Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.69 KB, 46 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
2
1. Ngân quỹ và vai trò của ngân quỹ trong hoạt động của doanh nghiệp. 3
1.1. Khái niệm 3
1.2. Vai trò của ngân quỹ trong hoạt động của doanh nghiệp 3
2. Quản lý ngân quỹ 5
2.1. Khái niệm quản lý ngân quỹ 5
2.2. Tầm quan trọng của quản lý ngân quỹ 6
2.3. Nội dung quản lý ngân quỹ 9
2.3.1. Thu ngân quỹ doanh nghiệp 9
2.3.2. Chi ngân quỹ doanh nghiệp 12
2.3.3. Dự toán nhu cầu tiền 12
2.3.4. Xác định mức tồn quỹ tối ưu 13
2.3.5. Lập kế hoạch quản lý ngân quỹ 18
3. Quản lý tiền mặt 21
3.1. Lý do phải giữ tiền mặt và lợi thế của việc giữ đủ tiền mặt 21
3.1.1. Lý do phải giữ tiền mặt 21
3.1.2. Lợi thế của việc giữ đủ tiền mặt 21
3.2. Mô hình quản lý tiền mặt 23
3.2.1. Mô hình quản lý tiền mặt EOQ 23
3.2.2. Mô hình quản lý tiền mặt Mileer-Orr 26
4. Kiểm soát thu chi tiền mặt 31
4.1. Tiền trôi nổi 31
4.2. Quản trị khoản tiền trôi nổi 33
4.2.1. Tăng tốc quá trình thu tiền 34
4.2.2. Kiểm soát quá trình chi tiền 39
4.3. Chuyển tiền điện tử 42
KẾT LUẬN
45
TÀI LIỆU THAM KHẢO


46
1
MỞ ĐẦU
Tiền được ví như mạch máu để nuôi sống doanh nghiệp, thiếu tiền thì
các hoạt động của doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn. Tiền trong doanh nghiệp
tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, trong đó có một hình thức quan trọng
là tiền mặt, được lưu giữ trong ngân quỹ. Chi phí cơ hội của tiền mặt chính là
lãi suất nhưng tiền mặt có thể dùng để mua mọi thứ cần thiết cho hoạt động
của doanh nghiệp và tiền mặt có tính thanh khoản cao nhất trong tất cả các tài
sản. Vậy ngân quỹ là gì? Tại sao các doanh nghiệp không dùng tất cả tiền mặt
để đầu tư? Hay có phải việc nắm giữ bao nhiêu tiền mặt cũng không thành
vấn đề? Doanh nghiệp phải nắm giữ bao nhiêu tiền mặt là hợp lý? Đây là
những câu hỏi mà các giám đốc tài chính cần phải xem xét và đưa ra cách
thức quản trị ngân quỹ cho phù hợp với doanh nghiệp của mình. Bởi nắm giữ
quá nhiều tiền mặt trong ngân quỹ sẽ làm giảm khả năng sinh lời của vốn
cũng như việc không có tiền mặt dự trữ sẽ làm mất khả năng thanh toán của
doanh nghiệp.
Để làm rõ các vấn đề này, Nhóm 6 đã thực hiện tìm hiểu, nghiên cứu đề
tài: “Quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp”. Bố cục bài làm gồm 4 phần:
1. Ngân quỹ và vai trò của ngân quỹ trong hoạt động của doanh nghiệp.
2. Quản lý ngân quỹ.
3. Quản lý tiền mặt.
4. Kiểm soát thu chi tiền mặt.
1. Ngân quỹ và vai trò của ngân quỹ trong hoạt động của doanh nghiệp
2
1.1. Khái niệm
Ngân quỹ là khoản chênh lệch giữa thực thu ngân quỹ và thực chi ngân
quỹ tại một thời điểm nhất định của doanh nghiệp. Trong đó:
- Thực chi ngân quỹ: là những khoản doanh nghiệp thực chi ra trong kỳ,
có thể bằng tiền, chuyển khoản hoặc các chứng khoán có giá trị như tiền.

Thực chi ngân quỹ không bao gồm các khoản: phải trả nhà cung cấp, chênh
lệch giảm do đánh giá lại tài sản và những khoản khác mà doanh nghiệp
không thực sự phải chi ra. Thực chi ngân quỹ được phân chia theo các hoạt
động: thực chi cho hoạt động sản xuất kinh doanh, thực chi cho hoạt động tài
chính, thực chi cho hoạt động bất thường.
- Thực thu ngân quỹ: là những khoản doanh nghiệp thực thu được trong
kỳ, có thể bằng tiền hoặc bằng chuyển khoản. Thực thu ngân quỹ không bao
gồm những khoản: chênh lệch tăng do đánh giá lại tài sản, các khoản phải thu
khách hàng, khấu hao tài sản cố định Thực thu ngân quỹ được hình thành từ
các nguồn sau: thực thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh, thực thu từ hoạt
động tài chính, thực thu từ hoạt động bất thường.
1.2. Vai trò của ngân quỹ trong hoạt động của doanh nghiệp
Một doanh nghiệp muốn tiến hành sản xuất kinh doanh, cần phải có một
lượng tài sản phản ánh bên phần tài sản của bảng cân đối kế toán, mọi quá
trình trao đổi đều được thực hiện thông qua trung gian là tiền. Khái niệm
dòng vật chất và dòng tiền cũng được phát sinh từ đó, tức là sự dịch chuyển
của hàng hoá, dịch vụ và sự dịch chuyển tiền giữa các đơn vị, tổ chức kinh tế.
Như vậy, tương ứng với dòng vật chất đi vào (hàng hoá, dịch vụ đầu vào) là
dòng tiền đi ra. Ngược lại, tương ứng với dòng vật chất đi ra (hàng hoá dịch
vụ đầu ra) là dòng tiền đi vào. Quy trình này được mô tả qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1: Quy trình trao đổi của doanh nghiệp
3
Dòng vật chất đi vào Dòng vật chất đi ra (xuất quỹ)

