Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

235 Kiểm soát lạm phát góp phần ổn định kinh tế vĩ mô Việt Nam giai đoạn 2006-2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 99 trang )

1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI................................................................................ 10
2. ĐỐI TƯNG NGHIÊN CỨU....................................................................... 11
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI..................................................... 12
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU................................................................. 13
4.1 Phương pháp luận................................................................................... 13
4.2 Phương pháp........................................................................................... 14
5. Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ...................................................... 15
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT
1.1. CÁC QUAN ĐIỂM VỀ LẠM PHÁT – ĐO LƯỜNG LẠM PHÁT ............. 17
1.1.1 Các quan điểm về lạm phát .............................................................. 17
1.1.2 Đo lường lạm phát............................................................................. 18
1.2. CÁC LOẠI LẠM PHÁT .............................................................................. 19
1.2.1 Lạm phát vừa phải.............................................................................. 19
1.2.2 Lạm phát cao....................................................................................... 19
1.2.3 Siêu lạm phát...................................................................................... 19
1.3. NGUYÊN NHÂN GÂY RA LẠM PHÁT.................................................... 20
1.3.1 Lạm phát cầu kéo ............................................................................... 20
1.3.2 Lạm phát chi phí đẩy .......................................................................... 21
1.4. HẬU QUẢ CỦA LẠM PHÁT ..................................................................... 22
1.5. CÁC NHÓM GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT Ở CÁC NƯỚC.......... 25
1.5.1 Nhóm giải pháp tác động vào tổng cầu.............................................. 25
1.5.2 Nhóm giải pháp tác động vào cung.................................................... 25
CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG
NĂM VỪA QUA
2.1 KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 1976 ĐẾN
NAY.............................................................................................................. 27
2
2.1.1 Khái quát tình hình lạm phát Việt Nam từ 1976 đến 1995................. 28


2.1.2 Khái quát tình hình lạm phát Việt Nam giai đoạn 1996 – 2000......... 30
2.1.3 Tình hình lạm phát Việt Nam giai đoạn 2001 – 6/2005 ..................... 30
2.2 TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT TỚI CÁC BIẾN SỐ KINH TẾ VĨ MÔ....... 34
2.2.1 Tác động của lạm phát đối với tăng trưởng kinh tế............................ 34
2.2.2 Tác động của lạm phát đối với tỷ lệ thất nghiệp................................ 38
2.2.3 Tác động của lạm phát đối với cán cân thanh toán............................ 41
2.3 NHỮNG NGUYÊN NHÂN CƠ BẢN TÁC ĐỘNG TỚI LẠM PHÁT Ở VIỆT
NAM............................................................................................................. 44
2.3.1 Xét trên góc độ cầu kéo ..................................................................... 44
2.3.2 Xét trên góc độ chi phí đẩy................................................................. 49
CHƯƠNG III: KIỂM SOÁT LẠM PHÁT GÓP PHẦN ỔN ĐỊNH KINH TẾ
VĨ MÔ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006 – 2010
3.1 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ GIAI ĐOẠN 2006-2010 CỦA VIỆT
NAM............................................................................................................. 55
3.2 ĐO LƯỜNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY56
3.2.1 Cách tính lạm phát hiện nay............................................................... 56
3.2.2 Đo lường lạm phát ở Việt Nam bằng lạm phát cơ bản....................... 59
3.2.3 Xác đònh lại rổ thò trường.................................................................... 61
3.3 CÁC GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT LẠM PHÁT GÓP PHẦN ỔN ĐỊNH KINH
TẾ VĨ MÔ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-2010......................................... 61
3.3.1 Chính phủ kiểm soát lạm phát............................................................ 62
3.3.2 Ngân hàng nhà nước trong việc kiểm soát lạm phát.......................... 74
3.3.3 Doanh nghiệp cũng phải tự chống lạm phát....................................... 82
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 85
PHỤ LỤC .............................................................................................................. 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................. 106
3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADB Ngân hàng phát triển Châu Á
CPI Chỉ số giá tiêu dùng

CSTT Chính sách tiền tệ
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
DTBB Dự trữ bắt buộc
ĐTNN Đầu tư nước ngoài
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
NHNN Ngân hàng nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTƯ Ngân hàng trung ương
NSNN Ngân sách nhà nước
OTC Thò trường phi tập trung
TCTD Tổ chức tín dụng
TNQD Thu nhập quốc dân
VND Đồng Việt Nam
XDCB Xây dựng cơ bản
XNK Xuất nhập khẩu
UBND Ủy ban nhân dân
USD Đôla Mỹ
WEF Diễn đàn kinh tế thế giới
WTO Tổ chức thương mại thế giới

4
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Có thể nói lạm phát luôn là một vấn đề làm đau đầu các nhà hoạch đònh
chính sách kinh tế. Nói lạm phát là một vấn đề cũ thì không có gì sai, bởi vì từ
xưa tới nay, có rất nhiều nhà kinh tế đã gián tiếp hay trực tiếp đề cập đến nó,
trong đó có những trí tuệ vó đại như CácMác, Fisher, Friedman...Song lạm phát
lúc nào cũng là vấn đề mới cả, nó nóng bỏng từng ngày từng giờ, thay đổi liên
tục, có khi tạm ổn đònh, có khi giảm xuống, có khi lên cơn sốt. Cho nên bàn về
lạm phát trong thời điểm này tưởng chừng như đã quá muộn nhưng lại chưa trễ tí

