Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ VÀ THU HÚT VỐN ODA NHẬT BẢN VÀO PHÁT TRIỂN CẢNG BIỂN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.72 KB, 54 trang )

Đề án môn học: Kinh tế quốc tế GVHD: Trần Văn Nghiệp
MỤC LỤC
SVTH: Nguyễn Trung Anh – Lớp 37K01.1 1
Đề án môn học: Kinh tế quốc tế GVHD: Trần Văn Nghiệp
Đề tài: HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ VÀ THU HÚT VỐN ODA NHẬT BẢN VÀO
PHÁT TRIỂN CẢNG BIỂN VIỆT NAM
LỜI MỞ ĐẦU
Hội nghị Nhóm tư vấn Các nhà tài trợ Việt Nam diễn ra tháng 11 năm 1993 tại
Paris (Pháp) mở ra một trang sử mới, một bước ngoặt trong quan hệ hợp tác phát triển của
Việt Nam với cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế (bao gồm các quốc gia và tổ chức). Kể từ
đó, nguồn vốn Hỗ trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance – ODA) đã
trở thành một nguồn lực quan trọng không thể thiếu trong sự phát triển kinh tế xã hội của
đất nước ta. Nguồn vốn ODA đã góp phần làm đổi thay diện mạo đất nước, cải thiện môi
trường đầu tư và nâng cao nguồn nhân lực. Từ đó, nước ta đã đạt được những thành công
ấn tượng. Nếu như trước Đổi mới, nền kinh tế chúng ta yếu kém, lạm phát phi mã (700%-
800%/năm) thì nay sau 20 năm Đổi mới và mở cửa thu hút đầu tư, năm 2010 chúng ta đã
thoát khỏi danh sách các nước có thu nhập thấp, gia nhập vào hàng ngũ các nước có thu
nhập trung bình thấp. Mức tăng trưởng kinh tế hằng năm thuộc nhóm cao và là một trong
số ít các nước nhanh chóng vươt qua khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế. Điều đó đã chứng
minh đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, trong đó có chính sách thu
hút vốn đầu tư và tiếp nhận vốn tài trợ ODA.
Nguồn vốn ODA cam kết tính cả số vốn cam kết tại Hội nghị Nhóm tư vấn Các
nhà tài trợ 2010 diễn ra tháng 12 vừa qua lên tới 64 tỷ USD . Đây là một con số khá ấn
tượng và đặc biệt hơn Nhật Bản vẫn là quốc gia có số vốn cam kết hỗ trợ lớn nhất. Vốn
ODA Nhật Bản đã vào Việt Nam từ năm 1992 và đến nay lượng vốn đó không ngừng
tăng, Nhật Bản và Việt Nam đã có nhiều ký kết về vấn đề này để sự hợp tác ngày càng đạt
hiệu quả cao hơn. Nhìn lại chặng đường gần 20 năm tiếp nhận vốn ODA từ Nhật Bản,
chúng ta nhận thấy nguồn vốn Hỗ trợ phát triển chính thức của Nhật Bản đã góp phần rất
lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Thế kỷ 21 được coi là thế kỷ của biển, các quốc gia có biển đều xây dựng chiến
lược khai thác biển cho mình. VN đã trở thành thành viên chính thức của WTO, vì vậy


SVTH: Nguyễn Trung Anh – Lớp 37K01.1 2
Đề án môn học: Kinh tế quốc tế GVHD: Trần Văn Nghiệp
chiến lược phát triển kinh tế biển của nước ta cần bao quát những vấn đề cơ bản để phát
triển cơ sở hạ tầng cảng biển cũng như thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư từ
nước ngoài, đặc biệt là nguồn vốn ODA từ Nhật Bản đóng một vai trò quan trọng trong sự
phát triển ngành hàng hải Việt Nam. Từ thực tiễn đó, em tiến hành thực hiện đề tài: “Hiệu
quả đầu tư và thu hút vốn ODA Nhật Bản vào phát triển cảng biển Việt Nam”.
Mục đích nghiên cứu:
Phân tích, làm rõ tác động của ODA Nhật Bản đối với sự phát triển cảng biển Việt
Nam.
Đề tài sẽ nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về ODA nói chung và về ODA của Nhật
Bản nói riêng, phân tích vai trò của nguồn vốn này tới phát triển kinh tế xã hội Việt Nam
trên lĩnh vực vận tải cảng biển theo những chính sách ưu tiên đầu tư của Nhật Bản cho
Việt Nam.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hiệu quả đầu tư và thu hút vốn ODA vào phát
triển cảng biển Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Tác động của ODA Nhật Bản tới sự phát triển kinh tế xã hội
là một vấn đề rộng, Bài nghiên cứu khoa học chỉ đi sâu vào một số vấn đề chính như: tác
động của ODA Nhật Bản tới phát triển cơ sở hạ tầng cảng biển, tăng cường hội nhập
ngành hàng hải Việt Nam ra quốc tế, đào tạo nguồn nhân lực, thúc đẩy đầu tư trực tiếp và
mở rộng đầu tư nước ngoài…
Từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều tổ chức quốc tế và các quốc gia khác,
Việt Nam đã thu hút được nhiều nguồn vốn ODA quan trọng dưới nhiều hình thức đầu tư
và hợp tác góp phần quan trọng trong phát triển hạ tầng kinh tế xã hội. Đặc biệt, Nhật Bản
là một nước sớm nối lại quan hệ và đầu tư vào Việt Nam (năm 1992), hơn thế nữa nguồn
vốn ODA của Nhật Bản vào Việt Nam chiếm tới 30% tổng vốn ODA vào Việt Nam.
Chính vì vậy, phạm vi nghiên cứu của đề tài là khoảng 10 năm trở lại đây.
Phương pháp nghiên cứu:
SVTH: Nguyễn Trung Anh – Lớp 37K01.1 3

Đề án môn học: Kinh tế quốc tế GVHD: Trần Văn Nghiệp
Bài nghiên cứu sử dụng hệ thống phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác Lê-nin, cụ
thể là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp tổng hợp so sánh
và phương pháp thống kê số liệu để xử lý số liệu.
Bố cục đề án
Từ những mục tiêu và phạm vi nghiên cứu nói trên, để giải quyết tốt các nhiệm vụ
đề ra, đề án được trình bày gồm ba chương:
CHƯƠNG 1: Tổng quan về ODA.
CHƯƠNG 2: Tình hình viện trợ ODA của Nhật Bản vào phát triển cảng biển Việt
Nam, tác động của nó đến nền kinh tế Việt Nam.
CHƯƠNG 3: Các giải pháp nhằm thu hút đầu tư và sử dụng hiệu quả nguồn vốn
ODA của Nhật Bản vào phát triển cảng biển Việt Nam
1. Chương 1: Tổng quan về ODA.
1.1 Khái niệm
ODA là các gọi tắt của Official Development Assistance, có nghĩa là Viện trợ phát
triển chính thức.
Hỗ trợ phát triển chính thức là một hình thức đầu tư nước ngoài. Gọi là Hỗ trợ bởi
vì các khoản đầu tư này thường là các khoản cho vay không lãi suất hoặc lãi suất thấp với
thời gian vay dài. Đôi khi còn gọi là viện trợ. Gọi là Phát triển vì mục tiêu danh nghĩa của
các khoản đầu tư này là phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi ở nước được đầu tư. Gọi là
Chính thức, vì nó thường là cho Nhà nước vay.
Vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA đã ra đời và hình thành trong một thời gian
dài và có nhiều đóng góp tích cực cho phát triển của nhiều quốc gia và khu vực trên thế
giới. Thuật ngữ ODA được dùng chính thức lần đầu tiên vào năm 1961 trong bản báo cáo
của tổ chức DAC nhưng cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất nguồn vốn
ODA. Mỗi tổ chức, mỗi quốc gia lại có những định nghĩa khác nhau về nguồn vốn này:
- Theo Báo cáo nghiên cứu chính sách của Ngân hàng Thế giới (WB) xuất bản tháng
6/1999 có đưa ra định nghĩa về ODA như sau: ODA là một phần của tài chính phát triển
SVTH: Nguyễn Trung Anh – Lớp 37K01.1 4
Đề án môn học: Kinh tế quốc tế GVHD: Trần Văn Nghiệp