Dòng vật chất đi ra Dòng vật chất đi vào (nhập quỹ)
Từ sơ đồ trên ta thấy dù hoạt động trong lĩnh vực sản xuất hay thương
mại, doanh nghiệp cũng phải thực hiện hai công đoạn chi trả tiền mua các yếu
tố đầu vào và thu tiền bán các sản phẩm đầu ra. Mặt khác, ngân quỹ lại là
khoản chênh lệch giữa thực thu ngân quỹ và thực chi ngân quỹ. Vì vậy, ngân
quỹ có tác động đến cả hai quá trình chủ yếu trong hoạt động sản xuất kinh

doanh của doanh nghiệp.
Những phân tích trên cho thấy, trong hoạt động của doanh nghiệp tồn tại
mối quan hệ giữa ngân quỹ với việc mua các yếu tố đầu vào và tiêu thụ các
sản phẩm đầu ra . Trong khi đó, hai quá trình mua các yếu tố đầu vào và tiêu
thụ các sản phẩm đầu ra là hai trong ba hoạt động cơ bản của một doanh
nghiệp: mua các yếu tố đầu vào, sản xuất chế biến và tiêu thụ sản phẩm đầu
ra. Vậy ngân quỹ đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động của doanh
nghiệp.
Trong hoạt động thường ngày, doanh nghiệp luôn có các khoản thu, chi
bằng tiền dẫn tới ngân quỹ (tiền) trong doanh nghiệp luôn biến động. Để duy
trì hoạt động sản xuất kinh doanh, một trong những vấn đề mà doanh nghiệp
phải chú ý là khả năng thanh toán. Vì tại bất kỳ thời điểm nào, nếu nhất thời
doanh nghiệp không đảm bảo được khả năng thanh toán thì hoạt động sản
xuất kinh doanh thường ngày sẽ bị gián đoạn, doanh nghiệp sẽ không thực
hiện được các hợp đồng đã ký kết, do đó doanh nghiệp rất có thể bị phá sản.
Mặt khác, phương tiện để thực hiện thanh toán lại là ngân quỹ. Chính vì vậy,
4
Sản xuất chuyển hóa
để đảm bảo khả năng thanh toán của mình tại mọi thời điểm doanh nghiệp
không thể không quan tâm đến ngân quỹ.
Tóm lại, ngân quỹ đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động của một
doanh nghiệp. Thứ nhất vì nó là nhân tố không thể thiếu trong hai quá trình:
mua các yếu tố đầu vào và bán các sản phẩm đầu ra trong mọi loại hình doanh
nghiệp. Thứ hai, nó là nhân tố quyết định trực tiếp đến khả năng thanh toán
của doanh nghiệp tại mọi thời điểm. Ngoài ra, ngân quỹ còn có vai trò khác
không kém phần quan trọng đó là dự phòng và giữ tiền với mục đích đầu cơ.
- Dự phòng: để tránh những biến động không thuận lợi, điều đó cũng có
nghĩa là nếu khả năng dự báo thu chi bằng tiền trong tương lai của doanh
nghiệp kém thì nhu cầu tiền dự phòng là cao và ngược lại, nếu doanh nghiệp
nắm rõ được dòng tiền vào ra trong thời gian tới thì nhu cầu tiền dự phòng sẽ

thấp
- Đầu cơ: nhằm chuẩn bị sẵn sàng để chớp lấy các cơ hội tốt trong kinh
doanh, các cơ hội có tỷ suất sinh lợi cao.
2. Quản lý ngân quỹ trong doanh nghiệp
2.1. Khái niệm quản lý ngân quỹ
Như trên đã phân tích, quản lý ngân quỹ liên quan đến các dòng tiền vào,
dòng tiền ra của doanh nghiệp và quản lý mức cân đối tiền trong ngân quỹ.
Vậy ta có thể rút ra một khái niệm riêng cho thuật ngữ quản lý ngân quỹ như
sau: “Quản lý ngân quỹ là sự tác động của các chủ thể quản lý trong doanh
nghiệp lên các khoản thực thu và thực chi bằng tiền nhằm thay đổi mức tồn
quỹ thực tế của doanh nghiệp sao cho ngân quỹ doanh nghiệp đạt mức tối ưu
nhằm tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu và đảm bảo khả năng chi trả của
doanh nghiệp trong từng thời kỳ và điều kiện biến động khác nhau của môi
trường kinh doanh”.
Ngân quỹ và vai trò của nó trong hoạt động của doanh nghiệp cho thấy
nhà quản trị tài chính trong doanh nghiệp cần phải quan tâm đến quản lý ngân
quỹ. Bên cạnh đó mục tiêu cơ bản của các nhà quản trị tài chính doanh nghiệp
5
không phải là tối đa hoá khối lượng tiền mặt mà là cố gắng duy trì lượng tiền
mặt thấp nhất có thể được trong khi vẫn đảm bảo các hoạt động của doanh
nghiệp được hiệu quả.
2.2. Tầm quan trọng của quản lý ngân quỹ
Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh doanh và chu kỳ tiền mặt, giữa chu kỳ trả
tiền và chu kỳ chờ thu tiền là lý do quan trọng khiến các doanh nghiệp phải
quản lý ngân quỹ.
- Sự chênh lệch giữa chu kỳ trả tiền và chu kỳ chờ thu tiền: Bất kỳ một
doanh nghiệp nào dù là tìm hình thức tài trợ, hay cách sử dụng ngân quỹ nào
cũng cần cân nhắc đến vấn đề nguồn đó có phù hợp với chu kỳ kinh doanh và
chu kỳ chờ thu tiền mặt của mình hay không. Ta có:
Chu kỳ kinh doanh = Chu kỳ dự trữ + Chu kỳ chờ thu tiền

Chu kỳ kinh doanh là khoảng thời gian kể từ khi tiếp nhận nguyên vật
liệu nhập kho cho đến khi thu được tiền bán hàng. Chu kỳ kinh doanh được
hợp thành từ hai bộ phận:
• Bộ phận thứ nhất là khoảng thời gian kể từ khi doanh nghiệp nhập kho
nguyên vật liệu cho đến khi giao hàng cho khách hàng (chu kỳ dự trữ).
• Bộ phận thứ hai là khoảng thời gian kể từ khi doanh nghiệp giao hàng
cho khách hàng cho đến khi doanh nghiệp thu được tiền về (chu kỳ chờ thu
tiền).
Ta biết rằng thu chi ngân quỹ không xảy ra một cách đồng thời. Doanh
nghiệp có thể đã nhận nguyên vật liệu nhưng một thời gian sau doanh nghiệp
mới trả tiền (sử dụng tín dụng thương mại). Khoảng thời gian này là chu kỳ
trả tiền. Hoặc doanh nghiệp đã giao hàng cho khách hàng nhưng một thời gian
sau mới thu được tiền bán hàng. Khoảng thời gian này được gọi là chu kỳ tiền
mặt. Như vậy ta có công thức như sau:
Chu kỳ kinh doanh = chu kỳ trả tiền + chu kỳ tiền mặt
Chu kỳ tiền mặt = chu kỳ kinh doanh – chu kỳ trả tiền
Từ những phân tích trên ta có sơ đồ sau:
6
Sơ đồ 2: Chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp
Giao hàng cho người mua
Bắt đầu dự trữ Thu tiền bán hàng

Chu kỳ dự trữ Chu kỳ chờ thu tiền

Chu kỳ trả tiền Chu kỳ tiền mặt
Trả tiền cho dự trữ
Chu kỳ kinh doanh
Quản lý ngân quỹ có một vai trò quan trọng bởi nó sẽ đảm bảo cho khả
năng thanh toán của doanh nghiệp trong khoảng thời gian doanh nghiệp đã trả
tiền cho nhà cung cấp nhưng chưa thu được tiền của khách hàng.