nào bởi vì trong mỗi thời kỳ, giai đoạn phát triển kinh tế, lạm phát có những sắc
thái riêng, có sự biến động riêng, sự biến động của lạm phát có khi để lại âm
hưởng khá lâu trong nền kinh tế. Và nhất là trong tình hình hiện nay, trong năm
2004 vừa qua, chỉ số giá tiêu dùng của nước ta tăng 9,5%, có người nói chúng ta
lên cơn sốt lạm phát và lo quýnh lo quáng lên, có người nói chúng ta chưa lạm
phát mặc dù chỉ số giá này đã tăng vượt quá ngưỡng mục tiêu đề ra ban đầu (4-
5%). Diễn biến tình hình thay đổi của chỉ số giá tiêu dùng nước ta đã làm hao
tốn không biết bao nhiêu giấy mực của các nhà hoạch đònh, nhà nghiên cứu, một
thống kê cho biết thuật ngữ lạm phát là một trong những thuật ngữ được đề cập
đến nhiều nhất trên các trang báo trong thời gian gần đây.
Vậy nền kinh tế nước ta trong năm 2004 và những năm trước đó có lạm
phát hay không, và nếu có là bao nhiêu, là cao hay thấp, mức lạm phát đó có
ảnh hưởng như thế nào đến nền kinh tế, những nguyên nhân nào gây ra lạm phát
ở nước ta... là những vấn đề cần phải làm sáng tỏ, để trên cơ sở đó đề xuất
những giải pháp thích hợp kiểm soát lạm phát góp phần thực hiện thắng lợi
Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2001-2010 mà Đại hội IX của
5
Đảng đã đề ra.
Vì vậy, mặc dù lạm phát là một vấn đề phức tạp, thường xuyên biến động,
có liên quan đến nhiều lónh vực nhưng với mong muốn bằng những kiến thức đã
học được để đưa ra được những giải pháp, có thể có những giải pháp mới chỉ
dừng lại ở những ý tưởng, nhằm kiểm soát lạm phát tốt hơn góp phần vào mục
tiêu nêu trên nên em quyết đònh chọn lạm phát làm đề tài luận văn tốt nghiệp
cao học kinh tế.
2. ĐỐI TƯNG NGHIÊN CỨU
Xuất phát từ lý do như trên, đề tài đi vào nghiên cứu những vấn đề sau:
Thứ nhất, làm rõ những quan điểm, lý luận về lạm phát, từ đó xem xem
những quan điểm nào được vận dụng phổ biến vàø phù hợp với nền kinh tế Việt
Nam.
Thứ hai, khái quát lại tình hình lạm phát của Việt Nam từ sau khi thống

nhất đến nay (từ 1976), đặc biệt là giai đoạn 2001-6/2005.
Thứ ba, chỉ ra được ảnh hưởng của lạm phát tới 3 biến số kinh tế vó mô
quan trọng còn lại trong tứ giác kinh tế
1
, đó là tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ thất
nghiệp và cán cân thanh toán (đối với các biến số khác mà lạm phát có mối
quan hệ mật thiết như lãi suất, tỷ giá hối đoái...trong phạm vi luận văn chưa đi
vào nghiên cứu). Đồng thời, bước đầu xem xét mối quan hệ hồi qui giữa lạm
phát với ba biến số trên, và đi tìm một ngưỡng lạm phát mà ở đó khi lạm phát
tăng lên quá ngưỡng đó thì có ảnh hưởng không tốt tới tăng trưởng kinh tế.

1
Tuy không nói ra, nhưng mục tiêu chung của mọi quốc gia đều xoay quanh 4 con số
trụ cột: tăng trưởng kinh tế, lạm phát, thất nghiệp và cán cân thanh toán. Các chuyên
gia kinh tế quốc tế đã một cách hình tượng 4 con số trên là 4 đỉnh của tứ giác – tứ giác
kinh tế.
6
Thứ tư, trên cơ sở diễn biến tình hình lạm phát ở nước ta rút ra được những
nguyên nhân cơ bản nào tác động tới lạm phát ở nước ta. Ngoài những nguyên
nhân cơ bản được phân tích trong bài, luận văn cũng bước đầu hệ thống các
nguyên nhân gây ra lạm phát ở nước ta theo nhiều hướng khác nhau.
Thứ năm, xem xét lại cách đo lường lạm phát ở nước ta hiện nay, từ đó rút
ra những hạn chế để đề xuất một cách đo lường tốt hơn.
Thứ sáu, đề xuất các giải pháp nhằm kiểm soát lạm phát để ổn đònh kinh tế
vó mô giai đoạn 2006-2010, góp phần thực hiện thắng lợi Chiến lược phát triển
kinh tế – xã hội 10 năm 2001 – 2010.
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Để giải quyết những vấn đề đặt ra ở trên, luận văn cần trả lời được những
câu hỏi như sau:
Một là, nền kinh tế Việt Nam có bò lạm phát hay không, trong đó tập trung

vào trả lời cho giai đoạn 2001 – 2004, nổi lên là năm 2004, mà cho đến nay vẫn
còn hai luồng ý kiến trái ngược nhau.
Hai là, lạm phát có ảnh hưởng như thế nào đối với tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ
thất nghiệp và cán cân thanh toán? Phương trình hồi qui xác đònh mức độ tương
quan giữa lạm phát với các nhân tố trên như thế nào?
Ba là, có tồn tại một ngưỡng lạm phát ở nước ta hay không? Nếu có thì
ngưỡng đó là bao nhiêu?
Bốn là, những nguyên nhân chủ yếu nào gây ra lạm phát ở Việt Nam thời
gian qua?
Năm là, cách tính lạm phát ở Việt Nam hiện nay có phù hợp với điều kiện
kinh tế – xã hội ở nước ta nữa hay không? Nếu không thì nên chọn cách tính nào
khác (bước đầu đối chiếu với cách tính lạm phát của một số nước trên thế giới).
Nếu còn phù hợp thì có phải điều chỉnh gì không?
7
Sáu là, lạm phát ở Việt Nam có chòu ảnh hưởng bởi những biến động kinh
tế khu vực và thế giới hay không?
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1 Phương pháp luận
Do vấn đề lạm phát có liên quan mật thiết đến nhiều vấn đề khác như tỷ
giá, lãi suất, tăng trưởng kinh tế, thất nghiệp, cán cân thanh toán...thuộc nhiều
lónh vực khác nhau như tài chính nhà nước, tín dụng ngân hàng...nên khi nghiên
cứu lạm phát phải đặt trong mối quan hệ tương hỗ qua lại giữa các yếu tố trên,
giữa các lónh vực trên. Do vậy, phương pháp luận chủ đạo của luận văn là vận
dụng phép duy vật biện chứng.
Tuy nhiên, trong phạm vi một luận văn để đơn giản vấn đề nghiên cứu,
luận văn chỉ đi vào nghiên cứu sự tác động của lạm phát lên các yếu tố khác,
hoặc tác động của các nhân tố đến lạm phát, tức là nghiên cứu sự tác động một
chiều, và trong khi nghiên cứu yếu tố nào thì các yếu tố khác được giả đònh là
không đổi theo nguyên tắc cetribus.
Tuy nhiên vận dụng phương pháp nghiên cứu như thế nào đi nữa thì cũng

