Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

sáng kiến kinh nghiệm hướng dẫn học sinh lớp 2 giải toán có lời văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.94 KB, 12 trang )

Phần 1: A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bộ môn Toán trong Trường Tiểu học có một vị trí đặc biệt quan trọng trong
sự hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh. Môn toán là một môn học
tích hợp có tính tổng hợp, mở rộng và gắn liền với thực hành trong thực tiễn rất
cao.
Thông qua môn học toán giúp học sinh rèn luyện phương pháp suy nghĩ,
phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề, góp phần phát triển trí
thông minh, suy nghĩ độc lập linh hoạt sáng tạo, góp phần vào việc hình thành
phẩm chất cần thiết và quan trọng của người học như: cần cù, cẩn thận và có ý
thức vượt khó, làm việc có kế hoạch và có nề nếp, có tác phong khoa học. Bước
đầu hình thành và phát triển năng lực trừu tượng hoá, khái quát hoá, kích thích
trí tưởng tượng gây hứng thú học tập. Mặt khác, các kiến thức, kĩ năng môn toán
ở tiểu học còn có nhiều ứng dụng trong đời sống thực tế.
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy ở các khối lớp, đặc biệt nhiều năm chủ
nhiệm và giảng dạy ở khối 2, tôi thấy: Dạng toán có lời văn có vị trí rất quan
trọng trong chương trình toán ở trường tiểu học. Các em được làm quen với
dạng toán có lời văn ngay từ lớp 1, đặc biệt ở lớp 2 yêu cầu các em viết lời giải
cho phép tính Có thể nói đây là một khó khăn đối với học sinh khi học giải
toán có lời văn. Đọc một đề toán đang còn là khó khăn với các em vậy mà còn
tiếp tục phải: tìm hiểu đề toán, tóm tắt đề, đặt câu lời giải, viết phép tính, đáp
số Vì vậy đây cũng là một vấn đề mà tôi luôn luôn trăn trở trong quá trình
giảng dạy dạng toán có lời văn ở lớp 2. Đặc biệt là lớp 2 chúng tôi đối tượng học
sinh là dân tộc thiểu số Hmôngz, ngôn ngữ các em còn rất hạn chế, làm thế nào
để các em đọc lưu loát và hiểu được đề toán, viết được tóm tắt, nêu được câu lời
giải đúng và ngắn gọn, viết được phép tính đúng. Điều đó đòi hỏi rất nhiều công
sức và sự nỗ lực không biết mệt mỏi của cả thầy và trò.
Tôi đã được nhiều năm trực tiếp chủ nhiệm và giảng dạy ở khối lớp 2, qua
kinh nghiệm của bản thân và học hỏi, trao đổi kinh nghiệm cùng đồng nghiệp,
tôi đã mạnh dạn làm sáng kiến kinh nghiệm “Hướng dẫn học sinh lớp 2 giải
toán có lời văn” để góp phần nâng cao giáo dục dạy và học.
Trong quá trình nghiên cứu không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong


được sự góp ý, nhận xét của Hội đồng khoa học, của các đồng nghiệp.
1
Phần 2: B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận của vấn đề:
Giải toán có lời văn thực chất là những bài toán thực tế, nội dung bài toán
được thông qua những câu văn nói về những quan hệ, tương quan và phụ thuộc,
có liên quan tới cuộc sống thường xảy ra hàng ngày. Cái khó của bài toán có lời
văn chính là ở chỗ là làm thế nào để lược bỏ được những yếu tố về lời văn đã
che đậy bản chất toán học chứa đựng trong bài toán và tìm được những câu lời
giải, phép tính thích hợp để từ đó tìm được đáp số của bài toán.
Nhưng làm thế nào để học sinh hiểu và giải toán theo yêu cầu cầu chương
trình, đó là điều cần phải trao đổi nhiều đối với chúng ta – những người trực tiếp
giảng dạy cho các em nhất là việc: Đặt câu lời giải và chọn phép tính cho bài
toán.
Như chúng ta đã biết:Trước cải cách giáo dục thì đến lớp 4 các em mới phải
viết câu lời giải, còn những năm đầu cải cách giáo dục htì đến đầu học kì 2 của
lớp 3 học sinh mới phải viết câu lời giải Còn đến nay theo chương trình mới
thì ngay từ lớp 1 học sinh đã được yêu cầu viết câu lời giải, đây quả là một bước
nhảy vọt quá lớn trong chương trình toán. Nhưng nếu nắm bắt được cách giải
toán ngay từ lớp 1, 2 thì đến các lớp trên các em dễ dàng tiếp thu, nắm bắt và gọt
giũa, tôi luyện để trang bị thêm vào hành trang kiến thức của mình để tiếp tục
học tốt ở các lớp sau.
Ta thấy rằng, giải toán ở tiểu học trước hết là giúp các em luyện tâp, vận
dụng kiến thức, các thao tác thực hành vào thực tiễn. Qua đó, từng bước giúp
học sinh phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận lô gíc.
Thông qua giải toán mà học sinh rèn luyện được phong cách của người lao động
mới: làm việc có ý thức, có kế hoạch, sáng tạo và hăng say, miệt mài trong công
việc.
Thực tế qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy ở khối lớp 2, tôi nhận thấy học
sinh khi giải các bài toán có lời văn thường rất chậm so với các dạng bài tập

