Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong mối liên hệ với thực trạng hệ thống chính sách và pháp luật ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.28 KB, 41 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Hơn 10 năm qua, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào nước ta
đã góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội đất nước: có
những đóng góp to lớn vào tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP), đóng
góp vào đổi mới cơ cấu kinh tế, vào ngân sách Nhà nước, vào công cuộc giải quyết
việc làm, thực hiện công bằng xã hội, đồng thời cũng góp phần thúc đẩy mạnh mẽ
quan hệ kinh tế đối ngoại với các nước trong khu vực và thế giới, đưa nền kinh tế
nước ta trở thành một bộ phận của nền kinh tế thế giới - mét thành công bước đầu
trong việc hội nhập kinh tế quốc tế.
Chúng ta có thể khẳng định rằng, đường lối và chủ trương đẩy mạnh hoạt
động thu hút FDI ở nước ta của Đảng và Nhà nước là rất đúng đắn, bởi trong giai
đoạn hiện nay, chóng ta rất cần một nguồn vốn lớn cho đầu tư phát triển trong khi
tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế là rất thấp, vì vậy để phục vụ mục tiêu tăng trưởng
trong thời gian tới, chúng ta cần phải tích cực hơn nữa trong việc xây dựng và cải
thiện môi trường pháp lý nói riêng và môi trường đầu tư nói chung để kiến tạo một
“sân chơi bình đẳng” cho nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài phục vụ
cho chiến lược thu hút FDI ở nước ta.
Thực tế thời gian qua (từ năm 1996 đến nay) lượng vốn FDI vào nước ta đã
giảm sút liên tục và với tốc độ lớn. Theo đánh giá của các nhà đầu tư nước ngoài
và chuyên gia về đầu tư thì đó là hậu quả của rất nhiều nguyên nhân khách quan và
chủ quan, song họ cũng đồng ý rằng: môi trường pháp lý của nước ta chưa đồng bộ
ổn định lầ một trong những nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến tình trạng này.
1
Xuất phát từ thực tế trên, đề tài: “Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) trong mối liên hệ với thực trạng hệ thống chính sách
và pháp luật ở nước ta” hy vọng sẽ góp phần nhỏ bé vào nghiên cứu cơ sở lý luận
và đáp ứng phần nào yêu cầu thực tế đặt ra.
2. Nội dung đề tài và pham vi nghiên cứu:
- Nội dung đề tài: Trong khoảng thời gian rất ngắn và giới hạn về sự hiểu
biết, đề tài tập trung nghiên cứu lý luận chung về vốn FDI và chủ yếu là làm thế


nào để tăng cường thu hút vốn FDI nhưng chỉ đề cập ở khía cạnh chính sách và
luật pháp.
- Phạm vi nghiên cứu: tập trung vào thực trạng thu hút FDI trong những năm
gần đây trong mối liên hệ với thực trạng về hệ thống chính sách và pháp luật nước
ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài:
- Mục đích của đề tài: nhằm góp phần cải thiện hệ thống chính sách luật pháp của
nước ta về đầu tư nước ngoài để tăng cường sức hấp dẫn môi trường đầu tư ở nước
ta trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao.
- Nhiệm vụ của đề tài: Với mục đích nội dung, phạm vi nghiên cứu nêu trên, đề tài
thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau:
+ Làm rõ một số vấn đề lý luận về vốn FDI, khả năng và các điều kiện
thu hút FDI.
+ Phân tích tình hình thực tế về chính sách, luật pháp thu hút FDI ở
nước ta.
+ Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp về chính sách, luật pháp
nhằm làm tăng sức hấp dẫn trong môi trường đầu tư để thu hút FDI ở Việt Nam.
2
4. Ý nghĩa và đóng góp của đề tài:
- Có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong hoạch định cơ chế, chính sách về thu
hút FDI ở nước ta.
- Góp phần hoàn thiện môi trường pháp lý n tăng sức hấp dẫn trong thu hút
vốn đầu tư nước ngoài.
5. Kết cấu đề tài:
Ngoài lời mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo thì đề tài
gồm có 3 phần:
- Phần I: Tổng quan về đầu tư nước ngoài và các yếu tố tác động tới việc
thu hút FDI.
- Phần II: Thực trạng về chính sách luật pháp đối với việc thu hút FDI ở
Việt Nam.

- Phần III: Các biện pháp chủ yếu về chính sách, pháp luật nhằm tăng
cường sức hấp dẫn thu hút FDI ở Việt Nam.
3
PHẦN I. TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀ YẾU TỐ
TÁC ĐỘNG TỚI THU HÚT FDI.
i. Tổng quan về đầu tư nước ngoài và FDI ở Việt Nam.
1. Tổng quan về đầu tư nước ngoài và FDI.
Trước hết cần hiểu rằng đầu tư nước ngoài là hoạt động di chuyển vốn từ
nước này sang nước khác nhằm mục đích kiếm lời. Vốn đầu tư nước ngoài có thể
đóng góp dưới dạng tiền tệ, vật thể hữu hình, các hàng hoá vô hình hoặc các
phương tiện đầu tư đặc biệt khác như trái phiếu, cổ phiếu, các chứng khoán cổ
phần khác Người bỏ vốn đầu tư gọi là nhà đầu tư hay chủ đầu tư. Đầu tư nước
ngoài bao gồm hai loại hình đó là: đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư gián tiếp
nước ngoài.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
sửa đổi bổ sung tháng 6/2000 là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn
bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản bào để tiến hành hoạt động đầu tư theo quy định của
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Vốn FDI là vốn của các doanh nghiệp và cá
nhân nước ngoài đầu tư sang nước khác và trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý
quá trình sử dụng và thu hồi số vốn bỏ ra.
4
Vốn này thường không đủ lớn để giải quyết dứt điểm từng vấn đề kinh tế xã
hội của nước tiếp nhận đầu tư. Tuy nhiên, với vốn đầu tư trực tiếp, nước nhận đầu
tư không phải lo trả nợ, lại có thể dễ dàng có đước công nghệ, trong đó có cả công
nghệ bị cấm xuất theo con đường ngoại thương, vì lý do cạnh tranh hay cấm vận
nước nhận đầu tư; học tập được kinh nghiệm quản lý, tác phong làm việc theo lối
công nghiệp của nước ngoài, gián tiếp có chỗ đứng trên thị trường thế giới, nhanh
chóng được thế giới biết đến thông qua quan hệ làm ăn với nhà đầu tư. Nước nhận
đầu tư trực tiếp phải chia sẻ lợi Ých kinh tế do đầu tư đem lại với người đầu tư
theo mức độ góp vốn của họ. Vì vậy, có quan điểm cho rằng đầu tư trực tiếp sẽ làm

