Tải bản đầy đủ (.pdf) (165 trang)

Vấn đề thực hiện dân chủ ở doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân - Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 165 trang )

VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ
_______________










ĐỀ TÀI
VẤN ĐỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở DOANH NGHIỆP
THUỘC KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN - THỰC TRẠNG
VÀ GIẢI PHÁP






Đề tài khoa học cấp Bộ
Chủ nhiệm đề tài: TS Trần Đắc Hiến
Đơn vị chủ trì: Vụ Đổi mới doanh nghiệp










Hµ Néi - n¨m 2012

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ Ở
DOANH NGHIỆP THUỘC KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN

8
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
8
1.2. Kinh tế tư nhân và doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân
17
1.3. Dân chủ ở doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân
28
1.4. Một số vấn đề về doanh nghiệp tư nhân và việc thực hiện dân chủ trong
doanh nghiệp tư nhân ở Trung Quốc


37
Chương 2. THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở DOANH NGHIỆP THUỘC KHU VỰC
KINH TẾ TƯ NHÂN -THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN

42
2.1. Thực trạng doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta
42

2.2. Thực hiện dân chủ ở doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân ở
nước ta


51
2.3. Một số tồn tại hạn chế trong việc thực hiện dân chủ ở doanh nghiệp
thuộc khu vực kinh tế tư nhân và nguyên nhân


65
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIÁI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở DOANH NGHIỆP THUỘC
KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN


72
3.1. Phương hướng thực hiện dân chủ ở doanh nghiệp thuộc khu vực kinh
tế tư nhân


72
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ ở
doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân


80
KẾT LUẬN
95
TÀI LIỆU THAM KHẢO
98


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay dân chủ hoá mọi mặt đời sống xã hội đang là một xu thế
khách quan, là đòi hỏi tất yếu và trở thành một động lực quan trọng của sự
phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Đảng ta khẳng định, dân chủ vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Việc mở rộng thực hiện dân chủ không những bảo
đảm quyền lực chính trị của nhân dân lao động mà còn tạo ra động lực to lớn
để thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước,
bảo đảm cơ chế thống nhất của hệ thống chính trị Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc thực hiện dân chủ, Đảng và Nhà
nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách về việc thực hiện dân chủ ở
cơ sở. Các chủ trương, chính sách này đã nhanh chóng đi vào đời sống của
hàng chục triệu nhân dân, làm bùng lên bầu không khí dân chủ sống động
trong cả nước. Thông qua việc thực hiện dân chủ ở các loại hình cơ sở đã đưa
lại hiệu quả kinh tế - xã hội thiết thực; động viên được sức mạnh vật chất và
tinh thần, phát huy được tính chủ động và sáng tạo của các tầng lớp nhân dân,
tạo ra sự đồng thuận xã hội và tạo động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội. Bên cạnh mặt tích cực đạt được trong việc thực hiện quy chế dân
chủ ở các loại hình cơ sở nói chung thì ở khu vực kinh tế tư nhân vấn đề này
vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập.
Những năm qua khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta đạt được sự phát
triển năng động, với nhiều loại hình doanh nghiệp doanh nghiệp khác nhau,
đóng góp tỷ trọng ngày càng tăng về các chỉ tiêu kinh tế và việc làm. Trong
quá trình phát triển đó, mối quan hệ lao động cũng ngày càng đa dạng, phức
tạp, tranh chấp lao động xảy ra phổ biến ở nhiều nơi do nguyên nhân chủ yếu
từ việc vi phạm dân chủ. Hạn chế lớn nhất trong việc thực hiện dân chủ ở

doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân là mang tính hình thức, đối phó,
thiếu nền nếp, không đồng bộ, thậm chí có nơi còn lồng ghép vào các hoạt

2
động khác của doanh nghiệp, hoặc dưới hình thức ban hành bổ sung một số
điều khoản trong nội quy làm việc của doanh nghiệp dẫn đến hạn chế tác
dụng của việc thực thi dân chủ. Chủ doanh nghiệp tư nhân rất ít khi tham gia
các hội nghị quán triệt, triển khai quy chế dân chủ do cơ quan chức năng tổ
chức, mà thường cử chủ tịch công đoàn hay cán bộ quản lý nhân sự của doanh
nghiệp dự thay. Tình trạng vi phạm dân chủ ở nhiều doanh nghiệp còn diễn ra
khá phổ biến, có nơi nghiêm trọng, gây bất bình và bức xúc cho người lao
động, làm phát sinh hoạt động khiếu kiện phức tạp, kéo dài, vượt cấp; làm
đình đốn sản xuất và gây mất ổn định an ninh trật tự ở cơ sở. Trong tình hình
đó, công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước liên quan đến việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ và lợi ích
hợp pháp của chủ doanh nghiệp và người lao động còn hạn chế làm cho các
đối tượng này chưa thấy hết ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện quyền
làm chủ của mình một cách tự giác và có trách nhiệm.
Vì vậy, thực hiện dân chủ để thúc đẩy và bảo vệ quyền lợi hợp pháp,
chính đáng của người lao động và người sử dụng lao động trong mối quan hệ
lao động, duy trì quan hệ lao động hài hoà, bền vững, bảo đảm môi trường
kinh doanh cạnh tranh và phát triển doanh nghiệp là một đòi hỏi khách quan
và cấp thiết trong tình hình hiện nay.
Để góp phần giải quyết đòi hỏi nêu trên, việc nghiên cứu đề tài “Vấn đề
thực hiện dân chủ ở doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân - Thực trạng
và giải pháp” không chỉ cấp thiết về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa thiết thực
về mặt thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài và các chủ trương, chính sách liên
quan của Đảng, Nhà nước
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc thực hiện dân chủ cơ sở, Đảng và

Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo các cấp, các ngành thực hiện
quy chế dân chủ ở các loại hình cơ sở, cụ thể là hệ thống các văn bản sau đây:

