LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay trong các đối tác đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam,
Singapore được đánh giá là một nhà đầu tư quan trọng và đầy tiềm năng đối với Việt
Nam. Việc thực hiện hiệu quả các dự án đầu tư FDI từ Singapore sẽ đem lại cho Việt
Nam nhiều lợi ích lâu dài như tăng trưởng về kinh tế, giải quyết được các vấn đề việc
làm cho người lao động, góp phần tăng cường hoàn thiện môi trường đầu tư, giúp
Việt Nam tiếp cận được các công nghệ hiện đại và chuyển dịch cơ cấu ngành theo
định hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Đối với Singapore, qua nghiên cứu và đánh giá của các nhà đầu tư, Việt Nam
đang dần trở thành một môi trường đầu tư hấp dẫn nhất trong khu vực ASEAN cùng
với Thái Lan. Bởi một hệ thống luật pháp được cải thiện một cách thông thoáng và
tạo ra nhiều thuận lợi cho các nhà đầu tư, cũng như mức độ an toàn của thị trường và
đặc biệt là sự kiện năm 2007 Việt Nam chính thức gia nhập vào tổ chức thương mại
thế giới WTO.
Tuy nhiên, đánh giá một cách tổng quan, lượng vốn FDI của Singapore đổ vào
Việt Nam trong thời gian qua vẫn chưa thực sự là lớn nhất so với tiềm năng của đất
nước này, cũng như còn tồn tại một số hạn chế trong vấn đề thu hút FDI của
Singapore. Do vậy, nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp từ Singapore vào Việt
Nam, em đã quyết định chọn đề tài “ Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài ( FDI) từ Singapore vào Việt Nam ”. Hi vọng rằng đề tài
này sẽ giúp cho Việt Nam từng bước phát triển trong hoạt động thu hút đầu tư trực
tiếp FDI từ Singapore.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Thông qua việc tìm hiểu các lý thuyết về đầu tư trực tiếp nước ngoài, các yếu
tố ảnh hưởng và phân tích thực trạng về hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ
Singapore vào Việt Nam. Bên cạnh đó, chỉ ra những thành tựu và hạn chế của hoạt
động này trong thời gian qua, đồng thời so sánh với các đối tác đầu tư khác. Căn cứ
vào các vấn đề nêu trên, bài nghiên cứu đưa ra những giải pháp kiến nghị nhằm tăng
1
cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ Singapore vào Việt Nam
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu là FDI của Singapore đầu tư vào Việt Nam
- Phạm vi nghiên cứu là tình hình thu hút đầu tư trực tiếp từ Singapore vào Việt
Nam trong giai đoạn 2000 – 2007 4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Vận dụng các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương
pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,phương pháp so sánh các tư liệu, số liệu về
tình hình thu hút FDI Singapore vào Việt Nam và so sánh với các đối tác đầu tư
khác như Hàn Quốc, Đài Loan, Singpore…. Qua đó, rút ra các kết luận làm cơ sở để
đưa ra các giải pháp cho việc nghiên cứu
5. Kết cấu của đề tài
Chương 1: Cơ sở lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và sự cần
thiết phải tăng cường thu hút FDI từ Singapore vào Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ Singapore vào Việt
Nam trong điều kiện gia nhập WTO
Chương 3: Định hướng và giải pháp tăng cường thu hút FDI từ Singapore
vào Việt Nam trong điều kiện gia nhập WTO
2
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI)
VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI TĂNG CƯỜNG THU HÚT FDI TỪ
NHẬT BẢN VÀO VIỆT NAM
1.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1.1 Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những hoạt động kinh tế quốc tế quan
trọng và rất cần thiết đối với tất cả các quốc gia trên thế giới. Đầu tư trực tiếp nước
ngoài ngày càng được phát triển, mở rộng trên mọi phương diện như qui mô đầu tư,
lĩnh vực đầu tư, địa bàn đầu tư, hình thức đầu tư…..và đem lại nhiều lợi ích thực tiễn
cho các quốc gia nhận đầu tư, cũng như các quốc gia đi đầu tư. Vậy để hiểu rõ ràng
hơn về vấn đề này, người ta đã đưa ra rất nhiều khái niệm khác nhau về đầu tư trực
tiếp nước ngoài, viết tắt là FDI như sau:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài( FDI ) là một loại hình di chuyển vốn giữa các quốc
gia, trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành
hoạt động sử dụng vốn đầu tư.
Theo Hiệp hội luật quốc tế, Đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự di chuyển vốn từ
nước của người đầu tư sang nước của người nhận sử dụng nhằm xây dựng ở đó
những xí nghiệp kinh doanh hoặc dịch vụ.
Theo tổ chức thương mại thế giới ( WTO ), Đầu tư trực tiếp nước ngoài xảy ra
khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có một tài sản ở một nước khác
( nước thu hút đầu tư ) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương tiện quản lý là thứ
để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác trong phần lớn trường hợp cả nhà
đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong
những trường hợp đó nhà đầu tư thường hay gọi là công ty mẹ và các tài sản được
gọi là công ty con hay chi nhánh công ty.