cạn kiệt tài nguyên của nước nhận đầu tư.
Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài gồm có:
+ Hợp đồng hợp tác kinh doanh.
+ Doanh nghiệp liên doanh.
+ Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.
_ Đầu tư gián tiếp nước ngoài : là loại hình đầu tư mà chủ đầu tư
không trực tiếp quản lý và sử dụng vốn.Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài là vốn của
chính phủ, của các tổ chức quốc tế, của các tổ chức phi chính phủ được thực hiện
dưới các hình thức khác nhau là viện trợ không hoàn lại, viện trợ hoàn lại, kể cả
vay theo hình thức thông thường. Một hình thức phổ biến của đầu tư gián tiếp tồn
tại dưới loại ODA - viện trợ phát triển chính thức của các nước công nghiệp phát
triển. Vồn đầu tư gián tiếp thường lớn nên có tác dụng mạnh và nhanh đối với việc
giải quyết dứt điểm các nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của nước nhận đầu tư.
Vai trò đầu tư gián tiếp đước thể hiện ở những thành tựu phát triển kinh tế xã hội
của Hàn Quốc, Philipin những năm sau giả phóng và đối với Việt Nam những năm
chống Mỹ cứu nước.
5
Tuy nhiên, tiếp nhận vốn dầu tư gián tiếo thường gắn với sự trả giá về mặt
chính trị và tình trạng nợ chồng chất nếu không sử dụng có hiệu quả vốn vay và
thực hiện nghiêm ngặt chế độ trả nợ vay. Các nước Đông Nam Á và NiCs Đông Á
đã thực hiện giải pháp vay dài hạn, vay ngắn hạn rất hạn chế và đặc biệt không vay
thương mại. Vay dài hạn lãi suất thấp, việc trả nợ không khó khăn vì có thời gian
hoạt động đủ để thu hồi vốn.
2. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam:
2.1. Vai trò của FDI với nước ta:
Hơn 10 năm qua, FDI đã đóng góp đáng kể vào quá trình đổi mới kinh
tế ở nước ta, có thể nêu ra ở đây đôi nét về sự đóng góp:
Một là, tỉ lệ đóng góp của khu vực đầu tư nước ngoài trong GDP tăng
dần qua các năm: năm 1993 đạt 3,6% đến năm 1998 đạt 9% và năm 1999 đạt
10,5%. Nguồn thu ngân sách nhà nước từ khu vực đầu tư nước ngoài liên tục tăng:

năm 1994 đạt 128 triệu USD, đến năm 1998 đạt 370 triệu USD (chiếm 6-7% tổng
thu ngân sách nhà nước). Nếu tính cả thu dầu khí thì tỉ lệ này đạt gần 20%.
Hai là, FDI là nguồn bổ sung vốn đầu tư quan trọng. Với các nước
đang phát triển nói chung và với Việt Nam nói riêng, FDI là nguồn bổ sung vốn rất
quan trọng . Ở Việt Nam, nguồn vốn tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế cìn thấp do vậy
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự bù đắp rất lớn sự thiếu hụt về vốn. Vốn đầu
tư nước ngoài trong các năm 1991-1995 chiếm 25,7% và từ năm 1996 đến nay
chiếm gần 30% tổng vốn đầu tư xã hội. Sự bù dắp cần thiết của vốn FDI làm giảm
thâm hụt cán cân vãng lai, góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.
Ba là, góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế. FDI làm chuyển dịch
mạnh cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá với tỉ trọng khu vực công nghiệp
và dịch vụ ngày càng tăng. Trong ngành công nghiệp, khu vực có vốn đầu tư nước
6
ngoài năm 1996 chiếm tỉ trọng 21,7% đến năm 2000 theo số liệu thống kê, giá trị
sản xuất công nghiệp của khu vực này trong 10 tháng đầu năm 2000 đạt khoảng
59.763 tỉ đồng, chiếm 36% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Trong đó
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia sản xuất 31 trên tổng 34 ngành
hàng chủ yếu của công nghiệp nước ta hiện nay, đang cung cấp 100% sản phẩm
trong 3 ngành dầu khí, ô tô và mì chính; 50-86% sản phảm trong ngành thép, cát, ti
vi, xà phòng, xe máy. Điều này đặc biệt quan trọng đối với nước ta đang trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà xuất phát điểm từ một nền nông nghiệp lác
hậu, trình độ sản xuất thấp kém.
Bốn là, tăng kim ngạch xuất khẩu, mở rộng thị trường. Khu vực đầu
tư nước ngoài có kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh: năm 1996 đạt 786 triệu USD,
năm 1998 đạt 1982 triệu USD và năm 1999 đạt 2200 triệu USD, tính chung trong
10 tháng đầu năm 2000 tổng kim ngạch xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài
là 5.524 triệu USD chiếm 47,4% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, đã góp phần
mở rộng thị trường xuất khẩu và thị trường trong nước, thúc đẩy hoạt động dịch vụ
phát triển.
Năm là, mang lại những lợi Ých về công nghệ , kỹ thuật hiện đại,

kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước phát triển. Do cơ chế mở cửa, nền kinh
tế thị trường thông thoáng, các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng
nhiều, trong nhiều lĩnh vực. Từ đó có sự chuyển giao và tiếp nhận công nghệ
nhanh và khá mạnh mẽ. Hiện nay, công nghệ chuyển giao vào trong nước của các
ngành dầu khí, viễn thông là công nghệ thuộc loại hiện đại của thế giới. Ở những
ngành khác, đại đa số các công nghệ chuyển giao dưới dạng đầu tư trực tiếp có
trình độ trung bình của thế giới nhưng so với công nghệ và thiết bị ta có từ trước
thì tiến bộ hơn nhiều. Vì vậy các doanh nghiệp trong nước đã có bước tiến khá dài
trong thời gian qua.
7
Sáu là, góp phần giải quyết khó khăn về việc làm cho người lao động,
tham gia phát triển nguồn nhân lực. Đến nay khu vực đầu tư nước ngoài đã thu hút
khoảng 30 vạn lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp khác như
xây dựng, cung ứng dịch vụ Một số đáng kể người lao động đã được đào tạo
nâng cao năng lực quản lý, trình độ năng lực có thể thay thế các chuyên gia nước
ngoài đảm nhận những công việc quan trọng, có uy tín đối với đối tác bên ngoài.
Sự đóng góp này tuy còn nhỏ bé song lại đáng quý trong điều kiện đang thiếu
nhiều việc làm ở nước ta.
2.2. Tình hình thu hút FDI ở Việt Nam.
Trong thời gian hơn 10 năm kể từ năm 1988 đến nay, hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào Việt Nam có thể chia thành 3 giai đoạn:
- Từ năm 1988 đến 1990: Thời kỳ bắt đầu. Trong thời kỳ này chúng ta chưa
có nhiều kinh nghiệm, chưa có sự hoàn thiện về pháp luật, nhà đầu tư nước ngoài
chưa quen với thị trường Việt Nam nên các dự án mới dừng lại ở mức độ thăm dò,
thử nghiệm, số dự án trong thời gian qua chưa nhiều, và chưa có quy mô lớn. Năm
1988 - năm đầu tiên thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài mới chỉ có 37 dự án với số
vốn 366 triệu USD.Tổng vốn đăng ký giai đoạn này là 1,582 tỷ USD.
- Từ năm 1991 đến 1995: Giai đoạn tăng trưởng nhanh. Đây là giai đoạn có
nhiều thay đổi về chất lượng hoạt động đầu tư nước ngoài. Tính đến 31/12/1994 thì
tính số dự án đã được cấp giấy phép là 1170 dự án với tổng vốn đầu tư là

11.899.061.453 USD cho hơn 700 công ty của gần 50 nước và vùng lãnh thổ trên
thế giới. Nét nổi bật trong thời kỳ này la hoạt động đầu tư đã trở nên sôi động, hiệu
quả hoạt động của đầu tư nước ngoài đã đước thể hiện ngày càng rõ rệt. Đỉnh cao
nhất của thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là năm 1995.
8
Vốn thực hiện quý i/1995 là 420 triệu USD, so với năm 1988 vốn đầu tư
năm 1994 tăng 11 lần. Số vốn đăng ký năm 1995 là 6,607 tỷ USD và tính đến cuối
năm 1995, vốn đăng ký đã đạt 16,244 tỷ USD với 1288 dự án và vốn thực hiện trên
30%. Tốc độ thu hút vốn đầu tư trực tiếp trong 5 năm qua tăng bình quân 50-60%
Quy mô bình quân của một dự án từ 3,5 triệu USD tăng lên gần 10 triệu USD (7,6
triệu 1991-1992, 9,9 triệu 1993, 10 triệu 1994). Nhịp độ thu hút đầu tư khá nhanh,
tăng bình quân 50% hàng năm. Đồng thời đã dần dần có nhiều dự án với tổng số
vốn lớn trên 10 triệu.
- Từ năm 1996 đến nay: Hoạt động đầu tư nước ngoài đã xuất hiện những
dấu hiệu suy giảm. Số vốn đăng ký năm 1996 vẫn tăng là 8,64 tỷ USD nhưng từ
năm 1997 thì số vốn này bắt đầu giảm xuống: 1997 là 4,649 tỷ USD; 1998 là 3,897
tỷ USD; 1999 là 1,567 tỷ USD và 2000 là 1,6 tỷ USD, tức là giảm rất nhiều so với
4 năm trước.
Cả số khách nước ngoài vào tìm kiếm cơ hội đầu tư cũng Ýt hơn trước, một
số công ty lơn đã cắt giảm nhân viên, nơi có đến 70% và đã có tuyên bố công khai
của một số nhà đầu tư lớn về môi trường đầu tư đã trở nên không thuận lợi ở nước
ta. Theo tính toán muốn giữ được tốc độ tăng trưởng cao và bền vững cho thời kỳ
tới thì hàng năm cần có vốn đầu tư nước ngoài được thực hiện là 8 đến 10 tỷ USD
trong khi đó con số thực tế trong những năm gần đây mới ở mức 1,5 đến 2 tỷ USD.
Điều đó cho thấy những vấn đề trọng đại đang và sẽ đặt ra cho lĩnh vực này.
II. YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI THU HÚT FDI Ở NƯỚC TA.
1. Sự ổn định thể chế chính trị - xã hội:
Việt Nam đước đánh giá là nước có sự ổn định về chính trị, do vậy đây là
một thuận lợi cho việc thu hút FDI vào nước ta. Chính trị ổn định sẽ khiễn các nhà
đầu tư an tâm vì không phải lo bị phá sản, bị quốc hữu hoá, bị mất hết vốn do