3
Chỉ thị số 07-CT/TW ngày 23 tháng 11 năm 1996 của Bộ Chính trị về
tăng cường công tác xây dựng đảng, các đoàn thể nhân dân trong các doanh
nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần tư nhân;
Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18 tháng 02 năm 1998 của Bộ chính trị về
xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở;
Nghị quyết số 45/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 26 tháng 02 năm 1998
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ
ở xã, thị trấn, phường;
Nghị quyết số 55/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 30 tháng 8 năm 1998
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ
trong hoạt động của cơ quan;
Nghị quyết số 60/1998/NQ-UBTVQH10 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội về quy chế dân chủ trong doanh nghiệp nhà nước;
Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11 tháng 5 năm 1998 của Chính
phủ về Quy chế thực hiện dân chủ ở xã;
Nghị định số 71/1998/NĐ-CP ngày 08 tháng 9 năm 1998 của Chính
phủ về Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan;
Thông tư liên tịch số 09/1998/TTLT-TCCP-TLĐLĐVN ngày 04 tháng
12 năm 1998 của Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ và Tổng Liên đoàn Lao
động Việt Nam hướng dẫn tổ chức và nội dung hội nghị cán bộ công chức
trong cơ quan;
Nghị định số 07/1999/NĐ-CP ngày 13 tháng 2 năm 1999 của Chính
phủ về Quy chế thực hiện dân chủ ở doanh nghiệp Nhà nước;
Chỉ thị số 10-CT/TW ngày 28 tháng 03 năm 2002 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng (khoá IX) về tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện
Quy chế dân chủ ở cơ sở.

Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 07 tháng 7 năm 2003 của Chính
phủ thay thế Nghị định số 29/1998/NĐ-CP về việc ban hành quy chế thực
hiện dân chủ ở xã;

4
Thông báo số 159-TB/TW ngày 15 tháng 11 năm 2004 của Ban Bí Thư
Trung ương Đảng về tiếp tục chỉ đạo xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ
ở cơ sở, Hà Nội.
Thông tư liên tịch số 01/2005/TTLT-TLĐLĐVN-LĐTBXH ngày 16
tháng 5 năm 2005 của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và Bộ Lao động-
Thương binh và Xã hội hướng dẫn về tổ chức và hoạt động Đại hội công nhân
viên chức trong công ty nhà nước;
Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20 tháng 4 năm 2007 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn;
Nghị định số 87/2007/NĐ-CP ngày 28 tháng 5 năm 2007 của Chính
phủ về Quy chế thực hiện dân chủ ở công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu
hạn;
Thông tư liên tịch số 32/2007/TTLT-TLĐLĐVN-LĐTBXH ngày 31
tháng 12 năm 2007 về hướng dẫn tổ chức, hoạt động của Hội nghị người lao
động trong công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần.
Chỉ thị số 22-CT/TW ngày 05 tháng 6 năm 2008 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng về tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng quan hệ
lao động hài hoà, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp;
Quyết định số 1129/QĐ-TTg ngày 18 tháng 8 năm 2008 của Thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch triển khai Chỉ thị số 22-CT/TW nói
trên của của Ban Bí thư Trung ương Đảng.
Quy định số 287-QĐ/TW ngày 08 tháng 02 năm 2010 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng về chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở trong
doanh nghiệp nhà nước (công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, trong
đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ).

Kết luận số 80-KL/TW ngày 29 tháng 7 năm 2010 của Ban Bí Thư
Trung ương Đảng về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 07-CT/TW của
Bộ Chính trị (khoá VIII) trong tình hình mới.

5
Hệ thống các văn bản nêu trên về việc thực hiện quy chế dân chủ ở các
loại hình cơ sở tuy đã khá đầy đủ cho các lĩnh vực, nhưng chưa đồng và chưa
quy định chế tài xử lý đối với các trường hợp vi phạm, dẫn đến chưa phát huy
hiệu quả việc thực hiện dân chủ cơ sở, nhất là ở doanh nghiệp, làm ảnh hưởng
đến quan hệ lao động trong doanh nghiệp.
Bên cạnh hệ thống văn bản nêu trên của Đảng và Nhà nước, để cung
cấp thêm luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở, thời gian vừa qua đã có một số công trình nghiên cứu, báo cáo tổng kết
của các cơ quan chức năng về việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở các
doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân nói
riêng, điển hình như:
- “Cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng quy chế thực hiện dân chủ
trong các doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá” - Đề tài khoa học
cấp Bộ do tác giả Nguyễn Minh Thông làm chủ nhiệm; thực hiện năm 2005.
- Khảo sát việc thực hiện Nghị định số 87/2007/NĐ-CP của Chính phủ
về thực hiện quy chế dân chủ ở công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần,
do Ban Dân vận Trung ương phối hợp với Ban Dân vận tỉnh uỷ tỉnh Bình
Dương thực hiện năm 2010. Theo đánh giá của Đoàn Khảo sát, việc thực hiện
quy chế dân chủ đã và đang tạo thêm động lực để địa phương phát triển; các
cấp chính quyền đã chủ động triển khai; đạt được những kết quả nhất định,
tạo được tính dân chủ, minh bạch và công khái trong các doanh nghiệp. Tuy
nhiên, việc chủ các doanh nghiệp tham dự các hội nghị triển khai quy chế dân
chủ còn rất hạn chế, chủ yếu là cử chủ tịch công đoàn hoặc quản lý nhân sự
dự thay; ở không ít doanh nghiệp còn thực hiện mang tính đối phó.
- Khảo sát doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam do Viện Nghiên cứu Quản

lý kinh tế Trung ương (CIEM) phối hợp với một số cơ quan chức năng thực hiện.
Báo cáo khảo sát đã cho thấy rõ thực trạng doanh nghiệp vừa và nhỏ (chủ yếu
thuộc khu vực kinh tế tư nhân) ở nước ta; việc thành lập và tình hình hoạt động