khác. Các em thường lúng túng khi đặt câu lời giải cho phép tính, có nhiều em
làm phép tính chính xác và nhanh chóng nhưng không làm sao tìm ra lời giải
đúng hoặc đặt lời giải không phù hợp với đề toán đặt ra. Chính vì thế nhiều khi
dạy học sinh đặt câu lời giải còn vất vả hơn nhiều so với dạy trẻ thực hiện các
phép tính ấy để tìm ra đáp số.
Việc đặt lời giải ngay từ lớp 1, 2 sẽ là một khó khăn lớn đối với mỗi giáo
viên trực tiếp giảng dạy ở lớp 1, 2 nhất là những tuần đầu dạy toán có lời văn
ngay ở việc giúp các em đọc đề, tìm hiểu đề Một số em mới đọc được đề toán
chứ chưa hiểu được đề, chưa trả lời được các câu hỏi giáo viên nêu: Bài toán
cho biết gì? Đến khi giải toán thì đặt câu hỏi chưa đúng, chưa hay hoặc không
có câu lời giải Những nguyên nhân trên không thể đổi lỗi về phía học sinh
100% được mà một phần lớn đó chính là các phương pháp, cách áp dụng, truyền
đạt của những người thầy giáo, cô giáo.
2
Đây cũng là lí do mà tôi chọn đề tài này, mong tìm ra những giải pháp
nhằm góp phần nâng cao kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2 nói
riêng và trong môn toán lớp 2 nói chung. Để từ đó, các em có thể thành thạo hơn
với những bài toán có lời văn khó và phức tạp ở các lớp trên.
2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
2.1Thực trạng về kĩ năng giải toán có lời văn của học sinh lớp 2.
a.Thực trạng chung của nhà trường.
* Thuận lợi:
Nhà trường được sự quan tâm của chính quyền địa phương, của phụ huynh
học sinh.
Ban giám hiệu nhà trường năng nổ nhiệt tình, sáng tạo luôn chỉ đạo sát sao
việc việc dạy học của giáo viên và học sinh.
Đội ngũ giáo viên trong nhà trường luôn nhiệt tình giảng dạy, yêu nghề
mến trẻ.
Về học sinh: nhìn chung các em đều ngoan, có ý thức vươn lên trong học
tập. Bên cạnh những thuận lợi trên thì nhà trường còn gặp phải không ít khó

khăn.
* Khó khăn: Trung Lí là một xã mà dân cư 100% là người dân tộc thiểu số,
sống bằng nghề làm nương rẫy, đời sống kinh tế đặc biệt khó khăn, trình độ dân
trí thấp. Chính điều đó ảnh hưởng không nhỏ tới việc học tập cũng như chất
lượng học tập của học sinh.
Nhiều gia đình bố mẹ đi làm ăn xa gửi con ở nhà cho ông bà, anh em chăm
sóc. Do ông bà già ốm yếu không biết quan tâm chăm sóc các em. Có gia đình
bố nghiện ma tuý nên đi lang thang còn mẹ thì đi nơi khác sống nên không ai
quan tâm các em.
Đặc biệt dân trí người dân nơi đây còn rất thấp, chưa biết quan tâm tới việc
học tập của con em mình. Suốt ngày ở trên nương rẫy cho nên học sinh có em
không được đi học đầy đủ vì phải ở nhà trông em.
Do tâm lí của học sinh tiểu học còn ham chơi, học sinh ở vùng dân tộc thiểu
số cụ thể ở Pa Búa chỉ học ở lớp rồi về nhà đi chơi không học bài ở nhà do
không có người giám sát chặt chẽ và bảo ban các em học bài ở nhà thì khó có
hiệu quả.
Về cơ sở vât chất: trang thiết bị nhà trường còn nhiều hạn chế, không đủ
bàn ghế cho học sinh ngồi học, các em phải ngồi 3 học sinh một bàn nên khó
khăn trong việc học tập. Đồ dùng học tập thì không có.
Về đội ngũ giáo viên: nhà trường có đội ngũ giáo viên nhiệt tình giảng dạy
song còn gặp nhiều khó khăn do trình độ giáo viên chưa đồng đều, số lượng giáo
viên người địa phương còn hạn chế trong năng lực giảng dạy.
b. Thực trạng của lớp:
Năm học 2013 – 2014 tôi được nhà trường phân công làm công tác chủ
nhiệm và giảng dạy lớp 2 khu Pa Búa trường Tiểu học Trung Lí 2.
Lớp 2 tôi giảng dạy và chủ nhiệm có 29 học sinh. Trong đó có: Nam: 15
em; Nữ: 14 em. 100% là người dân tộc Hmôngz.
3
Các em ở rải rác khắp 3 khu của bản, có nhiều học sinh ở xa trường và
đường đi thì đồi núi khó khăn nên việc đi lại của các em gặp nhiều khó khăn,