9
chính trị- xã hội bất ổn định. Nhiều nước tuy có tiềm năng tốt nhưng do chính trị
không ổn định khiến các nhà đầu tư nước ngoài hoang mang, lo sợ không dám đầu
tư hoặc đầu tư nhỏ nên hiệu quả không cao.
2. Thị trường bản địa:
Với dân số khoảng 80 triệu dân, Việt Nam có một thị trường tiêu thụ rộng
lớn và đầy tiềm năng. Song mức thu nhập của đại đa số nhân dân còn thấp nên nhu
cầu tiêu dùng còn ở mức hạn chế, sức mua yếu. Để khai thác được thị trường lớn
như vậy cần có nguồn vốn đầu tư lớn.
3. Sự phong phú, đa dạng của nguồn tài nguyên thiên nhiên và lợi thế của nước
ta:
Xu hướng phổ biến là FDI đổ về nơi có nhiều tài nguyên thiên nhiên phong
phú hoặc nơi có lợi thế địa lý, chính trị Điều đó có sức thuyết phục, vì bản chất
tìm kiếm lợi nhuận cao của dòng FDI sẽ cho phép chúng khai thác các đầu vào ở
đó một cách hiệu quả, giá rẻ. Việt Nam có nguồn tài nguyên phong phú, có vị trí
địa lý thuận lợi, lại nằm ở khu vực đước coi là phát triển năng động nhất thế giới
nên đây sẽ là yếu toó tác động tích cực tới việc thu hút FDI.
4. Nguồn nhân lực:
Theo các nhà kinh tế dòng đầu tư nước ngoài không chỉ đổ về nơi có nhiều
nhân công rẻ mạt, dồi dào mà thường đổ về nơi có nguồn nhân lực vời trình độ tay
nghề cao là chủ yếu. Thực tế là các nước phát triển đầu tư lẫn nhau là chính. Ở Việt
Nam lao động dồi dào, nhân công rẻ nhưng trình độ tay nghề quá thấp, thiếu các
nhà quản lý bản xứ cần thiết cho nhà đầu tư nước ngoài nên tỉ lệ đầu tư nước ngoài
còn rất thấp, thậm chí còn thấp hơn so với nhiều nước đang phát triển trong khu
vưc do không tạo ra lợi thế cạnh tranh về lao động kỹ thuật mặc dù giá lao động rẻ
hơn.
10
5. Cơ sở hạ tầng:
Cơ sở hạ tầng là yếu tố quan trọng tác động tới thu hút FDI bởi đó là điều
kiện trực tiếp ảnh hưởng đến việc đáp ứng cơ sở vật chất cho việc thực hiện các dự

án. Cơ sở hạ tầng của Việt Nam như giao thông vận tải, cầu cống, bến cảng, điện
nước trong thời gian qua đã được cải thiện đáng kể song vẫn còn nhiều mặt yếu
kém. Do vậy cần tăng cường đầu tư ngân sách cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng
kỹ thuật để tạo điều kiện thuận lợi cho thu hút FDI.
6. Sự ổn định, thống nhất của hệ thống chính sách, luật pháp:
Một hệ thống chính sách, luật pháp vừa ổn định, vừa rõ ràng sẽ giúp nhà đầu
tư nước ngoài hoạch định chiến lược đầu tư và kinh doanh dài hạn. Nhờ đó nhà đầu
tư mới có thể xây dựng được kế hoạch, bước đi và huy động nguồn lực để đạt mục
tiêu cẩ dầu tư trong ngắn hạn và dài hạn. Hệ thống chính sách và pháp luật nước ta
hiện nay được coi là yếu và chưa hiệu quả.
Có thể thấy những chính sách về tài chính, thuế khóa, chính sách thương mai quốc
tế là chưa ổn định, cũng chưa thật sự rõ ràng do vậy mà chưa tạo ra sức hấp dẫn và
niềm tin đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Luật pháp còn có nhiều sơ hở, chưa
đồng bộ và chưa kịp thời để điều chỉnh các quna hệ mới nảy sinh rất nhanh trong
hoạt động đầu tư nước ngoài cũng như các vấn đề khác có liên quan. Chính vì vậy
mà cần có phương hướng xây dựng những chính sách và pháp luật trong thời gian
tới để tạo môi trường thông thoáng hơn cho các nhà đầu tư vào Việt Nam.
11
PHẦN II: QUAN ĐIỂM VỀ CHÍNH SÁCH LUẬT PHÁP CỦA
NƯỚC TA VỀ THU HUT NGUỒN VỐN FDI
I . QUAN ĐIỂM CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT NHÀ NƯỚC VỀ THU HÚT FDI.
1.1 Quan điểm chủ trương, chính sách của Đảng Cộng Sản Việt Nam
12
Tư tưởng cơ bản của Đảng, Nhà nước ta trong thu hút FDI là: vốn đầu tư
trong nước giữ vai trò quyết, vốn đầu tư nước ngoài (FDI)có vai trò quan trọng
trong đầu tư phát triển kinh tế xã hội nước ta. Việc khuyến khích đầu tư trực tiếp
của nước ngoài phải đặt trong chiến lược phát triển và cơ chế quản lý đồng bộ, bảo
đảm chủ quyền, khả năng kiểm soát và định hướng của nhà nước đối với quá trình
phát triển kinh tế xã hội. Xây dựng cơ chế quản lý Nhà nước đối với việc thực hiện

các dự án có vốn đầu tư nước ngoài và các công trình hoàn thành xây dựng đi vào
hoạt động. Đi đôi với việc mở rộng nhiều hình thức đầu tư cần tăng dần tỉ trọng
của phía Việt Nam vào các công trình hợp tác liên doanh(văn kiện đại hội Đảng Vii
)
Trong “phương hướng nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5năm 1996-
2000 “ được đại hội Viii thông qua , dự tính nước ta sẽ thu hút và sử dụng có hiệu
quả khoảng 13-15 tỉ USD vốn đầu tư. Những năm tiếp theo (2001 - 2005) nếu
mức tăng trưởng GDP vào khoảng 15%, hệ số iCOR = 4, thì tỷ số đầu tư phải đạt
60%. Do đó tổng số vốn đầu tư khoảng 90 tỷ USD. Nếu nguồn vốn trong nước huy
động đạt 45 tỷ USD, vốn ODA đạt 10 tỷ USD thì vốn FDI phải đạt 35 tỷ USD.
1.2. Quan điểm về thu hút FDI trong chính sách, luật pháp của nhà
nước:
Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đang là mối quan tâm lớn của Đảng và nhà
nước ta. Chủ trương thu hút và sử dụng nguồn đầu tư nước ngoài là nhất quán và
lâu dài, nhằm phát huy nội lực và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế. Trong những
năm qua và đặc biệt thời gian gần đây, nhà nước đã áp dụng hàng loạt biện pháp
nhằm tạo lập môi trường kinh tế trong nước thuận lợi cho thu hút đầu tư và viện trợ
từ bên ngoài: xây dựng pháp chế kinh tế đồng bộ, tạo môi trường tài chính, tiền tệ
lành mạnh củng cố niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài.
13
Ngay tại điều 1, luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã khẳng định: “Nhà
nước cộng hoà xã hội chủ nghĩaViệt Nam khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và tuân thủ pháp luật của
Việt Nam bình đẳng và các bên cùng có lợi.
Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền sở hữu đối với
vốn đầu tư nước ngoài và các quyền lợi hợp pháp khác của nhà đầu tư nước ngoài
đầu tư vào Việt Nam.
Tại điều 20, luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cũng quy định: “Nhà nước
Việt Nam bảo đảm đối xử công bằng và thoả đáng đối với các nhà đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam.”.

Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành 12/97, chỉ ngay sau
thời kì đổi mới hơn 1 năm , từ 1990 đến nay đã được sửu đổi bổ xung 4 lần theo
hướng thông thoáng, rộng mở hơn để cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư.
Đồng thời, Chính phủ và các ban ngành có liên quan cũng liên tục có
những sửa đổi, bổ xung các quy định trong các chính sách và pháp luật có liên
quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam để thu hút hơn nữa nguồn
FDI.
Bên cạnh những thay đổi trên, để nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam an
tâm khi thực hiện kế hoạch kinh doanh của mình, điều 21a, luật đầu tư nước ngoài
sửa đổi, bổ xung tháng 5,6/2000 quy định như sau: “Trong trường hợp thay đổi quy
định của pháp luật Việt Nam làm thiệt hại đến lợi Ých của doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh thì doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh
itếp tục được hưởng các ưu đãi đã được qui định trong giấy phép đầu tư và được
nhà nước giải quyết thoả đáng theo các biện pháp sau đây:
14
 Thay đổi mục tiêu hoạt động của dự án
 Miễn giảm thuế trong khuôn khổ pháp luật
 Thiệt hại của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên tham gia hợp
đồng hợp tác kinh doanh được khấu trừ vào thu nhập chịu thuế của doanh
nghiệp
 Được xem xét bồi thường thảo đáng trong một số trường hợp cần thiết. Các
qui định mới ưu đãi hơn được ban hành sau khi được cấp giấy phép đầu tư
sẽ được áp dụng cho doanh nghiệp và các bên tham gia hợp đồng hợp tác
kinh doanh.
Nhìn chung, Đảng và nhà nước ta đã coi doanh nghiệp đầu tư nước ngoài
là một bộ phận quan trọng trong chiến lược công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Thực hiện chủ trương đó, hệ thống chính sách và pháp luật đã không ngừng được
cải thiện sửa đỏi và bổ xung theo hướng gnaỳ càng cởi mở, góp phần quan trọng
vào mục tiêu thu hút FDI của nước ta.

II . QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CHÍNH SÁCH LUẬT PHÁP
TRONG THU HÚT FDI NƯỚC TA
15
FDI là một bộ phận cấu thành của toàn bộ hoạt động đầu tư của quốc gia, là một
trong những nguồn lực bên ngoài rất quan trọng trong công cuộc phát triển đất
nước.
Với quan điểm nhất quán như vậy, luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã được
ban hành tháng 12/87 và đã được 4 lần sửa đổi bổ xung để góp phần đẩy mạnh thu
hút vốn đầu tư nước ngoài. Đồng thời nhiều chính sách và qui định khác cũnh được
sửa đổi và bổ xung từng bước để phù hợp với thông lệ quốc tế và thông thoáng hơn
với nhà đầu tư.Chính vì vậy , luồng vốn đầu tư nước ngoài vào nước tảtong những
năm qua (hơn 10 năm ) đã có những bước thăng trầm nhất định (do chịu ảnh hưởng
của nhiều yếu tố khác trong và ngoài nước ).Trên khía cạnh chính sách, luật pháp,
chúng tôi có thể nêu ra những kết quả cũng như yếu kém trong việc thu hút vốn
đầu tư nước ngoài như sau:
1 Những kết quả đạt được:
Thông qua những chủ trương cũng như các chính sách, pháp luật được ban
hành và thực hiện trong suốt những năm qua đã cho thấy một cách nhìn mới,
hướng đi mới đối với hoạt động thu hút FDI. Chóng ta thường nói “con đường
nước ta đang đi là chưa có tiền lệ” thì hợp tác đầu tư với nước ngoài trong điều
kiện nước ta lại càng chưa có tiền lệ. Chóng ta đang phải tự tìm tòi, khám phá.
Điều may mắn là qua hơn mười năm thực hiện luật đầu tư nước ngoài, trong nhịp
sống chung của công việc đổi mới, chúng ta đã thu được những kết quả ban đẩút
đáng khích lệ về các mặt: kinh tế, xã hội, tài chính , đã tạo dựng được một nền
móng khá vững chắc cho một lĩnh vực hết sức mới mẻ trong kinh tế đối ngoại.
Thời gian qua, hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam không những đưa lại cho
chóng ta bao nhiêu dự án, bao nhiêu vốn đầu tư, mà điều quan trọng không kém là
đã đưa lại cho chóng ta thêm những kinh nghiệm, bài học thực tế “được”và “ chưa
được”trong lĩnh vực mới mẻ này. Đặc biệt , nã đã cung cấp cho chóng ta thêm nhều
16

