Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Chuyên đề tốt nghiệp: Một số giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng của công ty cổ phần Sông Đà 25

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (481.81 KB, 63 trang )

MỤC LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO 60
CÁC TỪ VIẾT TẮT
KHCN: Khoa học công nghệ
UBND: Uỷ ban nhân dân
ĐHĐCĐ: Đại hội đồng cổ đông
BKS : Ban Kiểm soát
HĐQT: Hội đồng quản trị
LỜI NÓI ĐẦU
Đất nước ta đang trên đà phát triển, tình hình kinh tế trong những năm vừa
qua có rất nhiều sự chuyển biến tốt đẹp. Năm 2006, Việt Nam đã chính thức trở
thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Để theo kịp với
nền kinh tế thế giới và khu vực thì vấn đề đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng là rất
quan trọng, nó sẽ thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong những năm gần đây, hoạt động đấu thầu xây dựng ở nước ta trong lĩnh
vực xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển hơn bao giờ hết, các công ty xây dựng phải
cạnh tranh trong một môi trường vô cùng khắc nghiệt. Số lượng các doanh nghiệp
xây dựng gia tăng ngày càng nhiều, cả trong nước và ngoài nước. Tuy nhiên, hệ
thống pháp luật về đấu thầu ở nước ta vẫn chưa được hoàn chỉnh, các vấn đề bất cập
xoay quanh nó vẫn còn rất nan giải, các doanh nghiệp phải điều chỉnh hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp mình để thích ứng và tồn tại.
Qua một thời gian tìm hiểu thực tế tại Công ty cổ phần Sông Đà 25 và với
những kiến thức đã học đã cho em thấy vai trò của công tác đấu thầu xây dựng
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty là vô cùng quan trọng, vì vậy em
đã quyết định chọn đề tài: “Một số giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh trong
đấu thầu xây dựng của công ty cổ phần Sông Đà 25” là đề tài nghiên cứu của mình.
Do trình độ và thời gian có hạn nên đề tài nghiên cứu của em không thể tránh khỏi
những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo cũng như sự
góp ý của các cán bộ trong công ty cổ phần đầu tư thiết kế công nghệ xây dựng để
đề tài của em được hoàn thiện hơn.
Qua đây em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới tất cả nhân viên trong


công ty cổ phần Sông Đà 25 đã giúp đỡ, chỉ bảo em hoàn thành đề tài nghiên cứu
này. Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Phạm Văn Vận đã tận tình chỉ
bảo, hướng dẫn em trong suốt thời gian thực tập vừa qua, giúp em hoàn thành đề tài
nghiên cứu của mình
1
Chương I: ĐẤU THẦU VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI
NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH ĐẤU THẦU
CỦA DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẤU THẦU
1.Khái niệm và đặc điểm của đấu thầu
1.1 khái niệm đấu thầu
Thuật ngữ “đấu thầu” đã xuất hiện trong thực tế xã hội từ xa xưa. Theo Từ
điển tiếng Việt thì đấu thầu được giải thích là việc “đọ công khai, ai nhận làm, nhận
bán với điều kiện tốt nhất thì được giao cho làm hoặc được bán hàng (một phương
thức giao làm công trình hoặc mua hàng)”. Như vậy bản chất của việc đấu thầu đã
được xã hội thừa nhận như là một sự ganh đua để được thực hiện một việc nào đó,
một yêu cầu nào đó.
Trên thực tế đã tồn tại một số định nghĩa về thuật ngữ đấu thầu trong các văn
bản khác nhau. Tuy nhiên, bản chất của thuật ngữ về đấu thầu dù dưới dạng Quy
chế hay Luật cũng đều sử dụng một thuật ngữ có xuất xứ từ tiếng Anh là
“Procurement” (nghĩa là mua sắm). Như vậy Luật Đấu thầu đồng nghĩa với Quy chế
Mua sắm hoặc Luật Mua sắm
Từ khi đất nước ta tiến hành công cuộc đổi mới, nền kinh tế đã mở cửa với
thế giới thì bắt đầu xuất hiện khái niệm “đấu thầu”. Theo định nghĩa về thuật ngữ
“đấu thầu” trong Luật Đấu thầu của Việt Nam thì đó là quá trình lựa chọn nhà thầu
đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu để thực hiện gói thầu thuộc các dự án sử
dụng vốn nhà nước. Kết quả của sự lựa chọn là có hợp đồng được ký kết với các
điều khoản quy định chi tiết trách nhiệm của hai bên. Một bên là nhà thầu phải thực
hiện các nhiệm vụ như nêu trong hồ sơ mời thầu (có thể là dịch vụ tư vấn, cung cấp
hàng hoá hoặc chịu trách nhiệm xây dựng một công trình ), một bên là chủ đầu tư