điều đó cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của các em.
Qua thực tế giảng dạy và thảo luận cùng đồng nghiệp, tôi nhận thấy:
+ Việc đọc đề và tìm hiểu đề đang còn nhiều khó khăn đối với học sinh lớp
2. Vì kĩ năng đọc thành thạo của các em chưa cao, nên các em đọc đề toán và
hiểu đề toán còn thụ động, chậm chạp
+ Mặt khác: thực tế trong một tiết dạy có 35 phút, mà thời gian dạy kiến
thức rất nhiều – phần bài tập hầu hết là ở cuối bài nên thời gian để luyện nêu đề,
nêu câu trả lời không được nhiều mà học sinh chỉ được đọc đề toán.
2.2. Kết quả, hiệu quả của thực trạng ban đầu.
Trên thực trạng của lớp 2 tôi đã tiến hành khảo sát kĩ năng giải toán của 29
học sinh và thu được kết quả như sau:
Sĩ số Giải thành thạo Kĩ năng giải chậm
Chưa nắm được
cách giải
29 em 0% 5 em =17% 24 em = 83%
Từ thực trạng trên, để đạt được hiệu quả tốt hơn, giúp các em có hứng thú
trong học tập, nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường, tôi đã mạnh dạn
cải tiến nội dung, phương pháp trong giảng dạy toán có lời văn ở lớp 2.
3. Giải pháp và tổ chức thực hiện
3.1. Họp phụ huynh – thống nhất biện pháp giáo dục.
Chúng ta đều biết học sinh lớp 2 đến trường còn phụ thuộc hoàn toàn vào
sự quan tâm, nhắc nhở của cha mẹ và thầy cô. Chúng em chưa có ý thức tự giác
học tập, chính vì vậy giáo dục ý thức tự giác, tích cực học tập cho các em là một
yếu tố không kém phần quan trọng giúp các em học tốt hơn. Trong một lớp học,
lực học các em không đồng đều, ý thức học của nhiều em chưa cao. Để thực
hiện tốt cuộc vận động “Hai không” của ngành giáo dục và giúp cho phụ huynh
có biện pháp phù hợp trong việc giáo dục con cái. Giúp cho phụ huynh nhận
thức được việc học tập của con em mình là một làm hết sức quan trọng trong sự
phát triển nhận thức và hiểu biết, xây dựng tương lai cho con em mình. Chính vì
điều đó tôi đã mạnh dạn trao đổi với phụ huynh học sinh về chỉ tiêu phấn đấu

của lớp và tình trạng thực tế lực học của con em, kêu gọi sự quan tâm của phụ
huynh tới việc học tập của học sinh, tạo điều kiện cho học sinh đi học chuyên
cần và mua sắm đồ dùng học tập cho con em đến lớp. Trao đổi với phụ huynh
các hướng dẫn các em học bài ở nhà, thức cùng các em và dành thời gian cho
các em học bài không được xem ti vi buổi tối khi các em đang học bài vì điều
kiện gia đình không có phòng riêng xem ti vi nên sẽ ảnh hưởng tới việc học của
các em Rất đáng mừng là đa số phụ huynh học sinh đều hưởng ứng và hoan
nghênh biện pháp trên vì lâu nay các phụ huynh không quan tâm đến việc học
tập của con em.
Tuy nhiên cuộc họp phụ huynh lần này vẫn còn có một số gia đình vắng
mặt do có việc đột xuất và ở trên nương không về và một số gia đình chưa thấy
4
hết tầm quan trọng của việc học của con mình nên không quan tâm tới việc họp
phụ huynh. Phần lớn là do điều kiện kinh tế còn khó khăn, nhận thức của bà con
còn thấp nên phó mặc việc học tập của con em mình cho giáo viên, cho nhà
trường. Đối với những phụ huynh vắng mặt tôi tìm cách gặp gỡ trao đổi tại nhà.
3.2. Chuẩn bị cho việc giải toán.
Để giúp cho học sinh có kĩ năng thành thạo trong việc giải toán thì chúng ta
không chỉ hướng dẫn học sinh trong giờ toán mà một yếu tố không kém phần
quan trọng đó là luyện kĩ năng nói trong giờ Tiếng Việt.
* Chúng ta đã biết học sinh lớp 2 còn thụ động, rụt rè trong giao tiếp. Chính
vì vậy để các em mạnh dạn tự tin trong giao tiếp, khi phát biểu, trả lời giáo viên
cần phải: Luôn luôn gần gũi, khuyến khích các em giao tiếp, tổ chức các trò
chơi học tập, được trao đổi, luyện nói nhiều trong các giờ Tiếng Việt giúp các
em có vốn từ lưu thông; trong các tiết học các em có thể nhận xét và trả lời tự
nhiên, nhanh nhẹn mà không rụt rè, tự ti. Bên cạnh đó người giáo viên phải chú
ý nhiều đến kĩ năng đọc cho học sinh: đọc nhanh, đúng tốc độ, ngắt nghỉ đúng
chỗ giúp học sinh có kĩ năng nghe, hiểu được các yêu cầu mà bài tập nêu ra.
Tóm lại: Để giúp học sinh giải toán có lời văn thành thạo, tôi luôn chú ý
rèn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho các học sinh trong giờ Tiếng Việt, bởi vì học