6
của các đoàn thể chính trị - xã hội trong doanh nghiệp; việc thực hiện các chế độ,
chính sách đối với người lao động trong doanh nghiệp…
- Báo cáo của Bộ Nội vụ về sơ kết 03 năm thực hiện Nghị định số
87/2007/NĐ-CP về việc thực hiện quy chế dân chủ ở công ty cổ phần, công ty
trách nhiệm hữu hạn (Công văn số 2269/BC-BNV ngày 13 tháng 7 năm 2010).
- Hiện nay, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đang được Chính phủ
giao chủ trì dự thảo Đề án xây dựng quy chế dân chủ trong các doanh nghiệp
ngoài nhà nước để trình Chính phủ; Ban Tổ chức Trung ương, Ban Dân vận
Trung ương đang chủ trì dự thảo Đề án “Xây dựng các khuôn khổ pháp luật
cho việc hình thành và phát triển các tổ chức chính trị - xã hội trong doanh nghiệp”.
- “Phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong bối cảnh hội nhập quốc tế”
của tác giả Phạm Chi Lan; “Phát triển kinh tế tư nhân và vấn đề đảng viên
làm kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
của tác giả Nguyễn Văn Gàu; “Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
vấn đề kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay” của các giả Lê Huy Thực, v.v.
Nhìn chung, cách tiếp cận và giải quyết vấn đề của các báo cáo và công
trình nghiên cứu nêu trên chủ yếu tập trung ở khía cạnh kinh tế hoặc cơ chế,
chính sách, pháp luật hiện hành đối với các doanh nghiệp này trong điều kiện
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, chưa đề cập và giải quyết một cách có
hệ thống vấn đề thực hiện dân chủ ở doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư
nhân. Bên cạnh đó, hệ thống các văn bản đã ban hành của Đảng và Nhà nước
vẫn chưa có quy định về việc thực hiện quy chế dân chủ ở Công ty hợp danh
và Doanh nghiệp tư nhân (theo quy định của Luật doanh nghiệp năm 2005).
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở phân tích thực trạng việc thực hiện dân chủ trong doanh

nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay, đề tài nêu lên
phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
dân chủ trong doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân.

7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
a) Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu việc thực hiện dân chủ ở doanh nghiệp thuộc khu vực
kinh tế tư nhân, bao gồm: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công
ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân.
b) Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu việc thực hiện dân chủ ở doanh nghiệp thuộc khu vực
kinh tế tư
nhân ở nước ta hiện nay, tập trung chủ yếu từ năm 2000 đến nay ở
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có nhiều doanh nghiệp hoạt động.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp cụ thể như:
Phân tích và tổng h
ợp, thống kê và so sánh, khảo sát thực tế, tổng kết thực tiễn
6. Đóng góp mới của đề tài
Đề tài đã khái quát thực trạng hệ thống doanh nghiệp thuộc khu vực
kinh tế tư nhân và việc thực hiện dân chủ trong các doanh nghiệp thuộc khu
vực kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp
đồng bộ, khả thi để nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ ở doanh nghiệp
thuộc khu vực kinh tế tư nhân, góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hoà
và phát triển bền vững trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài được kết cấu 3 chương, 9 tiết, cụ thể như sau:






8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ
Ở DOANH NGHIỆP THUỘC KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN

1.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về dân chủ
Thuật ngữ “dân chủ” ra đời từ thời Hy Lạp cổ đại (khoảng thế kỷ VII-
VI trước công nguyên). Theo tiếng Hy Lạp cổ, thuật ngữ “dân chủ” được gọi
là “Demoskratia”, do 02 từ hợp thành là “demos” (nhân dân) và kuatos
(quyền lực hay chính quyền), tức là quyền lực thuộc về nhân dân.
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về vấn đề dân ch
ủ - Đó là tiếp cận từ
những lát cắt cụ thể, tức là từ những cơ sở hình thành dân chủ, tương ứng với
những lĩnh vực nhất định của hệ thống xã hội; tiếp cận từ cấu trúc của dân
chủ; tiếp cận từ cơ cấu xã hội; tiếp cận từ hình thái lịch sử; tiếp cận từ thực
tiễ
n dân chủ gắn liền với cơ chế vận hành của nó, v.v. Với mỗi cách tiếp cận
nêu trên, vấn đề dân chủ được lý giải và triển khai có sự khác nhau nhất định.
Khái niệm dân chủ được sử dụng phổ biến nhất là trên phương diện
chính trị, gắn liền với sự xuất hiện của giai cấp và nhà nước. Theo quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin, dân chủ là một hi
ện tượng lịch sử, gắn liền với xã
hội có giai cấp và được biến đổi dưới nhiều hình thức khác nhau trong điều
kiện tương ứng của các hình thái kinh tế - xã hội. Theo đó, trong lịch sử nhân
loại, từ khi xã hội xuất hiện giai cấp và đối kháng giai cấp đến nay, dân chủ là

một hình thức quản lý chính quyền nhà nước, là một chế độ chính trị thể hiện
một n
ội dung cơ bản của quyền con người về chính trị, tức là quyền công dân
trong quan hệ với nhà nước. Với cách tiếp cận này, khái niệm dân chủ, nói cô
đọng, có nghĩa dân là chủ, dân làm chủ, mọi quyền lực thuộc về nhân dân.
Quyền lực đó trước hết và cơ bản là quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước
mà nhân dân là chủ thể, có quyền quyết định tổ chức và phương thức ho
ạt
động của nhà nước. Với ý nghĩa đó, thực hiện dân chủ chính là giải pháp cơ
bản đảm bảo cho quyền lực chính trị của nhân dân, bởi vì dân chủ là một chế

9
độ thực hiện quyền lực của nhân dân, được thể hiện thành nhà nước, được thể
chế hoá thành luật pháp, bảo đảm cho nhân dân quyền dân chủ và làm chủ,
quyền và điều kiện thực hiện nó trong quản lý mọi công việc của xã hội.
Khác với nền dân chủ tư sản là dân chủ của một số ít người có thế
lực và có tiền trong xã hội tư bản, dựa trên cơ sở
kinh tế là chế độ sở hữu
tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, dân chủ xã hội chủ nghĩa là
một nền dân chủ thực sự, đầy đủ nhất, triệt để nhất và cao nhất trong lịch
sử phát triển các hình thức dân chủ của nhân loại từ trước đến nay. Theo
C.Mác, đó là nền dân chủ mà quyền lực thực tế thu
ộc về nhân dân, nhân
dân tự quản xã hội của mình; xã hội được quản lý bởi nhân dân và vì nhân
dân. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa bảo đảm thực hiện trong thực tế những
quyền tự do chính trị và các quyền kinh tế - xã hội của cá nhân. Chỉ trong
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thì những quyền con người mới thực sự được
tôn trọng và bảo đảm. Thực chất dân chủ xã h
ội chủ nghĩa là sự tham gia
một cách thực sự bình đẳng và ngày càng rộng rãi của những người lao