có trách nhiệm giám sát, kiểm tra, nghiệm thu và thanh toán tiền. Như vậy thực chất
của quá trình đấu thầu ở Việt Nam đối với các dự án sử dụng vốn nhà nước là một
quá trình mua sắm- quá trình chi tiêu, sử dụng tiền của Nhà nước.
“Căn cứ vào Luật đấu thầu số 61/2005/QH11 ngày 29/11/2005 của Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; “Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà
thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu để thực hiện gói thầu thuộc các dự án
quy định tại Điều 1(phụ lục) của Luật này trên cơ sở bảo đảm tính cạnh tranh, công
bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế”.
2
Để có thể hiểu rõ hơn về khái niệm đấu thầu, cũng để nghiên cứu các phần
sau chúng ta cần phải làm rõ một số khái niệm có liên quan chặt chẽ với khái niệm
đấu thầu.
+"Nhà thầu" là tổ chức kinh tế có đủ tư cách pháp nhân tham gia đấu thầu.
Trong trường hợp đấu thầu tuyển chọn tư vấn, nhà thầu có thể là cá nhân. Nhà thầu
là nhà xây dựng trong đấu thầu xây lắp, là nhà cung cấp trong đấu thầu mua sắm
hàng hoá; là nhà tư vấn trong đấu thầu tuyển chọn tư vấn, là nhà đầu tư trong đấu
thầu lựa chọn đối tác đầu tư. Nhà thầu trong nước là nhà thầu có tư cách pháp nhân
Việt Nam và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam.
+"Bên mời thầu" là chủ dự án, chủ đầu tư hoặc pháp nhân đại diện hợp pháp
của chủ dự án, chủ đầu tư được giao trách nhiệm thực hiện công việc đấu thầu.
+"Gói thầu" là toàn bộ dự án hoặc một phần công việc của dự án, được chia
theo tính chất kỹ thuật hoặc trình tự thực hiện dự án, có quy mô hợp lý và đảm bảo
tính đồng bộ của dự án, Trong trường hợp mua sắm gói thầu cá thể là một hoặc một
loại đồ dùng, trang thiết bị hoặc phương tiện xem lại câu. Gói thầu được thực hiện
theo một hoặc nhiều hợp đồng (khi gói thầu được chia thành nhiều phần).
+ "Tư vấn" là hoạt động đáp ứng các yêu cầu về kiến thức, kinh nghiệm
chuyên môn cho bên mời thầu và việc xem xét, quyết định, kiểm tra quá trình chuẩn
bị và thực hiện dự án.
1.2 đặc điểm đấu thầu
Bản chất của hoạt động "đấu thầu mua sắm” là việc bỏ tiền để đạt được được

