Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Đảng Cộng sản Việt Nam với công cuộc giải phóng phụ nữ thời kỳ đầu đất nước độc lập năm 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.26 MB, 5 trang )

ĐẢNG
CỘNG
SẢN VIỆT NAM VỚI CÔNG
cuộc
GIẢI
PHÓNG
PHỤ
Nữ
THỜI
KỲ
ĐẦU ĐẤT
NƯỚC
ĐỘC
LẠP NĂM 1945
THS.
NGÔ THỊ
THANH
PHƯƠNG
Trung tâm Đào tạo, Bổi clưỡỉig giảng viên
lý luận chính trị
Trải
qua các thời kỳ thăng
trầm
của lịch sử, phụ nữ
Việt
Nam
ngày càng phát huy vai trò to lớn của mình trên mọi lĩnh vực của đời
sống
xã hội. Hàng triệu phụ nữ
Việt
Nam đã và đang phát huy khả


năng của mình để đóng góp tới mức cao
nhất
cho công cuộc xây
dựng
và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời
thực
hiện
giải
phóng phụ nữ ở
một bước mới cao hơn.
Ngày nay, họ đang vươn lên đảm nhiệm một cách
xuất
sắc
những
nhiệm vụ được dân tộc và lịch sử
giao
phó. Những
phẩm
chất
quý báu
"anh hùng, bất
khuất,
trung
hậu đảm đang" của người phụ nữ đã được
hình thành, tôi luyện
theo
năm tháng và nay lại càng được phát huy
cao độ
trong
thời kỳ lịch sử mới. Những

phẩm
chất
vốn có của người
phụ nữ
Việt
Nam và vai trò của họ
trong
xây
dựng
gia đình, lao động
sản
xuất,
trong
đấu
tranh

những
điều
kiện
mới đã làm cho họ có
thêm nhiều
phẩm
chất
tốt đẹp và nét đặc sắc rất riêng của mình.
Tuy vậy, để có được vị trí và vai trò to lớn như hiện nay, các thế
hệ phụ nữ
dưới
sự lãnh đạo của Đảng đã không
ngừng
đấu

tranh
để
giành quyền bình đẳng
trong
xã hội. Thời
phong
kiến,
tư tưởng
trọng
nam khinh nữ, khiến người phụ nữ bị áp bức, trói
buộc
ở một địa vị
rất
thấp
kém
trong
sự bất công và phân biệt đối xử.
Họ
bị hạn chế vai trò của mình ở ngoài xã hội, không được học
127
hành lại bị vây hãm
trong
một xã hội trì trệ, lạc hậu. Do đó họ phải đấu
tranh
cho bản thân, phát huy vai trò của mình
trong
xã hội là tất yếu.
Từ khi có Đảng ra đời (năm
1930),
sự

nghiệp
đó được thúc đẩy
mạnh
mẽ hơn bao giờ hết và nó đã xác lập cho mình
những
thành quả
bước đầu. Cùng với sự
nghiệp
giải
phóng dân tộc, công cuộc
giải
phóng phụ nữ cũng đã có
những
bước phát triển
nhất
định. Cách
mạng
tháng Tám năm 1945 thành công, nước
Việt
Nam Dân chủ
Cộng hoa ra đời,
dưới
sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ đã tạo điều
kiện
thuận
lợi cho cả nước tiến lên,
trong
đó công cuộc
giải
phóng

phụ nữ cũng hết sức được chú
trọng.
Trong bản
Hiến
pháp đầu tiên
của nước
Việt
Nam Dân chủ Cộng hoa đã ghi: "Tất cả các quyền
bính
trong
nước là của nhân dân
Việt
Nam, không phân biệt nòi
giống,
trai
gái, giấu nghèo, giai cấp, tôn giáo" và "đàn bà
ngang
quyền với đàn ồng về mọi phương diện". Đó là cơ sở pháp lý để đấu
tranh
xoa bỏ sự phân biệt đối xử giữa nam và nữ. Hơn nữa, Pháp lệnh
cao
nhất
của Đảng và Nhà nước đã
khẳng
định sự bình đẳng và
quyền làm chủ đất nước của người phụ nữ.
Điều
này được thể hiện
trong
hàng loạt các chủ trương chính

sách về vấn đề phụ nữ của chính quyền dân chủ nhân dân. Do vậy
quyền lợi của người phụ nữ nhờ đó đã dần được
thực
hiện
trong
nhiều lĩnh vực như: Tuyển cử tự do, khuyến khích lập hội, thành lập
bình dân học vụ, phát động các
phong
trào Từ
những
hoạt
động
này, đã đưa tới một bước cho người phụ nữ nắm lấy vũ khí văn hoa
khẳng
định vai trò của mình. Đó là sự
giải
phóng gần như triệt để mà
chế độ mới đã tạo ra cho họ. Như vậy
thực
hiện "nam nữ bình quyền"
không còn là một khẩu hiệu đơn
thuần
mà nó đã trở thành hiện
thực.
Từ
những
điều
kiện
thuận
lợi căn bản này, phụ nữ