Theo Luật đầu tư của Việt Nam, Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc các tổ chức
và cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào được
chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác kinh doanh trên cở sở hợp đồng hoặc
thành lập doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
3
Vậy về thực chất, FDI là loại hình đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư bỏ vốn để xây
dựng hoặc mua phần lớn, thậm chí toàn bộ các cơ sở kinh doanh ở nước ngoài để là
chủ sở hữu toàn bộ hay từng phần cơ sở đó và trực tiếp quản lý điều hành hoặc tham
gia quản lý điều hành hoạt động của đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư. Đồng thời, họ
cũng chịu trách nhiệm theo mức sở hữu về kết quả sản xuất kinh doanh của dự án.
1.1.2 Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
FDI bao gồm có 4 đặc điểm cơ bản sau đây:
Về tỉ lệ góp vốn, tỉ lệ góp vốn của các nhà đầu tư nước ngoài trong vốn pháp
định của dự án đạt mức độ tối thiểu tùy theo luật đầu tư của từng nước qui định. Ví
dụ, theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (có sửa đổi) qui định chủ đầu tư nước
ngoài phải góp vốn tối thiểu là 30% vốn pháp định của dự án. Trong khi đó, tỉ lệ góp
vốn tối thiểu ở Mỹ là 10%.
Về quyền quản lý, Các nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp quản lý và điều hành dự
án mà họ bỏ vốn đầu tư. Quyền quản lý doanh nghiệp phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn
của chủ đầu tư trong vốn pháp định của dự án. Nếu doanh nghiệp góp 100% vốn
trong vốn pháp định thì doanh nghiệp hoàn toàn thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước
ngoài và cũng do họ quản lý toàn bộ.
Về kết quả thu được từ hoạt động kinh doanh của dự án thì được phân chía cho
các bên theo tỷ lệ góp vốn vào vốn pháp định sau khi nộp thuế cho nước sở tại và trả
lợi tức cổ phần nếu có.
FDI thường được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại
toàn bộ hoặc từng phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc mua cổ phiếu để thôn tính
hoặc sát nhập các doanh nghiệp với nhau.
1.1.3 Hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có 3 hình thức chủ yếu được áp dụng và phổ biến
tại các nước trên thế giới là: Hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh,
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
1.1.3.1 Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức trong đó bên chủ đầu tư nước ngoài
và bên nước sở tại cùng hợp tác để sản xuất ra một loại sản phẩm hoặc một nhóm sản
phầm nào đó. Không hình thành pháp nhân mới dưới hình thức doanh nghiệp hoặc
công ty theo qui định của luật pháp nước sở tại, mà dựa trên hợp đồng đề cùng phối
4
hợp, qui mô nhỏ, thời gian ngắn hoặc quan hệ hợp tác lâu dài, thường xuyên, thủ tục
đơn giản. Quyền lợi và trách nhiệm của các bên tham gia được xây dựng trên cơ sở
các điều khoản của hợp đồng đã kí kết. Nếu lợi ích không thỏa mãn thì không phải
công bố phá sản chỉ rút hợp đồng.
Hình thức này có ưu điểm vì thủ tục đơn giản dễ thực hiện, tiết kiệm được thời
gian và chi phú để đưa vốn vào triển khai dự án đầu tư. Thông thường nếu sản xuất
theo hình thức hợp tác kinh doanh và sản xuất dựa vào sự sẵn có của bên nước sở tại,
có thể bên đầu tư chỉ cần góp vốn công nghệ rồi đưa vào sản xuất luôn. Đối với công
ty mới tốn kém xây dựng cơ sở vật chất, xin giấy phép và giải phóng mặt bằng… thời
gian để được thực hiện dự án sẽ kéo dài.
Ngược lại, hợp tác kinh doanh thường không phối hợp để phát huy một cách tối
đa thế mạnh của các bên tham gia. Đồng thời những mâu thuẫn hoặc khó khăn trong
quá trình triển khai vốn đầu tư thường không được giải quyết một cách kịp thời. Vì
nếu thành lập doanh nghiệp hai bên phối hợp hợp đồng không làm việc trực tiếp mà
qua các bàn bạc, trao đổi, đàm phán, sản xuất kinh doanh bị ngưng trệ, không bắt kịp
thị trường. Nếu để phát triển lâu dài, tận dụng thế mạnh hai bên cùng có, họ sẽ vẫn
tìm hình thức liên doanh là phổ biến hơn.
1.1.3.2 Doanh nghiệp liên doanh
Là hình thức trong đó bên chủ đầu tư nước ngoài và bên nước sở tại cùng tham
gia góp vốn đề thành lập một pháp nhân mới theo qui định của luật pháp nước sở tại
thông thường dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần.
Trong hình thức này quyền lợi và trách nhiệm của các bên tham gia được xác định
dựa trên tỷ lệ góp vốn
Hình thức doanh nghiệp kiên doanh có những ưu điểm nổi bật như khả năng
kiểm soát đầu tư của nước sở tại tốt hơn. Với hình thức này sẽ tạo điều kiện phát huy
tối đa thế mạnh, lợi thế của các bên tham gia để có thể lựa chọn lĩnh vực đầu tư cũng
như việc xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh và áp dụng các biện pháp quản lý một
cách có hiệu quả nhất, đồng thời hạn chế được rủi ro do thiếu thông tin về môi trường
đầu tư ở nước sở tại. Đặc biệt với các nước sở tại sẽ có nhiều cơ hội học tập kinh
nghiệm quản lý, và có cơ hội làm việc cùng các chủ đầu tư lớn có kinh nghiệm.