động vào quản lý công việc của nhà nước và xã hội, thống nhất được quyền
và nghĩa vụ của công dân trong mối quan hệ với nhà nước. Vì vậy, dân chủ
trở thành mục tiêu và động lực của sự phát triển xã hội.
Cùng với quá trình đấu tranh giai cấp, chống áp bức, bóc lột và sự phát
triển chung của l
ịch sử nhân loại đã làm cho khái niệm dân chủ không chỉ là
khái niệm chính trị có tính lịch sử, mà còn là giá trị xã hội, nhân văn, đánh
dấu bước tiến bộ của xã hội loài người. Đi liền với sự phát triển của xã hội,
dân chủ hoá mọi mặt đời sống xã hội là một quá trình tất yếu khách quan, thể
hiện một trong những đặc điểm cơ bản của sự
nghiệp giải phóng con người.
Ngày nay, tư tưởng dân chủ tuy đã được thừa nhận và phổ biến rộng rãi,
nhưng trên thực tế chỉ có một bộ phận nhân loại được sống trong các điều
kiện của hình thức cầm quyền đó. Trong điều kiện hội nhập quốc tế và toàn
cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ ngày nay, dân chủ còn được hiểu như là
phươ
ng thức, cách thức tổ chức, là thước đo số cá thể (cá nhân, tổ chức) tham

10
gia vào xã hội hoá các lĩnh vực của đời sống xã hội (tài chính, thông tin, công
nghệ, văn hoá). Song dù tiếp cận dưới góc độ nào thì thực chất nội dung, tính
chất và khuynh hướng phát triển của dân chủ là hoàn toàn phụ thuộc vào chỗ
quyền lực chính trị thuộc về ai, phục vụ ai trong các mối quan hệ xã hội và
cộng đồng xã hội.
Tiếp thu và kế thừa các quan điểm về dân chủ của nhân loại, Chủ tị
ch
Hồ Chí Minh đã lý giải khái niệm dân chủ một cách đơn giản, cô đọng, dễ
hiểu, dễ thực hiện và dễ kiểm soát. Người chỉ rõ:
Thứ nhất, dân chủ là dân là chủ, “nước ta là nước dân chủ, địa vị cao
nhất là dân, vì dân là chủ”[32, tr. 515].

Thứ hai, dân chủ là dân làm chủ “nước ta là nước dân chủ, nghĩa là
nước nhà do nhân dân làm chủ”[33, tr. 452], “chế độ ta là chế độ dân chủ, tức
là nhân dân làm chủ”[34, tr. 251].
Th
ứ ba, nhân dân làm chủ là toàn bộ quyền lực, lợi ích đều thuộc về
dân, “Nước ta là một nước dân chủ. Mọi việc vì lợi ích của dân mà làm. Khắp
nơi có đoàn thể nhân dân, như Hội đồng nhân dân, Mặt trận, Công đoàn, Hội
nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc Những đoàn thể ấy là tổ chức của
nhân dân, phấn đấu cho dân, bệnh vực quyền của dân, liên lạc m
ật thiết nhân
dân với Chính phủ”[32, tr. 66]. Như vậy, “dân là chủ”, “dân làm chủ” là cốt
lõi trong khái niệm dân chủ của Hồ Chí Minh.
Cội nguồn của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ bắt nguồn từ quan
niệm đúng đắn của Người về nhân dân. Theo Người, dân là gốc của nước; gốc
có vững thì cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân. Người còn chỉ
rõ: “Lực lượng toàn dân là lực lượ
ng vĩ đại hơn hết. Không ai chiến thắng
được lực lượng đó”[30, tr. 20]; “Cách mệnh là việc cả dân chúng chứ không
phải một hai người”[29, tr. 262]; “Trong cuộc kháng chiến kiến quốc, lực
lượng chính là ở dân”[31, tr. 409]; “Dễ mười lần không dân cũng chịu. Khó

11
trăm lần dân liệu cũng xong”; “Thực hành dân chủ là cái chìa khoá vạn năng
có thể giải quyết mọi khó khăn”[35, tr. 212] v.v.
Đảng cộng sản Việt Nam ngay từ những ngày đầu mới thành lập đã
sớm nhận thức sâu sắc về vấn đề dân chủ và vai trò của việc phát huy quyền
làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng. Trên cơ sở nhận thức đúng
đắn và vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân chủ, Đảng ta đã khẳng định việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

và phát huy quyền làm chủ của nhân dân là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách,
vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng; sự nghiệp cách mạng là của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất
phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng củ
a nhân dân; sức mạnh của Đảng
là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan điểm của Đảng ta về dân chủ
được khẳng định, phát triển, cụ thể hoá, và từng bước hoàn thiện trong các
Nghị quyết của Đảng. Đặc biệt tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) và Chiến lược kinh tế - xã hội
1991 - 2000,
được thông qua tại Đại hội lần thứ VII của Đảng đã khẳng định:
“Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực chất của việc đổi mới và kiện
toàn hệ thống chính trị. Đây vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc
đổi mới”[20, tr.90]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát tri
ển năm 2011) được thông qua tại Đại hội
lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản
chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất
nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm dân chủ được thực hiện trong thực t
ế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các
lĩnh vực”[26, tr. 84-85].
Bài học “lấy dân làm gốc” trở thành kim chỉ nam định hướng cho Đảng
ta trong việc hoạch định đường lối phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Đảng khẳng định: “Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân
dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng”[21, tr. 73]. Tại Đại