Việt
Nam đã
tích cực phát huy vai trò của mình
trong
nhiều lĩnh vực, họ
tham
gia
vào các
hoạt
động chính trị, kinh tế, văn hoa xã hội, nhờ đó mà họ
trưởng thành về nhiều mặt. Đây cũng chính là sức
mạnh
của chế độ
mới - dân chủ cộng hoa. Từ đó nó giúp người phụ nữ hiểu
rằng
thành
quả mấu
chết
của cách
mạng
mà Đảng của giai cấp vô sản đem lại
cho họ là chính quyền. Do vậy,
những
hoạt
động của họ
nhất

những
hoạt
động chính trị đều

nhằm
vào việc bảo vệ và ủng hộ cách
mạng.
Trong đó
hoạt
động có ý
nghĩa
nhất
đối với người phụ nữ
128
trong
thời kỳ đầu của Nhà nước
Việt
Nam Dân chủ Cộng hoa là cuộc
Tổng tuyển cử Quốc hội. Lần đầu tiên
trong
lịch sử, tất cả
những
phụ
nữ là công dân của nước
Việt
Nam từ 18 tuổi trở lên được
tham
gia
vào việc bầu cử và ứng cử.
Trong tiến trình cách mạng, cùng với sự lớn mạnh của dân tộc,
địa vị của người phụ nữ
trong
xã hội dần được nâng cao, xoa bỏ được
những

tập quán lạc hậu của chế độ
phong
kiến,
bước đầu đã xác định
được vai trò và vị trí của mình
trong
xã hội.
Ngày
1.1.1960,
Chủ tịch Hồ Chí
Minh
đã ký sắc lệnh ban hành
Hiến
pháp mới (Hiến pháp năm
1959),
trong
đó điều 24 của
Hiến
pháp mới quy định: "Phụ nữ nước
Việt
Nam Dân chủ Cộng hoa có
quyền bình đẳng với nam
giới
về các mặt sinh
hoạt
chính trị, kinh tế,
văn hoa xã hội và gia đình". Công việc làm như
nhau,
phụ nữ được
hưởng lương

ngang
với nam
giới.
Nhà nước đảm bảo cho phụ nữ
công nhân và phụ nữ viên
chức
được
nghỉ
trước và sau khi đẻ mà vẫn
hưởng nguyên lương. Nhà nước bảo hộ quyền lợi của người mẹ và
của trẻ em, bảo đảm phát triển các nhà đỡ đẻ, nhà giữ trẻ, nhà nuôi
trẻ. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình.
Ngày
17.1.1960,
Hồ Chủ tịch cũng đã ký sắc lệnh ban hành luật
Hôn nhân và gia đình; Điều Ì của luật nghi rõ: "Nhà nước đảm bảo
việc
thực
hiện đầy đủ chế độ hôn nhân tự do và tiến bộ một vợ một
chồng, nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và con cái".
Luật này được xây
dựng
trên 4 nguyên tắc: hôn nhân tự do một vợ
một chồng, nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ
trong
gia
đình, bảo vệ quyền lợi con cái. Điều 12 của luật ghi rõ: "Trong gia
đình vợ
chồng
đều bình đẳng về mọi mặt". Điều 14 ghi

nhận
sự bình
đẳng
thật
sự của vợ
chồng
về mọi mặt "vợ và
chồng
đều có quyền tự
do
hoạt
động chính trị xã hội". Đây là bộ luật
quan
trọng
đối với phụ
nữ, về bộ luật
quan
trọng
này Hồ Chủ tịch đã nói: Luật lấy vợ lấy
chồng
nhằm
giải
phóng phụ nữ, tức là
giải
phóng
phần
nửa xã
hội
Nếu
không

giải
phóng được phụ nữ thì không
giải
phóng được một
nửa loài
người.
Luật hôn nhân và gia đình ra đời đánh dấu sự
thắng
lợi
của cuộc cách
mạng
giải
phóng phụ nữ.
Dưới
sự lãnh đạo của
Đảng và Bác Hồ, công cuộc
giải
phóng phụ nữ ngày càng được
khẳng định và hoàn thiện mà thể hiện rõ nét
nhất