chính thức ODF (Tài trợ phát triển chính thức Offcial Development Finance, viết tắt là
ODF) là tất cả các nguồn tài chính mà chính phủ các nước phát triển và các tổ chức đa
phương dành cho các nước đang phát triển), trong đó có yếu tố viện trợ không hoàn lại
cộng với cho vay ưu đãi và phải chiếm ít nhất 25% trong tổng viện trợ thì gọi là ODA.
- Tại Việt Nam, theo Quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức
ban hành kèm theo Nghị định 131/2006/NĐ-CP ngày 09/11/2006 của Chính Phủ thì ODA
được định nghĩa như sau: “Hỗ trợ phát triển chính thức (gọi tắt là ODA) được hiểu là hoạt
động hợp tác phát triển giữa Nhà nước hoặc Chính Phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam với Nhà tài trợ là Chính phủ nước ngoài, các tổ chức tài trợ song phương và các
tổ chức liên quốc gia hoặc liên chính phủ”.
Vì vậy, có thể hiểu một cách chung nhất: Viện trợ phát triển chính thức (ODA) là
tất cả các khoản viện trợ không hoàn lại và các khoản tín dụng ưu đãi của chính phủ, các
tổ chức tài chính quốc tế, các tổ chức của Liên hợp quốc, các tổ chức phi chính phủ dành
cho nước nhận viện trợ nhằm hỗ trợ sự phát triển của nước này.
1.2 Đặc điểm của vốn đầu tư ODA
1.2.1 Ưu điểm:
1.2.1.1 Vốn ODA mang tính chất ưu đãi:
- Khối lượng vốn vay lớn từ hàng chục đến hàng trăm triệu USD. Theo công hàm trao đổi
giữa Đại sứ quán Nhật Bản và Bộ Kế hoạch - Đầu tư, trong nửa đầu năm tài khóa 2009
(năm tài khóa 2009 kéo dài từ 01/04/2009 đến 31/03/2010), Nhật Bản cung cấp cho Việt
Nam nguồn vốn vay phát triển chính thức (ODA) trị giá 65 tỷ yên, tương đương với 650
triệu USD)
- Các khoản vay thường có lãi suất thấp, thậm chí không có lãi suất. Lãi suất giao động từ
0,5% đến 5%/năm (trong khi lãi suất vay trên thị trường tài chính quốc tế là trên 7%/năm
và hàng năm phải thoả thuận lại lãi suất giữa hai bên).
Lãi suất của ODA Nhật bản dành cho Việt Nam thông thường là dưới 1%, và lãi
suất 0,2% là mức ưu đãi đặc biệt, ngoài ra còn có các mức lãi suất như 1,1%, 1,3%,
0,75%,…
SVTH: Nguyễn Trung Anh – Lớp 37K01.1 5
Đề án môn học: Kinh tế quốc tế GVHD: Trần Văn Nghiệp

- Vốn ODA có thời gian cho vay (hoàn trả vốn) dài, có thời gian ân hạn dài (25-40 năm
mới phải hoàn trả và thời gian ân hạn 8-10 năm). Chẳng hạn, vốn ODA của WB, ADB,
JBIC có thời gian hoàn trả là 40 năm và thời gian ân hạn là 10 năm. Năm 2009, Nhật Bản
cung cấp nguồn vốn ODA cho dự án tăng cường năng lượng hiệu quả của Việt Nam với
lãi suất 0,25%, thời hạn 40 năm và 10 năm ân hạn
- Trong nguồn vốn ODA luôn có một phần viện trợ không hoàn lại, thấp nhất là 25% của
tổng số vốn ODA. Đây cũng chính là điểm phân biệt giữa viện trợ và cho vay thương mại.
Thành tố cho không được xác định dựa vào thời gian cho vay, thời gian ân hạn và so sánh
lãi suất viện trợ với mức lãi suất tín dụng thương mại. Sự ưu đãi ở đây là so sánh với tập
quán thương mại quốc tế.
Sự ưu đãi còn thể hiện ở chỗ vốn ODA chỉ dành riêng cho các nước đang và chậm
phát triển, vì mục tiêu phát triển. Có hai điều kiện cơ bản nhất để các nước đang và chậm
phát triển có thể nhận được ODA là:
- Điều kiện thứ nhất: tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người là thấp. Nước có
GDP bình quân đầu người càng thấp thì thường được tỷ lệ viện trợ không hoàn lại của
ODA càng lớn và khả năng vay với lãi suất thấp và thời hạn ưu đãi càng lớn.
- Điều kiện thứ hai: Mục tiêu sử dụng vốn ODA của các nước này phải phù hợp với chính
sách và phương hướng ưu tiên xem xét trong mối quan hệ giữa bên cấp và bên nhận
ODA. Thông thường các nước cung cấp ODA đều có những chính sách và ưu tiên riêng
của mình, tập trung vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay có khả năng kỹ thuật và tư
vấn. Đồng thời, đối tượng ưu tiên của các nước cung cấp ODA cũng có thể thay đổi theo
từng giai đoạn cụ thể. Vì vậy, nắm bắt được xu hướng ưu tiên và tiềm năng của các nước,
các tổ chức cung cấp ODA là rất cần thiết.
Về thực chất, ODA là sự chuyển giao có hoàn lại hoặc không hoàn lại trong những
điều kiện nhất định một phần tổng sản phẩm quốc dân từ các nước phát triển sang các
nước đang phát triển. Do vậy, ODA rất nhạy cảm về mặt xã hội và chịu sự điều chỉnh của
dư luận xã hội từ phía nước cung cấp cũng như từ phía nước tiếp nhận ODA.
SVTH: Nguyễn Trung Anh – Lớp 37K01.1 6
Đề án môn học: Kinh tế quốc tế GVHD: Trần Văn Nghiệp
1.2.1.2 Vốn ODA mang yếu tố chính trị.

Các nước viện trợ nói chung đều không quên dành được lợi ích cho mình, vừa gây
ảnh hưởng chính trị, vừa thực hiện xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tư vấn vào nước tiếp
nhận viện trợ. Chẳng hạn, Bỉ, Đức và Đan Mạch yêu cầu khoảng 50% viện trợ phải mua
hàng hoá dịch vụ của nước mình. Canada yêu cầu tới 65%. Nhìn chung 22% viện trợ của
DAC phải được sử dụng để mua hàng hoá và dịch vụ của các quốc gia viện trợ.
Kể từ khi ra đời cho tới nay, viện trợ luôn chứa đựng hai mục tiêu cùng tồn tại
song song. Mục tiêu thứ nhất là thúc đẩy tăng trưởng bền vững và giảm nghèo ở các nước
đang phát triển. Động cơ nào đã thúc đẩy các nhà tài trợ đề ra mục tiêu này? Bản thân các
nước phát triển nhìn thấy lợi ích của mình trong việc hỗ trợ, giúp đỡ các nước đang phát
triển để mở mang thị trường tiêu thụ sản phẩm và thị trường đầu tư. Viện trợ thường gắn
với các điều kiện kinh tế xét về lâu dài, các nhà tài trợ sẽ có lợi về mặt an ninh, kinh tế,
chính trị khi kinh tế các nước nghèo tăng trưởng. Mục tiêu mang tính cá nhân này được
kết hợp với tinh thần nhân đạo, tính cộng đồng. Vì một số vấn đề mang tính toàn cầu như
sự bùng nổ dân số thế giới, bảo vệ môi trường sống, bình đẳng giới, phòng chống dịch
bệnh, giải quyết các xung đột sắc tộc, tôn giáo v.v đòi hỏi sự hợp tác, nỗ lực của cả cộng
đồng quốc tế không phân biệt nước giàu, nước nghèo. Mục tiêu thứ hai là tăng cường vị
thế chính trị của các nước tài trợ. Các nước phát triển sử dụng ODA như một công cụ
chính trị: xác định vị thế và ảnh hưởng của mình tại các nước và khu vực tiếp nhận ODA.
Ví dụ, Nhật Bản hiện là nhà tài trợ hàng đầu thế giới và cũng là nhà tài trợ đã sử dụng
ODA như một công cụ đa năng về chính trị và kinh tế. ODA của Nhật không chỉ đưa lại
lợi ích cho nước nhận mà còn mang lại lợi ích cho chính họ. Trong những năm cuối thập
kỷ 90, khi phải đối phó với những suy thoái nặng nề trong khu vực, Nhật Bản đã quyết
định trợ giúp tài chính rất lớn cho các nước Đông nam á là nơi chiếm tỷ trọng tương đối
lớn về mậu dịch và đầu tư của Nhật Bản, Nhật đã dành 15 tỷ USD tiền mặt cho các nhu
cầu vốn ngắn hạn chủ yếu là lãi suất thấp và tính bằng đồng Yên và dành 15 tỷ USD cho
SVTH: Nguyễn Trung Anh – Lớp 37K01.1 7
Đề án môn học: Kinh tế quốc tế GVHD: Trần Văn Nghiệp
mậu dịch và đầu tư có nhân nhượng trong vòng 3 năm. Các khoản cho vay tính bằng đồng
Yên và gắn với những dự án có các công ty Nhật tham gia.
Viện trợ của các nước phát triển không chỉ đơn thuần là việc trợ giúp hữu nghị mà