- Dự phòng cho những tổn thất bất thường: Doanh nghiệp phải giữ tiền vì
dự phòng, nhằm ngăn ngừa khả năng thu chi tiền trong tương lai biến động
không thuận lợi sẽ dẫn đến tình trạng không đảm bảo được khả năng thanh
toán. Trong hoạt động hằng ngày doanh nghiệp có thể gặp phải những rủi ro
về thiên tai, khách hàng của doanh nghiệp bị mất khả năng thanh toán
chính vì vậy doanh nghiệp phải giữ một khoản tồn quỹ nhất định để dự phòng
cho những biến động bất thường đó, vì những biến động bất thường này có
7
thể trực tiếp làm giảm các khoản thực thu của doanh nghiệp hoặc buộc doanh
nghiệp phải chi những khoản chi bất thường. Như vậy chi phí cho việc dự
phòng những biến động bất thường đó chính là khoản thu nhập mà doanh
nghiệp có thể kiếm được nếu sử dụng khoản tồn quỹ đó vào kinh doanh.
Lượng tồn quỹ lớn hay nhỏ phụ thuộc vào tổn thất mà doanh nghiệp sẽ phải
gánh chịu khi những rủi ro trên xảy ra.
- Mối quan hệ mật thiết giữa vốn lưu động ròng, nhu cầu vốn lưu động
ròng và ngân quỹ: Vốn lưu động ròng (Net Working Capital-NWC) là nguồn
vốn dài hạn được sử dụng để tài trợ cho tài sản ngắn hạn. Nói cách khác vốn
lưu động ròng (NWC) là khoản chênh lệch giữa vốn lưu động và vay ngắn
hạn hoặc giữa nguồn vốn dài hạn và tài sản dài hạn.
NWC = vốn lưu động – vay ngắn hạn
NWC = nguồn vốn dài hạn – tài sản dài hạn
Nhu cầu vốn lưu động ròng là lượng vốn ngắn hạn mà doanh nghiệp cần
để tài trợ cho một phần tài sản lưu động (hàng tồn kho và các khoản phải thu )
Nhu cầu vốn lưu động ròng = tồn kho + các khoản phải thu – nợ
ngắn hạn
Ngân quỹ = vốn lưu động ròng – nhu cầu vốn lưu động ròng
Như vậy quản lý ngân quỹ đóng một vai trò quan trọng trong các hoạt
động quản lý của doanh nghiệp. Vì:
• Doanh nghiệp cần đảm bảo cho khả năng thanh toán của mình tại mọi
thời điểm, đặc biệt là khoảng thời gian giữa thời điểm doanh nghiệp trả tiền

cho nhà cung cấp và thời điểm doanh nghiệp thu được tiền của khách hàng.
• Ngân quỹ đảm bảo hoạt động sản xuất và tiêu thụ hàng hoá.
• Giữa ngân quỹ, vốn lưu động ròng và nhu cầu vốn lưu động ròng có
mối quan hệ mật thiết với nhau, nếu thay đổi một trong ba yếu tố còn lại cũng
sẽ thay đổi theo và tác động đến toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp.
2.3. Nội dung quản lý ngân quỹ
8
Quản lý ngân quỹ trong doanh nghiệp sẽ giúp cho doanh nghiệp xác định
được luồng tiền ra vào, các khoản phải thu, phải trả phát sinh trong kỳ, đồng
thời lập kế hoạch tài chính ngắn hạn, dự báo các luồng thu, chi bằng tiền phát
sinh trong các tháng, nhu cầu và khả năng tiền mặt… giúp doanh nghiệp chủ
động trong đầu tư hoặc huy động vốn tài trợ. Quản lý ngân quỹ không phải là
việc điều hoà ngân quỹ theo cảm tính hay tuỳ cơ ứng biến. Để thực hiệu quả
việc quản lý ngân quỹ, doanh nghiệp phải tiến hành các bước theo một trình
tự có tính khoa học.
Nội dung của việc quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp được thực hiện
thông qua việc nghiên cứu theo trình tự những vấn đề sau :
- Doanh nghiệp có những khoản thực thu nào?
- Doanh nghiệp có những khoản thực chi nào?
- Lập dự toán nhu cầu tiền như thế nào?
- Xác định mức tồn quỹ tối ưu như thế nào?
- Làm thế nào để lập được kế hoạch quản lý ngân quỹ?
2.3.1. Thu ngân quỹ doanh nghiệp
Thu ngân quỹ bao gồm: thực thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh, thực
thu từ hoạt động tài chính và thực thu từ hoạt động bất thường.
- Thực thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh (trong đó có cả thuế gián
thu). Bao gồm:
• Thu tiền bán hàng trong kỳ (giảm hàng tồn kho và hàng mới sản xuất).
Do thực thu tiền hàng kỳ này là khoản tiền khách hàng thực thanh toán cho
doanh nghiệp nên thực thu tiền hàng của doanh nghiệp sẽ bao gồm: giá thành