12
hội lần thứ IX Đảng ta đã rút ra bài học chủ yếu là: “Đổi mới phải dựa vào
nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng

tạo”[22, tr. 81]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng tiếp tục khẳng định một
trong năm bài học kinh nghiệm lớn là: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân chính nhân dân là người làm nên những
thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và
nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó
mật thiết với nhân dân”[26, tr. 65]. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011
- 2020 cũng chỉ rõ một trong bốn bài học chủ yếu rút ra từ thực tiễn phát triển
đất nước và kế
t quả thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2000 -
2010 là: “Phát huy dân chủ, khơi dậy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, huy động và sử dụng có liệu quả
mọi nguồn lực cho phát triển đất nước”[26, tr. 95]. Đảng xác định, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực c
ủa cách mạng,
của sự nghiệp đổi mới. Đây là quan điểm vừa có tính cách mạng, khoa học,
vừa xuất phát từ bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Quá
trình dân chủ hoá đời sống xã hội hiện nay đã và đang thể hiện rõ quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta nhằm phát huy vai trò làm chủ, tính chủ động, sáng
tạo của quần chúng nhân dân trong sự nghi
ệp bảo vệ và xây dựng đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tóm lại, nội dung cơ bản trong quan điểm của Đảng ta về dân chủ thể
hiện ở những điểm sau đây:
Thứ nhất, chủ thể của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta là toàn
thể quần chúng nhân dân mà trước hết là nhân dân lao động. Nhà nước cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tất cả
các quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp

công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Nhà nước bảo đảm và

13
không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, nghiêm trị
mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân. Các cơ quan
nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân,
lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân, kiên quyết chống mọi biểu
hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng.
Thứ hai, trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, quyền công
dân được bảo đảm bằng kinh tế, chính trị, tổ chức pháp luật, trong đó đảm
bảo bằng kinh tế là quan trọng nhất. Đây là điều kiện cơ bản bảo đảm cho
người lao động thực sự trở thành người chủ của quá trình tổ chức sản xuất
và phân phối sản phẩm lao động. Thực hiện nội dung dân chủ về kinh tế, tức
là Nhà nước khuy
ến khích và bảo đảm để mọi người đều có quyền tự do tiến
hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật. Nhà
nước bảo hộ quyền tự do đầu tư sản xuất kinh doanh của mọi công dân. Mặt
khác, mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh bất hợp pháp, mọi hành vi phá
hoại nền kinh tế quốc dân, làm thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và
l
ợi ích hợp pháp của tập thể và công dân đều bị xử lý nghiêm minh theo quy
định của pháp luật. Về chính trị, công dân có quyền tham gia quản lý Nhà
nước, quản lý xã hội.
Thứ ba, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta mang tính giai cấp
công nhân do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước thống
nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước trong
việc thực hiệ
n các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Thứ tư, dân chủ và tập trung là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ
máy Nhà nước, đồng thời cũng là nguyên tắc của công tác lãnh đạo và quản lý

toàn xã hội. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nước ta không chấp nhận cơ chế
chính trị đa nguyên và sự tồn tại của các đảng phái đối lập. Tập trung dân chủ
là nguyên tắc quy định hệ thố
ng tổ chức bộ máy Nhà nước và chế độ lãnh đạo
quản lý, điều hành của bộ máy Nhà nước. Nó bảo đảm sự lãnh đạo tập trung,
thống nhất của cơ quan Nhà nước ở Trung ương và cơ quan Nhà nước cấp

14
trên; mở rộng dân chủ, phát huy tính tự chủ, sáng tạo, bảo đảm thực hiện chế
độ trách nhiệm của tất cả các cơ quan, tổ chức trong bộ máy Nhà nước trước
nhiệm vụ được giao. Mặt khác trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta
không cần tồn tại cùng một lúc nhiều Đảng. Bởi vì sức mạnh của Đảng cộng
sản, của giai cấp công nhân bắ
t nguồn từ sự thống nhất tư tưởng, ý chí, tổ
chức và hành động. Càng chia nhỏ lực lượng sẽ tạo ra sự phân biệt, chia rẽ
trong Đảng và làm suy yếu Đảng.
Ở nước ta, thể chế dân chủ được thực hiện dưới 2 hình thức cơ bản là:
dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện:
(i) Dân chủ trực tiếp là hình thức dân chủ được thực hiện bằng cách
nhân dân trực tiếp bày tỏ chính kiến, quan điểm của mình, trực tiếp tham gia
quyết định những vấn đề chung của cộng đồng xã hội. Thực hiện dân chủ trực
tiếp từ cơ sở để bảo đảm cho nhân dân tiếp xúc dễ dàng các cơ quan công
quyền, có điều kiện kiểm tra cán bộ, công chức, nhất là những người trực tiếp
làm việc với dân.
(ii) Dân chủ đạ
i diện là nhân dân thông qua các đại biểu của mình để
bày tỏ chính kiến, để giải quyết những vấn đề chung của cộng đồng xã hội.
Dân chủ đại diện ở nước ta được thực hiện thông qua chủ thể quyền lực trong
hệ thống chính trị: Thông qua cấp uỷ Đảng, đại biểu Quốc hội và Hội đồng
nhân dân các cấp; thông qua cá nhân lãnh đạo các đoàn thể nhân dân; thông

qua các phương tiện thông tin đạ
i chúng. Những hình thức dân chủ ấy được
thể chế bằng luật pháp của Nhà nước và được thực thi bằng hệ thống chính trị,
gọi là Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Xây dựng và hoàn thiện thể chế dân
chủ trực tiếp và dân chủ đại diện là những nhiệm vụ cơ bản trong công cuộc
xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa và cũng là những v
ấn đề đang đặt ra hiện
nay. Nó vừa có tính cơ bản, lâu dài, vừa cấp thiết.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế hiện nay, dân chủ hoá mọi mặt đời sống xã hội là xu thế khách quan,