còn là một công cụ lợi hại để thiết lập và duy trì lợi ích kinh tế và vị thế chính trị cho các
nước tài trợ. Những nước cấp tài trợ đòi hỏi nước tiếp nhận phải thay đổi chính sách phát
triển cho phù hợp vơí lợi ích của bên tài trợ. Khi nhận viện trợ các nước nhận cần cân
nhắc kỹ lưỡng những điều kiện của các nhà tài trợ không vì lợi ích trước mắt mà đánh mất
những quyền lợi lâu dài. Quan hệ hỗ trợ phát triển phải đảm bảo tôn trọng toàn vẹn lãnh
thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
1.2.2 Bất lợi khi nhận ODA
Các nước giàu khi viện trợ ODA đều gắn với những lợi ích và chiến lược như mở
rộng thị trường, mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo mục tiêu về an ninh - quốc
phòng hoặc theo đuổi mục tiêu chính trị Vì vậy, họ đều có chính sách riêng hướng vào
một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay họ có lợi thế (những mục tiêu ưu tiên này thay đổi
cùng với tình hình phát triển kinh tế - chính trị - xã hội trong nước, khu vực và trên thế
giới).
1.2.2.1 Vốn ODA mang tính chất ràng buộc:
- Nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào thuế quan bảo hộ các ngành
công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu hàng hoá của nước tài trợ. Nước tiếp
nhận ODA cũng được yêu cầu từng bước mở cửa thị trường bảo hộ cho những danh mục
hàng hoá mới của nước tài trợ; yêu cầu có những ưu đãi đối với các nhà đầu tư trực tiếp
nước ngoài như cho phép họ đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng sinh lời cao.
- Nguồn vốn ODA từ các nước giàu cung cấp cho các nước nghèo cũng thường gắn với
việc mua các sản phẩm từ các nước này mà không hoàn toàn phù hợp, thậm chí là không
cần thiết đối với các nước nghèo. Ví như các dự án ODA trong lĩnh vực đào tạo, lập dự án
và tư vấn kỹ thuật, phần trả cho các chuyên gia nước ngoài thường chiếm đến hơn 90%
(bên nước tài trợ ODA thường yêu cầu trả lương cho các chuyên gia, cố vấn dự án của họ
SVTH: Nguyễn Trung Anh – Lớp 37K01.1 8
Đề án môn học: Kinh tế quốc tế GVHD: Trần Văn Nghiệp
quá cao so với chi phí thực tế cần thuê chuyên gia như vậy trên thị trường lao động thế
giới).
- Nguồn vốn viện trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch đặc biệt nhập khẩu
tối đa các sản phẩm của họ. Cụ thể là nước cấp ODA buộc nước tiếp nhận ODA phải chấp

nhận một khoản ODA là hàng hoá, dịch vụ do họ sản xuất.
- Nước tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA nhưng thông thường, các
danh mục dự án ODA cũng phải có sự thoả thuận, đồng ý của nước viện trợ, dù không
trực tiếp điều hành dự án nhưng họ có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc
hỗ trợ chuyên gia.
- Tác động của yếu tố tỷ giá hối đoái có thể làm cho giá trị vốn ODA phải hoàn lại tăng lên.
1.2.2.2 ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ:
Khi tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn ODA do tính chất ưu đãi nên gánh nặng nợ
thường chưa xuất hiện. Một số nước do không sử dụng hiệu quả ODA có thể tạo nên sự
tăng trưởng nhất thời nhưng sau một thời gian lại lâm vào vòng nợ nần do không có khả
năng trả nợ. Ngoài ra, tình trạng thất thoát, lãng phí; xây dựng chiến lược, quy hoạch thu
hút và sử dụng vốn ODA vào các lĩnh vực chưa hợp lý; trình độ quản lý thấp, thiếu kinh
nghiệm trong quá trình tiếp nhận cũng như xử lý, điều hành dự án… khiến cho hiệu quả
và chất lượng các công trình đầu tư bằng nguồn vốn này còn thấp, có thể đẩy nước tiếp
nhận ODA vào tình trạng nợ nần.
Vấn đề ở chỗ, vốn ODA không có khả năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất, nhất là
cho xuất khẩu trong khi việc trả nợ lại dựa vào xuất khẩu thu ngoại tệ. Bên cạnh đó nếu
không có những chính sách quản lý, sử dụng hợp lý, kích thích tiến độ và đảm bảo chất
lượng cho các dự án thì sẽ dẫn đến chất lượng của các dự án đầu tư bằng nguồn vốn hỗ
trợ này kém hiệu quả, lợi ích mang lại thấp. Do đó, có thể khiến các nước tiếp nhận nguồn
vốn rơi vào tình trạng nợ nần. Hơn thế, khối lượng vốn vay tuy có tính ưu đãi (lãi suất
thấp), nhưng tỷ giá giữa đồng tiền nước viện trợ và nước tiếp nhận viện trợ có thể tăng lên
khiến nước tiếp nhận viện trợ phải chịu thêm cả phần chênh lệch giữa tỷ giá hai nước.
SVTH: Nguyễn Trung Anh – Lớp 37K01.1 9
Đề án môn học: Kinh tế quốc tế GVHD: Trần Văn Nghiệp
Theo thông báo của Ngân hàng Nhà nước, tỷ giá tính chéo của VND so với JPY áp
dụng tính thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu có hiệu lực kể từ ngày 21/8 đến 31/8/2010 là
1 JPY = 221,48 VND. Trong khi đó, mức áp dụng tại thời điểm cuối năm 2009 (từ ngày
21/12 đến 31/12/2009) là 200,70 VND. Như vậy, tỷ giá tính chéo này đã tăng tới 10,35%
trong khoảng thời gian so sánh nói trên, góp phần làm tăng giá trị nợ thực của Việt Nam