5
Bên cạnh đó, hình thức này cũng đem lại những hạn chế nhất định. Hai bên hợp
tác nếu đạt trình độ tương đồng thì đem lại hiệu quả rất tốt nhưng ngược lại nếu có sự
chênh lệch về trình đồ thì sẽ dẫn đến nhiều khuyết điểm, nhiều mâu thuẫn. Do vậy
các chủ đầu tư thường lựa chọn hình thức này ở giai đoạn đầu thâm nhập thị trường.
Sau đó một thời gian thường chuyển sang hình thức 100% vốn nước ngoài để triệt
tiêu những xung đột, và dễ dàng để nắm được toàn quyền ra quyết định.
1.1.3.3 Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Với hình thức đầu tư này, chủ đầu tư nước ngoài thực hiện đầu tư toàn bộ vốn
để thành lập doanh nghiệp theo qui định của luật pháp nước sở tại và họ là người có
toàn quyền quyết định đối với các hoạt động triển khai dự án đầu tư, do đó họ được
hưởng toàn bộ lợi ích do dự án đem lại. Khi đó, nước sở tại chỉ tham gia với tư cách
là người cung cấp dịch vụ cơ sở hạ tầng và người lao động, cũng như nguồn vào
khách hàng.
Khi đầu tư dưới hình thức Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài nhà đầu tư
nước ngoài thường có sự tự chủ hoàn toàn trong hoạt động của công ty từ việc xây
dựng chiến lược phát triển dài hạn đến hoạt động cụ thể trước mắt của doanh nghiệp.
Cuối cùng, chủ đầu tư thường nhận được lợi ích lớn nhất và nắm được toàn bộ lợi
nhuận thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, khi đầu tư vào một thị trường mới và khi chưa nắm bắt được môi
trường kinh tế, xã hội và pháp lý của nước nhận đầu tư, doanh nghiệp sẽ phải đổi mặt
với rất nhiều khó khăn khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Do vậy rủi ro
cho doanh nghiệp là rất lớn. Đó chính là nhược điểm lớn nhất của hình thức doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài
Ngoài 3 hình thức kể trên, tùy theo luật đầu tư của từng nước qui định mà mỗi
nước còn đưa ra những hình thức đầu tư khác rất linh hoạt nhằm tăng sự hấp dẫn cho
môi trường đầu tư của mình. Theo Luật đầu tư của Việt Nam năm 2005 qui định có 7
hình thức đầu tư trực tiếp ( trong đó bao gồm 3 hình thức căn bản trên) còn có các
hình thức sau: i) đầu tư phát triển kinh doanh; ii) mua cổ phần hoặc góp vốn để tham
gia quản lý hoạt động đầu tư; iii) đầu tư thực hiện việc sát nhập và mua lại doanh
nghiệp. (trích Luật đầu tư Việt Nam năm 2005)
6
1.1.4 Vai trò quan trọng của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Ngày nay, dòng chảy vốn FDI đang diễn ra theo hướng đa phương, đa chiều.
Bởi những nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển ở các nước đều gia tăng mạnh mẽ, tạo
nên lực hút vốn đầu tư. Bên cạnh đó, xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa đang diễn
ra ở mọi nơi trên thế giới ngày càng sâu, rộng. Từ những điều kể trên, việc di chuyển
vốn FDI là vô cùng cần thiết, vì vậy FDI đóng vai trò rất quan trọng đối với các nước
chủ đầu tư, cũng như các nước tiếp nhận đầu tư.
1.1.4.1 Đối với nước đi đầu tư
Về mặt kinh tế, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đem lại cho các chủ đầu
tư nước ngoài rất nhiều hiệu quả. Bởi lẽ, chủ dầu tư nước ngoài thường trực tiếp quản
lý và điều hành các dự án nên họ có một trách nhiệm rất cao, đưa ra các quyết định
đem lại lợi ích cao nhất. Do vậy có thể đảm bảo hiệu quả của vốn FDI cao. Bên cạnh
đó, các chủ đầu tư nước ngoài có thể giảm được giá thành sản phẩm do khai thác
được nguồn lao động giá rẻ hoặc gần nguồn nguyên liệu hoặc gần thị trường tiêu thụ
sản phẩm. Nhờ đó mà nâng cao hiệu quả kinh tế của vốn FDI, tăng năng suất và thu
nhập quốc dân.
Về mặt xã hội, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, đã thiết lập một mối quan hệ
ngoại giao hữu nghị rất tốt giữa hai nước đầu tư, và cùng nhau hướng tới một sự phát triển
cao. Thực chất, chủ đầu tư nước ngoài đã mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm một
cách rộng rãi cả về công nghệ và thiết bị trong khu vực và thế giới.
Cuối cùng, tránh được những rào cản của môi trường đầu tư nước sở tại, cụ thể
là hàng rào bảo hộ mậu dịch và phi mậu dịch của nước sở tại vì thông qua FDI mà
chủ đầu tư nước ngoài xây dựng được các doanh nghiệp của mình nằm trong lòng các
nước thi hành chính sách bảo hộ.