hiểu biết trong nhận thức về FDI, dẫn đến những thay đổi tích cực trong nhận thức
về FDI.
- Thứ nhất, phải nói đến kết quả trong nhận thức về FDI:
Đã có những thay đỏi tích cực trong nhận thức về FDI;chẳng hạn như ban đầu, có
hai luồng tư tưởng cho rằng : +Coi nhẹ , thậm chí lên án FDInhư là một nhân tố
có hại cho nền kinh tế đọc lập, tự chủ.
+Quá đề cao FDI, gắn cho nó một vai trò tích cực, bất
chấp điều kiện bên trong của đất nước, tách rời những cố gắng cải thiện môi trường
đầu tư, dẫn đến ỷ lại vào FDI mà không khai thác tối đa các lợi thế bên trong.
Nhưng hiện nay, quan điểm cho rằng FDI không gây tình trạng nợ nần, không
phương hại đến chủ quyền của đất nước đã trở nên phổ biến khẳng định: “đầu tư
trong nước là chủ yếu và đầu tư nước ngoài là quan trọng .” đã được thể hiện trong
các văn bản pháp quy của nhà nước. Chính điều này đã cho phép chúng ta có
những suy nghĩ và giải pháp đúng đắn hơn trong các chính sách vận động thu hút
FDI vào nước ta, thể hiện qua việc sửa đổi bổ xung và điều chỉnh các chính sách,
luật pháp trong hoạt động đầu tư nước ngoài của nhà nước ta thời gian qua và giai
đoạn sắp tới, được đa số các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá là rộng mở hơn.
Đồng thời quan điểm coi nước ta là một nơi “phì nhiêu” nhiều điều kiện thuận
lợi cho hoạt động đầu tư, nhà đầu tư nước ngoài sẽ đầu tư vào mà không cần phải
có biện pháp thu hút, khuyến khích đã được thay bằng các quan điểm như: chấp
nhận cạnh tranh trong thu hút FDI ; cần nhanh chân hơn trong thu hút đầu tư nước
ngoài(Đoàn Năng, vụ trưởng vụ pháp chế , bộ kế hoạch công nghiệp và môi
trường) trải chiếu hoa đón các nhà đầu tư (UBND tỉnh Bình Dương);cứ lo cho họ
thì họ sẽ lo cho mình
17
Nói tóm lại,nhận thức về FDI tại Việt Nam ngày càng thông thoáng và hợp lý hơn
với chuẩn mực quốc tế.
- Thứ hai, chúng tôi muốn đề cập đến mức độ hoàn thiện về hệ thống luật pháp
trong thu hút FDI, đây cũng là nội dung trọng tâm mà chúng tôi muốn đề cập đến ở
phần này.

Trước hết, chúng tôi muốn nói đến những thay đổi được đánh giá là hết sức
tích cực trong hệ thống chính sách và pháp luật của nước ta :
* Về luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam: từ khi được ban hành tháng
12/87 đã liên tục được sửa đổi, bổ xung cho phù hợp với xu hướng hội nhập quốc
tế và các yêu cầu khách quan cũng như chủ quan của việc thu hút FDI(xây dựng
những qui chế pháp lí phù hợp với từng giai đoạn của quá trình thu hút FDI). Cụ
thể sau 4 lần sửa đổi, bổ xung (90,96,2000), các khoản mục của luật ngày càng
rộng mở hơn, đặc biệt là lần sửa đổi bổ xung tháng 6/2000, đã có những thay đổi
quan trọng , chẳng hạn như:
 Về đất đai:
+Vấn đề đền bù, giải phóng mặt bằng: đây là một vướng mắc lớn lâu nay
vẫn làm chậm tiến độ triển khai dự án, khiến nhà đầu tư nước ngoài nản lòng, e
ngại. Vì vậy, luật đầu tư nước ngoài sửa đổi, bổ xung khoản 2 điều 46 quy định:
“trong trường hợp bên Việt Nam góp vốn bằng quyền sử dụng đất, thì bên Việt
Nam có trách nhiệm đền bù, giải phóng mặt bằng và hoàn thành các thủ tục để
chuyển quyền sử dụng đất. Trong trường hợp nhà nước Việt Nam cho thuê đất thì
uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có dự án đầu tư tổ chức
thực hiện việc đền bù giải phóng mặt bằng, hoàn thành các thủ tục cho thuê đất.”
18
Quy định này đã làm giảm nhẹ phần nào nghĩa vụ của bên nước ngoài về các hoạt
động có liên quan đến đất đai, giải phóng mặt bằng, được các nhà đầu tư nước
ngoài rất ủng hộ.
+Vấn đề đất đai khi doanh nghiệp đầu tư nước ngoài giải thể hoặc phá
sản: trong điều luật đầu tư nước ngoài 96, chưa có quy định về việc giải quyết vấn
đề này gây rất nhiều phiền hà, luật sửa đổi bổ xung đã khắc phục như sau: “trường
hợp bên Việt Nam tham gia doanh nghiệp liên doanh góp vốn bằng quyền sử dụng
đất mà doanh nghiệp bị giải thể hoặc bị phá sản thì giá trị còn lại của quyền sử
dụng đất đã góp vốn thuộc tài sản thanh lÝ của doanh nghiệp.” Trước đây,do
không có qui định này nên bên Việt Nam đã tận dông “thế sân nhà” chiếm đất gây
thiệt hại cho nhà đầu tư nước ngoài. Quy định mới này đã cho nhà đầu tư nước

ngoài an tâm hơn trong khi đầu tư vào Việt Nam.
 Về cân đối ngoại tệ, mở tài khoản tại ngân hàng Việt Nam và việc chuyển
nhượng vốn:
+ Về cân đối ngoại tệ: luật mới đã cho phép doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh được mua ngoại tệ tại
ngân hàng thương mại để đáp ứng các giao dịch vãng lai và các giao dịch được
phép khác theo quy định của pháp luật. Luật cũ hạn chế việc bán ngoại tệ cho
doanh nghiệp đầu tư nước ngoài và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh,
quy định này mặc dù có tính định hướng doanh nghiệp xuất khẩu, song lại gây khó
khăn cho các doanh nghiệp không có hàng xuất khẩu, không có nguồn thu ngoại tệ
tại chỗ (điều 33-luật sửa đổi bổ xung 2000).
+Về chuyển nhượng vốn và mở tài khoản ở nước ngoài: để khuyến khích
đầu tư nước ngoài, luật sửa đổi bổ xung đã có những quy địng thông thoáng hơn,
thể hiện trong điều 34-35: “nhà đầu tư trong doanh nghiệp 100%vốn nước ngoài có
quyền chuyển nhượng vốn của mình. Trong trường hợp chuyển nhượng vốn có
19
phát sinh lợi nhuận thì bên chuyển nhượng nép thuế thu nhập doanh nghiệp vối
thuế suất 25%”. Quy định trước đây là phải ưu tiên doanh nghiệp Việt Nam trong
chuyển nhượng vốn và được miễn, giảm thuế lợi tức chuyển nhượng vốn khi
chuyển nhượng cho doanh nghiệp Việt Nam. Quy định này là phù hợp thực tế hơn
vì doanh nghiệp Việt Nam có rất nhiều hạn chế về vốn,kỹ năng quản lý nên việc
tiếp nhận doanh nghiệp 100%vốn nước ngoài là rất khó thực hiện, như quy định
mới là đã rộng mở hơn, khả thi hơn.
Về đối tượng được hưởng ưu đãi:
Luật đầu tư nước ngoài (12/87) quy định chỉ dành một số ưu đãi cho các
doanh nghiệp liên doanh, không ưu đãi cho doanh nghiệp 100%vốn nước ngoài.
Trong thực tế, các dự án 100% vốn nước ngoài cũng gặp nhiều khó khăn: không có
sự hỗ trợ của đối tác Việt Nam, chịu rủi ro một mình, trong khi nhiều dự án này
cũng thuộc diện ưu tiên của Việt Nam. Vì vậy, sau nhiều lần sửa đổi, bổ xung, đến
luật đầu tư nước ngoài năm 96 và luật sửa đổi bổ xung 2000 đã quy định: “Nhà