sinh đọc thông, viết thạo là yếu tố “đòn bẩy” giúp học sinh hiểu rõ đề và tìm
cách giải toán một cách thành thạo.
* Theo chương trình SGK đến tuần 23 học sinh lớp 1 mới tập giải toán có
lời văn. Ở lớp 1 yêu cầu học sinh nhìn tranh nêu phép tính, tập nêu tiếp câu hỏi
để hoàn chỉnh đề toán, tập viết câu lời giải ở dạng đơn giản và chưa yêu cầu lời
giải hay, chính xác. Trong thời gian dành cho cả tiết học là khoảng 40 phút, với
nhiều yêu cầu kiến thức khác nhau nên các em chưa được rèn luyện nhiều. Vì
vậy khi lên lớp 2 những tuần đầu khi học đến phần giải toán có lời văn có nhiều
em lúng túng, chưa quen được với giải toán. Mặc dù giáo viên đã hướng dẫn em
nêu đề toán, tìm hiểu đề và gợi ý nêu miệng lời giải nhưng cách trình bày, câu
lời giải của các em chưa được thành thạo. Hiểu được những thiếu sót đó của các
em, ở những tiết toán có bài toán giải tôi thường dành nhiều thời gian hơn để
hướng dẫn kĩ và kết hợp trình bày mẫu nhiều bài giúp các em ghi nhớ và hình
thành kĩ năng.
Ví dụ: Sau khi đọc đề toán (bài 2) ở trang 13 SGK Toán 2:
“Nhà bạn Mai nuôi 22 con gà, nhà bạn Lan nuôi 18 con gà. Hỏi hai nhà
nuôi được tất cả bao nhiêu con gà?”
- Học sinh tập nêu bằng lời để tóm tắt bài toán:
Nhà bạn Mai nuôi: 22 con gà
Nhà bạn Lan nuôi: 18 con gà
Hỏi có tất cả : con gà ?
- Học sinh nêu miệng câu lời giải:
Hai nhà nuôi được tất cả số con gà là:
Học sinh nêu miệng phép tính: 22 + 18 = 40 (con gà).
5
- Tiếp đó, học sinh được làm quen với việc tóm tắt rồi nêu đề toán bằng lời
theo yêu cầu.
Ví dụ: Bài tập 2 (trang 25 – SGK toán 2, tập 1)
An có : 11 bưu ảnh.
Bình nhiều hơn An: 3 bưu ảnh.

Bình có : bưu ảnh?
- Tôi cho học sinh đọc thầm, đọc miệng tóm tắt rồi nêu đề toán bằng lời
theo yêu cầu.
Học sinh: An có 11 bưu ảnh, Bình có số bưu ảnh nhiều hơn số bưu ảnh của
An là 3 cái. Hỏi Bình có tất cả bao nhiêu cái bưu ảnh?
Sau đó cho các em luyện cách trả lời miệng lời giải và phép tính:
Số bưu ảnh của Bình có là: 11 + 3 = 14 (bưu ảnh).
Rồi học sinh tự trình bày bài giải:
Bài giải
Số bưu ảnh của Bình có là:
11 + 3 = 14 (bưu ảnh)
Đáp số: 14 bưu ảnh.
3.3. Áp dụng qua các tiết dạy
Để chất lượng dạy - học toán có lời văn đạt được kết quả tôi tập trung
luyện cho học sinh nhớ các kĩ năng: Tìm hiểu nội dung bài toán, tìm cách giải
bài toán và kĩ năng trình bày bài giải, được tiến hành qua các bước sau:
Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài toán (phân tích bài toán).
Cần cho học sinh đọc kĩ đề toán, gạch dưới các từ quan trọng, phân tích
mối quan hệ giúp học sinh hiểu chắc chắn một số từ khoá quan trọng nói lên
những tình huống toán học bị che lấp dưới cái vỏ ngôn từ thông thường như: “ít
hơn”, “nhiều hơn”, “tất cả” giúp học sinh nhận dạng bài toán chuẩn bị cho
việc lựa chọn phép tính đúng.
Nếu trong bài toán có từ nào mà học sinh chưa hiểu rõ thì giáo viên cần
hướng dẫn cho học sinh hiểu được ý nghĩa và nội dung của từ đó ở trong bài
toán đang làm, sau đó hướng dẫn học sinh tóm tắt đề toán: tóm tắt bằng chữ,
tóm tắt bằng hình vẽ bằng cách đặt câu hỏi đàm thoại: “Bài toán cho gì? Bài
toán hỏi gì?” và dựa vào tóm tắt để nêu đề toán Giáo viên có thể hướng dẫn
học sinh tóm tắt bằng chữ, bằng sơ đồ đoạn thẳng, bằng hình vẽ
Đối với những học sinh kĩ năng đọc hiểu còn chậm, tôi dùng phương pháp
giảng giải kèm theo các đồ vật, tranh minh hoạ để các em tìm hiểu nhận xét nội