với Nhật Bản(10).
Ở Việt Nam, tỷ lệ vay nợ so với thế giới còn thấp nhưng lại kém an toàn: tỷ lệ vay
nợ nước ngoài của Việt Nam chiếm 40% GDP (sắp vượt ngưỡng an toàn của Ngân hàng
Thế giới khuyến cáo là dưới 50% GDP).
Từ những phân tích về các đặc điểm của nguồn vốn ODA ở trên, ta có thế thấy
nguồn vốn ODA vừa mang tính nhân đạo - xã hội do có phần viện trợ không hoàn lại, tính
kinh tế do có phần lãi suất ưu đãi và tính chính trị do kèm theo các điều kiện ràng buộc.
Đồng thời ODA cũng không phải là một nguồn vốn cho không, mà là một một dạng vốn
cho vay có ưu đãi và phải trả nợ.
1.3 Vai trò của ODA đối với nền kinh tế Việt Nam
1.3.1 ODA là nguồn bổ sung vốn quan trọng cho đầu tư phát triển.
Sự nghiệp CNH, HĐH mà Việt Nam đang thực hiện đòi hỏi một khối lượng vốn
đầu tư rất lớn mà nếu chỉ huy động trong nước thì không thể đáp ứng được. Do đó, ODA
trở thành nguồn vốn từ bên ngoài quan trọng để đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát
triển. Trải qua hai cuộc chiến tranh những cơ sở hạ tầng kỹ thuật của chúng ta vốn đã lạc
hậu lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề hầu như không còn gì, nhưng cho đến nay hệ thống
kết cấu hạ tầng đã được phát triển tương đối hiện đại với mạng lưới điện, bưu chính viễn
thông được phủ khắp tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước, nhiều tuyến đường giao
thông được làm mới, nâng cấp, nhiều cảng biển, cụm cảng hàng không cũng được xây
mới, mở rộng và đặc biệt là sự ra đời của các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công
nghệ cao đã tạo ra một môi trường hết sức thuận lợi cho sự hoạt động của các doanh
nghiệp trong và ngoài nước. Bên cạnh đầu tư cho phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế
SVTH: Nguyễn Trung Anh – Lớp 37K01.1 10
Đề án môn học: Kinh tế quốc tế GVHD: Trần Văn Nghiệp
kỹ thuật một lượng lớn vốn ODA đã được sử dụng để đầu tư cho việc phát triển ngành
giáo dục, y tế, hỗ trợ phát triển ngành nông nghiệp …
ODA của Nhật Bản vẫn được coi là một nguồn vốn hết sức quý giá cho tiến trình
thực hiện công cuộc đổ mới kinh tế Việt Nam. Chính sách ODA của Nhật Bản trong
khoảng một thập kỷ qua về cơ bản là đáp ứng được sự mong muốn của Chính phủ và
nhân dân Việt Nam và nó đã hỗ trợ tích cực cho sự hợp tác lâu dài giữa Việt Nam và Nhật

Bản, đặc biệt trong các quan hệ ngoại giao và hợp tác kinh tế.
1.3.2 ODA giúp cho việc tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại và
phát triển nguồn nhân lực.
Một trong những yếu tố quan trọng góp phần đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất
nước đó là yếu tố khoa học công nghệ và khả năng tiếp thu những thành tựu khoa học tiên
tiến của đội ngũ lao động. Thông qua các dự án ODA các nhà tài trợ có những hoạt động
nhằm giúp Việt Nam nâng cao trình độ khoa học công nghệ và phát triển nguồn nhân lực
như: cung cấp các tài liệu kỹ thuật, tổ chức các buổi hội thảo với sự tham gia của những
chuyên gia nước ngoài, cử các cán bộ Việt Nam đi học ở nước ngoài, tổ chức các chương
trình tham quan học tập kinh nghiệm ở những nước phát triển, cử trực tiếp chuyên gia
sang Việt Nam hỗ trợ dự án và trực tiếp cung cấp những thiết bị kỹ thuật, dây chuyền
công nghệ hiện đại cho các chương trình, dự án. Thông qua những hoạt động này các nhà
tài trợ sẽ góp phần đáng kể vào việc nâng cao trình độ khoa học, công nghệ và phát triển
nguồn nhân lực của Việt Nam và đây mới chính là lợi ích căn bản, lâu dài đối với chúng
ta.
1.3.3 ODA giúp cho việc điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế.
Các dự án ODA mà các nhà tài trợ dành cho Việt Nam thường ưu tiên vào phát
triển cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật, phát triển nguồn nhân lực tạo điều kiện thuận lợi cho
việc phát triển cân đối giữa các ngành, các vùng khác nhau trong cả nước. Bên cạnh đó
còn có một số dự án giúp Việt Nam thực hiện cải cách hành chính nâng cao hiệu quả hoạt
SVTH: Nguyễn Trung Anh – Lớp 37K01.1 11
Đề án môn học: Kinh tế quốc tế GVHD: Trần Văn Nghiệp
động của các cơ quan quản lý nhà nước. Tất cả những điều đó góp phần vào việc điều
chỉnh cơ cấu kinh tế ở Việt Nam.
1.3.4 ODA góp phần làm tăng khả năng thu hút ODA và tạo điều kiện để mở rộng
đầu tư phát triển.
Các nhà đầu tư nước ngoài khi quyết định bỏ vốn đầu tư vào một nước, trước hết
họ quan tâm tới khả năng sinh lợi của vốn đầu tư tại nước đó. Do đó, một cơ sở hạ tầng
yếu kém như hệ thống giao thông chưa hoàn chỉnh, phương tiện thông tin liên lạc thiếu
thốn và lạc hậu, hệ thống cung cấp năng lượng không đủ cho nhu cầu sẽ làm nản lòng các

nhà đầu tư vì những phí tổn mà họ phải trả cho việc sử dụng các tiện nghi hạ tầng sẽ lên
cao. Một hệ thống ngân hàng lạc hậu cũng là lý do làm cho các nhà đầu tư e ngại, vì
những chậm trễ, ách tắc trong hệ thống thanh toán và sự thiếu thốn các dịch vụ ngân hàng
hỗ trợ cho đầu tư sẽ làm phí tổn đầu tư gia tăng dẫn tới hiệu quả đầu tư giảm sút.
Như vậy, đầu tư của chính phủ vào việc nâng cấp, cải thiện và xây mới các cơ sở
hạ tầng, hệ thống tài chính, ngân hàng đều hết sức cần thiết nhằm làm cho môi trường đầu
tư trở nên hấp dẫn hơn. Nhưng vốn đầu tư cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng là rất lớn và
nếu chỉ dựa vào vốn đầu tư trong nước thì không thể tiến hành được do đó ODA sẽ là
nguồn vốn bổ sung hết sức quan trọng cho ngân sách nhà nước. Một khi môi trường đầu
tư được cải thiện sẽ làm tăng sức hút dòng vốn ODA. Mặt khác, việc sử dụng vốn ODA
để đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng sẽ tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong nước tập trung
đầu tư vào các công trình sản xuất kinh doanh có khả năng mang lại lợi nhuận.
Rõ ràng là ODA ngoài việc bản thân nó là một nguồn vốn bổ sung quan trọng cho
phát triển, nó còn có tác dụng nâng cao trình độ khoa học, công nghệ, điều chỉnh cơ cấu
kinh tế và làm tăng khả năng thu hút vốn từ nguồn ODA góp phần quan trọng vào việc
thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
1.4 Các hình thức của vốn đầu tư ODA
Các hình thức của ODA được chia làm 3 loại chính, trong mỗi loại lại được chia
thành nhiều loại nhỏ.
SVTH: Nguyễn Trung Anh – Lớp 37K01.1 12
Đề án môn học: Kinh tế quốc tế GVHD: Trần Văn Nghiệp
1.4.1 Theo phương thức hoàn trả: ODA có 3 loại.
Viện trợ không hoàn lại
Bên nước ngoài cung cấp viện trợ (mà bên nhận không phải hoàn lại) để bên nhận
thực hiện các chương trình, dự án theo sự thoả thuận trước giữa các bên.
Viện trợ không hoàn lại thường được thực hiện dưới các dạng:
- Hỗ trợ kỹ thuật.
- Viện trợ nhân đạo bằng hiện vật.
Viện trợ có hoàn lại
Nhà tài trợ cho nước cần vốn vay một khoản tiền (tuỳ theo một quy mô và mục

đích đầu tư) với mức lãi suất ưu đãi và thời gian trả nợ thích hợp.
Những điều kiện ưu đãi thường là:
- Lãi suất thấp (tuỳ thuộc vào mục tiêu vay và nước vay).
- Thời hạn vay nợ dài (từ 20 - 30 năm)
- Có thời gian ân hạn (từ 10 - 12 năm)
ODA cho vay hỗn hợp
Là các khoản ODA kết hợp một phần ODA không hoàn lại và một phần tín dụng
thương mại theo các điều kiện của tổ chức Hợp tác kinh tế và phát triển.
1.4.2 Theo nguồn cung cấp: ODA có 2 loại.
ODA song phương
Là các khoản viện trợ trực tiếp từ nước này đến nước kia thông qua hiệp định được
ký kết giữa hai Chính phủ.
ODA đa phương
Là viện trợ chính thức của một tổ chức quốc tế (IMF, WB1 ) hay tổ chức khu vực
(ADB, EU, ) hoặc của một Chính phủ của một nước dành cho Chính phủ của một nước
nào đó, nhưng có thể được thực hiện thông qua các tổ chức đa phương như UNDP
(Chương trình phát triển Liên hiệp quốc), UNICEF (quĩ nhi đồng Liên Hiệp quốc) có
thể không.
Các tổ chức tài chính quốc tế cung cấp ODA chủ yếu:
SVTH: Nguyễn Trung Anh – Lớp 37K01.1 13
Đề án môn học: Kinh tế quốc tế GVHD: Trần Văn Nghiệp
- Ngân hàng thế giới (WB).
- Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF).
- Ngân hàng phát triển Châu á (ADB).
1.4.3 Theo mục tiêu sử dụng: ODA có 4 loại.
Hỗ trợ cán cân thanh toán: Gồm các khoản ODA cung cấp để hỗ trợ ngân sách
của Chính phủ, thường được thực hiện thông qua các dạng: chuyển giao trực tiếp cho
nước nhận ODA hay hỗ trợ nhập khẩu (viện trợ hàng hoá).
Tín dụng thương nghiệp: Tương tự như viện trợ hàng hoá nhưng có kèm theo
điều kiện ràng buộc.