sản phẩm và thuế gián thu (thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng, thuế
xuất nhập khẩu).
• Thu nợ tiền hàng kỳ trước của khách hàng (giảm các khoản phải thu).
Xuất phát từ việc áp dụng chính sách tín dụng thương mại của doanh nghiệp
nên những khoản tín dụng mà doanh nghiệp cấp cho khách hàng kỳ trước kỳ
này sẽ được khách hàng thanh toán. Những khoản đó mặc dù phát sinh từ
những hoạt động mua bán của kỳ trước nhưng do kỳ này mới được khách
hàng thanh toán nên nó được coi là một khoản thực thu ngân quỹ của kỳ này.
9
• Thu tiền từ những hoạt động sản xuất kinh doanh khác. Trên bảng cân
đối kế toán của doanh nghiệp, trong mục các khoản phải thu, ngoài các khoản
phải thu của khách hàng doanh nghiệp còn có các khoản phải thu nội bộ và
các khoản phải thu khác. Những khoản tiền thu được từ các khoản trên cũng
được coi là thực thu ngân quỹ từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Thực thu từ hoạt động tài chính :
Là tất cả những khoản bao gồm: thu vốn gốc và lãi đầu tư vào các đơn vị
khác như thu tiền lãi hoặc tiền bán chứng khoán ngắn hạn và dài hạn, tiền thu
do các chủ sở hữu góp vốn; khoản cho vay của ngân hàng; thu lãi hoặc vốn
gốc của các khoản doanh nghiệp cho vay bằng các quỹ nhàn rỗi; thu lãi hoặc
gốc tiền gửi trong kỳ; thu tiền lãi từ chênh lệch tỷ giá hoặc từ việc thực hiện
các nghiệp vụ gia tăng ngân quỹ nhàn rỗi và các khoản thu khác có liên quan
đến hoạt động tài chính của doanh.
- Thực thu từ hoạt động bất thường:
Thực thu từ hoạt động bất thường của doanh nghiệp là các khoản thu
nhập bất thường mà doanh nghiệp thực thu được, bao gồm:
• Các khoản nợ phải trả nhưng không còn chủ nợ.
• Tài sản thừa doanh nghiệp được hưởng.
• Hoàn nhập dự phòng phải thu khó đòi và giảm giá hàng tồn kho.
• Tiền thu do khách hàng, đối tác vi phạm hợp đồng.
• Tiền thu nhượng bán, thanh lý tài sản cố định.

• Các khoản nợ khó đòi nay đòi được.
• Và các khoản thu nhập bất thường khác.
2.3.2. Chi ngân quỹ doanh nghiệp
Cũng giống như thu ngân quỹ, những khoản chi ngân quỹ bao gồm: thực
chi cho hoạt động sản xuất kinh doanh, thực chi cho hoạt động tài chính và
thực chi cho hoạt động bất thường.
- Thực chi cho hoạt động tài chính gồm:
10
• Chi hoạt động đầu tư, tiền lỗ do kinh doanh, mua bán, chuyển nhượng
các loại chứng khoán.
• Chi trả vốn gốc ngân hàng.
• Lỗ do chênh lệch tỷ giá.
• Chi phí tham gia góp vốn liên doanh và tiền về lỗ góp vốn liên doanh.
• Chi phí khác của hoạt động tài chính.
- Thực chi cho hoạt động sản xuất kinh doanh:
• Chi tiền mua hàng trong kỳ: tức là khoản thực chi mua hàng hay trả
trước tiền hàng trong kỳ.
• Chi mua hàng kỳ trước: nếu trong kỳ trước doanh nghiệp được nhà
cung cấp cấp cho một khoản tín dụng thương mại thì kỳ này khi đến hạn
doanh nghiệp phải thanh toán cho nhà cung cấp khoản tiền đó. Khoản này
được coi là khoản chi tiền hàng kỳ trước và là một khoản thực chi cho hoạt
động sản xuất kinh doanh.
• Chi đầu tư cơ bản (chi đầu tư tài sản cố định).
• Trả lãi vay ngân hàng.
• Chi tiền thanh toán cho tiền lương, các chi phí quản lý, chi phí bán
hàng và chi phí thuê ngoài.
• Chi thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước (thuế, phí và lệ phí).
- Thực chi cho hoạt động bất thường:
Hoạt động bất thường là những hoạt động mà doanh nghiệp không dự
kiến trước được thực hiện trong kỳ kinh doanh, trong doanh nghiệp phát sinh

những khoản thực chi bất thường sau:
• Chi phí thanh lý nhượng bán tài sản cố định kể cả giá trị còn lại.
• Tiền doanh nghiệp phải nộp phạt do vi phạm cam kết hợp đồng.
• Tiền phải nộp phạt và bị truy thu thuế.
• Các khoản mất tài sản doanh nghiệp chịu.
Hiểu được nội dung các khoản thực thu và thực chi ngân quỹ chỉ là bước
đầu của công tác quản lý ngân quỹ và nó giúp cho doanh nghiệp dự toán được
các khoản thực thu và thực chi ngân quỹ, từ đó giúp các nhà quản lý tài chính
trong doanh nghiệp dự toán được mức tồn quỹ. Trước khi xác định mức tồn
quỹ tối ưu, các nhà quản lý tài chính phải dự toán được nhu cầu tiền trong kỳ
11
tới. Từ đó, kết hợp với mức tồn quỹ tối ưu đã tính được họ sẽ lập kế hoạch
quản lý ngân quỹ cho kỳ kinh doanh tiếp theo.
2.3.3. Dự toán nhu cầu tiền
Trước hết chúng ta phải dự toán được tiền thu vào ngân quỹ. Tiền thu
vào ngân quỹ của doanh nghiệp bắt nguồn từ doanh thu bán hàng, được dự
toán theo các tháng, quý của năm. Mỗi khách hàng được doanh nghiệp đề ra
thời gian trả tiền trung bình khác nhau. Phần lớn các doanh nghiệp đều cố
gắng xác định thời gian trung bình để khách hàng trả tiền đầy đủ cho doanh
nghiệp.
Dựa vào đó người ta có thể dự đoán được bao nhiêu phần trăm doanh thu
trong quý sẽ chuyển thành tiền và bao nhiêu phần trăm sẽ được chuyển thành
tiền của quý sau. Từ đó chúng ta có công thức xác định các khoản phải thu
của khách hàng trong quý như sau:
Các khoản phải
thu cuối quý
=
Các khoản phải
thu đầu quý
+