15
đòi hỏi tất yếu, cấp bách, là động lực phát triển đất nước, đồng thời cũng
vốn là bản chất và linh hồn sống của chủ nghĩa xã hội. Dân chủ vừa là mục
tiêu của đổi mới, vừa là động lực thúc đẩy nhân dân tiến hành xây dựng xã
hội mới xã hội chủ nghĩa. Nhận thức rõ tầm quan trọng và ý nghĩa của việc
thực hiện dân chủ
, bảo đảm thực thi có hiệu quả quyền lực chính trị của
nhân dân, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 30/CT-TW ngày 18 tháng 02
năm 1998 về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Chỉ thị yêu
cầu: “Nhà nước cần ban hành quy chế dân chủ ở cơ sở có tính pháp lý, yêu
cầu mọi người, mọi tổ chức cơ sở đều phải nghiêm chỉnh thực hiện”. Th
ực
hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
29/1998/NĐ-CP ngày 11 tháng 5 năm 1998 Ban hành quy chế thực hiện dân
chủ ở xã; đã thể chế hoá bước đầu những hình thức dân chủ trực tiếp ở cơ
sở; Nghị định số 71/1998/NĐ-CP ngày 8 tháng 9 năm 1998 về quy chế thực
hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan Qua thực tiễn tri
ển khai thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở cho thấy, ở nơi nào thực hiện tốt thì tình trạng

quan liêu, tham nhũng, vi phạm dân chủ bị đẩy lùi; tính tích cực chủ động
của nhân dân tham gia vào các công việc của cộng đồng xã hội được nâng
cao. Quy chế dân chủ ở cơ sở đã cơ bản thể chế hoá những hình thức dân
chủ trực tiếp, tạo điều ki
ện để mọi tầng lớp nhân dân ở cơ sở có thể trực tiếp
bày tỏ chính kiến của mình, trực tiếp quyết định và giám sát những công
việc của cộng đồng xã hội.
Qua hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mởi do Đảng khởi xướng và
lãnh đạo, bên cạnh những thành tựu cơ bản đã đạt được trên các mặt kinh tế,
xã hội, chúng ta cũng ph
ạm phải những sai lầm, khiếm khuyết nhất định. Tình
trạng quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân; suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán
bộ đảng viên chưa được đẩy lùi; quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi,
nhất là ở vùng nông thôn bị xâm phạm, để kéo dài, chậm được khắc phục đã
d
ẫn tới những xung đột xã hội phức tạp, có nơi trở thành “điểm nóng” về an

16
ninh trật tự. Phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” chưa
được cụ thể hoá và thể chế hoá thành pháp luật, thành cơ chế, chế độ nên
chậm đi vào cuộc sống. Đời sống dân chủ chưa tương xứng với yêu cầu của
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đang bộc lộ những hạn chế, bất
cập nhất định. Bên cạnh đó, các thế lực thù đị
ch, phản động đã và đang
triệt để lợi dụng xu thế hội nhập, đổi mới, mở cửa, lợi dụng những khiếm
khuyết của chủ nghĩa xã hội trên phương diện dân chủ để hô hào, khuyếch
trương “dân chủ hoá”, “cải cách dân chủ”, “tự do hoá chính trị”, đồng thời
ra sức khuyến khích, nuôi dưỡng, ủng hộ cả vật chất và tính thần cho các
“thế lự

c dân chủ” nhằm âm mưu tạo ra các “lực lượng chống đối từ bên
trong”, chĩa mũi nhọn vào chính quyền nhân dân, âm mưu làm tiêu tan chế
độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Trong bối cảnh đó, muốn có dân chủ thực sự phải có một nền chính trị
dân chủ của nhân dân, có một nhà nước dân chủ và một nền pháp luật đủ
mạnh để bảo vệ nhân dân, bảo vệ nhà nước, b
ảo vệ xã hội và chuyên chính
với các thế lực thù địch, phản động chống đối. Dân chủ và chuyên chính
không thể tách rời nhau. Muốn có dân chủ mang tính pháp lý và nhân văn xã
hội chủ nghĩa thì nền dân chủ ấy phải được xây dựng trên những định hướng
chính trị chiến lược đúng, phản ánh lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Vấn đề dân
chủ, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân để phát huy động lực to lớn, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” vừa là đòi hỏi khách quan, vừa
là yêu cầu cấp bách của thực tiễn cách mạng nước ta, đồng thời là biện pháp
chiến lược để phòng chống tham nhũng, quan liêu có hiệu quả.
Trong Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay, Nhà nước là thiết ch
ế có
chức năng trực tiếp nhất trong việc thể chế hoá và tổ chức thực hiện những
yêu cầu dân chủ chân chính của nhân dân. Không những thế, nó còn là công
cụ sắc bén để đấu tranh chống lại mọi mưu đồ đi ngược lại lợi ích của nhân
dân. Chính vì vậy, nhà nước được xem là “trụ cột”, là một “công cụ chủ yếu”

17
để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Để có dân chủ xã hội chủ nghĩa,
Nhà nước ta phải được xây dựng theo nguyên tắc Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, có
chức năng thể chế hoá quan điểm chính trị của Đảng và tổ chức thực hiện
chúng. Mặt khác, mọi chủ trương, chính sách của Nhà nước phải xuấ

t phát
từ lợi ích chính đáng của nhân dân. Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý thực
chất là để nhân dân làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, thực thi quyền lực
chính trị của mình. Điều kiện không thể thiếu để cơ chế dân chủ phát huy
tác dụng là hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và lối sống tuân theo pháp luật.
Củng cố và phát triển hệ thống luật pháp được xem là khâu then chốt của
quá trình dân ch
ủ hoá hiện nay.
Tóm lại, phạm vi của dân chủ rất rộng và toàn diện, bao quát các lĩnh
vực đời sống xã hội, từ chính trị đến kinh tế, xã hội, văn hoá tư tưởng; từ các
mối quan hệ giữa con người với con người đến quan hệ giữa cá nhân với cộng
đồng, giữa công dân với nhà nước, giữa các tổ chức và thể chế hiện hành,
giữa các quốc gia trong quan hệ quốc tế
, v.v. Trong phạm vi nghiên cứu của
Đề tài này chỉ đề cập đến vấn đề thực hiện dân chủ cơ sở trong quan hệ lao
động tại các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, cụ thể là việc thực
hiện các quyền và nghĩa vụ của người sử dụng lao động, người lao động theo
quy định của pháp luật trong các doanh nghiệp này.
1.2. Kinh tế tư nhân và doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân
1.2.1. Kinh tế tư nhân
Khái niệm kinh tế tư nhân được dùng để chỉ các thành phần kinh tế dựa
trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, bao gồm: Kinh tế cá thể, tiểu
chủ, kinh tế tư bản tư nhân. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định
sự tồn tại của kinh tế tư nhân là một tất yếu khách quan trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội và việc cải tạo thành phần kinh tế này là một trong
những nhiệm vụ kinh tế cơ bản, lâu dài của cả thời kỳ quá độ. Thực tiễn các