nước cộng hào xã hội chủ nghĩa Việt Nam đảm bảo đối xử công bằng và thoả đáng
đối với các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.”
Các vấn đề về thuế:
+Thuế thu nhập doanh nghiệp: “doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
và bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh sau khi quyết toán thuế
với cơ quan thuế mà bị lỗthì được chuyển khoản lỗ sang năm sau, số lỗ này được
trừ vào thu nhập chịu thuế. Thời hạn được chuyển lỗ không quá 5 năm .” Trong khi
trước đây, quy định này chỉ được áp dụng đối với doanh nghiệp liên doanh. Quy
20
định này đã giảm phân biệt đối xử, khẳng định một lần nữa chủ trương đối xử công
bằng với mọi hình thức đầu tư nước ngoài.
+Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài: quy định trước sửa đổi bổ xung
2000 thì nhà đầu tư nước ngoài khi chuyển lợi nhuận ra nước ngoài phải nép một
khoản thuế là 5%,7%,10%, số lợi nhuận chuyển ra nước ngoài. Để cải thiện môi
trường đầu tư, tịa điều 43, luật sửa đổi bổ xung 2000 quy định: “khi chuyển lợi
nhuận ra nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài phỉa nép thuế là 3%, 5%, 7% số lợi
nhuận chuyển ra nước ngoài.” Như vậy, mức thuế phải nép đã giamr đi đáng kể,
đmả bảo mức lợi nhuận hợp lí cho nhà đầu tư nước ngoài sau khi thực hiện đầu tư
ở Việt Nam.
Các biện pháp bảo đảm:
+ Về tham gia hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,
điều 15 của luật đầu tư nước ngoài 1987 quy định “thời hạn không quá 20 năm,
trong trườnh hợp cần thiết, thời hạn này có thể dài hơn”. Nghị định 28 HĐ-BT,
điều 44 quy định các doanh nghiệp liên doanh được quyền thảo thuận một thời hạn
dài hơn nhưng không quá 50 năm”. Tuy nhiên, nhiều lĩnh vực đầu tư cần có một
thời gian dài hơn, vì vậy luật đầu tư sửa đổi bổ xung 2000 đã quy định thời gian
này có thể dài hơn nhưng không quá 70 năm. Điều này sẽ cho phép các nhà đầu tư
nước ngoài tích cực hơn trong tìm kiếm và đầu tư vào những địa bàn và lĩnh vực
khác nhau.
+ Về nguyên tắc hồi tố và bảo lãnh của chính phủ: để phù hợp với thông

lẹ quốc tế cũng như tăng thêm “chữ tín” đối với nhà đầu tư, luật sửa đổi, bổ xung
2000 đã có những quy định rõ ràng hơn, cụ thể minh bạch hơn (thể hiện trong điều
21a và điều 66).
21
+Quy định về thanh lý, phá sản: các quy định trước đây chưa có nội
dung: “trong trường hợp bên Việt Nam tham gia doanh nghiệp liên doanh góp vốn
bằng quyền sử dụng đất mà doanh nghiệp bị giải thể hoặc bị phá sản thì giá trị òcn
lại của quyền sử dụng đất đã góp vốn thuộc tài sản thanh lý của doanh
nghiệp”.Khoản 2,3,4 điều 53 luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ( luật 2000)

Quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài
+ Quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài : điều 55 được sửa đổi bổ xung
như sau: “chính phủ quy định việc thẩm định cấp giấy phép đầu tư, việc đăng kí
cáp giấy phép đầu tư, căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội,
lĩnh vực, tính chất, quy mô của dự án đầu tư, quyết định việc phân cấp cấp giấy
phép đầu tư cho uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định
việc cấp giấy phép đầu tư đối với các dự án đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế
xuất”.
+Điều 59, 60, 17 luật sửa đổi, bổ xung2000 cũng đã có những quy định,
ban hành những thay đổi về thủ tục hành chính, thời hạn cấp giấy phép đầu tư, chế
độ thanh tra , kiểm tra đối với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài theo hướng có lợi
hơn, thông thoáng hơn cho nhà đầu tư nước ngoài.
*Các văn bản cụ thể dưới luật, quy định cụ thể hoá và hướng dẫn thi hành
luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam:
Chóng ta nhận thấy, cùng với luật, các văn bản cụ thể dưới luật cũng có vai
trò không kém phần quan trọng. Chính vì vậy, cùng với các đợt sửa đổi bổ xung
(tháng 6-90 và tháng 12-92 cho đến đầu 1996, Thủ tướng chính phủ, các bộ, ngành
liên quan đã ban hành trên 90 văn bản pháp quy nhằm cụ thể hoá và hướng dẫn thi
hành luật. Chẳng hạn như nghị định 28 HĐ-BT. Đặc biệt là từ khi luật đầu tư nước
22

ngoài được sửa đổi bổ xung lần thứ 3, năm 96, chính phủ và các bộ, các ngành có
liên quan đã tích cực trong việc nghiên cứu và ban hành các văn bản pháp quy dưới
luật quy định và hướng dẫn thi hành hoạt động đầu tư nước ngoài và các hoạt động
liên quan. Có thể kể ra mộ số các văn bản sau:
+ NĐ 12/97 NĐ-CP ngày 18/2/97 quy định chi tiết các thủ tục khi hoạt
động đầu tư nhằm tạo dựng môi trường đầu tư thông thoáng hơn.
+ NĐ 10/1998 NĐ-CP ngày 31/1/98 về một số biện pháp khuyến khích và
bảo đảm hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam: khẳng định tính nhất
quán, ổn định của chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.