Doanh thu
trong quý
-
Tiền bán hàng đã
thu được trong quý
Sau khi dự toán được tiền thu vào ngân quỹ, nhiệm vụ tiếp theo là cần dự
toán được những khoản chi ra từ ngân quỹ. Nội dung của các khoản thực chi
ngân quỹ đã được trình bày ở trên. Qua việc dự toán nhu cầu tiền nhà quản lý
sẽ thấy được ngân quỹ dự toán của doanh nghiệp sẽ thặng dư hay thâm hụt so
với mức tồn quỹ tối ưu để ra quyết định doanh nghiệp có nên vay thêm hay
không? Nếu có vay thì sẽ vay bao nhiêu đẻ đáp ứng nhu cầu tiền trong từng
quý.
Việc dự toán nhu cầu tiền trong doanh nghiệp ít nhiều còn có những yếu
tố không chắc chắn, vì nội dung vẫn mang tính dự toán. Do vậy, khó có thể
dự toán nhu cầu tiền một cách chính xác. Tuy nhiên nó cũng giúp cho các nhà
tài chính chủ động bố trí và xắp xếp các khoản thu chi trong từng thời kỳ hoạt
động.
12
2.3.4. Xác định mức tồn quỹ tối ưu
Doanh nghiệp phải thường xuyên nghiên cứu thị trường, phát hiện ra nhu
cầu thị trường và tìm ra khả năng thế mạnh của mình, từ đó xây dựng kế
hoạch sản xuất kinh doanh, chiến lược phát triển trong tương lai cũng như đề
ra mục tiêu, phương hướng phát triển trong tương lai.
Phương pháp thường dùng để xác định mức tồn quỹ tối ưu là lấy mức
xuất quỹ trung bình hàng ngày nhân với số lượng ngày dự trữ tồn quỹ.
Người ta cũng có thể sử dụng phương pháp tổng chi phí tối thiếu trong
quản trị vốn tồn kho dự trữ để xác định mức dự trữ vốn tiền mặt hợp lý của
doanh nghiệp. Bởi vì giả sử doanh nghiệp có một lượng tiền mặt và phải sử
dụng nó để đáp ứng các khoản chi tiêu tiền mặt một cách đều đặn. Khi lượng
tiền mặt đã hết, doanh nghiệp có thể bán các chứng khoán ngắn hạn (có tính

thanh khoản cao) để có được lượng tiền mặt như lúc đầu. Có hai loại chi phí
cần được xem xét khi bán chứng khoán: một là chi phí cơ hội của việc giữ
tiền mặt, đó chính là mức lợi tức chứng khoán doanh nghiệp bị mất đi; hai là
chi phí cho việc bán chứng khoán mỗi lần, đóng vai trò như là chi phí mỗi lần
thực hiện hợp đồng. Trong điều kiện đó mức dự trữ vốn tiền mặt tối đa của
doanh nghiệp chính bằng số lượng chứng khoán cần bán mỗi lần để có đủ
lượng vốn tiền mặt mong muốn bù đắp được nhu cầu chi tiêu tiền mặt.
Đặc biệt là doanh nghiệp phải xây dựng mức tồn quỹ tối ưu phù hợp
trong 2 trường hợp: doanh nghiệp dự đoán được tương đối chính xác các
khoản thực thu và thực chi của mình và doanh nghiệp không dự đoán được
chính xác.
a. Xác định mức tồn quỹ tối ưu trong trường hợp doanh nghiệp dự toán
được tương đối chính xác các khoản thực thu và thực chi ngân quỹ
Mô hình Baumol
13
Việc giữ tiền mặt trong quỹ là rất cần thiết để chi trả cho các hóa đơn
một cách đều đặn. Tuy nhiên dự trữ của doanh nghiệp cũng phát sinh những
chi phí nhất định. Có thể chia chi phí dự trữ ra làm hai loại: chi phí cơ hội và
chi phí đặt hàng.
- Chi phí cơ hội bao gồm: Chi phí của vốn đầu tư bỏ vào dự trữ và các chi
phí khác. Khi đó chi phí cơ hội cận biên là chi phí cơ hội mà doanh nghiệp
phải bỏ ra để dự trữ thêm một đơn vị sản phẩm. Khi tăng thêm một đơn vị sản
phẩm thì mức dự trữ bình quân tăng lên là 0,5 sản phẩm. Như vậy chi phí cơ
hội cận biên là:
Chi phí cơ hội cận biên =
- Chi phí đặt hàng: Là khoản chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để thực
hiện một lần đặt hàng. Nếu quy mô mỗi lần đặt hàng tăng lên sẽ làm tổng chi
phí đặt hàng của doanh nghiệp giảm xuống. Mức giảm đi của tổng chi phí đặt
hàng sẽ phụ thuộc vào quy mô đặt hàng bình quân.
Tổng chi phí đặt

hàng
=
Số lượng hàng bán
ra trong năm
x
Chi phí cho 1 lần
đặt hàng
Quy mô 1 lần đặt hàng
Mức giảm cận biên
của chi phí đặt hàng
=
Số lượng hàng bán
ra trong năm
x
Chi phí cho 1 lần
đặt hàng
(Quy mô 1 lần đặt hàng)
2
Như vậy nếu doanh nghiệp tăng quy mô cho mỗi lần đặt hàng sẽ xuất
hiện hai tác động:
14
• Tác động thứ nhất: chi phí cơ hội tăng lên do mức dự trữ bình quân
tăng lên.
• Tác động thứ hai: chi phí đặt hàng giảm đi do số lần đặt hàng giảm đi.
Do đó, quy mô đặt hàng tối ưu sẽ là điểm mà tại đó hai tác động trên loại
trừ lẫn nhau một cách hoàn toàn có nghĩa là:
Mức giảm cận biên của chi phí đặt hàng = Chi phí cơ hội cận biên

=
Gọi quy mô lần đặt hàng tối ưu là Q ta có:

Q =
Theo giả định ban đầu, toàn bộ tiền nhàn rỗi sau khi đã tính lượng tiền
dự trữ hợp lý được đầu tư toàn bộ vào tín phiếu kho bạc nên áp dụng trường
hợp này ta suy ra được công thức tính lượng tiền dự trữ tối ưu như sau:
Q =
Theo mô hình này, tỷ lệ lợi tức càng cao thì mức dự trữ tiền mặt càng
thấp. Nói chung khi lãi suất càng cao thì người ta giữ tiền mặt ít hơn. Mặt
khác nếu nhu cầu sử dụng tiền mặt của doanh nghiệp nhiều hoặc chi phí bán
15
các tín phiếu kho bạc cao thì doanh nghiệp có xu hướng giữ tiền mặt nhiều
hơn.
b. Xác định mức tồn quỹ tối ưu trong trường hợp doanh nghiệp không dự
toán được chính xác các khoản thực thu và thực chi ngân quỹ
Làm thế nào để doanh nghiệp có thể quản lý được việc cân đối tiền mặt
của nó nếu doanh nghiệp không thể dự đoán được mức thu chi ngân quỹ hàng
ngày? Mô hình Miller-orr đưa ra một cách thức quản lý tiền mặt hiêu quả
trong trường hợp này :
Nhìn sơ đồ trên , mức tồn quỹ dao động lên xuống và không thể dự toán
được cho đến khi đạt được giới hạn trên. Doanh nghiệp sẽ can thiệp bằng
cách sử dụng số tiền vượt quá mức so với mức tồn quỹ thiết kế để đầu tư vào
các chứng khoán hay đầu tư ngắn hạn khác và lúc đó, cân đối tiền trở về mức
thiết kế.
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cân
đối tiền lại tiếp tục dao động cho đến khi tụt xuống dưới giới hạn dưới là lúc
doanh nghiệp phải có sự bổ sung tiền để đáp ứng cho những hoạt động cần
thiết, chẳng hạn việc bán một lượng chứng khoán để đáp ứng nhu cầu tiền của
mình.
16
Mức cân đối tiền mặt
Mức tiền mặt