Bên cạnh những lợi ích và vai trò to lớn mà FDI mang lại, thì các nước đầu tư
cũng cần lưu ý về chính sách phù hợp để kết hợp khéo léo và cân đối giữa hoạt động
đầu tư trong nước và hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Về phía doanh nghiệp cần
nghiên cứu kĩ lưỡng những nguy cơ rủi ro có thể gặp phải và đưa ra các biện pháp
phòng ngừa cũng như hạn chế tối đa những rủi ro.
1.1.4.2 Đối với nước nhận đầu tư
Thu hút FDI đã trở thành chính sách ưu tiên ở nhiều nước trên thế giới, cả nước
phát triển lẫn nước đang phát triển. Điều này cho thấy vai trò quan trọng của FDI đối
7
với nước nhận đầu tư. Xét trên giác độ của một nước đang phát triển như Việt Nam.
Chúng ta sẽ thấy các lợi ích thiết yếu mà Việt Nam đạt được khi tăng cường thu hút
FDI
Về mặt kinh tế, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là cơ hội ớn để tạo điều
kiện cho các nước nhận đầu tư khai thác được luồng vốn từ bên ngoài, những lợi thế
của mình về tài nguyên thiên nhiên.. và tiếp thu được khoa học công nghệ hiện đại,
kinh nghiệm kinh doanh từ các nước chủ đầu tư.Do vậy đầu tư trực tiếp nước ngoài
hỗ trợ cho việc tăng vốn đầu tư phát triển nền kinh tế toàn xã hội, góp phần giúp các
doanh nghiệp trong nước khắc phục được tình trạng thiếu vốn. Từ đó tạo tiền đề để
tăng khả năng tái sản xuất xã hội cả về chiều rộng và chiều sâu. Cuối cùng, đầu tư
nước ngoài đóng góp cao vào tốc độ tăng trưởng kinh tế và động lực cho phát triển
công nghiệp.
Về mặt xã hội, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo thêm việc làm, và giải quyết
việc làm ổn định cho hàng trăm ngàn người lao động. Đồng thời, tăng thu nhập cho
người lao động và góp phần khắc phục tình trạng thiếu vốn của các doanh nghiệp,
góp phần đào tạo nguồn nhân lực thích nghi với điều kiện làm việc trong các xí
nghiệp công nghiệp ở trình độ cao. Một vai trò quan trọng của FDI mang lại cho
nước nhận đầu tư về khía cạnh xã hội là góp phần xóa đói giảm nghèo ( đặc biệt tại
các nước đang phát triển).
Về môi trường đầu tư, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp các nước tiếp
nhận đầu tư có sự hoàn thiện cao về hệ thống luật pháp để phù hợp với mục tiêu định
hướng phát triển của đất nước, cũng như tạo sự thông thoáng tạo sự hấp dẫn của môi
trường đầu tư đối với các nước chủ đầu tư. Bên cạnh đó, các nước đều tập trung thu
hút đầu tư nước ngoài nên mức độ cạnh tranh trong khu vực và trên thế giới ngày
càng cao và mạnh mẽ. Nhờ vậy giúp các doanh nghiệp trong nước nâng cao năng lực
cạnh tranh của mình.
1.1.5 Những yêu tố ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài
1.1.5.1 Chính sách đầu tư
Đây là nhân tố đặc biệt quan trọng và quyết định lợi thế cạnh tranh của một
8
nước thông qua việc ban hành và thực thi các chính sách và hệ thống pháp luật.
Chính sách đầu tư nước ngoài có thể được phân thành: chính sách mặt hàng ( ngành
và lĩnh vực qui định đầu tư), chính sách thị trường (đối tác và địa bản đầu tư), chính
sách hỗ trợ đầu tư. Để thực hiện được chính sách đầu tư, mỗi nước đều đưa ra cho
mình một hệ thống các công cụ đặc trưng bao gồm: i) công cụ tài chính; ii) công cụ
phi tài chính.