dung, yêu cầu của đề toán. Qua đó học sinh hiểu được yêu cầu của bài toán và
dựa vào câu hỏi của bài toán, các em nêu miệng lời giải, phép tính, đáp số của
bài toán rồi cho các em tự trình bày bài giải vào vở bài tập.
Bước 2: Tìm cách giải bài toán
a. Chọn phép tính giải thích hợp:
Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề toán để xác định cái đã cho và cái
phải tìm cần giup học sinh lựa chọn phép tính thích hợp. Phần lớn các bài toán
có lời văn ở lớp 2 thuộc dạng toán đơn chỉ dùng một phép tính cộng hoặc trừ,
6
nhân hoặc chia. Vì thế để giúp học sinh lập được phép tính phù hợp, giáo viên
cần cho học sinh nắm vững các từ chìa khoá, từ nào phù hợp với phép tính
“cộng”, từ nào phù hợp với phép tính “trừ”, từ nào phù hợp với phép tính
“nhân”, từ nào phù hợp với phép tính “chia”. Chọn “phép cộng” nếu bài toán có
từ chìa khoá: “nhiều hơn”, “gộp” hoặc “tất cả” Chọn “phép trừ” nếu bài
toán có từ chìa khoá: “ít hơn”, “bớt” hoặc “tìm phần còn lại” giáo viên làm
thế này tuy có áp đặt máy móc nhưng xét thấy nó lại phù hợp với đối tượng học
sinh và mang lại hiệu quả.
Ví dụ: Vườn nhà Mai có 17 cây cam, vườn nhà Hoa có ít hơn vườn nhà
Mai 7 cây cam. Hỏi vườn nhà Hoa có mấy cây cam?
Để giải bài toán này, học sinh phải tìm được mối liên hệ giữa cái đã cho và
cái phải tìm. Hướng dẫn học sinh suy nghĩ giải toán thông qua các câu hỏi gợi ý
như:
+ Bài toán cho biết gì? (vườn nhà Mai có 17 cây cam).
+ Bài toán còn cho biết gì nữa? (vườn nhà Hoa có ít hơn vườn nhà Mai 7
cây).
+ Bài toán hỏi gì? (vườn nhà Hoa có bao nhiêu cây cam).
+ Muốn biết vườn nhà Hoa có bao nhiêu cây cam em làm tính gì? (tính trừ)
+ Lấy mấy trừ đi mấy? (17 – 7).
+ 17 – 7 bằng bao nhiêu? (17 – 7 = 10)
b. Đặt câu lời giải phù hợp

Thực tế giảng dạy cho thấy việc đặt câu lời giải phù hợp là bước vô cùng
quan trọng và khó khăn nhất đối với học sinh lớp 2. Chính vì vậy việc hướng
dẫn học sinh lựa chọn và đặt câu lời giải hay cũng là một khó khăn lớn đối với
người dạy. Tuỳ từng đối tượng học sinh mà tôi lựa chọn các cách hướng dẫn
sau:
- Cách 1: (được áp dụng nhiều nhất và dễ hiểu nhất): Dựa vào câu hỏi của
bài toán rồi bỏ bớt từ đầu “hỏi” và từ cuối “mấy” rồi thêm từ “là” để có câu lời
giải: “Vườn nhà Hoa có số cây cam là:”
- Cách 2: nêu miệng câu hỏi: “Vườn nhà Hoa có mấy cây cam?” Để học
sinh trả lời miệng: “Vườn nhà Hoa có số cây cam là:” rồi dhèn phép tính vào
để có các bước giải (gồm câu hỏi, câu lời giải và phép tính):
Vườn nhà Hoa có số cây cam là:\
17 – 7 = 10 (cây cam)
Đáp số: 10 cây cam.
Tóm lại : Tuỳ từng đối tượng, trình độ học sinh mà hướng dẫn các em cách
lựa chọn, đặt câu lời giải cho phù hợp.
Trong một bài toán, học sinh có thể có nhiều cách đặt khác nhau như hai
cách trên.
Song trong khi giảng dạy, ở mỗi một dạng bài cụ thể tôi đưa cho các em
suy nghĩ, thảo luận theo bàn, nhóm để tìm ra các câu lời giải đúng và hay nhất
phù hợp với các câu hỏi của bài toán đó.
7
Tuy nhiên cần hướng dẫn học sinh lựa chọn cách hay nhất (cách 1) còn các
cách kia giáo viên đều công nhận là đúng và phù hợp nhưng cần lựa chọn để có
câu lời giải hay nhất để ghi vào bài giải.
Bước 3: Trình bày bài giải
Như chúng ta đã biết, các dạng toán có lời văn học sinh đã phải tự viết câu
lời giải, phép tính, đáp số, thậm chí cả tóm tắt nữa.
Chính vì vậy, việc hướng dẫn học sinh trình bày bài giải sao cho khoa học,
đẹp mắt cũng là yêu cầu lớn trong quá trình dạy học. Muốn thực hiện yêu cầu