Viện trợ chương trình (viện trợ phi dự án): Nước viện trợ và nước nhận viện trợ
kế hiệp định cho một mục đích tổng quát mà không cần xác định tính chính xác khoản
viện trợ sẽ được sử dụng như thế nào.
Viện trợ dự án: Chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn thực hiện ODA. Điều
kiện được nhận viện trợ dự án là "phải có dự án cụ thể, chi tiết về các hạng mục sẽ sử
dụng ODA".
1.5 Quy trình thực hiện dự án ODA
Mỗi quốc gia có những quy định riêng đối với các cách quản lý và điều hành
nguồn vốn này. Dưới đây là một số nội dung về quy định của pháp luật Việt Nam liên
quan đến các vấn đề xung quanh các hoạt động thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA.
1.5.1 Quy hoạch ODA
Bộ kế hoạch - Đầu tư căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; quy hoạch
tổng thể và kế hoạch hàng năm chủ trì việc điều phối với các Bộ, các cơ quan ngang Bộ,
các cơ quan thuộc Chính phủ có liên quan để nghiên cứu chủ trương và phương hướng
vận động ODA, soạn thảo quy hoạch ODA và lập các danh mục chương trình, dự án ưu
tiên sử dụng ODa trình Chính phủ phê duyệt.
SVTH: Nguyễn Trung Anh – Lớp 37K01.1 14
Đề án môn học: Kinh tế quốc tế GVHD: Trần Văn Nghiệp
1.5.2 Vận động ODA
Sau khi quy hoạch ODA và các danh mục các chương trình dự án ưu tiên sử dụng
ODA được Chính phủ phê duyệt; Bộ Kế hoạch - Đầu tư phối hợp với các cơ quan liên
quan chuẩn bị và tổ chức các hoạt động vận động ODA thông qua:
- Hội nghị nhóm tư vấn hàng năm.
- Các hội nghị điều phối viện trợ ngành.
- Các cuộc trao đổi ý kiến về hợp tác phát triển với các nhà tài trợ.
Trước khi tiến hành vận động ODA, các cơ quan, địa phương liên quan cần phải
trao đổi ý kiến với Bộ Kế hoạch và Đầu tư về chính sách, khả năng và thế mạnh của các
nhà tài trợ liên quan.
1.5.3 Chuẩn bị nội dung, các chương trình, dự án ODA
Sau khi đạt được sự cam kết hỗ trợ của các nhà tài trợ đối với các chương trình, dự

án cụ thể, Bộ Kế hoạch - Đầu tư sẽ phối hợp cùng các đối tác tiến hành chuẩn bị nội dung
các chương trình, dự án ODA bao gồm lập đề án, lập báo cáo tiền khả thi, báo cáo khả
thi
1.5.4 Thẩm định, phê duyệt chương trình, dự án ODA
Việc thẩm định và phê duyệt các dự án sử dụng nguồn ODA như sau:
- Các dự án đầu tư xây dựng cơ bản phải thực hiện theo quy định của Điều lệ quản lý xây
dựng cơ bản hiện hành (Nghị định 52/CP, 12/CP và các văn bản hướng dẫn thuộc lĩnh
vực này).
- Đối với các dự án hỗ trợ ngân sách, đào tạo, tăng cường thể chế Bộ Kế hoạch - Đầu tư
chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng có liên quan tiến hành thẩm định, trình Thủ
tướng Chính phủ quyết định. Trong quá trình thẩm định có đề cập tới ý kiến tham gia của
các bên cung cấp ODA.
- Các dự án của các tổ chức phi Chính phủ thực hiện theo Quyết định số 80/CT ngày
28/3/1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là thủ tướng Chính phủ).
SVTH: Nguyễn Trung Anh – Lớp 37K01.1 15
Đề án môn học: Kinh tế quốc tế GVHD: Trần Văn Nghiệp
1.5.5 Đàm phán, kí kết
Sau khi nội dung đàm phán với bên nước ngoài được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt, Bộ Kế hoạch – Đầu tư chủ trì với sự tham gia của Văn phòng Chính phủ, Bộ Tài
chính, Bộ Ngoại giao, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các cơ quan liên quan tiến hành
đàm phán với bên nước ngoài.
Trong trường hợp Thủ tướng Chính phủ chỉ định một cơ quan khác chủ trì đàm
phán với các bên nước ngoài thì cơ quan này phải thống nhất ý kiến với Bộ Kế hoạch –
Đầu tư về nội dung đàm phán và với Bộ Tài chính về hạn mức và điều kiện vay trả (nếu là
ODA hoàn lại).
Kết thúc đàm phán, nếu đạt được các thỏa thuận với bên nước ngoài thì cơ quan
chủ trì đàm phán phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ về nội dung làm việc, kết quả đàm
phán và những ý kiến đề xuất có liên quan.
Nếu văn bản ODA ký với bên nước ngoài là Nghị định thư, Hiệp định hoặc văn
kiện khác về ODA cấp Chính phủ thì cơ quan được Thủ tướng Chính phủ chỉ định đàm

phán phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ nội dung văn bản dự định ký kết và các đề xuất
người thay mặt Chính phủ ký các văn bản đó. Văn bản trình Thủ tướng Chính phủ phải
kèm theo ý kiến chính thức bằng văn bản của Bộ Kế hoạch – Đầu tư (trường hợp cơ quan
khác trình Thủ tướng Chính phủ), Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính.
Trong trường hợp Nghị định thư và Hiệp định hoặc các văn bản khác về ODA yêu
cầu phải ký kết với danh nghĩa Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ Kế
hoạch – Đầu tư (hoặc cơ quan khác với Chính phủ chỉ định đàm phán) phải báo cáo với
văn phòng Chủ tịch nước ngay từ khi bắt đầu đàm phán với bên nước ngoài về nội dung
các văn kiện dự định ký kết, đồng thời thực hiện các thủ tục Quy định tài điều 6, khoản 3,
điều 7 và điều 8 của Nghị định 182/HĐBT ngày 28/5/1992 của Chính phủ.
1.5.6 Quản lí thực hiện
Bộ Kế hoạch - Đầu tư phối hợp cùng với Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam lập kế hoạch bố trí vốn đối ứng trong kế hoạch Ngân sách nhà nước và thực
SVTH: Nguyễn Trung Anh – Lớp 37K01.1 16
Đề án môn học: Kinh tế quốc tế GVHD: Trần Văn Nghiệp
hiện cấp phát theo đúng cam kết tại các Điều ước Quốc tế về ODA đã ký và các quyết
định phê duyệt chương trình, dự án đầu tư sử dụng vốn ODA. Đồng thời có trách nhiệm
theo dõi, kiểm tra tình hình thực hiện, xử lý những vấn đề liên quan thuộc thẩm quyền
trong quá trình thực hiện và kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét và quyết định các
biện pháp xử lý, báo cáo tổng hợp tình hình thực hiện các chương trình, dự án sử dụng
vốn ODA.
Bộ Tài chính được xác định là đại diện chính thức cho “người vay” hoặc là Nhà
nước hoặc Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong các điều ước quốc
tế cụ thể về ODA cho vay, có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng
cơ chế quản lý tài chính (cấp phát, cho vay, thu hồi vốn…) đối với các chương trình, dự
án ODA.
Trong quá trình thực hiện, ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm phối hợp với Bộ
Tài chính chỉ định các ngân hàng thương mại để ủy quyền thực hiện việc cho vay lại từ
vốn ODA như đã nêu tại điều khoản 3, điều 14 của Quy chế về quản lý và sử dụng ODA
ban hành kèm theo Nghị định 87/Chính phủ ngày 5/8/1997 của Chính phủ, thu hồi vốn trả