mục tiêu nhất định trong một thời gian xác định. Theo đó, hoạt động đấu thầu mua sắm
bằng tiền của Nhà nước được gọi là "Mua sắm công” hay ”Mua sắm chính phủ”. Các
quy định để thực hiện các hành vi mua sắm thông qua đấu thầu được chi phối, điều tiết
bởi người sở hữu nguồn tiền sử dụng cho việc mua sắm. Tuỳ thuộc vào nguồn tiền
được sử dụng mà việc mua sắm có những đặc điểm khác nhau. Với việc sử dụng tiền
của Nhà nước, hoạt động đấu thầu mua sắm có những đặc điểm riêng, khác với các
nguồn tiền không phải của Nhà nước.
Nói đến đấu thầu là nói đến một quá trình lựa chọn tức là việc đấu thầu phải
tuân thủ theo trình tự, thủ tục nhất định. Điều này chỉ tạo ra cho đấu thầu một sự
khắc biệt hẳn so với các hình thức khác thường gặp trong mua bán thông thường.
Chính vì vậy đấu thầu mang những bản chất sau:
Thứ nhất: Đấu thầu với bản chất là một hoạt động mua bán. Tuy nhiên đây là
một hoạt động mua bán đặc biệt vì khi đó người mua (hay cũng gọi là bên mời thầu)
3
có quyền lựa chọn cho mình người bán (hay cũng gọi là nhà thầu) tốt nhất một cách
công khai và theo một quy trình nhất định.
Thứ hai: Đấu thầu mang tính cạnh tranh gay gắt phần nội dung này chưa
thoát được ý, do vậy mà hoạt động này chỉ có trong nền kinh tế thị trường khi xã
hội đó phát triển đến một mức tương đối ổn định. Lúc này người ta phải cạnh tranh
với nhau để giành khách hàng. Tức là những người mua được tùy ý lựa chọn cho
mình người bán phù hợp với yêu cầu và chủng loại hàng hóa mà mình cần mua.
2. Nguyên tắc và phương thức đấu thầu
2.1 Các nguyên tắc trong hoạt động đấu thầu
Trong đấu thầu, có một số nguyên tắc mà cả bên mời thầu lẫn nhà thầu đều
phải tìm hiểu và tuân thủ một cách nghiêm túc khi tham gia dự thầu, đó là những
nguyên tắc: Hiệu quả, cạnh tranh, công bằng và minh bạch.
Hiệu quả: Được tính cả trên hai phương diện: Hiệu quả về mặt thời gian và
hiệu quả cả về mặt tài chính. Về thời gian, sẽ được đặt làm hàng đầu kho yêu cầu về
tiến độ là cấp bách. Cũng nếu thời gian không yêu cầu phải cấp bách thì quy trình
đấu thầu phải được thực hiện từng bước theo đúng kế hoạch để lựa chọn nhà thầu

đạt hiệu quả về mặt tài chính.
Cạnh tranh: Là nguyên tắc nổi bật trong đấu thầu. Nó đòi hỏi bên mời thầu
phải tạo điều kiện cho các nhà thầu được tham gia một cách tối đa.
Công bằng: Khi tham gia dự thầu các nhà thầu đều phải được đối xử như
nhau (thông tin đều được cung cấp như nhau). Tuy nhiên, nguyên tắc này chỉ là
tương đối, vì có một số nhà thầu vẫn được ưu tiên và điều này được ghi cụ thể trong
hồ sơ mời thầu.
Minh bạch : Không được phép có bất kì sự khuất tất nào đó làm nảy sinh
nghi ngờ của bên mời thầu đối với nhà thầu và có điều gì đó khiến các nhà thầu
nghi ngờ lẫn nhau.
2.2 Các phương thức đấu thầu
Dựa vào cách thức nộp hồ sơ dự thầu mà bên mời thầu yêu cầu, người ta chia
phương thức đấu thầu thành 3 loại cơ bản:
- Một túi hồ sơ, một giai đoạn
- Hai túi hồ sơ, một giai đoạn
- Hai giai đoạn, một túi hồ sơ
4
2.2.1. Một túi hồ sơ, một giai đoạn
Khi đưa ra yêu cầu thực hiện theo phương thức một túi hồ sơ, một giai đoạn
tức là nhà thầu phải bỏ cả hai đề xuất: Đề xuất kĩ thuật và đề xuất tài chính vào
chung một túi hồ sơ và túi đó được niêm phong. Bên mời thầu được bóc và chấm
thầu riêng cho từng đề xuất.
Phương thức này thường được sử dụng với đầu thầu xây lắp và mua sắm
hàng hóa. Khi đó các bên tham dự thầu đều biết rõ về giá của nhau.
2.2.2. Hai túi hồ sơ, một giai đoạn
Lúc này hai đề xuất kĩ thuật và tài chính được bỏ vào cùng hai túi hồ sơ và
hai túi đều được niêm phong. Tuỳ theo từng trường hợp cụ thể mà bên mời thầu yêu
cầu hoặc phải nộp hai túi cùng một lúc, hoặc túi tài chính nộp sau.
Trong quá trình đánh giá, nếu những nhà thầu không đạt tiêu chuẩn kĩ thuật
thì hồ sơ tài chính được trả lại còn nguyên niêm phong. Hiện tại ở Việt Nam