này trước tiên người dạy cần tuân thủ cách trình bày bài giải theo hướng dẫn,
quy định.
- Đầu tiên là tên bài (viết sát lề bên trái có gạch chân), tiếp đó là trình bày
bài giải. Từ “Bài giải” ghi ở giữa trang vở (có gạch chân), câu lời giải ghi cách
lề khoảng 2 -> 3 ô vuông, chữ ở đầu câu viết hoa, ở cuối câu có dấu hai chấm
(:), phép tính viết lùi vào so với lời giải 2->3 chữ, cuối phép tính là đơn vị tính
được viết trong dấu ngoặc đơn. Phần đáp số ghi sang phần vở bên phải (có gạch
chân) và dấu hai chấm rồi mới viết kết quả và đơn vị tính (không phải viết dấu
ngoặc đơn).
Song song với việc hướng dẫn các bước thực hiện, tôi thường xuyên trình
bày bài mẫu trên bảng và yêu cầu học sinh quan sát, nhận xét về cách trình bày
để từ đó học sinh quen nhiều với cách trình bày. Bên cạnh đó tôi còn thường
xuyên chấm bài và sửa lỗi cho những học sinh trình bày chưa đẹp; tuyên dương
trước lớp những học sinh làm đúng, trình bày sạch đẹp, cho các em đó lên bảng
trình bày lại bài làm của mình để các bạn cùng học tập
Bên cạnh việc hướng dẫn cách trình bày như trên, tôi cũng luôn luôn nhắc
nhở rèn luyện cho học sinh kĩ năng viết chữ - viết số đúng mẫu – đẹp. Việc kết
hợp giữa chữ viết đẹp và cách trình bày đúng cũng là một yếu tố góp phần tạo
nên sự thành công trong vấn đề giải toán có lời văn của các em.
Cùng với việc áp dụng biện pháp ngay từ đầu năm học và áp dụng trực tiếp
các biện pháp vào bài dạy đầu tiên về giải toán có lời văn như sau:
Ví dụ 1: Hương có 8 cái kẹo, Huệ có 9 cái kẹo. Hỏi cả hai bạn có bao nhiêu
cái kẹo?
Không cần hướng dẫn học sinh lớp tôi thực hiện ngay được như sau:
Bài giải
Cả hai bạn có số cái kẹo là:
8 + 9 = 17 (cái kẹo)
Đáp số: 17 cái kẹo
Ví dụ 2: Minh có 15 hòn bi, Minh cho bạn 6 hòn bi. Hỏi Minh còn lại bao
nhiêu hòn bi?