a. Các công cụ tài chính
Các công cụ tài chính khuyến khích về thuế là những quy định được đề ra với
mục đích làm giảm gánh nặng về thuế cho các nhà đầu tư nước ngoài. Chẳng hạn,
nhiều nước đang phát triển cho phép các dự án FDI mới được hưởng thời hạn miễn
thuế nhất định, đôi khi thời hạn này kéo dài tới hơn 10 năm. Nhóm các hình thức
khuyến khích về thuế phổ biến gồm thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá
nhân, thuế nhập khẩu đầu vào sản xuất, thuế giá trị gia tăng, thuế chuyển lợi nhuận ra
nước ngoài, qui định về tỉ lệ và hình thức góp vốn đầu tư, chính sách hỗ trợ tín dụng
và cung cấp ngoại tệ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (áp dụng cho
doanh nghiệp vừa và nhỏ)
b. Các công cụ phi tài chính
Các công cụ và biện pháp phi tài chính được sử dụng rất đa dạng. Một số công
cụ thường dùng bao gồm:
• Qui định về qui trình và thủ tục thẩm tra xét duyệt và cấp giấy phép đầu tư
• Xây dựng và thực hiện qui hoạch tổng thể và chi tiết của toàn quốc gia của
từng ngành, lĩnh vực và từng địa phương trong việc thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài một cách thống nhất
• Quiđịnh về hình thức đầu tư và việc cho phép chuyển đổi giữa các hình thức
đầu tư
• Qui định về thời hạn hợp đồng của dự án đầu tư
• Qui định về quyền sử dụng đất và chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
các chủ đầu tư
• Qui định về việc tuyển dụng lao động
9
Ngoài ra một số quốc gia còn sử dụng biện pháp qui định tỉ lệ nội địa hóa với
các sản phẩm và sử dụng nguyên liệu đầu vào trong nước với các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài và các biện pháp này sẽ bị xóa bỏ khi các quốc gia là thành
viên chính thức của WTO. Trong thực tế, ngoài việc thực hiện các biện pháp quản lý
điều tiết, chính phủ các quốc gia còn thực hiện các biện pháp hỗ trợ để khuyến khích
thu hút đầu tư nước ngoài như các biện pháp xúc tiến đầu tư, hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ
tầng, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, cải cách hành chính, nhằm tiết kiệm thời gian và
chi phí cho nhà đầu tư, hỗ trợ giải phóng mặt bằng và thực hiện chính sách đền bù…
1.1.5.2 Điều kiện cơ sở hạ tầng
Điều kiện về cơ sở hạ tầng giống như một cầu nối quan trọng giữa các nước chủ
đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư. Việc hoàn thiện và đồng bộ cơ sở hạ tầng làm điều
kiện tiên quyết cho nền kinh tế vận hành có hiệu quả và việc thực hiện các dự án đầu
tư được dễ dàng và nhanh chóng. Bên cạnh việc phát triển cơ sở hạ tầng như cầu
đường, giao thông, khu công nghiệp chế xuất.
Thực tế cho thấy, cùng với nguồn vốn ngân sách nhà nước thì vốn ODA là một
nguồn vốn quan trọng để giúp phát triển các vấn đề cơ sở hạ tầng thiết yếu của xã
hội. Theo thống kê, Singapore là một nước viện trợ ODA lớn nhất Việt Nam. Từ năm
2002 – 2006, tổng vốn ODA Singapore vào Việt Nam 4,1 tỷ $. Năm 2007, Singapore
dành cho Việt Nam 1,1 tỷ $. Do đó, cơ sở hạ tầng của Việt Nam đã được nâng cấp
đáng kể vào tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh như giảm chi phí
đầu tư cho các doanh nghiệp Singapore khi đầu tư vào Việt Nam, tạo tiền đề nhằm
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài mạnh mẽ.
Tiếp theo đó, là sự phát triển của các khu công nghiệp và chế xuất. Đây là điều
kiện đủ để giúp các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài an tâm khi lựa chọn 1 thị trường
đầu tư. Bở lẽ, khu công nghiệp, chế xuất đã tạo đà cho tăng trưởng công nghiệp, tạo
nguồn hàng xuất khẩu, từng bước phát triển công nghiệp theo quy hoạch, tránh tự
phát, phân tán, tiết kiệm đất, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư phát triển hạ tầng. Phát
triển các KCN cũng để thúc đẩy các cơ sở sản xuất dịch vụ cùng phát triển, làm cơ sở
cho việc phát triển các khu đô thị, phân bố hợp lý lực lượng sản xuất.
Trong thời gian hiện nay, các nước nhận đầu tư cũng cần tập trung phát triển hệ
10
thống hạ tầng mềm của các doanh nghiệp như viễn thông, hệ thống tài chính ngân
hàng, bảo hiểm… nhằm tạo ra một chất bôi trơn và tạo lực hút cho môi trường đầu tư
của chính mình.
1.1.5.3 Nguồn nhân lực
Nguồn lao động có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng và hiệu quả hoạt động
kinh doanh của nhà đầu tư. Chính vì vậy nguồn lao động cũng sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến sức hấp dẫn của môi trường đầu tư, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của
nước nhận đầu tư. Bài nghiên cứu sẽ xem xét yếu tố nguồn nhân lực theo các lĩnh
vực đầu tư và những yêu cầu của các doanh nghiệp có vốn FDI đối với nguồn nhân
lực tại các nước nhận đầu tư
Với mỗi nhóm lĩnh vực đầu tư khác nhau thì yêu cầu đòi hỏi đối với nguồn
nhân công là khác nhau. Đầu tư vào các ngành công nghiệp sản xuất với trình độ cao
và tinh vi như điện tử, ô tô, xe máy... thì điều thiết yếu và rất quan trọng là trình độ
cao, lành nghề của nhân công, đi kèm với mức lương vừa phải sẽ là điểm hấp dẫn đặc
biệt các nhà đầu tư trong lĩnh vực này. Mặt khác, với các ngành công nghiệp chế biến
và chủ yếu là gia công thì nhu cầu về số lượng nhân công lớn sẽ được đánh giá cao,
và trình độ nhân công vừa phải nhưng đặc biệt điều kiện cần là giá nhân công phải rẻ.