không thể xa rời, thoát ly khỏi thực tiễn, do vậy phải căn cứ vào tình hình thực
tiễn kinh tế – xã hội và đònh hướng phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam của
Đảng làm kim chỉ nam cho mọi vấn đề khi đó giải pháp đưa ra mới phù hợp “ý
Đảng lòng dân” do vậy phương pháp luận của luận văn là vận dụng quan điểm
đường lối của Đảng về chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2001-
2010.
4.2 Phương pháp
Trên cơ sở các phương pháp luận chủ đạo, trước tiên luận văn đi vào thu
thập các số liệu về lạm phát, tăng trưởng kinh tế... và các số liệu cần thiết khác
8
cho nghiên cứu. Do vậy, phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp
nghiên cứu tại bàn, phương pháp thống kê, sưu tầm các số liệu được phổ biến
trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là từ các bộ, ban, ngành. Công
việc này tiến hành qua 2 bước như sau:
- Thống kê các số liệu cần thiết cho nghiên cứu như tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ
thất nghiệp, tốc độ tăng trưởng kinh tế...qua các năm từ 1976 đến 6/2005
(có thể một số năm không có số liệu).
- Tùy vào mục đích nghiên cứu mà trích lọc số liệu theo từng giai đoạn
khác nhau.
Dựa trên số liệu thống kê có được, luận văn sử dụng các phương pháp
phân tích, tổng hợp, hồi qui, đồ thò có sự hỗ trợ của máy tính để xử lý và biểu
diễn số liệu có được theo các nội dung cần thiết. Riêng trong phương pháp hồi
qui tác giả chọn sai số cho phép là 5% (độ tin cậy đạt 95% trong các phân tích).
Nếu phân tích hồi qui cho kết quả nhưng không đảm bảo độ tin cậy thì kết luận
kết quả hồi qui không có ý nghóa về mặt thống kê. Cũng trong phương pháp hồi
qui, để đơn giản dãy số phân tích nhưng vẫn đảm bảo độ tin cậy, tác giả chọn số
liệu trong vòng 10 năm từ 1996 đến 6/2005 để chạy hàm hồi qui, tuy nhiên chuỗi
số liệu có thể mở rộng ra hoặc thu hẹp lại trong từng tình huống nghiên cứu.
Để có thể thấy được vấn đề nghiên cứu thay đổi như thế nào qua thời gian,
luận văn sử dụng phương pháp so sánh – đối chiếu nhằm xem xét vấn đề trong

mối tương quan, so sánh đối chiếu giữa những thời kỳ khác nhau.
Ngoài ra, để mổ xẻ vấn đề nghiên cứu một cách tỉ mỉ, luận văn sử dụng
phương pháp nghiên cứu liên ngành: xem xét, nghiên cứu vấn đề dưới nhiều
góc độ từ nhiều ngành khác nhau.
Do bản chất nghiên cứu khoa học bao giờ cũng có tính kế thừa, nên trong
9
luận văn có vận dụng kết quả nghiên cứu của một số chuyên gia về các vấn đề
có liên quan.
Cuối cùng, một phương pháp khác không kém phần quan trọng là phương
pháp chuyên gia: tìm hiểu vấn đề thông qua hình thức thu thập ý kiến của
những người có nhiều kinh nghiệm (đặc biệt là các thầy cô giảng viên), am
tường trên từng lónh vực để từ đó rút ra những kết luận xác thực.
5. Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
Trong bối cảnh khu vực và thế giới có nhiều bất ổn do chiến tranh, xung
đột, thiên tai đặc biệt là nạn khủng bố thì Việt Nam trong những năm gần đây
được xem là điểm đến an toàn nhất, có tình hình chính trò ổn đònh nhất. Nếu như
chúng ta tạo được một sự ổn đònh nữa về mặt kinh tế thì khả năng thu hút đầu tư
nước ngoài là rất lớn, nhưng trước hết là tạo được một tâm lý ổn đònh trong nước,
khuyến khích mọi tầng lớp dân cư an tâm làm ăn lâu dài vì quốc kế dân sinh từ
đó góp phần vào việc phát triển kinh tế một cách ổn đònh, bền vững.
Để tạo được một sự ổn đònh về kinh tế, cần phải thực hiện nhiều giải pháp
đồng bộ trên mọi lónh vực của đời sống kinh tế – xã hội. Trong đó, một trong
những vấn đề quan trọng hàng đầu đặt ra là phải ổn đònh nền tài chính tiền tệ
của quốc gia mà nổi lên là vấn đề kiểm soát lạm phát, ổn đònh giá trò tiền tệ để
tăng trưởng ổn đònh, bền vững và có hiệu quả.
Nếu như đúng theo lộ trình đặt ra thì cuối năm nay (2005), Việt Nam sẽ
chính thức gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO). Như vậy, sau khu vực
mậu dòch tự do Đông Nam Á (AFTA), hiệp đònh thương mại Việt – Mỹ (BTA)
rồi đến WTO, mức độ hòa nhập vào nền kinh tế thế giới của nước ta rộng hơn
bao giờ hết, mà như thế thì nền kinh tế nước ta cũng phải gánh chòu những tác

động của kinh tế khu vực và thế giới ở một mức độ cao hơn bao giờ hết. Chỉ mới
có sự lên xuống của giá dầu, giá vàng, giá đôla Mỹ...trong thời gian qua đã
10
khiến cho chỉ số giá tiêu dùng của nước ta cũng dao động theo. Có nhiều biến số
kinh tế vó mô cần thiết phải dao động lên xuống như một điện tâm đồ như tỷ giá
chẳng hạn nhưng riêng đối với tỷ lệ lạm phát thì nếu nó thường xuyên thay đổi
và dao động ở biên độ lớn tức là mọi mặt của đời sống kinh tế – xã hội đều dao
động theo, tính không ổn đònh gia tăng, bất ổn luôn là mầm móng cho mọi cuộc
khủng hoảng từ khủng hoảng kinh tế cho đến khủng hoảng chính trò.
Do vậy, đề tài đi vào nghiên cứu lạm phát với mong muốn nắm vững hơn
về diễn biến tình hình lạm phát ở Việt Nam thời gian qua và những nhân tố tác
động tới lạm phát để từ đó kiểm soát lạm phát tốt hơn góp phần tạo nên một sự
ổn đònh về kinh tế, cùng với sự ổn đònh chính trò giúp chúng ta thực hiện thắng
lợi các mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đặt ra.
Với những mục đích như trên, đề tài mang ý nghóa thiết thực đối với công
cuộc phát triển kinh tế hiện nay.
Toàn bộ nội dung của đề tài được thể hiện trong 3 chương:
- Chương I: Những vấn đề lý luận về lạm phát.
- Chương II: Tình hình lạm phát ở Việt Nam trong những năm vừa qua.
- Chương III: Kiểm soát lạm phát góp phần ổn đònh kinh tế vó mô Việt
Nam giai đoạn 2006 – 2010.
11