theo thiêt kế
Giới hạn trên
Giới hạn dưới
Thời gian
Sơ đồ 3: Quản lý ngân quỹ theo mô hình Miller-Orr
Như vậy, mô hình này cho phép quản lý ngân quỹ ở mức độ hoàn toàn tự
do. Khi mức tồn quỹ thực tế lớn hơn mức tồn quỹ thiết kế nhưng khi nó chưa
đạt được giới hạn trên thì doanh nghiệp chưa cần mua chứng khoán. Ngược
lại, khi mức tồn quỹ thực tế nhỏ hơn so với mức tồn quỹ theo thiết kế nhưng
chưa đạt đến giới hạn dưới của doanh nghiệp cũng chưa cần phải bán chứng
khoán để bổ sung ngân quỹ.
Theo mô hình Miller-Orr, khoảng dao động của mức cân đối tiền phụ
thuộc vào ba yếu tố được chỉ ra trong công thức:
Khoảng cách của giới hạn trên và giới hạn dưới của mức cân đối tiền:
= 3 X
Nhìn vào sơ đồ ta thấy mức ngân quỹ theo thiết kế không nằm chính
giữa giới hạn trên và giới hạn dưới.
Các doanh nghiệp thường xác định mức tồn quỹ theo thiết kế ở điểm một
phần ba khoảng cách kể từ giới hạn dưới lên giới hạn trên.
Mức tiền
theo thiết kế
=
Mức tiền mặt giới hạn
dưới
+
Khoảng dao động tiền mặt
3
Như vậy nếu doanh nghiệp duy trì mức cân đối tiền theo thiết kế doanh
nghiệp luôn tối thiểu hóa được tổng chi phí liên quan đến tiền trong ngân quỹ
là chi phí cơ hội (lãi suất) và chi phí giao dịch.

2.3.5. Lập kế hoạch quản lý Ngân Quỹ
a. Khi mức tồn quỹ thực tế lớn hơn mức tồn quỹ tối ưu hoặc đạt giới hạn
trên
17
Khi mức tồn quỹ của doanh nghiệp vượt quá mức tồn quỹ tối ưu hoặc
đạt giới hạn trên ( theo mô hình Miller-Orr), trong ngân quỹ của doanh nghiệp
sẽ có một khoản tồn quỹ nhàn rỗi. Nhà quản lý tài chính trong doanh nghiệp
sẽ làm gì với khoản tồn quỹ nhàn rỗi đó? Khi đó, nhà quản lý tài chính sẽ tìm
cách gia tăng khoản tồn quỹ nhàn rỗi. Doanh nghiệp có thể sử dụng một số
cách thức sau:
- Đầu tư chứng khoán dễ bán trên thị trường chứng khoán và các giấy tờ
có giá khác (tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, hợp đồng mua lại )
nhưng việc đầu tư phải luôn tuân thủ tuyệt đối nguyên tắc an toàn. Doanh
nghiệp tồn tại trên thương trường với danh nghĩa là khách hàng và nhà cung
cấp chứ không phải là nhà đầu cơ trên thị trường chứng khoán. Hoạt động đầu
tư vào lĩnh vực này tạo nên tính lỏng cho ngân quỹ thể hiện ở việc có thể trở
thành một trong những nguồn tài trợ cho nhu cầu tiền mặt dương ở kỳ nào đó
trong tương lai. Doanh nghiệp cần phải quản lý một danh mục đầu tư hợp lý
sao cho lợi nhuận thu được phải bù đắp được các rủi ro và mức lợi tức mong
muốn của doanh nghiệp.
- Góp vốn liên doanh với các đơn vị khác: Số tiền dùng để góp vốn này
phải là số tiền dư thừa với thời kỳ tương đối dài nhưng doanh nghiệp chưa có
kế hoạch đầu tư thích hợp. Khi thực hiện hoạt động này, doanh nghiệp cần
phải lựa chọn đơn vị an toàn, có uy tín.
- Cung cấp các khoản tín dụng thương mại cho người mua: là việc bán
hàng cho khách hàng nhưng không đòi hỏi thu tiền ngay. Doanh nghiệp cần
phải chú ý một số vấn đề sau:
• Khuyến khích cho các khách hàng trả sớm bằng cách cho họ hưởng một
mức chiết khấu hợp lý và định giá cao hơn cho những khách hàng muốn kéo
dài thời gian trả tiền.