nợ ngân sách, đồng thời tổng hợp theo định kỳ thông báo cho Bộ Tài chính và cơ quan
liên quan tình hình thực tế về rút vốn, thanh toán…thông qua hệ thống tài khoản được mở
tại ngân hàng của các chương trình, dự án sử dụng vốn ODA.
Trong quá trình thực hiện chương trình, dự án ODA…tùy theo quy định và thỏa
thuận với bên nước ngoài, các chủ trương, dự án chịu trách nhiệm tổ chức các cuộc kiểm
tra định kỳ hoặc đột suất. Đại diện của Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Ngoại
giao, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, văn phòng Chính phủ là đại diện của Chính phủ tại
các cuộc kiểm điểm này.
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương và các
chủ chương trình, dự án lập báo cáo 6 tháng gửi về Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Bộ Tài chính,
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Ngoại giao và Văn phòng Chính phủ.
SVTH: Nguyễn Trung Anh – Lớp 37K01.1 17
Đề án môn học: Kinh tế quốc tế GVHD: Trần Văn Nghiệp
1.5.7 Đánh giá
Sau khi kết thúc, giám đốc chương trình, dự án ODA phải làm báo cáo về tình hình
thực hiện và có phân tích, đánh giá hiệu quả dự án với sự xác nhận của cơ quan chủ quản
và gửi về Bộ Kế Hoạch – Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ
Ngoại giao và Văn phòng Chính phủ.
1.6 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA.
1.6.1 Các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn vốn ODA từ phía tài trợ
• Mục tiêu chiến lược cung cấp ODA của nhà tài trợ. Trong từng thời kỳ, căn cứ vào mục
tiêu chiến lược mà nhà tài trợ xác định tập trung vào khu vực nào, quốc gia nào, theo
phương thức nào. Nếu mục tiêu chiến lược cung cấp ODA của nước tài trợ thay đổi thì nó
sẽ ảnh hưởng đến quốc gia tiếp nhận về cả cơ cấu nguồn vốn ODA và cơ chế chính sách
quản lý.
• Tình hình kinh tế, chính trị cũng như các biến động bất thường có thể xảy ra ở phía nhà
tài trợ. Khi có những biến động bất thường thì chính sách và các quy định về quản lý
ODA cũng có thể thay đổi, dựa vào những đánh giá về các khoản ODA đã được thực hiện
trong thời gian qua của từng nhà tài trợ.
• Bầu không khí quốc tế và sự phát triển các mỗi quan hệ kinh tế, chính trị giữa hai phía tài

trợ và nhận tài trợ. Nếu bầu không khí và mối quan hệ này mang tính tích cực thì sẽ tạo
thuận lợi cho việc giữ vững và mở rộng quy mô nguồn vốn ODA và cả đối với việc hài
hòa thủ tục giữa hai bên và ngược lại.
1.6.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn vốn ODA từ phía nhận tài trợ
• Sự ổn định của thể chế chính trị. Thực tế đã chỉ ra ra rằng, nếu thể chế chính trị ổn định sẽ
tạo điều kiện cho việc thu hút và quản lý tốt nguồn vốn ODA.
• Mức ổn định kinh tế vĩ mô trong từng giai đoạn phát triển kinh tế, đặc biệt là chính sách
tài chính, thuế mức độ mở cửa của nền kinh tế…cũng có ảnh hưởng rất lớn đến công tác
quản lý. Nếu các chính sách này ổn định trong thời gian dài và hợp lý sẽ góp phần cho
quản lý nguồn vốn ODA tốt và ngược lại, sẽ gây ảnh hưởng đến việc quản lý nguồn vốn
này.
SVTH: Nguyễn Trung Anh – Lớp 37K01.1 18
Đề án môn học: Kinh tế quốc tế GVHD: Trần Văn Nghiệp
• Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tổ chức quản lý, sử dụng nguồn
vốn ODA. Nếu các văn bản này ổn định và phù hợp sẽ góp phần cho công tác quản lý tốt
nguồn vốn ODA và ngược lại, sẽ làm ảnh hướng rất nhiều đến công tác quản lý nguồn
vốn này theo chiều hướng không tốt.
• Trình độ phát triển kinh tế (đặc biệt là trình độ phát triển hệ thống thể chế kinh tế), các
điều kiện có liên quan đến năng lực quản ly của đội ngũ cán bộ hay tốc độ tăng trưởng
kinh tế qua từng thời kỳ. Nhận thức của cán bộ lãnh đạo, đội ngũ quản lý và cả người dân
về nguồn vốn ODA mà trước hết là các ngành, các cấp, các địa phương, các cơ sở thụ
hưởng trực tiếp…cũng đóng vai trò là các nhân tố có ảnh hưởng rất nhiều đến công tác
quản lý nc ODA này của bên nhận tài trợ.
• Ngoài ra còn có các nhân tố đặc thù liên quan đến lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng. Các
nhân tố này thể hiện ở điều kiện và trình độ phát triển kinh tế - xã hội.
2 Chương 2: Tình hình viện trợ ODA của Nhật Bản vào phát triển cảng biển
Việt Nam, tác động của nó đến nền kinh tế Việt Nam.
2.1 Tình hình viện trợ nguồn vốn ODA của Nhật Bản vào các cảng biển Việt Nam
Cuối năm 1992, Nhật Bản bắt đầu hỗ trợ ODA dành cho Việt Nam và đến nay vừa
tròn 20 năm. Tiếp theo Nhật Bản, vào năm 1993 các tổ chức quốc tế và các nước khác

cũng bắt đầu hỗ trợ ODA cho Việt Nam, và Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt
Nam (Hội nghị CG) đã được tổ chức lần đầu tiên vào tháng 10 năm 1993, và Hội nghị CG
tháng 12 năm 2012 là hội nghị lần thứ 20.
Nhờ triển khai chính sách đổi mới kể từ cuối những năm 1980, hợp tác hỗ trợ của
quốc tế và gia tăng đầu tư nước ngoài, Việt Nam đã đạt được sự tăng trưởng kinh tế
nhanh chóng trong vòng 20 năm qua. Hội nghị CG với tính chất là nơi tập hợp nguồn vốn
ODA được tổ chức lần cuối cùng vào năm 2012 và kể từ năm 2013 trở đi Việt Nam dự
kiến sẽ tổ chức “Diễn đàn quan hệ đối tác phát triển Việt Nam” là nơi sẽ thảo luận các
vấn đề về phát triển với các thành phần tham dự được mở rộng hơn có thể có cả khu vực
tư nhân. Đây là biểu hiện của việc Việt Nam đã thoái khỏi vị trí là nước nghèo và gia
SVTH: Nguyễn Trung Anh – Lớp 37K01.1 19
Đề án môn học: Kinh tế quốc tế GVHD: Trần Văn Nghiệp
nhập nhóm các nước có thu nhập trung bình và trong thời gian tới sẽ hướng đến phát
triển với mức độ cao hơn.
Trong 20 năm qua, Nhật Bản luôn là nước viện trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam.
Với tư cách là cơ quan thực hiện ODA của Chính phủ Nhật Bản, JICA đã và đang triển
khai hợp tác chặt chẽ với Chính phủ Việt Nam. Chúng tôi tự hào vì đã góp phần vào sự
phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam và nâng cao điều kiện sống cho người dân Việt
Nam.
Kết quả hợp tác trong 20 năm như sau:
• Hợp tác về vốn
Vốn vay ODA
Viện trợ không
hoàn lại
Tổng cộng
Năm tài khóa 2008 83,2 tỷ yên 1,4 tỷ yên 84,6 tỷ yên
Năm tài khóa 2009 145,6 tỷ yên 3,5 tỷ yên 149,1 tỷ yên
Năm tài khóa 2010 86,6 tỷ yên 3,5 tỷ yên 90,1 tỷ yên
Năm tài khóa 2011 270 tỷ yên 5,4 tỷ yên 275,4 tỷ yên
Tổng kinh phí trong