18
nền kinh tế phát triển, đang phát triển trên thế giới và thông lệ quốc tế đã cho
thấy rằng, khu vực kinh tế tư nhân luôn là khu vực năng động nhất, có hiệu

quả cao và đóng góp nhiều cho phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, việc sử dụng, cải tạo và
phát triển thành phần kinh tế này như thế nào để có hiệu quả là vấn đề vừa có
ý nghĩa lý luận vừa có ý nghĩa thực tiễn cấp thiết.
Đối với nước ta, những năm trước đổi mới (trước năm 1986), thành
phần kinh tế tư nhân chỉ được coi là một thành phần kinh tế “tàn dư”, bị phân
biệt đối xử và sẽ bị thu hẹp dần trong quá trình phát triển các thành phần kinh
tế xã hội chủ nghĩa (bao gồm 02 hình thức sở hữu là toàn dân và tập thể). Kể
cả khi bắt đầu thực hiện đường lối đổi mới của Đảng (sau năm 1986), thành
phần kinh tế tư nhân vẫn còn được nhìn nhận một cách dè dặt, thận trọng cả
trong lý luận lẫn thực tiễn. Sau 03 năm thực hiện đường lối đổi mới, tại Hội
nghị lần thứ sáu (khoá VI, tháng 3/1989) khái niệm “kinh tế tư nhân” mới
chính thức được sử dụng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu nêu rõ: Trong điều
kiện của nước ta, các hình thức kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư
nhân) vẫn cần thiết lâu dài cho nền kinh tế và nằm trong cơ cấu của nền kinh
tế hàng hoá đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một sự khẳng định, một chủ
trương quan trọng, có tính chất quyết định để thành phần kinh tế tư nhân có
điều kiện phát triển cùng với các thành phần kinh tế khác của nền kinh tế.
Trong các kỳ đại hội Đảng sau này, nội hàm của khái niệm kinh tế tư
nhân ngày càng được làm sáng rõ; vai trò của thành phần kinh tế tư nhân ngày
càng được khẳng định và nhấn mạnh. Tại Đại hội Đảng lần thứ VII (tháng
6/1991), khái niệm kinh tế tư nhân được khẳng định và giải thích rõ hơn:
“Kinh tế tư nhân được phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, theo sự
quản lý, hướng dẫn của Nhà nước; trong đó, kinh tế cá thể và tiểu chủ có
phạm vi hoạt động tương đối rộng ở những nơi chưa có điều kiện tổ chức kinh
tế tập thể, hướng kinh tế tư bản tư nhân phát triển theo con đường tư bản nhà
nước dưới nhiều hình thức”[20, tr. 69]. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII

19
(tháng 6 năm 1996) khẳng định, kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, cùng

với kinh tế hợp tác xã dần dần trở thành nền tảng. Tạo điều kiện kinh tế và
pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư làm ăn lâu
dài. Đại hội Đảng lần thứ IX (tháng 4 năm 2001) khẳng định: “Kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước
cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc”[22, tr. 87];
“Khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành,
nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh
doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư nhân phát triển trên
những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài Xây
dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao động”[22, tr. 99].
Bước chuyển biến mới về tư duy đối với kinh tế tư nhân được thể hiện
rõ trong Nghị quyết số 14-NQ/TW tại Hội nghị lần thứ năm (khoá IX, tháng 3
năm 2002) về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều
kiện phát triển kinh tế tư nhân. Tại Nghị quyết này, khái niệm và vai trò của
kinh tế tư nhân được giải thích rõ ràng, toàn diện, cụ thể hơn, bao gồm: “Kinh
tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân, hoạt động dưới hình thức hộ kinh
doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân đã phát triển rộng
khắp trong cả nước”[23, tr. 55-57]. “Cùng với các thành phần kinh tế khác, sự
phát triển của kinh tế tư nhân đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, thúc
đẩy phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, tăng thêm số lượng công nhân, lao động và doanh nhân Việt Nam, thực
hiện các chủ trương xã hội hoá y tế, văn hoá, giáo dục”[23, tr. 55-56]; “Kinh
tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát
triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều
thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa[23, tr. 58]. Đến Đại hội Đảng lần thứ
X, khái niệm kinh tế tư nhân tiếp tục được xác định đầy đủ hơn về nội hàm,

20

bản chất, vị trí, vai trò của nó trong nền kinh tế. Nghị quyết Đại hội X chỉ
rõ: “Kinh tế tư nhân bao gồm kinh tế cá thể, kinh tế tiểu chủ và kinh tế tư
bản tư nhân; kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh
tế”[24, tr. 83, 336-337]. Tại Đại hội lần thứ XI, Đảng tiếp tục nhấn mạnh
chủ trương: “Khuyến khích phát triển mạnh kinh tế tư nhân, loại hình
doanh nghiệp sở hữu hỗn hợp theo quy hoạch và quy định của pháp
luật”[26, tr. 36]. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đưa ra yêu cầu:
“Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành
một trong những động lực của nền kinh tế. Phát triển mạnh các loại hình
kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế theo quy hoạch và
quy định của pháp luật. Tạo điều kiện hình thành một số tập đoàn kinh tế tư
nhân và kinh tế tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước”[26, tr.
209]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) được thông qua tại Đại hội lần thứ XI
khẳng định: “Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh
tế”[26, tr. 74].
Để triển khai chủ trương trong các nghị quyết của Đảng, Quốc hội,
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quy phạm
pháp luật và các văn bản khác để chỉ đạo, điều hành, tạo điều kiện phát
triển kinh tế tư nhân trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta, điển hình là các văn bản sau đây:
- Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp,
Luật xây dựng.
- Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng 11 năm 2001 của Chính
phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa;
- Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30 tháng 6 năm 2009 của Chính
phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa;