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT

1.1. CÁC QUAN ĐIỂM VỀ LẠM PHÁT – ĐO LƯỜNG LẠM PHÁT
1.1.1 Các quan điểm về lạm phát
Cho đến thời điểm này, nhiều nhà kinh tế học đã đưa ra các khái niệm về
lạm phát, song chúng ta vẫn chưa có được một khái niệm thống nhất về lạm
phát. Có người tiếp cận lạm phát theo những nguyên nhân của nó, có người tiếp

cận lạm phát theo hướng tập trung vào những ảnh hưởng của lạm phát. Có thể
kể ra một số quan điểm nhìn nhận và đònh nghóa lạm phát rất khác nhau như sau:
Thứ nhất, lạm phát là sự tăng lên liên tục của giá cả. Theo quan điểm này
thì không kể giá cả tăng lên do nguyên nhân nào đều là lạm phát.
Thứ hai, lạm phát là việc phát hành tiền giấy vượt quá mức đảm bảo vì vậy
gây ra sự mất giá của tiền giấy làm cho giá cả hàng hóa bò đẩy lên cao.
Thứ ba, lạm phát là sự mất cân đối nghiêm trọng giữa tiền và hàng trong
nền kinh tế, sự mất cân đối với tiền lớn hơn hàng khiến cho giá cả tăng lên ở
mọi lúc mọi nơi.
Như vậy khó có thể đi đến thống nhất trong việc nhìn nhận lạm phát. Tuy
nhiên dù khác nhau về quan điểm nhìn nhận, nhưng chúng ta thấy các quan điểm
đều đề cập đến một khía cạnh đó là sự tăng lên của giá cả. Sự tăng lên của giá
cả là một trong những biểu hiện cơ bản của lạm phát. Do vậy, hiện nay gần như
các nhà kinh tế khi xem xét lạm phát chủ yếu thiên về những biểu hiện của lạm
phát, họ xem lạm phát là hiện tượng mức giá cả chung tăng lên. Sự tăng giá này
diễn ra với tốc độ cao và kéo dài.
1.1.2 Đo lường lạm phát
Từ quan điểm trên, để đo lường lạm phát tức là đo lường sự thay đổi của
12
mức giá cả chung (bình quân), các nhà kinh tế thường sử dụng các chỉ số giá. Có
nhiều chỉ số giá được sử dụng tuy nhiên chỉ số được sử dụng thông dụng nhất đó
là chỉ số giá tiêu dùng (CPI – Consumer Price Index). CPI đo lường mức giá bình
quân của một nhóm hàng hóa và dòch vụ cần cho tiêu dùng của các hộ gia đình
(được lựa chọn) của một giai đoạn như tỷ lệ phần trăm của mức giá giai đoạn
trước được gọi là năm gốc.
Để tính chỉ số giá bình quân, người ta thường chọn một rổ gồm nhiều nhóm
hàng hóa và dòch vụ tiêu dùng tiêu biểu và xác đònh tỷ trọng của từng nhóm
hàng hóa dòch vụ trong rổ tùy vào mức độ quan trọng của từng nhóm hàng trong
tổng chi tiêu để làm cơ sở tính chỉ số giá bình quân. Vào đầu kỳ tính CPI, các số
liệu về giá cả các hàng hóa, dòch vụ cần thiết được thu thập. CPI sau đó sẽ được

tính bằng cách so sánh giá trò hiện tại và giá trò gốc của rổ hàng hóa, dòch vụ
được lựa chọn.
Trên cơ sở xác đònh được chỉ số giá tiêu dùng bình quân, tỷ lệ lạm phát
phản ánh sự thay đổi mức giá bình quân của giai đoạn này so với giai đoạn trước
được tính theo công thức sau:
Mức giá hiện tại – Mức giá năm trước
Tỷ lệ lạm phát =
Mức giá năm trước
x 100%
Như vậy, chúng ta tạm thống nhất rằng lạm phát là sự tăng lên (liên tục)
của giá cả và được tính bằng tỷ lệ phần trăm. Tùy vào sự tăng lên của mức giá
cả mà các nhà kinh tế chia lạm phát thành nhiều cấp độ khác nhau.
1.2. CÁC LOẠI LẠM PHÁT
Căn cứ vào tốc độ lạm phát, lạm phát được chia thành 3 loại như sau:
- Lạm phát vừa phải
- Lạm phát cao
- Siêu lạm phát
13
1.2.1 Lạm phát vừa phải (Reasonable Inflation)
Lạm phát vừa phải là lạm phát ở mức 1 con số nguyên (tỷ lệ tăng giá cả
hàng hóa trong khoảng 10% trở lại). Ở mức độ lạm phát vừa phải, giá cả tăng
chậm dao động xung quanh mức tăng tiền lương, trong điều kiện như thế giá trò
tiền tệ không biến động nhiều tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát triển.
Khi giá cả tăng vượt ra khỏi mức độ hợp lý trên, người ta nói lạm phát đang
bước vào giai đoạn tăng cao.
1.2.2 Lạm phát cao
Lạm phát cao là lạm phát ở mức độ 2 con số (dưới 100% năm). Người ta
còn gọi lạm phát loại này là lạm phát phi mã để cho thấy mức độ tăng của giá
cả hàng hóa lúc này cũng giống như “một con ngựa bất kham đang tung vó để
chạy”. Khi lạm phát phi mã xảy ra, sản xuất bò đình trệ, nền tài chính bò phá