• Thời kỳ tín dụng thương mại: là khoảng thời gian mà doanh nghiệp cho
phép khách hàng được chịu tiền thường khoảng 30 đến 90 ngày.
18
• Giấy tờ xác định khoản tín dụng thương mại: có thể là hoá đơn mua
hàng đã được người mua ký vào hoặc là thương phiếu được dùng làm những
cam kết tín dụng của người mua đối với người bán trước khi hàng hoá được
chuyển đến. Những giấy tờ này là những giấy tờ có giá thuộc các khoảntương
đương tiền của doanh nghiệp, Có thể dùng làm nguồn tài trợ cho nhu cầu tiền
mặt phát sinh dương bằng cách đem chiết khấu ở ngân hàng . Nói chung, mục
tiêu của việc đầu tư các khoản tiền dư thừa là phải đạt được khả năng sinh lời
tối đa trên cơ sở mức rủi ro đã được xác định trước.
b. Các nguồn tài trợ cho nhu cầu tiền mặt dương của doanh nghiệp
Khi ngân quỹ của doanh nghiệp phát sinh nhu cầu tiền mặt dương, cán
bộ quản lý quỹ cần phải tìm kiếm những nguồn tài trợ tạm thời cho nhu cầu
đó, đảm bảo khả năng thanh toán cho doanh nghiệp. Những nguồn tài trợ này
có thể được huy động theo những cách sau:
- Tín dụng thương mại: là tín dụng phát sinh một cách tự nhiên trong quá
trình mua bán hàng hoá, dịch vụ việc doanh nghiệp nhận chính sách tín dụng
thương mại của nhà cung cấp bằng cách ký vào hoá đơn mua hàng hay ký hối
phiếu, phát hành lệnh phiếu sẽ làm cho cân đối tiền mặt của ngân quỹ bớt
căng thẳng do doanh nghiệp không cần phải chi ngay các khoản tiền mua
hàng. Tuy nhiên tài trợ cho ngân quỹ bằng cách này, doanh nghiệp phải rất
thận trọng vì khoản tiền doanh nghiệp trì hoãn chi trả trong quý này rất có thể
trở thành gánh nặng cho ngân quỹ ở các quý sau.
- Tín dụng ngân hàng : là khoản tín dụng mà doanh nghiệp yêu cầu ngân
hàng cung cấp để đáp ứng cho nhu cầu tiền mặt phát sinh trong kỳ tới. Những
khoản tài trợ từ phía ngân hàng có thể theo hai phương thức sau: vay theo
món và vay luân chuyển với nhiều quy mô, thời hạn và các điều kiện đi kèm
như bảo đảm, số dư tối thiểu, cách hoàn trả nợ vay và các mức lãi suất
tương ứng. Như vậy chi phí của việc vay ngân hàng không chỉ là lãi suất mà

19
còn là chi phí cơ hội phát sinh do phải có các hình thức bảo đảm, phải có số
dư tối thiểu trên tài khoản thanh toán hay tài khoản nợ vay…
- Bán các chứng khoán dễ bán, giấy tờ có giá: các chứng khoán sẽ được
bán trên thị trường chứng khoán để trước hết là đáp ứng nhu cầu tiền mặt, thứ
đến là để thực hiện lợi nhuận cho những khoản đầu tư. Các giấy tờ có giá có
thể được bán trên thị trường tiền tệ như tín phiếu kho bạc hoặc đem đến
ngân hàng để chiết khấu đối với trường hợp thương phiếu.
Nếu hoạt động này vẫn chưa đáp ứng đủ cho nhu cầu tiền mặt, doanh
nghiệp sẽ phải chuyển sang huy động của các đối tượng khác . Có thể vay của
cán bộ công nhân viên hoặc bán các khoản nợ.
Khi quản lý ngân quỹ bao giờ nhà quản lý tài chính cũng mong muốn
với những chi phí nhất định doanh nghiệp được đảm bảo khả năng thanh toán
tại mọi thời điểm nhưng không để tiền nhàn rỗi quá nhiều. Muốn biết kết quả
đạt được từ quản lý ngân quỹ có tương xứng với những chi phí mà doanh
nghiệp bỏ ra để thực hiện hoạt động này hay không, nhà quản lý tài chính
phải xem xét tính hiệu quả của quản lý ngân quỹ.
3. Quản lý tiền mặt
3.1. Lý do phải giữ tiền mặt và lợi thế của việc giữ đủ tiền mặt
3.1.1. Lý do phải giữ tiền mặt
Theo John Maynard Keynes trong tác phẩm nổi tiếng “Lý Thuyết Tổng
Quát về Nhân Dụng, Tiền Lời và Tiền Tệ” có nêu ra 3 lý do hay 3 động cơ để
giữ tiền mặt:
- Động cơ giao dịch: Nhằm đáp ứng các nhu cầu giao dịch như chi trả tiền
mua hàng, tiền lương, thuế, cổ tức,… trong quá trình hoạt động bình thường
của công ty.
20
- Động cơ đầu cơ: Nhằm sẵn sàng nắm bắt những cơ hội đầu tư thuận lợi
trong kinh doanh như mua nguyên liệu dữ trữ khi giá thị trường giảm, hoặc
khi tỷ giá biến động thuận lợi.

- Động cơ dự phòng: Nhằm duy trì khả năng đáp ứng nhu cầu chi tiêu khi
có những biến cố bất ngờ xảy ra ảnh hưởng đến hoạt động thu chi bình
thường của công ty, chẳng hạn do ảnh hưởng của yếu tố thời vụ khiến công ty
phải chi tiêu nhiều cho việc mua hàng dự trữ trong khi tiền thu bán hàng chưa
thu hồi kịp.
Trong đó, khái niệm tiền mặt ở đây hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tiền
mặt tại quỹ của công ty, tiền gửi ngân hàng còn các loại chứng khoán đầu tư
ngắn hạn xem như là tài sản tương đương tiền mặt.
3.1.2. Lợi thế của việc giữ đủ tiền mặt
Các lý thuyết tài chính doanh nghiệp nói rằng mỗi doanh nghiệp nên có
một mức tiền mặt thích hợp cho doanh nghiệp mình, một lượng đủ để thanh
toán lãi vay, các chi phí và chi tiêu vốn, ngoài ra còn phải dự trữ thêm một ít
nữa để doanh nghiệp kịp xử lý trong những tình huống khẩn cấp. Nhà đầu tư
có thể tính toán chỉ số thanh toán hiện hành và chỉ số thanh toán nhanh của
doanh nghiệp để xác định khả năng doanh nghiệp có thể đáp ứng các nghĩa vụ
tài chính đến hạn hay không? Dĩ nhiên là các nghĩa vụ này phải trả bằng tiền
mặt.
Theo lý luận, nếu doanh nghiệp có bất cứ một lượng tiền mặt nào cao
hơn mức cần thiết đó thì lượng tiền mặt đó nên được phân phối lại cho các cổ
đông thông qua cổ tức hoặc mua lại cổ phần. Sau đó, nếu các nhà quản trị tìm
thấy các cơ hội đầu tư mới, họ có thể ra thị trường vốn phát hành cổ phần để
huy động lượng vốn cần thiết.
Thực tế thì việc doanh nghiệp có nhiều tiền mặt cũng có những điểm tốt.
Nhà đầu tư không phải là người bên trong doanh nghiệp nên thông thường
21
nếu nhìn thấy khoản mục tiền mặt trên bảng cân đối kế toán nhiều bao giờ
cũng yên tâm hơn so với các doanh nghiệp có lượng tiền mặt ít hơn. Nhất là
khi qua các quý, hoặc qua các năm, lượng tiền mặt tăng lên đều đặn và ổn
định, nó là một tín hiệu cho thấy doanh nghiệp đang hoạt động rất tốt, đang
phát triển rất mạnh. Tuy nhiên, việc để tiền mặt trong doanh nghiệp quá nhiều