Thực tế, cho thấy nguồn nhân lực của Việt Nam mới chỉ đáp ứng được các
ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến, gia công sản phẩm nêu ở trên. Lợi thế
cạnh tranh của Việt Nam chủ yếu là nguồn nhân công dồi dào, cần cù, chăm chỉ và
giá nhân công thấp hơn so với nhiều nước trong cùng khu vực.
1.1.5.4 Qui mô thị trường
Đối với một nước, cầu của nước đó cũng ảnh hưởng đến sức hấp dẫn đối với
các nhà đầu tư. Khi nghiên cứu ảnh hưởng của cầu thị trường đến khả năng cạnh
tranh của quốc gia đó người ta thường nghiên cứu các yếu tố quy mô cầu, cơ cấu của
cầu, mô hình và tốc độ tăng trưởng của cầu.
Quy mô cầu tạo sự hấp dẫn về số lượng hàng hoá được mua và tiêu dùng. Cơ
cấu của cầu tạo nên sự hấp dẫn về cơ cấu các loại hàng hoá được mua và tiêu dùng
tại nước đó. Mô hình và tốc độ tăng trưởng của cầu chi phối sức hấp dẫn về cầu của
thị trường trong tương lai. Bởi lẽ, thực chất khi đến kinh doanh, nhà đầu tư luôn xem
11
xét nước đó dưới góc độ của một thị trường tiêu thụ sản phẩm. Một trong những mục
đích chính của các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài là “ Làm thế nào để chiếm lĩnh
được thị trường nước sở tại”. Do đó, các nước nhận đầu tư cần xác định được sức
hấp dẫn của mình đối với nhà đầu tư với tư cách là một thị trường tiêu thụ và có
những hoạt động truyền thông phù hợp để khách hàng biết và quan tâm đến thị
trường.
1.1.5.5 Ngành công nghiệp phụ trợ và dịch vụ phục vụ kinh doanh
Một doanh nghiệp muốn hoạt động được thì ngoài những nguyên, vật liệu chính
còn phải sử dụng những hàng hoá và dịch vụ do các doanh nghiệp khác cung ứng.
Trong điều kiện ngày nay, mức độ chuyên môn hoá trong sản xuất kinh doanh ngày
một tăng dẫn đến sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp ngày càng lớn. Chính
vì vậy, khi quyết định lựa chọn một địa điểm kinh doanh, các nhà đầu tư còn quan
tâm đến các ngành công nghiệp phụ trợ và các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ phục
vụ kinh doanh của nước tiếp nhận.
Các ngành công nghiệp phụ trợ sẽ cung cấp cho nhà đầu tư những vật tư phụ,
dịch vụ gia công, cung cấp các chi tiết sửa chữa máy móc, thiết bị... Các doanh
nghiệp cung ứng dịch vụ kinh doanh sẽ cung cấp các dịch vụ như là tư vấn, kiểm
toán, ngân hàng, tài chính, tư vấn luật, đào tạo... Quốc gia có ngành công nghiệp phụ
trợ và dịch vụ hỗ trợ kinh doanh thoả mãn được nhu cầu của nhà đầu tư sẽ giúp nâng
cao khả năng cạnh tranh. Chính vì vậy, nước tiếp nhận cần quy hoạch và phát triển
các ngành công nghiệp phụ trợ đi cùng với việc thúc đẩy phát triển các dịch vụ phục
vụ kinh doanh để cải thiện năng lực cạnh tranh của các nhà đầu tư.
1.2 SỰ CẦN THIẾT PHẢI TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN FDI TỪ
SINGAPORE
1.2.1 Quan hệ Việt Nam - Singapore và chính sách đầu tư hai nuớc
1.2.1.1 Quan hệ Việt Nam - Singapore
1. Lịch sử quan hệ:
- Ngày 1-8-1973: Hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Thủ tướng
Phạm Văn Đồng đã thăm chính thức Singapơre từ ngày 16 đến ngày 17-1-1978.
Tháng 12-1991, Đại sứ quán Việt Nam tại Singapore và tháng 9-1992, Đại sứ quán
12
Singapore tại Hà Nội được thành lập.
- Sau khi Việt Nam tham gia Hiệp ước Bali (tháng 7-1992) và trở thành thành
viên đầy đủ của ASEAN vào tháng 7-1995, quan hệ hai nước chuyển sang một giai
đoạn phát triển mới về chất. Singapore rất coi trọng phát triển quan hệ hợp tác với
Việt Nam và Việt Nam trở thành một trong những thị trường chính về hợp tác thương
mại, đầu tư của Singapore ở Đông Nam Á.
2. Các hoạt động trao đổi đoàn:
Các đoàn cấp cao nhất của hai bên đều đã thăm lẫn nhau.
- Các chuyến thăm Singapore gần đây của các nhà lãnh đạo cấp cao Việt Nam:
• Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An (tháng 12-2003).
• Thủ tướng Phan Văn Khải (tháng 3-2004): Hai bên đã ký "Tuyên bố chung
về khuôn khổ hợp tác toàn diện trong thế kỷ 21", tạo cơ sở pháp lý và điều
kiện thuận lợi thúc đẩy quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt giữa hai
nước.
• Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sang Singapore dự Hội thảo: "Việt Nam,
nơi đến của các nhà đầu tư" do Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam chủ trì
ngày 15-3-2001; tham dự Chương trình giao lưu với Thủ tướng Lý Quang
Diệu từ ngày 26 đến ngày 29-7-2004; thăm, làm việc và ký kết Hiệp định
khung về kết nối Việt Nam – Singapore (từ ngày 5 đến ngày 7-12-2005).
- Các chuyến thăm Việt Nam gần đây của các nhà lãnh đạo cấp cao Singapore:
• Tổng thống S. R Nathan (tháng 2-2001).
• Thủ tướng Goh Chok Tong (tháng 3-1994; tháng 12-1998; tháng 3-2003).
• Thủ tướng Lý Hiển Long (tháng 4-2000 với tư cách Phó Thủ tướng; ngày 6
đến ngày 7-12-2004; ngày 25 đến ngày 26-9-2006).
Ngoài ra các đoàn Bộ, ngành của hai bên cũng thường xuyên có những chuyến
thăm và làm việc lẫn nhau để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm, tăng cường hiểu biết.
3. Quan hệ hợp tác thương mại - đầu tư:
- Từ năm 1996 đến nay, Singapore luôn là một trong những đối tác thương mại
và đầu tư lớn nhất của Việt Nam. Tổng kim ngạch hai chiều năm 2005 đạt 6,4 tỷ
USD (Việt Nam xuất 1,8 tỷ USD, nhập 4,6 tỷ USD).
- Đầu tư trực tiếp của Singapore vào Việt Nam liên tục tăng. Tính đến hết tháng
13
12-2005, Singapore có 396 dự án tại Việt Nam với số vốn đăng ký 7,6 tỷ USD, vốn
đầu tư thực hiện đạt 3,45 tỷ USD. Vốn đầu tư của Singapore trải đều trong các lĩnh
vực của nền kinh tế Việt Nam, tập trung nhiều vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng, dịch vụ và
kinh doanh bất động sản. Nhìn chung, các dự án đầu tư của Singapore hoạt động có
hiệu quả cao, đóng góp đáng kể cho giải quyết việc làm, xuất khẩu và tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam. Năm 1996, khu công nghiệp Việt Nam – Singapore được xây
dựng tại Bình Dương trên diện tích 500 ha là nơi đầu tư lý tưởng cho các nhà đầu tư
Singapore và nước khác.
- Về đàm phán gia nhập WTO: Việt Nam đã kết thúc đàm phán song phương
với Singapore. Nhân dịp chuyến thăm chính thức của Thủ tướng Lý Hiển Long tới
Việt Nam (tháng 12-2004), hai bên đã chứng kiến lễ ký Thỏa thuận kết thúc đàm
phán song phương.
- Sáng kiến kết nối Việt Nam – Singapore: Để thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa
hai nước, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, trong chuyến thăm làm việc của Thủ tướng
Phan Văn Khải tới Singapore (tháng 3-2004), hai bên đã nhất trí thực hiện sáng kiến
kết nối hai nền kinh tế Việt Nam – Singapore do Thủ tướng Goh Chok Tong đưa ra
trên 6 lĩnh vực: (i) tài chính, (ii) đầu tư, (iii) thương mại – dịch vụ, (iv) giao thông
vận tải, (v) bưu chính viễn thông – công nghệ thông tin, (vi) giáo dục đào tạo.
Theo thỏa thuận, hai bên xây dựng Hiệp định khung về kết nối và 6 phụ lục
trong từng lĩnh vực kết nối cụ thể. Về hình thức, các phụ lục có hai mục tiêu: (i) đề
xuất các chương trình, sáng kiến, hoạt động kết nối cụ thể kèm khung thời gian thực
hiện; (ii) đề xuất các thay đổi về pháp lý, chính sách nhằm tạo thuận lợi cho cơ quan
chính phủ, doanh nghiệp hai nước thực hiện các hoạt động kết nối.
- Ngày 23-2-2005, UBND TPHCM thành lập Văn phòng Đại diện Xúc tiến
Thương mại, Đầu tư và Du lịch của TPHCM tại Singapore với tên gọi là "Nhà Việt
Nam" (Vietnam House in Singapore) với chức năng là một địa điểm giao dịch và
cung cấp thông tin, dịch vụ, phục vụ các quan hệ thương mại, đầu tư, du lịch giữa
Việt Nam với Singapore và các nước.
4. Các cơ chế hợp tác giữa hai nước:
Ngoài việc hợp tác trên khuôn khổ các hiệp định và thỏa thuận hợp tác song
phương, hai bên đã hình thành các cơ chế hợp tác:
Ủy ban Hợp tác Việt Nam – Singapore được thành lập ngày 5-5-1993; hiện
14
là cơ chế duy nhất để hai bên cùng trao đổi tình hình hợp tác song phương trên các
lĩnh vực cụ thể; do Bộ Kế hoạch Đầu tư Việt Nam và Bộ Công Thương Singapore
làm đầu mối và Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư Việt Nam và Bộ trưởng Bộ Công
nghiệp và Thương mại Singapore làm đồng chủ trì.