Hiến
pháp năm
1980 và Luật hôn nhân gia đình năm 1986.
129
Quyền bình đẳng của phụ nữ không
những
được bảo vệ
bằng
pháp luật

Việt
Nam mà còn được bảo vệ
bằng
các công ước
quốc
tế

Việt
Nam
tham
gia, ví dụ như công ước về việc
loại
bỏ mọi phân
biệt đối với phụ nữ tại
Coopenhageo
(Đan Mạch) ngày
17.11.1980.
Dưới
chế độ mới, người phụ nữ đã được
quan
tâm, tạo điều
kiện
phát triển mọi mặt và điều
quan
trọng
hơn cả là sự giác ngộ,
thức
tỉnh
về chính vị trí và vai trò của bản thân người phụ nữ
Việt

Nam
dưới
chế độ mới được xã hội
thừa
nhận,
coi
trọng
và bảo vệ. Thực
hiện nam nữ bình đẳng
trong
điều
kiện
của xã hội hiện nay đã trở
thành động lực và mục tiêu của công cuộc xây
dựng
CNXH.
"Sự
nghiệp
giải
phóng phụ nữ triệt để và
thực
sự, việc
thực
hiện
nam nữ bình đẳng trước pháp luật cũng như
trong
đời
sống
gắn
liền

với
sự
nghiệp
cách
mạng
XHCN.
Chỉ có sự
nghiệp
cách
mạng
XHCN,
chỉ có Nhà nước dân chủ nhân dân
dưới
sự lãnh đạo của giai
cấp công nhân mới có sự
giải
phóng
thật
sự của người phụ nữ" (Phạm
Văn Đồng - Lời phát biểu tại Đại hội phụ nữ toàn
quốc
lần thứ 3 năm
1961).
Trong bối cảnh hiện nay,
giải
phóng phụ nữ chính là con đường
phát triển dân chủ tự do của loài người tiến bộ. Vì vậy, vấn đề
giải
phóng phụ nữ trở thành vấn đề chiến lược,
quốc

sách của Đảng trên
con đường xây
dựng
CNXH.
Đây là cuộc cách
mạng
sâu sắc và triệt
để
trong
lịch sử loài người và cuộc cách
mạng
sẽ
khống
thể
thực
hiện
được nếu không có sự
tham
gia góp mặt của phụ nữ. Sự
tham
gia
đóng góp của họ là vô cùng cần
thiết.
Nếu không kéo họ thoát ra
khỏi
sự nô dịch của tàn dư chế độ cũ và
những
cản trở
trong
việc

thực
hiện bình đẳng nam nữ, cũng như thu hút được phụ nữ
tham
gia công
tác xã hội thì không thể đảm bảo cho người phụ nữ tự do
thực
sự và
càng không thể xây
dựng
được chế độ dân chủ trên con đường xây
dựng
CNXH.
Có thể nói con đường đi lên
CNXH

Việt
Nam không thể thiếu
cuộc đấu
tranh
giải
phóng phụ nữ mà biểu hiện của nó là đẩy
mạnh
công cuộc phát triển kinh tế, xoa bỏ tình
trạng
nghèo nàn lạc hậu,
những
tư tưởng lạc hậu của chế độ cũ về phụ nữ, nâng cao trình độ
văn hoa cho phụ nữ
Hiến
pháp nước Cộng hoa xã hội chủ

nghĩa
Việt
Nam năm 1992, Chương V - Quyền và
nghĩa
vụ cơ bản của công
130
dân, Điều 63: Nhà nước và xã hội tạo điều
kiện
để phụ nữ nâng cao
trình độ mọi mặt, không
ngừng
phát huy vai trò của mình
trong

hội
Như vậy,
giải
phóng phụ nữ là quá trình cách
mạng
hoa chị em,
đưa chị em
tham
gia phát triển kinh tế đất nước, nâng cao trình độ
văn hoa
khoa
học kỹ
thuật,
trình độ
nghề
nghiệp, giác ngộ

nhận
thức
chính trị, cải tạo
quan
niệm cổ truyền lạc hậu, đưa chị em
tham
gia
quản
lý xã hội,
giải
phóng sức lao động của chị em. Sự
nghiệp
giải
phóng phụ nữ chỉ có thể thành công khi có
những
điều
kiện
đảm bảo
mà một
trong
những
điều
kiện
không thể thiếu đó là đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước. Trong đó, nền
tảng
và cơ sở
quan
trọng
nhất


những
đường lối của Đảng về công cuộc
giải
phóng phụ nữ
thời kỳ đầu đất nước giành độc lập.
131

×