Học sinh lớp tôi thực hiện như sau:
Bài giải
Minh còn lại số hòn bi là:
15 – 6 = 9 (hòn bi)
Đáp số: 9 hòn bi
8
Tiếp tục kiểm tra kĩ năng giải toán của nhiều học sinh với nhiều dạng bài
khác nhau, nhiều em vẫn làm được bài, tuy vẫn còn một số em làm sai.
Bước 4: Kiểm tra lại bài giải
Giáo viên cần hướng dẫn các em thông qua các bước:
- Đọc lại lời giải.
- Kiểm tra các bước giải xem đã hợp lí với yêu cầu của bài chưa, các
câu văn diễn đạt trong lời giải đúng chưa.
- Thử lại các kết quả vừa tính từ bước đầu tiên.
- Thử lại kết quả đáp số xem đã phù hợp với yêu cầu của đề bài chưa.
3.4. Khích lệ học sinh tạo hứng thú khi học tập
Đặc điểm chung của học sinh tiểu học là thích được khen hơn chê, hạn chế
chê các em trong học tập, rèn luyện. Tuy nhiên, nếu chúng ta không biết kết hợp
tâm lí từng học sinh mà cứ quá khen sẽ không có tác dụng kích thích. Đối với
những em chậm tiến bộ, thường rụt rè, tự ti, vì vậy tôi luôn luôn chú ý nhắc nhở,
gọi các em trả lời hoặc lên bảng làm bài. Chỉ cần các em có một “tiến bộ nhỏ” là
tôi tuyên dương ngay, để từ đó các em sẽ cố gắng tiến bộ và mạnh dạn hơn, tự
tin hơn. Đối với những em học khá, giỏi phải có những biểu hiện vượt bậc, có
tiến bộ rõ rết tôi mới khen. Chính sự khen, chê đúng lúc, kịp thời và đúng đối
tượng học sinh trong lớp đã có tác dụng khích lệ học sinh trong học tập.
Ngoài ra, việc áp dụng các trò chơi học tập giữa các tiết học cũng là một
yếu tố không kém phần quan trọng giúp học sinh có niềm hăng say trong học
tập, mong muốn nhanh đến giờ học và tiếp thu kiến thức nhanh hơn, chắc hơn.
Vì chúng ta đều biết học sinh tiểu học nói chung, học sinh lớp 2 nói riêng có trí
thông minh khá nhạy bén, sắc sảo, có óc tưởng tượng phong phú. Đó là tiền đề

tốt cho việc phát triển tư duy toán học nhưng các em cũng rất rễ bị phân tán, rối
trí nếu bị áp đặt, căng thẳng hay quá tải. Hơn nữa cơ thể của các em còn đang
trong thời kì phát triển hay nói cụ thể hơn là các hệ cơ quan còn chưa hoàn thiện
vi thế sức dẻo dai của cơ thể còn thấp nên trẻ khồn thể ngồi lâu trong giờ học
cũng như làm một ciệc gì đó trong thời gian dài. Vì vậy muốn giờ học có hiệu
quả thì người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học tức là kiểu dạy học:
“lấy học sinh làm trung tâm”, hướng tập trung vào học sinh, trên cơ sở hoạt
động của các em. Trong mỗi tiết học tôi thường dành khoảng 2 ->3 phút để cho
các em nghỉ giải lao tại chỗ bằng cách chơi các trò chơi học tập vừa giúp các em
thoải mái sau giờ học căng thẳng, vừa giúp các em có phản ứng nhanh nhẹn, ghi
nhớ một số nội dung bài đã hoc
Tóm lại: Trong quá trình dạy học người giáo viên không chỉ chú ý đến rèn
luyện kĩ năng, truyền đạt kiến thức cho học sinh mà còn phải quan tâm chú ý
đến việc: khuyến khích học sinh tạo hứng thú trong học tập.
4. Kiểm nghiệm
Nhờ áp dụng, kết hợp các biện pháp trên trong giảng dạy mà tôi đã thu
được kết quả ban đầu trong việc dạy học “Giải toán có lời văn” nói riêng và
trong chất lượng môn toán nói chung. Học sinh phải đặt lời giải trước phép tính
và kết quả của bài toán. Nếu các em nắm chắc được cách giải toán ở lớp 2 chắc
9
chắn sau này các em học lên các lớp trên sẽ có điều kiện tốt hơn ở khi học dạng
toán khó hơn.
Trong năm học trước: (2012 – 2013) có những em khi giải toán còn đặt câu
lời giải như: “Có tất cả bao nhiêu là:” hoặc “Hỏi số gà còn lại là:”
Những lỗi đó đến nay không còn nữa, học sinh lớp tôi không những biết
cách đặt câu lời giải, viết phép tính đúng mà còn biết cách trình bày bài giải
đúng, đẹp.
Những kết quả các em đạt được sau những lần kiểm tra đã cho thấy công
sức tôi bỏ ra đã có kết quả nhất định. Năm học 2013- 2014 lớp 2 do tôi trực tiếp
chủ nhiệm và giảng dạy đã thu được kết quả của phần học giải toán có lời văn

