngược
chiều hướng điều chỉnh của NHTW. Măc dù NVTTM được thực hiện theo nguyên
tắc tự nguyện; những người kinh doanh chứng khoán khộng bị bắt buộc mua hoặc
bán theo một giá ấn định, nhưng NHTW có thể thực hiện được yêu cầu của mình
bằng việc điều chỉnh giá sao cho nó trở nên hấp dẫn đối tác.
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI ĐIỀU HÀNH CSTT VỚI MỤC

TIÊU KIỂM SOÁT LẠM PHÁT
19
1.3.1. Nhân tố chủ quan
(i) Mức độ độc lập của NHTW
Tính độc lập ở đây không có nghĩa là độc lập hoàn toàn với Chính phủ
nhưng nó phải được tự do trong việc lựa chọn các công cụ để đạt được mục tiêu
mà Chính phủ cho là hợp lý. Để làm được điều này, cần phải có sự cân bằng giữa
chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ. Điều này có nghĩa là không được để
chính sách tài chính
1
có ưu thế hơn CSTT, tức chính sách tài chính không được
bức chế CSTT. Tự do khỏi bó buộc của chính sách tài khoá hàm ý rằng việc vay
mượn của Chính phủ từ NHTW là rất ít hoặc không có và thị trường tài chính nội
địa đủ sâu để hấp thụ các khoản nợ công trái Chính phủ. Nó cũng hàm ý rằng,
Chính phủ cần có một cơ sở thu nhập vững trãi và không cần dựa nhiều vào thu
nhập có được từ “thuế đúc tiền”.
(ii) Cách thức lựa chọn mục tiêu và phương thức điều hành CSTT của NHTW
Về mặt lý thuyết, cũng như kinh nghiệm thực tiễn của các nước cũng cho
thấy, chính sách tiền tệ chỉ đạt hiệu quả khi theo đuổi duy nhất mục tiêu cuối cùng
là ổn định giá cả. Điều này xuất phát từ khả năng tác động của CSTT đến lạm phát
và tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa các nhà nghiên cứu kinh tế cho rằng, ổn định giá cả
sẽ hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Chính vì vậy, mặc dù chỉ theo đuổi một mục tiêu duy
nhất là ổn định giá cả, nhưng CSTT vẫn đáp ứng được mục tiêu của kinh tế vĩ mô.
Tuy nhiên, thực tế trong thời gian qua CSTT của Việt Nam không phải theo
đuổi một mục tiêu duy nhất là ổn định giá cả mà thực hiện một CSTT đa mục tiêu,
vừa kiểm soát lạm phát, vừa hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định hệ thống ngân
hàng (vấn đề này sẽ được thể hiện rõ trong phần sau). Do vậy, sự lựa chọn đa mục
tiêu sẽ giảm đáng kể đến hiệu quả của CSTT trong việc kiểm soát lạm phát, đôi khi
trong thực tế việc điều hành CSTT chủ yếu nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế.
Ngoài ra, lựa chọn phương thức điều hành hợp lý, linh hoạt phù hợp với điều

kiện kinh tế của mỗi quốc gia và tình hình thực tiễn cũng rất quan trọng và ảnh
hưởng đến hiệu quả điều hành CSTT. Ngân hàng Trung ương có thể chọn phương
1
Chính sách tài chính là hệ thống các quan điểm, chủ trương, biện pháp của Nhà nước trong việc
động viên, phân phối, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn và điều hành đồng bộ hoạt động của hệ
thống tài chính hướng vào việc thực hiện những mục tiêu kinh tế xã hội đã định.
20
thức điều hành CSTT dựa vào lượng tiền cung ứng, hay CSTT dựa vào chế độ tỷ
giá cố định và CSTT dựa vào mức GDP danh nghĩa. Trong những năm gần đây,
một số NHTW các nước đã quyết định chuyển hướng sang việc thiết lập CSTT với
mục tiêu kiểm soát lạm phát.
(iii) Hệ thống thống thông tin, thống kê tiền tệ và công tác dự báo lạm phát
Đây yếu tố rất quan trọng để cơ quan quản lý xác định mục tiêu và phương
thức điều hành CSTT có hiệu quả. Đây là nền tảng cho việc xác định cơ chế truyền
tải và lựa chọn một khuân khổ CSTT, cũng như hỗ trợ tích cực cho việc xây dựng
chương trình tiền tệ có mức độ chính xác cao.
Ngoài ra, công tác dự báo, mô hình dự báo lạm phát hiện đại và phù hợp
cũng góp phần quan trọng cho việc điều hành CSTT. Hiện nay, NHTW các nước
thường sử dụng mô hình kinh tế lượng để dự báo chỉ tiêu lạm phát. Kinh tế lượng là
vấn đề rất phức tạp đòi hỏi phải có một phần mềm dự báo với cơ sở dữ liệu của 10
năm qua; phải có cán bộ có kiến thức về kinh tế vĩ mô, mô hình dự báo tiền tệ đòi
hỏi phải phù hợp với tình hình thực tế, nên cần có những cán bộ có kinh nghiệm
phân tích các nhân tố tác động.
1.3.2. Nguyên nhân khách quan
(i) Sự can thiệp của chính phủ trong các thị trường tài chính. Sự can thiệp
của chính phủ có thể ảnh hưởng đến việc điều hành CSTT với mục tiêu kiểm soát
lạm phát theo ba cách:
- Áp đặt kiểm soát lãi suất hoặc những áp đặt giá cả của thị trường tài chính;
- Áp đặt những hạn chế trực tiếp về cho vay ngân hàng; hoặc
- Cung cấp khoản tín dụng được chính phủ tài trợ cho các khu vực được lựa

chọn. Việc áp đặt lãi suất hoặc áp đặt giá của thị trường tài chính, sẽ hướng sự tác
động CSTT qua kênh tín dụng, bởi vì khi đó lãi suất hoặc giá cả của thị trường tài
chính thay đổi không chịu tác động bởi các yếu tố cung cầu trên thị trường, nên tác
động của CSTT qua kênh lãi suất hoặc giá tài sản sẽ kém hiệu quả trong điều kiện
như vậy . Việc kiểm soát trực tiếp số lượng và sự phân bổ tín dụng sẽ dẫn tới việc
kiểm soát tiền tệ theo cơ chế trực tiếp (sử dụng các công cụ tiền tệ trực tiếp) hơn là
21

×