hoại, và nếu không có biện pháp thích hợp để “ghìm chân chú ngựa” thì nền
kinh tế sẽ dễ dàng rơi vào tình trạng siêu lạm phát.
1.2.3 Siêu lạm phát (Hyperinflation)
Siêu lạm phát là lạm phát xảy ra ở mức độ lớn hơn lạm phát phi mã. Siêu
lạm phát thường xảy ra do các biến cố lớn dẫn đến đảo lộn trật tự xã hội như
chiến tranh, khủng hoảng chính trò. Khi những biến cố lớn xảy ra, sự thâm hụt
ngân sách khiến chính phủ phải phát hành tiền giấy để bù đắp dẫn đến siêu lạm
phát. Siêu lạm phát có sức phá hủy toàn bộ hoạt động kinh tế và nền kinh tế bò
suy thoái nghiêm trọng. Có thể ví siêu lạm phát như cơn sóng thần trong kinh tế.
Như vậy, phân loại lạm phát theo mức độ để có những biện pháp “điều trò”
thích hợp song biện pháp “phòng chống” hay “chữa trò” cũng còn phải căn cứ
vào nguyên nhân gây “bệnh”.
1.3. NGUYÊN NHÂN GÂY RA LẠM PHÁT
Có nhiều nguyên nhân gây ra lạm phát, song nguyên nhân trực tiếp của bất
14
kỳ cuộc lạm phát nào cũng xuất phát từ các lý do đẩy tổng cầu tăng quá mức
(lạm phát do cầu kéo) hoặc tổng cung giảm do chi phí tăng lên (lạm phát chi phí
đẩy).
1.3.1 Lạm phát cầu kéo (Demand Pull Inflaton)
Lạm phát cầu kéo hay lạm phát nhu cầu là lạm phát xảy ra do tổng cầu
tăng vượt quá mức cung hàng hóa của xã hội dẫn đến áp lực làm tăng giá cả.
Khi nghiên cứu về lạm phát, Bentet Hanxen
1
đã viết “Bởi vì nhu cầu quá mức
có thể coi là nguyên nhân của lạm phát cho nên chúng ta có thể công nhận rằng
lạm phát, đó là tình huống ở đó tồn tại cầu quá mức rộng khắp đối với nhiều mặt
hàng trên thò trường”.
Vậy nguyên nhân nào làm cho tổng cầu tăng lên. Có thể chỉ ra một số
nguyên nhân cơ bản như sau:
− Chi tiêu của chính phủ tăng lên.

− Thâm hụt ngân sách kéo dài và được đài thọ bằng cách vay mượn ở
trong nước, ngoài nước hoặc NHTƯ.
− Chi tiêu dùng của các hộ gia đình tăng lên do mức thu nhập tăng hoặc
lãi suất giảm.
− Tâm lý thích tiêu dùng hay tiết kiệm của dân chúng đưa đến sự gia tăng
tốc độ lưu thông tiền tệ. Nếu dân chúng có khuynh hướng thích tiêu dùng, tốc độ
lưu thông tiền tệ gia tăng.
− Đầu tư của các doanh nghiệp tăng lên do dự đoán về triển vọng phát
triển kinh tế trong nước và cả ngoài nước hay do lãi suất giảm.
− Do chính sách tiền tệ mở rộng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp,
người dân dễ tiếp cận nguồn vốn, có thể vay dễ dàng hơn, vay nhiều hơn dẫn

1
Nhà kinh tế học Thụy Điển.
15
đến nhu cầu chi tiêu nhiều hơn.
− Các yếu tố liên quan đến nhu cầu nước ngoài như tỷ giá hối đoái, mức
thu nhập của cư dân nước ngoài…làm gia tăng nhu cầu hàng hóa xuất khẩu kéo
theo tổng cầu gia tăng.
Trong các phân tích ở trên, tổng cầu tăng gây áp lực tăng giá, làm xảy ra
tình trạng lạm phát trong ngắn hạn. Song nếu nền kinh tế chưa đạt được mức sản
lượng tiềm năng thì việc tăng tổng cầu trong trường hợp này trở thành một chính
sách lạm phát có hiệu quả để thúc đẩy sản xuất xã hội làm cho kinh tế tăng
trưởng, khi đó đường tổng cung cũng sẽ dòch chuyển xuống phía dưới, sản lượng
của nền kinh tế tăng lên.
Ngược lại với lạm phát do nguyên nhân từ phía cầu là lạm phát do nguyên
nhân từ phía cung, gọi là lạm phát chi phí đẩy.
1.3.2 Lạm phát chi phí đẩy (Cost Push Inflation)
Trong hoàn cảnh sản xuất không tăng hoặc tăng ít trong khi chi phí tăng lên
(chi phí sản xuất tăng vượt quá mức tăng của năng suất lao động) thì sẽ sinh ra

lạm chi phí đẩy. Chi phí sản xuất tăng lên tạo áp lực “đẩy” giá bán sản phẩm
tăng lên hay có thể làm giảm mức cung ứng hàng hóa của xã hội.
Chi phí tăng lên có thể xuất phát từ những nguyên nhân sau:
− Mức tăng tiền lương vượt quá mức tăng năng suất lao động: các doanh
nghiệp trong nền kinh tế thò trường thường phải chòu rất nhiều áp lực về vấn đề
lương bổng. Trong ngắn hạn chi phí nhân công ổn đònh do bò hạn chế bởi hợp
đồng lao động nhưng trong dài hạn do áp lực của công đoàn, do thuế thu nhập và
các yếu tố khác làm cho nhân viên tạo sức ép nâng giá tiền lương lên.
− Do giá nhập khẩu tăng lên tác động trực tiếp tới giá cả trong nước (nếu
là hàng tiêu dùng trực tiếp) hoặc tác động gián tiếp thông qua việc làm tăng chi
phí sản xuất (nếu là đầu vào của quá trình sản xuất). Giá hàng nhập khẩu tăng
16
lên có thể do lạm phát của nước ngoài cao hay do đồng nội tệ bò mất giá so với
đồng tiền của những nước có quan hệ mậu dòch….
− Do thuế suất tăng lên làm ảnh hưởng tới mức sinh lời của nhà đầu tư do
vậy giá cả tăng lên để duy trì mức sinh lời mong muốn.
Như vậy, một lần nữa khi phân tích về lạm phát cầu kéo và lạm phát chi
phí đẩy đều cho thấy khi lạm phát xảy ra sẽ làm cho giá cả hàng hoá tăng lên.
Trong khi phân tích về các loại lạm phát, nguyên nhân của lạm phát, các
nhà kinh tế thừa nhận rằng không phải lạm phát lúc nào cũng gây ra hậu quả
xấu đối với nền kinh tế xã hội. Lạm phát tác động tích cực hay tiêu cực đến nền
kinh tế phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của nó, song nhìn chung khi lạm
phát xảy ra nó thường để lại, không nhiều thì ít, những hậu quả cho nền kinh tế.
1.4. HẬU QUẢ CỦA LẠM PHÁT
Khi lạm phát xảy ra ngoài dự tính, nó tạo nên sự biến động bất thường về
giá trò tiền tệ và làm sai lệch toàn bộ thước đo các quan hệ giá trò, ảnh hưởng
đến mọi hoạt động kinh tế xã hội. Có thể kể ra một số hậu quả của lạm phát như
sau:
Một là, lạm phát kìm hãm tăng trưởng kinh tế, ảnh hưởng đến mọi lónh
vực của đời sống kinh tế xã hội.