20 năm
1.836 tỷ yên 83,4 tỷ yên 1914,9 tỷ yên
• Hợp tác kỹ thuật (Tổng số trong 20 năm)
- Phái cử chuyên gia Nhật Bản: khoảng 5.000 người
- Tình nguyện viên Nhật Bản: khoảng 500 người
- Đào tạo tại Nhật Bản: khoảng 18.000 người
(Nguồn: Theo Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản)
Trong hợp tác ODA Nhật Bản hỗ trợ cho các nước đang phát triển trên thế giới, thì
hợp tác với Việt nam có qui mô lớn nhất và Việt Nam cũng là đối tác quan trọng nhất của
Nhật Bản về ODA. Đặc biệt là trong vòng 4 năm gần đây, thì nguồn vốn ODA của Nhật
Bản dành cho Việt Nam đã tăng gấp nhiều lần, vượt ngưỡng 200 tỷ yên. Nhiều kỹ sư,
chuyên gia Nhật Bản hiện đang làm việc trong các dự án phát triển cơ sở hạ tầng như vận
tải, cảng biển…
SVTH: Nguyễn Trung Anh – Lớp 37K01.1 20
Đề án môn học: Kinh tế quốc tế GVHD: Trần Văn Nghiệp
Với lợi thế về vị trí địa lý, vận tải biển là lĩnh vực phát triển mạnh mẽ nhất trong số
lĩnh vực vận tải công nghiệp ở Việt Nam. Từ nhiều năm nay, lượng hàng hóa thông qua
cảng biển tăng trưởng bình quân đạt tốc độ 15%/năm. Kim ngạch xuất nhập khẩu chủ yếu
thông qua đường biển tăng trưởng đạt mức trên dưới 20% là điều khẳng định vai trò của
vận tải biển đối với sự phát triển thương mại của đất nước. Vì vậy, Việt Nam đang đẩy
mạnh xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng cảng biển, kêu gọi các nguồn vốn đầu tư nước
ngoài để hợp tác thi công các dự án, công trình cảng biển và các dịch vụ hàng hải, đặc
biệt là từ nguồn vốn ODA của Nhật Bản đang đóng vai trò quan trọng đối với sự phát
triển của Việt Nam trong giai đoạn này.
Bên cạnh đó, Nhật Bản đã tài trợ vốn cho các dự án cảng nước sâu Việt Nam và rất
quan tâm đến các dự án thuộc lĩnh vực này. Các doanh nghiệp Nhật Bản có kinh nghiệm
khai thác cảng và công nghệ khai thác vào loại hiện đại nhất thế giới, vì vậy Nhật Bản rất
quan tâm đến việc hợp tác đầu tư xây dựng cũng như khai thác các cảng nước sâu tại Việt
Nam. Các doanh nghiệp Nhật Bản cũng có ý định khảo sát tham gia đấu thầu cung cấp
thiết bị, đấu thầu khai thác bến cảng sau khi đã được xây dựng xong.

Một số dự án cảng biển điển hình tại Việt Nam có vốn đầu tư ODA của Nhật Bản:
2.1.1 Dự án cảng Cái Lân, Quảng Ninh.
Cảng Cái Lân là một cảng nước sâu thuộc cụm cảng Hòn Gai tỉnh Quảng Ninh,
đang được xây dựng và mở rộng thành một trong những cảng lớn nhất Việt Nam.
Cảng Cái Lân được khởi công xây dựng từ tháng 10-1999, bằng nguồn vốn ODA
của Chính phủ Nhật Bản. Giai đoạn I của dự án xây dựng mở rộng cảng Cái Lân gồm 3
bến (số 5, 6, 7) với tổng chiều dài cầu tàu 680m, độ sâu trước bến 12m đáp ứng cho tàu có
trọng tải đến 40.000 DWT vào làm hàng, trong đó có bến số 7 chuyên dùng cho container.
Đầu tư cho cơ sở hạ tầng, cảng gồm 8 cầu tàu, 2 bến bốc xếp công te nơ và 2 bến
nghiêng; kho có diện tích 10.000 m², bãi chứa hàng có diện tích 17.000 m²; thiết bị bốc
dỡ: 1 cẩu 20 tấn, 2 cẩu 30 tấn, 2 cẩu 50 tấn di động, 3 cẩu 70 tấn và một số cẩu di động từ
SVTH: Nguyễn Trung Anh – Lớp 37K01.1 21
Đề án môn học: Kinh tế quốc tế GVHD: Trần Văn Nghiệp
8 đến 10 tấn khác; khả năng cập tàu: Tàu từ 1 đến 5 vạn tấn có thể cặp bến; khả năng xếp
dỡ: từ 5 đến 8 triệu tấn/năm.
Cùng với việc kiến tạo cầu tàu, kho bãi, Cảng được đầu tư lắp đặt hệ thống cẩu
giàn và cẩu khung ôm bánh lốp, cẩu chân đế vào dạng tiên tiến trên thế giới hiện nay.
Cảng chính thức đi vào hoạt động từ 20-4-2004 theo mô hình thí điểm Nhà nước cho thuê
cơ sở hạ tầng khai thác.
2.1.2 Dự án cải tạo và nâng cấp cảng Hải Phòng giai đoạn 2.
Đây là dự án ODA lớn nhất tại Hải Phòng với tổng số vốn khoảng 1.800 tỷ đồng
được khởi công vào ngày 24/4/2004, do Ban quản lý Dự án cải tạo, nâng cấp cảng Hải
Phòng ký kết với Công ty Tư vấn quốc tế Nippon Koei (Nhật Bản), được hoàn thành và
bàn giao vào cuối năm 2006. Gần một nửa số vốn này được giành cho gói thầu nạo vét,
nâng cấp luồng tàu ra vào cảng dài hơn 40km. Đây là phần việc quan trọng, quyết định tới
sự thành công của toàn dự án.
Dự án này sẽ tập trung giải quyết vấn đề độ sâu luồng vào cảng và xây dựng mở
rộng bến container Chùa Vẽ (thuộc cảng Hải Phòng) thành một bến container hoàn chỉnh,
đạt tiêu chuẩn quốc tế, với đầy đủ trang thiết bị chuyên dùng, có năng lực thông qua
khoảng 500 ngàn TEU/năm. Giai đoạn II gồm các gói thầu chính như cải tạo luồng tàu

vào cảng và mở rộng bến container Chùa Vẽ; thiết bị xếp dỡ và hệ thống quản lý bến
container; tàu nạo vét Trong đó, gói thầu số 1 do Liên danh nhà thầu PENTA-TOA
(Nhật Bản) thực hiện có giá trị lớn nhất với trên 60 triệu USD và thời gian thực hiện dài
nhất là 28 tháng. Gói thầu này có tính quyết định tiến độ chung của toàn dự án cải tạo
nâng cấp cảng Hải Phòng giai đoạn 2.
2.1.3 Dự án nâng cấp cảng Tiên Sa – Đà Nẵng giai đoạn 1.
Dự án nâng cấp cảng Tiên Sa giai đoạn 1 đã được đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn
vay ODA Nhật Bản. Dự án sau khi hoàn thành và đưa vào khai thác đã phát huy tốt hiệu
quả đầu tư với sản lượng hàng hóa container và khách du lịch thông qua cảng Tiên Sa
SVTH: Nguyễn Trung Anh – Lớp 37K01.1 22
Đề án môn học: Kinh tế quốc tế GVHD: Trần Văn Nghiệp
tăng trưởng liên tục khoảng 21%/năm, và dự kiến con số 5,5 triệu tấn thông qua cảng sẽ
đạt được vào năm 2015.
Dự án này đã được JICA đánh giá là một trong những công trình đầu tư có hiệu
quả bằng vốn vay của chính phủ Nhật Bản. Với tốc độ tăng trưởng của lượng hàng thông
qua cảng như hiện nay thì cơ sở vật chất hiện tại sẽ khó đáp ứng được yêu cầu thực tế. Do
vậy, việc triển khai đầu tư dự án nâng cấp mở rộng cảng Tiên Sa giai đoạn 2 theo quy
hoạch được duyệt để đảm bảo năng lực tiếp nhận hàng hóa và hành khách thông qua cảng
là hết sức cần thiết.
Với năng lực hiện có cũng như khả năng, triển vọng đầu tư mới của Cảng, nhất là
hoàn thành đầu tư trong cả hai giai đoạn, Cảng Đà Nẵng hoàn toàn có thể đáp ứng được
nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, của hàng hóa, nhất là hàng container thông qua
cảng ngày càng tăng. Cảng Đà Nẵng phấn đấu đến năm 2015, sản lượng hàng hóa thông
qua cảng đạt 6 triệu tấn, trong đó, hàng container đạt 250.000 TEUs, quan trọng hơn là
hoàn thành mục tiêu xây dựng Cảng Đà Nẵng thành cảng container hiện đại của khu vực,
góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của thành phố cũng như khu vực miền
Trung – Tây Nguyên, đồng thời phát huy vai trò của Đà Nẵng là điểm cuối trên tuyến
Hành lang kinh tế Đông – Tây.
2.1.4 Dự án cảng quốc tế Cái Mép – Thị Vải, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
Khởi công vào cuối năm 2008, và lễ khánh thành đã diễn ra vào ngày 28 tháng 1