21

- Nghị quyết số 22/NQ-CP ngày 05 tháng 5 năm 2010 của Chính phủ
về việc triển khai thực hiện Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30 tháng 6
năm 2009 của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa;
- Quyết định số 92/2002/QĐ-TTg ngày 17 tháng 7 năm 2002 của Thủ
tướng Chính phủ về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về tiếp tục đổi mới cơ
chế, chính sách khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân;
- Quyết định số 12/2003/QĐ-TTg ngày 17 tháng 01 năm 2003 của Thủ
tướng Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ và thành viên Hội đồng khuyến
khích phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (Hội đồng gồm Lãnh đạo của 12 bộ,
4 thành phố, Liên minh hợp tác xã Việt Nam, Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam và một
số hiệp hội doanh nghiệp; có chức năng tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ về
chiến lược và kế hoạch phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa phù hợp với định
hướng, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; về cơ chế, chính
sách, các biện pháp và giải pháp khuyến khích phát triển và tăng cường năng
lực, nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong cả nước);
- Quyết định số 143/2004/QĐ-TTg ngày 10 tháng 8 năm 2004 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực cho
các doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2004 - 2008. Mục tiêu của Chương
trình này nhằm thúc đẩy và tạo điều kiện để các doanh nghiệp nhỏ và vừa
tăng khả năng cạnh tranh, tăng trưởng và phát triển bền vững, đóng góp ngày
càng nhiều cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước;
- Quyết định số 236/2006/QĐ-TTg ngày 23 tháng 10 năm 2006 của
Thủ tướng Chính phủ về Kế hoạch phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa giai
đoạn 2006 - 2010, trong đó khẳng định: “Đẩy nhanh tốc độ phát triển doanh
nghiệp nhỏ và vừa, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, nâng cao năng lực
cạnh tranh quốc gia, các doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng góp ngày càng cao

22

vào tăng trưởng cho nền kinh tế; số doanh nghiệp nhỏ và vừa thành lập mới
trong giai đoạn 2006 - 2010 là 320.000 (hàng năm tăng khoảng 22%); tỷ lệ
tăng trưởng doanh nghiệp nhỏ và vừa thành lập mới tại các tỉnh khó khăn nhất
là 15% đến năm 2010; khoảng 59.500 héc ta đất sẽ được sử dụng cho các mục
đích công nghiệp và thương mại trong 5 năm 2006 - 2010; tỷ trọng dư nợ cho
vay đến năm 2010 của các doanh nghiệp nhỏ và vừa chiến 40 - 50% trong
tổng dự nợ cho vay của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế; tỷ lệ doanh
nghiệp nhỏ và vừa trực tiếp tham gia xuất khẩu chiếm 3 - 6% trong tổng số
doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Ngoài ra, Thủ tướng Chính phủ còn ban hành một số chương trình, đề
án khoa học và công nghệ quốc gia để hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và
vừa, như: Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia, Chương trình nâng cao
năng suất, chất lượng sản phầm hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam,
Chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ và tổ
chức khoa học và công nghệ thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm
Tóm lại, phát triển kinh tế tư nhân trong điều kiện nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế là một chủ trương
đúng đắn và nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Chủ trương đó được xác
định dựa trên cơ sở lý luận khoa học của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, phù hợp với quy luật kinh tế khách quan và đáp ứng đòi hỏi
thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Chủ trương phát triển kinh tế
tư nhân đã và đang đi vào cuộc sống, đưa lại những kết quả to lớn đáng ghi
nhận trong thành tựu chung về kinh tế - xã hội sau 26 năm đổi mới đất nước.
Tuy nhiên, việc phát triển kinh tế tư nhân trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã và đang đặt ra một số vấn đề về lý
luận và thực tiễn cần được xem xét. Cụ thể là, khi thừa nhận kinh tế thị trường
là cần thiết đối với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, thì cũng có nghĩa là
phải thừa nhận sự tồn tại tất yếu của kinh tế tư nhân trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Đó còn là sự thừa nhận một động lực quan trọng không thể


23
thiếu trong quá trình phát triển nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nhưng quá trình
xây dựng nền kinh tế thị trường và vận dụng các nguyên tắc của nó có thể sẽ
xảy ra mâu thuẫn giữa những quy định thuộc bản chất của chủ nghĩa xã hội,
trong đó có vấn đề dân chủ, với những mục tiêu kinh tế cần đạt được, bởi vì:
(i) Kinh tế thị trường là một phương thức vận hành kinh tế, là sự điều
hoà lợi ích và phân bố các tài nguyên thông qua thị trường. Khi vận hành,
nó chỉ tạo ra sự công bằng trong quá trình cạnh tranh thị trường, chứ không
tạo ra sự công bằng trên kết quả phân phối cuối cùng. Điều này có nghĩa là,
mọi thành phần kinh tế tham gia vào nền kinh tế thị trường đều phải cạnh
tranh bình đẳng theo những quy tắc nhất định. Những quy tắc này không
ủng hộ những người lạc hậu, nhưng cũng không kìm hãm những người tiên
tiến, mà thực hiện luật chơi “mạnh thắng, yếu thua” một cách sòng phẳng.
Nếu thực hiện luật chơi này trong chế độ công hữu, dẫu là công hữu về
những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội như nước ta, thì liệu có phải lúc
nào sự vận hành của thị trường cũng ăn khớp với các chính sách của Nhà
nước xã hội chủ nghĩa không?
(ii) Nền kinh tế thị trường đã đặt ra những yêu cầu như công bằng, hiệu
quả và nguyên tắc “mạnh thắng, yếu thua”, thì cũng phải chấp nhận ở mức độ
nào đó những hậu quả mà sự vận hành của nó mang lại, như: sự phân hoá giàu
nghèo, bất bình đẳng và thất nghiệp. Nếu để những hiện tượng không lành
mạnh này phát triển một cách tự phát, không được kiểm soát thì sẽ không thể
bảo đảm và thực hiện được công bằng xã hội trong chủ nghĩa xã hội. Nhưng
nếu Nhà nước can thiệp quyết liệt để “loại trừ” nạn thất nghiệp, ngăn chặn sự
phân hoá giàu nghèo bằng biện pháp hành chính thì sẽ ảnh hưởng đến sự vận
hành của thị trường, đến kết quả tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh
tế. Đó là những mâu thuẫn mà chúng ta cần tính tới và nhận thức đầy đủ trong
quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng
như việc xây dựng và tổ chức thực hiện dân chủ cơ sở ở các doanh nghiệp
thuộc khu vực kinh tế tư nhân.

×