- Về thuế thu nhập doanh nghiệp: Đồng thời với việc ban hành luật thuế thu nhập
doanh nghiệp năm 1997 và có hiệu lực từ 1/1/99, chính phủ cũng đã ban hành
NĐ30/98 NĐ-CP ngày 13/5/98 quy định: thời điểm bắt đầu tính miễn giảm thuế
( điều này là có lợi cho các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài).
- Về thuế thu nhập cá nhân: cùng với nghị định 05- CP ngày 20/1/1995 của
Chính phủ, kèm theo thông tư hướng dẫn số 27- TC/TCT ngày 30/3/1995 của Bộ
tài chính, pháp lệnh sửa đổi một số điều của pháp lệnh thuế thu nhập đối với người
có thu nhập cao ngày 6/2/1997 và ngày 30/6/1999 của uỷ ban thường vụ Quốc hội
số 14/1999-PL-UBTVQH 10, và Bộ tài chính đang thực hiện sửa đổi, bổ sung
chính sách thuế thu nhập cá nhân. Chúng ta có thể hy vọng rằng, sẽ tạo ra nhiều
điều kiện tốt hơn, hạn chế được nhiều hơn những kêu ca phàn nàn.
Thứ nhất, Bộ Kế hoạch- Đầu tư và các Bộ, ngành liên quan, đã và đang tiếp tục
nghiên cứu chính sách giảm giá thuê đất, giảm giá dịch vụ, giảm giá điện nước,
vận tải cho phù hợp với mặt bằng giá trong nước và quốc tế, đơn giản hóa thủ tục
23
cấp visa,thủ tục xuất nhập cảnh cho giới doanh nhân nước ngoài đến làm ăn tại
Việt Nam.
Thứ hai, ngoài những đổi mới trong chính sách thuế, Chính phủ và các Bé , ngành
liên quan cũng đã tiến hành sửa đổi, bổ sung các quy định thuộc thẩm quyền Bộ,
Ngành mình như: luật đất đai, thuế sử dụng đất, luật hải quan, nghị định về quản lý

ngoại hối, luật dầu khí , quy định mức lương tối thiểu, ngạch lương của công nhân
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cho phù hợp với thực tế. Thêm vào đó là các
thông tư hướng dẫn việc bán ngoại tệ cho doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, thông
tư hướng dẫn chi tiết hoạt động đầu tư nước ngoài, thông tư về quản lý công trình
có vốn đầu tư nước ngoài
Như vậy, thông qua luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam như đã nêu ở trên cùng những cố gắng trong cải cách hệ thống chính
sách pháp luật có liên quan đến hoạt động đầu tư nức ngoài tại Việt Nam đã có ý
nghĩa rất lớn trong việc tạo lập môi trường đầu tư thông thoáng hơn. Đây được coi
là bước đột phá để cải thiện quan hệ với các nhà đàu tư nước ngoài, và được các
nhà đầu tư nước ngoài đón nhận một cách tích cực. Có thể nói, về cơ bản luật và
các chính sách liên quan đã phù hợp với chiến lược kinh tế mở, phù hợp với tình
hình, đảm bảo lợi Ých kinh tế xã hội của Việt Nam, vừa tăng tính hấp dẫn đối với
nhà đầu tư nước ngoài.
* Mức độ hoàn thiện về chính sách, pháp luật về FDI.
Qua hơn 10 năm thực hiện Luật đầu tư nước ngoài, trải qua nhiều lần sửa
đổi, bổ sung và ban hành luật mới, có thể nói, mặc dù hệ thống pháp luật, chính
sách về FDI còn nhiều bất cập song theo đánh giá của các nhà đầu tư nước ngoài
và các chuyên gia về đầu tư thì đã dần dần đi vào ổn định, tạo ra một cơ chế đồng
bộ hợp lý hơn và có những đóng góp ngày càng tích cực vào tăng thu hút FDI ở
nước ta. Kết quả của những đổi mới trong luật pháp thời gian qua đã có nhiều ý
24
kiến đánh giá khác nhau, đại đa số các nhà đầu tư nước ngoài và các chuyên gia
kinh tế đều cho rằng hệ thống chính sách, luật pháp đang có những hướng thay đổi
tích cực hơn, chủ động hơn và sát thực tế hơn. Đây là một kết quả đáng mừng ở
khía cạnh chính sách, luật pháp trong việc thu hút FDI cho dù những kết quả đó
còn là nhỏ bé. Trong pham vi đề tài này, chúng tôi chỉ xin đề cập đến một số thay
đổi cụ thể trong nội dung một số điều luật của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
sửa đổi bổ sung6/2000 so với những quy định trước đây.
2) . Những mặt hạn chế

Bên cạnh những kết quả thu được thì việc vận dụng những chính sách, pháp luật
váo thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng còn nhiều hạn chế
2.1) Nhận thức về FDI
Chóng ta phải thừa nhận rằng, đã có không Ýt có những cố gắng của các
cấp , các ngành trong việc thực hiện nhằm thay đổi tư duy nhận thức về FDI được
quy định cụ thể trong các chính sách luật pháp. Tuy nhiên, vẫn còn những tồn tại
mang tư duy sai lệch, không đúng theo đường lối, chủ trương của Đảng về FDI , có
những nhận thức khác nhau dẫn đến những lúng túng, thiếu nhất quán trong hoạch
định chính sách, xử lý vấn đề liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài cần tiếp
tục được thay đổi bằng những biện pháp mạnh mẽ chẳng hạn như:
+ Luật đầi tư nước ngoài đã quy định : “Nhà nước Việt Nam đảm bảo đối
xử công bằng với mọi loại hình đâù tư FDI” nhưng trong quá trình thực hiện,loại
hình doanh nghiệp liên doanh lại được hưởng nhiều ưu đãi “bất thành văn” hơn.
+ Nhiều chủ trương của chính phủ được hiểu sai và thực hiện sai: chẳng
hạn như Chính phủ khuyến khích các địa phương xây dựng cơ sở hạ tầng để thu
hút đầu tư vào địa phương mình, nhưng để thu hút FDI vào địa bàn mình, uỷ ban
nhân dân, chính quyền địa phương đã tung ra những biện pháp khuyến khích
25

×