Lạm phát làm cho thu nhập thực của người lao động bò giảm sút, có thể kéo
theo các cuộc đình công đòi tăng lương với qui mô lớn, dài ngày làm ngừng trệ
sự tăng trưởng kinh tế.
Lạm phát còn làm cho lãi suất danh nghóa tăng lên bởi tỷ lệ lạm phát dự
tính tăng lên, nếu lạm phát dự tính không phù hợp với lạm phát thực tế nó sẽ
làm ảnh hưởng đến mức lãi suất thực. Kết quả là ảnh hưởng đến tiết kiệm và
đầu tư, cuối cùng là ảnh hưởng đến mức tăng trưởng kinh tế.
Trong lónh vực sản xuất kinh doanh, do lạm phát, giá cả vật tư hàng hoá,
17
nguyên liệu tăng, làm cho việc sản xuất kinh doanh và kết quả cuối cùng ngày
càng giảm sút và không chính xác, các ngành sản xuất kinh doanh bò lạm phát
làm cho điêu đứng.
Trong lónh vực đầu tư, sự biến động bất thường của lạm phát gây khó khăn
cho việc xác đònh mức sinh lời chính xác của các khoản đầu tư, khiến cho các
nhà đầu tư ngần ngại khi tiến hành đầu tư, nhất là đầu tư vào các dự án dài hạn,
làm ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế.
Trong lónh vực lưu thông phân phối, giá cả hàng hóa tăng đã gây nên tình
trạng đầu cơ tích trữ hàng hóa vì thế làm mất cân đối giả tạo quan hệ cung cầu
làm cho lónh vực lưu thông bò rối loạn.
Hai là, lạm phát làm phân phối lại thu nhập quốc dân và của cải xã hội
Khi lạm phát tăng lên, tổng thu nhập danh nghóa tăng lên, nhưng trong đó
chứa đựng sự phân phối lại giữa các nhóm dân cư với nhau; giữa giới chủ và
người làm công, giữa người cho vay và người đi vay, giữa Chính phủ và người
đóng thuế.
Trong lónh vực tài chính nhà nước, tuy lúc đầu lạm phát mang lại thu nhập
cho ngân sách nhà nước qua cơ chế phân phối lại tổng sản phẩm và thu nhập
quốc dân, nhưng do ảnh hưởng nặng nề của lạm phát mà những nguồn thu của
ngân sách nhà nước mà chủ yếu là thuế ngày càng bò giảm.
Ba là, lạm phát làm rối loạn hệ thống tiền tệ
Trong lónh vực tiền tệ tín dụng, lạm phát làm cho sức mua đồng tiền giảm,

lưu thông tiền tệ diễn biến khác thường, tốc độ lưu thông của tiền tệ tăng lên
một cách đột biến càng làm cho sức mua của đồng tiền giảm xuống nhanh chóng
hơn. Hoạt động của hệ thống tín dụng ngân hàng rơi vào tình trạng khủng hoảng,
do nguồn tiền gửi trong xã hội bò sụt giảm nhanh chóng, nhiều ngân hàng bò phá
sản do mất khả năng thanh toán và thua lỗ trong kinh doanh. Tình hình đó làm
18
cho hệ thống tiền tệ bò rối loạn và không kiểm soát nổi.
Bốn là, lạm phát làm xấu đi tình trạng của cán cân thanh toán quốc tế
Nếu tỷ lệ lạm phát trong nước cao hơn tỷ lệ lạm phát nước ngoài (có quan
hệ mậu dòch) thì giá cả hàng hóa trong nước trở nên mắc hơn so với giá cả hàng
hoá nước ngoài, do đó làm giảm xuất khẩu, tăng nhập khẩu, làm xấu đi tình
trạng của tài khoản vãng lai. Tỷ lệ lạm phát cao cùng với bội chi tài khoản vãng
lai có thể tạo nên tâm lý trông đợi một sự giảm giá của đồng nội tệ so với ngoại
tệ tạo nên áp lực tăng tỷ giá, tỷ giá tăng càng đẩy mức giá cả chung tăng lên.
Năm là, lạm phát làm gia tăng tỷ lệ thất nghiệp
Mức giá chung tăng lên có thể gây nên sự giảm sút của tổng cầu và công
ăn việc làm, do đó gia tăng tỷ lệ thất nghiệp
Như vậy, có thể thấy ngoại trừ trường hợp lạm phát vừa phải còn có tác
động tích cực đến nền kinh tế còn lại nói chung lạm phát đều gây ảnh hưởng xấu
đến quá trình phát triển của nền kinh tế xã hội. Vì vậy, việc tìm ra giải pháp
thích hợp để kiềm chế lạm phát là một vấn đề cần thiết.
1.5. CÁC NHÓM GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT Ở CÁC NƯỚC
Việc đưa ra các giải pháp chống lạm phát thường xuất phát từ sự phân tích
đúng đắn nguyên nhân gây nên lạm phát, bao gồm nguyên nhân sâu xa và
nguyên nhân trực tiếp. Để giải quyết các nguyên nhân sâu xa cần phải có thời
gian và đi kèm với các cuộc cải cách lớn. Còn nguyên nhân trực tiếp của bất kỳ
cuộc lạm phát nào cũng xuất phát từ các lý do đẩy tổng cầu tăng quá mức hoặc
tổng cung giảm do chi phí tăng lên. Thông thường để tác động vào các nguyên
nhân trực tiếp của lạm phát và kiềm chế lạm phát ở tỷ lệ mong muốn, chính phủ
các nước sử dụng một hệ thống các giải pháp tác động vào tổng cầu hoặc tổng