như sau: (tính kết quả đến hết tháng 4).
Sĩ số
Giải thành
thạo
Kĩ năng giải
chậm
Chưa nắm
được cách giải
29 em 8 em = 27,2% 13em = 45,6% 8 em = 27,2%
Có được kết quả như vậy một phần nhờ tinh thần học tập tích cực, tự giác
của học sinh, sự quan tâm nhắc nhở của phụ huynh học sinh, bên cạnh đó là các
biện pháp giáo dục đúng lúc, kịp thời của giáo viên.
Qua kết quả đã đạt được ở trên, tôi thấy số học sinh trung bình, khá tăng; số
học sinh yếu giảm. So với kết quả đầu năm học thì kết quả trên thật là một điều
đáng mừng. Điều đó cho thấy những cố gắng trong đổi mới phương pháp dạy
học của tôi đã có kết quả khả quan. Đó chính là động lực để tôi tiếp tục theo
đuổi ý tưởng của mình.
Phần 3: C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
Qua những vướng mắc thực tế và thực trạng học toán của lớp, cùng với
lòng say mê, nhiệt tình nghiên cứu và áp dụng thực tế vào lớp học do tôi chủ
nhiệm đã giúp tôi hoàn thành ý tưởng của mình. Mỗi lần thực hiện, vận dụng
vào thực tế lớp học tôi lại rút ra được một vài kinh nghiệm sau:
- Trong quá trình giảng dạy phải luôn nắm bắt, đút rút được những vướng
mắc, khó khăn thực tế ở lớp mình dạy, để từ đó tìm ra hướng giải quyết tốt nhất.
- Người giáo viên thực sự phải có lòng nhiệt tình, say mê với nghề nghiệp,
với lương tâm trách nhiệm của người thầy giáo, cô giáo.
- Mỗi biện pháp giáo dục của giáo viên phải được thực hiện đúng thời
điểm, đúng nội dung ở từng bài học.
- Không nên quá phụ thuộc vào sách giáo viên, vì sách giáo viên chỉ là tài
liệu hướng dẫn – tham khảo, không thể áp dụng đại trà với mọi đối tượng học

sinh trong lớp học được.
- Cần quan tâm, động viên, khuyến khích, giúp đỡ các em vượt qua mọi
khó khăn để học tập tốt hơn.
10
- Trong quá trình hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn (ở lớp 2) giáo
viên cần lưu ý hơn nữa tới việc hướng dẫn cho các em đặt câu lời giải cho đúng,
cho xúc tích nhưng ngắn gọn. Vì việc thực hiện phép tính thì học sinh có thể nêu
ngay được sau khi đọc xong đề bài toán.
- Để giúp học sinh có kĩ năng giải toán, người giáo viên cần chú ý nhiều
đến kĩ năng: nghe – đọc – nói – viết trong môn Tiếng Việt. Luyện kĩ năng hỏi –
đáp giúp các em có vốn từ ngữ lưu loát hơn, giúp các em dễ dàng đặt câu lời giải
cho bài toán.
- Phải cố gắng khắc phục các sai lầm của các em trong mỗi bài, mỗi phần,
mỗi dạng toán, tránh để các sai lầm dồn lại sẽ khó giải quyết.
- Điều rất quan trọng nữa là sự mềm mỏng, kiên trì uốn nắn học sinh của
giáo viên trong mọi lúc của giờ học.
- Trong từng tiết học, người giáo viên cũng cần tìm ra nhiều biện pháp,
nhiều hình thức hoạt động học tập như: làm việc chung với lớp, làm việc cá
nhân, làm việc theo nhóm và tập chung chú ý tới cả ba đối tượng để giúp các
em học tốt hơn.
- Người giáo viên cần phải luôn luôn có ý thức học hỏi và trau dồi kiến thức
để đáp ứng với yêu cầu ngày một đổi mới của xã hội. Muốn thế, người giáo viên
phải dành nhiều thời gian để nghiên cứu, để tìm tòi trong các tài liệu có liên
quan, tham gia tích cực vào các lớp nghiệp vụ do ngành, trường tổ chức. Điểu
quan trọng nhất trong dạy học: lòng yêu nghề và trình độ chuyên môn của giáo
viên.
- Nếu được thực hiện đồng bộ, đúng lúc, kịp thời các biện pháp trên, tôi tin
rằng chất lượng môn toán nói chung và phần giải toán có lời văn nói riêng của
các em lớp 2 sẽ có kết quả nhất định và là nền móng vững chắc để các em học
tốt hơn ở các lớp sau.

- Với một vài kinh nghiệm này, tôi mong muốn được đóng góp một phần
nhỏ vào việc nâng cao chất lượng dạy học nói chung và với dạng bài “Giải toán
có lời văn” trong môn Toán lớp 2 nói riêng.
Tôi râts mong nhận được những ý kiến đóng góp, bổ sung của Hội đồng
khoa học, của các đồng nghiệp để tôi hoàn thiện mình hơn, góp phần nâng cao
chất lượng dạy và học.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ
Mường Lát, ngày 20 tháng 4 năm 2014
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết
Trần Thị Thu
11
MỤC LỤC
Phần 1. A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Phần 2. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận của vấn đề.
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
2.1 Thực trạng về kĩ năng giải toán có lời văn của học sinh lớp 2.
a. Thực trạng của nhà trường.
b. Thực trạng của lớp.
2.2. Kết quả, hiệu quả của thực trạng ban đầu.
3. Giải pháp thực hiện
3.1 Họp phụ huynh thống nhất biện pháp giáo dục
3.2 Chuẩn bị cho việc giải toán
3.3 Áp dụng cho các tiết dạy
3.4 Khích lên học sinh tạo hứng thú khi học tập
4. kiểmnghiêm.

Phần 3. C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
12

×