Cơ chế tham khảo chính trị thường niên cấp Thứ trưởng giữa hai Bộ
Ngoại giao thảo luận các hợp tác song phương và các vấn đề khu vực và quốc tế
cùng quan tâm từ năm 2003.
1.2.1.2 Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam
Thực hiện chính sách đối ngoại và thu hút đầu tư mở rộng, hiện nay Việt Nam
đã giao lưu thương mại với hơn 180 nước và vùng lãnh thổ, đầu tư trên 5.300 dự án.
Lợi thế lớn của Việt Nam là nằm ở vị trí trung tâm nên rất thuận lợi cho giao thương
quốc tế. Việt Nam có một nền chính trị ổn định, nguồn lao động dồi dào. Điều này
cho thấy, Việt Nam đang trở thành một nước đầy tiềm năng trong khu vực. Nhằm cải
thiện môi trường đầu tư ngày càng tốt hơn, Chính phủ Việt Nam đang có một số chủ
trương chính sách mới, đó là:
Thứ nhất, chính phủ Việt Nam đã thông qua Luật đầu tư chung cho các loại
hình doanh nghiệp, đối xử bình đẳng quốc gia, không phân biệt giữa đầu tư trong
nước và đầu tư nước ngoài, hoàn toàn xóa bỏ phân biệt về giá và lệ phí đối với nhà
đầu tư nứơc ngoài.
Thứ hai, ngoài các chương trình hợp tác đa phương, Chính phủ Việt Nam đã ký
hiệp định song phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư với 50 nước và vùng lãnh
thổ trên thế giới, và gia nhập WTO. Các cam kết quốc tế của Việt Nam đều hướng tới
mục tiêu chung là nhằm mở cửa thị trường, tự do hóa hoạt động đầu tư nước ngoài.
Thứ ba, tiếp tục thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước,
đồng thời đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước với phạm vi rộng lớn
hơn, bao gồm cả một số tổng công ty, doanh nghiệp lớn làm ăn có hiệu quả, kể cả các
ngành trước nay nhà nước giữ độc quyền như: Điện lực, Bưu chính Viễn thông, Ngân
hàng...Các nhà đầu tư nước ngoài đều đều được mua cổ phiếu của các Doanh nghiệp
trong nước.
Thứ tư, chính phủ đã cho phép chuyển đổi một số Doanh nghiệp đầu tư nước
15
ngoài sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần, và đang có chủ trương mở rộng
tỉ lệ mua cổ phiếu của các nhà đầu tư nước ngoài trong Doanh nghiệp.
1.2.2 Singapore quán quân trong khu vực
Bất chấp sự trồi sụt của dòng vốn đầu tư trực tiếp từ khu vực ASEAN vào Việt
Nam những năm qua, Singapore vẫn duy trì ngôi vị dẫn đầu với sự gia tăng liên tục
cả về số dự án, số vốn và quy mô vốn cho mỗi dự án vào Việt Nam.
Singapore là một trong 4 quốc gia ASEAN đi tiên phong trong việc thăm dò thị
trường đầu tư Việt Nam từ những năm 1990. Ngay sau đó, lượng vốn đầu tư từ quốc
gia này vào Việt Nam đã tăng nhanh chóng, thậm chí cả ở thời điểm xảy ra khủng
hoảng kinh tế châu Á năm 1997, khi hầu hết các quốc gia khác đều có sự sụt giảm
mạnh.
Cục Đầu tư nước ngoài (thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư) công bố số liệu mới
nhất cho biết, 7 tháng đầu năm nay, đã có 44 dự án của Singapore được cấp phép đầu
tư mới tại Việt Nam, với tổng số vốn trên 1,3 tỷ USD. Cùng thời gian này cũng có 8
dự án của các nhà đầu tư Singapore được cấp phép tăng vốn với tổng số trên 13,3
triệu USD. Singapore đứng thứ hai trong tổng số 39 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư
vào Việt Nam.
Như vậy, tính từ khi Việt Nam ban hành Luật Đầu tư nước ngoài, năm 1988
đến hết tháng 7/2007, Singapore có 503 dự án được cấp phép với tổng vốn 9,6 tỷ
USD, tiếp tục dẫn đầu ASEAN và đứng thứ 2 trong 79 quốc gia và vùng lãnh thổ có
vốn đầu tư tại Việt Nam.
Quy mô vốn bình quân mỗi dự án từ Singapore đạt 18,7 triệu USD, cao hơn
mức bình quân của các dự án trên toàn quốc, thậm chí gấp đến 2-3 lần so với quy mô
vốn bình quân mỗi dự án của một số quốc gia và vùng lãnh thổ khác như Hàn Quốc,
Đài Loan, Hồng Công, Malaixia.
Một chuyên gia của Cục Đầu tư nước ngoài, bà Nguyễn Thuý Hương cho biết,
các nhà đầu tư Singapore có mặt ở hầu hết các ngành kinh tế của Việt Nam, từ thăm
dò khai thác dầu khí, sản xuất công nghiệp, tới chế biến nông-lâm-thuỷ sản; nhưng
tập trung nhiều nhất vẫn là lĩnh vực dịch vụ với hơn 5,5 tỷ USD.
Thời gian gần đây, các nhà đầu tư Singapore đang dành sự quan tâm lớn đến
16