năm 2013, nằm trong cụm cảng Cái Mép – Thị Vải tại huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu sau 4 năm thi công, được đầu tư bởi nguồn vốn vay ODA Nhật Bản. Công trình
được đầu tư hiện đại, đồng bộ bao gồm luồng chạy tàu, hệ thống cầu tàu, bến bãi, đường
vận chuyển, bốc xếp hàng hóa cũng như các dịch vụ hậu cần khác. Trong dự án này,
ngoài việc xây dựng cảng container Cái Mép cho tàu 100.000 tấn và cảng hàng tổng hợp
Thị Vải cho tàu 50.000 tấn lưu thông (cùng hệ thống kho bãi, nhà xưởng), luồng Cái Mép
– Thị Vải dài 37,3 km cũng được nạo vét sâu xuống từ 12 – 14 m. Bên cạnh đó, nhằm bảo
SVTH: Nguyễn Trung Anh – Lớp 37K01.1 23
Đề án môn học: Kinh tế quốc tế GVHD: Trần Văn Nghiệp
đảm cho việc vận chuyển hàng hóa dễ dàng, Ban Quản lý dự án 85 còn xây dựng cầu và
đường nối từ Quốc lộ 51 đến cảng Cái Mép (dài 8,5 km).
Dự án cảng quốc tế Cái Mép – Thị Vải có tổng mức đầu tư 12.891 tỉ đồng từ
nguồn vốn vay của Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA). Việc đưa vào sử dụng
cảng Cái Mép – Thị Vải đưa vào hoạt động sẽ đáp ứng được nhu cầu vận tải hàng hóa
bằng đường biển đang tăng trưởng nhanh ở khu vực phía Nam, đồng thời giúp đẩy nhanh
tiến độ di dời các cảng biển trên sông Sài Gòn ra khỏi nội đô TPHCM; góp phần thu hút
vốn đầu tư nước ngoài, phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nói riêng và
vùng kinh tế trọng điểm Đông Nam Bộ nói chung. Đây sẽ là một khu cảng quốc tế với các
tuyến hải hành trực tiếp từ Việt Nam đến nhiều nước trên thế giới, được kỳ vọng sẽ đóng
vai trò là cửa ngõ quốc tế của khu vực sông Mê Kông bao gồm cả Campuchia và Thái
Lan, thông qua hành lang kinh tế phía Nam. Sau khi công trình đi vào hoạt động, hàng
hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam sẽ đi trực tiếp đến các cảng châu Âu, Bắc Mỹ mà
không phải qua các cảng trung chuyển.
(Nguồn: Số liệu dựa trên báo Diễn đàn doanh nghiệp).
2.1.5 Dự án Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng.
Dự án Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng là dự án thí điểm theo hình thức hợp tác
công tư (PPP) đầu tiên giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Nhật Bản. Cơ quan Hợp
tác Quốc tế Nhật Bản, gọi tắt là JICA, sẽ cùng một số công ty Nhật Bản xây dựng cảng
Lạch Huyện với tổng mức đầu tư trị giá 25000 tỷ đồng, gồm 2 hợp phần:
• Hợp phần A gồm: Xây dựng cơ sở hạ tầng dùng chung cho cảng trong các giai đoạn

(luồng tàu, vũng quay tàu, đê chắn sóng dài 3.230 m với cao trình đỉnh đê +6,5 CD, đê
chắn cát dài 7.600 m với cao trình đỉnh đê +2,0 CD, đường ngoài cảng, tôn tạo xử lý nền
đất yếu). Ngoài ra còn có bến công vụ, đường bãi khu vực hành chính, cơ quan quản lý
nhà nước… Tổng mức đầu tư khoảng 18.627 tỷ đồng. Chủ đầu tư là Cục Hàng hải Việt
Nam.
SVTH: Nguyễn Trung Anh – Lớp 37K01.1 24
Đề án môn học: Kinh tế quốc tế GVHD: Trần Văn Nghiệp
• Hợp phần B gồm: Đầu tư 2 bến tổng chiều dài 750 m, trang thiết bị khai thác, xếp dỡ, cho
tàu container trọng tải đến 100.000 tấn. Tổng mức đầu tư khoảng 6.572 tỷ đồng. Chủ đầu
tư là Công ty TNHH Cảng container quốc tế Hải Phòng.
Dự án này huy động nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức ODA của chính phủ
Nhật phối hợp với vốn đầu tư từ các công ty tư nhân Nhật Bản gồm tập đoàn Itochu,
Nippon Yusen KK, và Mitsui OSK Lines Ltd.Phía Nhật Bản sẽ hợp tác với Tổng Công ty
Hàng hải Việt Nam, tức Vinalines, trong công tác xây dựng cảng. Theo quy hoạch, Cảng
cửa ngõ quốc tế Hải Phòng được xây dựng ở phía Nam cửa Lạch Huyện, dọc theo luồng
vào cảng hiện tại với tổng chiều dài bến khoảng 8.000 m; chiều dài toàn bộ tuyến luồng
khoảng 18 km. Dự án sẽ áp dụng khoản vay theo điều khoản đặc biệt dành cho các đối tác
kinh tế nhằm rút ngắn thời gian thực hiện và nâng cao an toàn bằng việc sử dụng công
nghệ Nhật Bản. Thời gian hoàn thành dự án dự kiến vào cuối năm 2016 (thời gian bắt đầu
khai thác hai bến).
Mục tiêu của dự án là xây dựng mới một cảng nước sâu và các hạ tầng liên quan ở
khu vực Lạch Huyện (Cát Hải- Hải Phòng) nhằm đáp ứng nhu cầu hàng hóa ngày càng
tăng và phục vụ nhu cầu về sử dụng loại tàu trọng lượng lớn của dịch vụ vận tải biển góp
phần phát triển kinh tế và nâng cao tính cạnh tranh quốc tế của Việt Nam trên thị trường
quốc tế.
Sau khi cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng với cơ sở hạ tầng và công nghệ bốc xếp
được đầu tư đồng bộ hoàn thành, cảng sẽ tiếp nhận được tàu container trọng tải đến 8.000
TEU (tương đương với tàu trọng tải 100.000 tấn hoạt động trên tuyến vận tải biển xa),
đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của thị trường, góp phần đưa hàng hóa xuất nhập
khẩu của khu vực miền Bắc có thể đi thẳng tới thị trường châu Âu, châu Mỹ (không phải

trung chuyển qua các cảng trung chuyển tại khu vực như Singapore, Hong Kong), giảm
chi phí vận tải, tăng năng lực cạnh tranh đối với hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam;
góp phần thu hút lượng hàng quá cảnh khu vực Đông Bắc Lào qua tuyến hành lang Đông
- Tây và khu vực Nam Trung Quốc qua các tuyến thuộc chương trình hai hành lang, một
SVTH: Nguyễn Trung Anh – Lớp 37K01.1 25

×