luôn tốn chi phí gọi là chi phí cơ hội. Chi phí cơ hội của tiền mặt trong trường
hợp này được hiểu là sự khác nhau giữa lãi suất có được khi nắm giữ tiền mặt
(tiền gửi không kỳ hạn ở ngân hàng cũng được xem như tiền mặt) và cái giá
phải trả để giữ tiền mặt, đó chính là chi phí sử dụng vốn bình quân của doanh
nghiệp WACC. Nếu một doanh nghiệp khi đầu tư vào một dự án mới hoặc
mở rộng sản xuất có khả năng tạo ra tỷ suất sinh lời trên vốn cổ phần là 20%,
thì chi phí cơ hội của việc nắm giữ tiền mặt thật sự là đắt. Bởi lãi suất cho tiền
gửi không kỳ hạn khó lòng đạt tới 10%.
Do đó việc nắm giữ tiền mặt trong doanh nghiệp là cần thiết và có những
lợi thế sau:
- Đảm bảo khả năng thanh toán: Nhờ có sẵn tiền công ty không để bị rơi
vào tình trạng mất khả năng toán dẫn tới phá sản.
- Hưởng chiết khấu thương mại: Nhờ có sẵn tiền, công ty có thể tận dụng
chiết khấu do nhà cung cấp đưa ra do đó làm giảm chi phí mua yếu tố đầu
vào.
- Duy trì hạn mức tín dụng: Mức xếp hạn tín dụng của công ty có thể chịu
ảnh hưởng của mức tiền mà công ty đang nắm giữ. Giữ mức tiền thấp quá
mức dẫn đến hạn mức tín dụng có thể bị sụt giảm.
- Đáp ứng nhu cầu ngoài dự kiến.
- Khai thác các cơ hội kinh doanh: Nhờ có sẵn tiền, công ty có thể tận
dụng những cơ hội đặc biệt như sụt giá tạm thời hay dự đoán tăng giá mạnh
trong tương lai.
3.2. Mô hình quản lý tiền mặt
22
3.2.1. Mô hình quản lý tiền mặt EOQ
Mô hình tồn trữ tiền mặt tối ưu EOQ – mô hình Baumol: phát triển từ
mô hình lượng đặt hàng tối ưu, mô hình có mục tiêu tối thiểu hóa các chi tiết
bao gồm chi phí giao dịch bán chứng khoán thu về tiền mặt và chi phí cơ hội
của việc nắm giữ tiền mặt.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp phải tính toán mức

tiền mặt dự trữ hợp lý và hiệu quả nhất sao cho chi phí cơ hội của doanh
nghiệp là nhỏ nhất, đồng thời doanh nghiệp gặp ít rủi ro trong thanh toán
nhất. Vì vậy, doanh nghiệp sẽ thường tìm cách đầu tư số tiền mặt nhàn rỗi vào
hình thức đầu tư ít rủi ro nhất là đầu tư vào tín phiếu kho bạc.
Sơ đồ 4: Tổng chi phí giữ tiền mặt
23
Mức dự trữ tiền mặt tối ưu khi:
Chi phí giao dịch = Chi phí cơ hội của dự trữ tiền
Khi dự trữ tiền mặt, doanh nghiệp sẽ mất cơ hội phí, tức là mất lãi suất,
chi phí này tương đương với chi phí tồn trữ hàng tồn kho trong quản trị hàng
tồn kho.
Khi hết tiền trong ngân quỹ doanh nghiệp mới đem bán tín phiếu nên tại
thời điểm đó, lượng dự trữ bằng 0. Khi doanh nghiệp bán tín phiếu, doanh
nghiệp có lượng tiền dự trữ tính toán. Như đã được đề cập ở trên, lượng tiền
dự trữ bình quân trong doanh nghiệp được xác định như sau:
Gọi S là tổng thanh toán bằng tiền mặt hàng năm. Q
*
là số lượng trái phiếu
kho bạc bán mỗi lần để bổ sung vào số dư tiền mặt.
Q
*
=

24
Ví dụ: Có tổng số tiền mặt chi trả trong năm của một doanh nghiệp là:
1.260.000$ hay là 105.000$ mỗi tháng. Giả sử lãi suất trái phiếu kho bạc là
8%/năm. Mỗi lần bán chứng khoán để gia tăng tiền mặt, doanh nghiệp phải
tốn chi phí giao dịch là 20$. Q
*
tối ưu sẽ là:

Q
*
=
Như vậy, doanh nghiệp sẽ bán mỗi lần là 25.000$ trái phiếu kho bạc cho
mỗi tuần và 4 lần trong một tháng. Số dư tiền mặt bình quân là 25.000/2 hay
12.500$.
Mô hình Baumol cho thấy nếu lãi suất cao, doanh nghiệp sẽ nắm giữ số
dư bình quân tiền mặt thấp hơn và do đó làm cho doanh số bán trái phiếu kho
bạc nhỏ hơn nhưng với tần suất bán nhiều hơn (nghĩa là Q* thấp hơn). Mặt
khác, nếu giá phải trả cho mỗi lần bán trái phiếu cao thì doanh nghiệp nên
nắm giữ một số dư tiền mặt lớn hơn.
Các nhà quản trị mong muốn tối thiểu hóa các chi phí, bao gồm chi phí
giao dịch bán chứng khoán thu tiền mặt về và chi phí cơ hội do việc nắm giữ
tiền mặt. Tổng chi phí cho việc tồn quỹ tiền mặt sẽ gồm: chi phí giao dịch và
chi phí cơ hội của tiền mặt tồn quỹ. Mô hình Baumol giả định rằng:
- Doanh nghiệp định kỳ nhận được một lượng tiền mặt nhất định, nhưng
đồng thời cũng phải liên tục chi tiền ra, theo một tỷ lệ ổn định.
- Nhu cầu tiền mặt trong một kỳ đoạn cụ thể (tháng, quý, năm) của Công
ty có thể dự báo trước một cách chính xác.
- Khi số dư tiền mặt ban đầu giảm xuống bằng không, hay ở mức an toàn
tối thiểu, thì số dư tiền mặt lập tức sẽ được tăng lên do việc bán ra chứng
khoán với khối lượng xác định nhằm đạt được số dư tiền mặt ban đầu.
25

×