cung nhằm làm giảm sự gia tăng của tổng cầu hoặc khắc phục các nguyên nhân
làm gia tăng chi phí.
19
1.5.1 Nhóm giải pháp tác động vào tổng cầu
Về phía chính phủ: chính phủ các nước có lạm phát thường tìm cách ngăn
chặn các nguyên nhân dẫn đến gia tăng khối tiền, đồng thời tăng thu cho ngân
sách nhằm rút ngắn cách biệt giữa thu và chi dần dần tiến đến cân bằng thu chi
ngân sách.
Về phía NHTƯ: NHTƯ các nước thông qua việc quản lý và sử dụng các
công cụ của chính sách tiền tệ để tác động trực tiếp làm giảm khối tiền trong lưu
thông, tức là thực hiện một chính sách tiền tệ thắt chặt vừa thu hút bớt tiền từ lưu
thông vừa hạn chế cung ứng tiền ra lưu thông.
1.5.2 Nhóm giải pháp tác động vào cung
Về giải pháp hạn chế sự gia tăng của chi phí: giải pháp cơ bản là tác
động vào mối quan hệ giữa mức tăng tiền lương và mức tăng của năng suất lao
động xã hội. Nếu thành công, giải pháp này sẽ hạn chế những đòi hỏi tăng tiền
lương bất hợp lý dẫn đến vòng luẩn quẩn lương – tiền – giá. Đi kèm với cơ chế
tiền lương, các nước tiến hành chính sách kiểm soát giá cả nhằm hạn chế sự
biến động của tiền lương thực tế, tránh rơi vào vòng xoáy lạm phát lương – giá –
tiền.
Về giải pháp nhằm mở rộng khả năng cung ứng hàng hóa: nhằm chặn
đứng nhanh chóng và hiệu quả cơn sốt giá cả vì khan hiếm hàng hoá, các nước
thường cho nhập khẩu các mặt hàng đang thiếu và lên giá. Tuy nhiên giải pháp
này chứa đựng nguy cơ tiềm tàng như làm cạn kiệt dự trữ ngoại hối, tạo thói
quen tiêu dùng hàng ngoại, làm suy giảm sức sản xuất trong nước. Do vậy về lâu
dài các quốc gia bò lạm phát đều tìm cách gia tăng khả năng sản xuất hàng hoá
trong nước.
Ngoài hai nhóm biện pháp tác động vào cung cầu như ở trên các nước còn
20
áp dụng nhiều biện pháp khác như: kềm giữ giá cả, cải cách tiền tệ...Mỗi biện

pháp đều có mặt tích cực và tiêu cực nhất đònh, vấn đề là phải biết kết hợp hài
hòa giữa các biện pháp nhằm đạt mục tiêu trước mắt lẫn lâu dài.
Kết luận chương I: Chương I cho thấy cho đến nay lạm phát vẫn là một đề
tài được tranh luận sôi nổi, song đa phần các nhà kinh tế đều đồng ý khi lạm
phát xảy ra sẽ kéo theo tình trạng leo thang của giá cả, do vậy để đo lường lạm
phát người ta sử dụng các chỉ số giá trong đó thông dụng nhất là CPI. Lạm phát
tác động xấu hay tốt đối với nền kinh tế còn tùy thuộc vào mức độ của nó, song
đa phần khi nhắc đến lạm phát người ta đều hình dung đến những hậu quả mà nó
để lại cho nền kinh tế, vì vậy các quốc gia có lạm phát đều tìm cách kiểm soát
lạm phát. Dựa trên hai nguyên nhân cơ bản gây ra lạm phát là cầu kéo và chi
phí đẩy mà các quốc gia đưa ra các giải pháp tác động vào tổng cầu và tác động
vào cung cùng với một hệ thống đồng bộ các giải pháp khác.
21
Chương II
TÌNH HÌNH LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
TRONG NHỮNG NĂM VỪA QUA
2.1 KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH LẠM PHÁT VIỆT NAM TỪ 1976 ĐẾN NAY
Tình hình lạm phát ở Việt Nam từ 1976 đến 6/2005 có thể chia thành 3 giai
đoạn như sau:
- Giai đoạn 1976 – 1995: giai đoạn này đánh dấu công cuộc chống lạm phát
của nước ta, bắt đầu từ lạm phát phi mã và đi đến kiểm soát được lạm phát vào
những năm cuối giai đoạn.
- Giai đoạn từ 1996 đến 2000: giai đoạn này được đánh dấu bằng cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á; tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn
này giảm dần qua các năm, Việt Nam rơi vào tình trạng giảm phát, thuật ngữ
“kích cầu” lần đầu tiên xuất hiện trong các chính sách điều hành kinh tế của
chính phủ.
- Giai đoạn 2001 – 6/2005: giai đoạn này đánh dấu chặng đầu tiên trong
việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2001 – 2010. Trong
giai đoạn này, tỷ lệ lạm phát của Việt Nam sau một thời gian “hạ nhiệt” và có

khi chuyển sang thiểu phát đã bắt đầu “ấm” dần lên và chuyển sang “sốt” vào
cuối năm 2004 và còn tiếp diễn trong năm 2005.
2.1.1 Khái quát tình hình lạm phát Việt Nam từ 1976 đến 1995
Sau chiến tranh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta bắt tay vào công
cuộc tái thiết đất nước, xây dựng nền kinh tế XHCN. Nhà nước bên cạnh vai trò
là bộ máy quyền lực tối cao còn đảm nhiệm vai trò quản lý kinh tế, nền kinh tế
được kế hoạch hoá tập trung ở mức cao độ.
22
Trong lónh vực lưu thông phân phối, từ năm 1976 đến năm 1980, chính phủ
Việt Nam thực thi chính sách kiềm chế giá cả, cơ chế đó làm chỉ số giá cả ở thò
trường có tổ chức tăng không nhiều, nhưng chỉ số giá cả ở thò trường tự do lại
tăng khá cao, do vậy lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn này là lạm phát
“ngầm”.
Bảng 2.1: Chỉ số giá bán lẻ giai đoạn 1976 – 1980 (năm trước bằng 100%)
Năm Thò trường xã hội Thò trường có tổ chức Thò trường tự do
1976 121,9 99,1 150,3
1977 118,6 101,0 138,0
1978 120,9 104,3 139,0
1979 125,2 103,3 140,0
1980 169,6 109,8 143,8
Nguồn: Ban vật giá Chính phủ
1
.
Tuy nhiên, việc phát hành tiền bù đắp thiếu hụt ngân sách liên tục với số
lượng ngày càng lớn nhằm bù lỗ, bù giá và thực hiện các dự án phát triển sau
chiến tranh đã làm cho mức giá chung thời kỳ 1976 – 1980 tăng lên tới 2,62 lần
trong khi tổng giá trò sản lượng thực tế tăng 5,7%, thu nhập quốc dân (TNQD)
sản xuất tăng 1,7%.
Bảng 2.2: Mức tăng GDP và TNQD thời kỳ 1977 – 1980 (%)
Năm Mức tăng GDP Mức tăng TNQD

1977 4,4 2,8
1978 4,0 2,3
1979 -1,7 -2,0
1980 -1,0 -1,4
Cộng 5,7 1,7
Nguồn: Tổng cục Thống kê.

1
Ban Vật giá chính phủ nay nhập vào Cục quản lý giá thuộc Bộ Tài chính.
23
Bước sang giai đoạn 1981 – 1988, chỉ số giá cả thường xuyên ở mức 2 đến
3 con số, đánh dấu thời kỳ lạm phát phi mã; đỉnh cao là năm 1986, tốc độ tăng
giá lên tới 587,2%. Nguyên nhân của lạm phát thời kỳ này xuất phát từ những
yếu kém nội tại của nền kinh tế, tình trạng phát hành tiền bù đắp thiếu hụt ngân
sách, cơ chế quản lý kinh tế quan liêu, bao cấp...
Bảng 2.3: Chỉ số giá bán lẻ giai đoạn 1981 – 1988 (năm trước bằng 100%)
Năm Thò trường xã hội Thò trường có tổ chức Thò trường tự do
1981 169,6 202 147,4
1982 195,4 242 165
1983 149,5 142,8 157,5
1984 164,9 155,8 176,3
1985 191,6 209 151,7
1986 587,2 557,4 682,3
1987 416,7 443,3 429,2
1988 410,9 - -
Nguồn: Ban vật giá Chính phủ.
Trước tình hình đó, bắt đầu từ năm 1989, chính sách tài khóa thu hẹp, chính
sách tiền tệ thắt chặt cùng nhiều biện pháp đồng bộ khác được áp dụng đã bước
đầu kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, chỉ số tăng giá liên tục giảm xuống và chỉ
còn 12,7% vào năm 1995.

Bảng 2.4: Tốc độ tăng giá giai đoạn 1989 – 1995 (%):
Năm >>> 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995
Tốc độ tăng giá 76,0 67,1 67,5 17,5 5,2 14,4 12,7
Nguồn:Ban vật giá Chính phủ.
Như vậy, lạm phát Việt Nam thời kỳ 1976 - 1995 từ chổ “âm ỉ cháy” trong
giai đoạn 1976 – 1980 đã “bùng lên thành một ngọn lửa cháy cao” trong những
năm từ 1980 đến 1988, những năm sau đó chính phủ Việt Nam đã phải ra sức dập
24
tắt ngọn lửa này và bước đầu đạt được những kết quả khích lệ.
2.1.2 Khái quát tình hình lạm phát Việt Nam giai đoạn 1996 – 2000
Trong giai đoạn này, các biện pháp hợp lý nhằm kiểm soát lạm phát tiếp
tục được thực hiện là cơ sở để duy trì mức lạm phát vừa phải trong nhiều năm.
Tuy nhiên, chính sách tiền tệ chưa thật sự phát huy hiệu quả, sức cạnh tranh của
nền kinh tế thấp, sức mua chung của xã hội giảm, cộng với việc bò ảnh hưởng
bởi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực...đã làm cho nền kinh tế rơi
vào tình trạng giảm phát. Tổng sản phẩm trong nước những năm 1992-1997
thường đạt mức tăng trưởng 8-9% đã đột ngột giảm xuống chỉ còn 5,8% vào năm
1998 và 4,8% vào năm 1999. Năm 2000, Việt Nam chặn được sự giảm sút về tốc
độ tăng trưởng, trong năm này nền kinh tế vẫn còn rơi vào trạng thái thiểu phát.
Bảng 2.5: Tốc độ tăng giá giai đoạn 1996 – 2000 (%)
Năm >>> 1996 1997 1998 1999 2000
Tốc độ tăng giá 4,5 3,6 9,2 0,1 -0,6
Nguồn: Ban vật giá Chính phủ.
2.1.3 Tình hình lạm phát Việt Nam giai đoạn 2001 – 6/2005
Năm 2001, “tản băng” thiểu phát bắt đầu tan từ từ (CPI tăng 0,8%), nền
kinh tế có khởi sắt đôi chút, tổng sản phẩm trong nước đã tăng 6,89%, nhích hơn
một chút so với năm 2000 (6,79%).
Trước tình trạng giảm phát của nền kinh tế, chính phủ đã có những biện
pháp kích cầu đầu tư và tiêu dùng.
Nhờ chính sách khuyến khích đầu tư trong nước, quan tâm tạo điều kiện

cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển đã khơi thông nguồn lực đầu tư trong dân:
tổng vốn đầu tư phát triển năm 2002 tăng trên 12% so với năm 2001, riêng vốn
đầu tư trong dân tăng tới 20,7% chiếm 25,3% trong tổng vốn đầu tư phát triển.

25

Bảng 2.6 - Vốn đầu tư phát triển phân theo thành phần kinh tế: so sánh qua
hai năm 2001 và 2002.
Năm >> 2001 2002 Tăng giảm
Tổng số (tỷ đồng) 163.543 183.800 20.257
- Khu vực nhà nước 95.020 103.300 8.280
- Khu vực ngoài quốc doanh 38.512 46.500 7.988
- Khu vực có vốn ĐTNN 30.011 34.000 3.989
Cơ cấu (%) 100 100
- Khu vực nhà nước 58,1 56,2 8,7
- Khu vực ngoài quốc doanh 23,5 25,3 20,7
- Khu vực có vốn ĐTNN 18,4 18,5 13,3
Nguồn: Kinh tế Việt Nam và thế giới 2001 – 2002.
Nhờ chính sách kích cầu tiêu dùng của chính phủ đã làm cho tổng mức bán
lẻ hàng hóa và dòch vụ tiêu dùng xã hội năm 2002 đạt trên 272 nghìn tỷ đồng,
tăng 12,8% so với mức 10,2% của năm 2001 và 9,2% của năm 2000, là mức tăng
cao nhất kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á.
Bảng 2.7: Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dòch vụ tiêu dùng giai đoạn 1996 – 2002.
Năm Tổng mức (tỷ đồng) Tốc độ tăng (%)
1996 145.874,0
1997 161.899,7 11,0
1998 185.598,7 14,6
1999 200.923,7 8,3
2000 219.400,0 9,2
2001 241.837,8 10,2

2002 272.793,0 12,8
Nguồn: Tổng cục Thống kê.
Với những biện pháp kích cầu như trên, một chuyển biến quan trọng được
ghi nhận trong năm 2002 là nền kinh tế đã chuyển từ thiểu phát liên tục và kéo
dài sang lạm phát nhẹ (CPI tăng 4%)
1
, vừa đủ để kích thích đầu tư, tăng trưởng,
làm cho nền kinh tế ấm lên (tăng trưởng kinh tế đạt 7,04% hoàn thành mục tiêu

1
Phụ lục 2: Tốc độ tăng giá tiêu dùng qua các tháng trong năm 2002.

×