phương thức này chỉ cho phép áp dụng với đầu thầu tuyển chọn tư vấn còn đấu thầu
xây lắp và mua sắm hàng hóa thì không được áp dụng.
2.2.3. Hai giai đoạn, một túi hồ sơ
Là phương thức mà bên mời thầu yêu cầu các nhà thầu nộp đề xuất kĩ thuật
hoặc có thể cả đề xuất tài chính và sẽ loại bỏ luôn những nhà thầu có đề xuất kĩ
thuật không khả thi. Kết thúc giai đoạn 1 lựa chọn những nhà thầu có đề xuất kĩ
thuật hoàn thiện và tiếp tục chuyển sang giai đoạn 2 bằng cách yêu cầu các nhà thầu
vượt qua giai đoạn 1 nộp đề xuất tài chính có kèm theo dự án cụ thể.
Phương thức này thường được áp dụng với công việc có nhiều phương án
thực hiện mà bên mời thầu chưa biết lựa chọn phương án nào. Và thường đó là các
công trình xây dựng mà hai bên kí kết với nhau theo loại hợp đồng “chìa khóa trao
tay” – là loại hợp đồng mà nhà thầu phải thực hiện tất cả các công việc từ: lập dự
án, lắp đặt, thi công xây lắp, vận hành chạy thử …v.v. Sau đó mới bàn giao lại cho
bên mời thầu.
3. Các loại hình đấu thầu
Dựa vào đặc điểm hay bản chất của đấu thầu (là hoạt động mua bán) có thể
chia đấu thầu làm bốn loại hình:
+ Đấu thầu tuyển chọn tư vấn: Trong lĩnh vực đầu tư, tư vấn được hiểu là việc
cung cấp những kinh nghiệm, chuyên môn cần thiết cho chủ đầu tư trong quá trình
xem xét, kiểm tra và ra quyết định ở tất cả các giai đoạn của một dự án đầu tư. Như
vậy đấu thầu tuyển chọn tư vấn là quá trình lựa chọn nhà thầu tư vấn cung cấp kinh
5
nghiệm, kiến thức và chuyên môn cho bên mời thầu một cách tốt nhất hay nói một
cách khác là lựa chọn nhà thầu tư vấn có chất lượng dịch vụ tốt và giá cả hợp lí.
+Đấu thầu xây lắp: Là quá trình lựa chọn nhà thầu để thực hiện các công trình
trong lĩnh vực xây lắp như xây dựng công trình, hạng mục công trình và lắp đặt
thiết bị cho các hạng mục công trình. Chính vì có nội dung như vậy mà đấu thầu
xây lắp thường mang những đặc điểm cơ bản như sau:
-Chủ yếu có ở giai đoạn thực hiện dự án khi mà những ý tưởng đầu tư được
thể hiện trong báo cáo nghiên cứu khả thi sẽ trở thành hiện thực. Tuy nhiên khi sang

đến giai đoạn vận hành kết quả đầu tư nếu chủ đầu tư có nhu cầu sửa chữa nâng cấp
thì đấu thầu xây lắp vẫn xuất hiện.
- Nhà thầu xây dựng luôn phải làm việc tại một địa điểm cố định có ghi trong
hồ sơ mời thầu.
-Nhà thầu tư vấn có thể là một cá nhân song nhà thầu xây lắp phải là một tổ
chức có tư cách pháp nhân.
- Việc xem xét đánh giá năng lực của nhà thầu xây dung dựa trên hai nội dung
chính, đó là: Về tài chính và kĩ thuật. Và năng lực tài chính bao giờ cũng được quan
tâm trước tiên là do bởi đặc điểm quan trọng nhất của đấu thầu xây lắp là nhà thầu
phải thực hiện trước một phần công việc bằng vốn của mình, chính vì thế mà những
đảm bảo về tài chính là rất quan trọng.
+Đấu thầu mua sắm hàng hóa và các dịch vụ khác: Đây chính là quá trình lựa
chọn nhà thầu cung cấp hàng hóa, dịch vụ đạt yêu cầu về chất lượng và có giá cả
hợp lí nhất.
+Đấu thầu lựa chọn đối tác thực hiện dự án: Khi chủ đầu tư có ý tưởng về
một dự án đầu tư nhưng do một hạn chế nào đó (cú thể là hạn chế về tài chính hoặc
kĩ thuật) mà không thể tiến hành chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư thì chủ đầu tư có
thể tổ chức đấu thầu để chọn một đối tác thực hiện ý tưởng của mình và sau đó có
thể bàn giao dự án vào một thời điểm thoả thuận giữa hai bên. Đối với loại hình
này, đối tượng mà bên mời thầu muốn mua là toàn bộ một dự án chứ không phải chỉ
một phần công việc cụ thể nào đó.
II. NĂNG LỰC ĐẤU THẦU VÀ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC
ĐẤU THẦU TRONG LĨNH VỰC XÂY DỰNG
1. Năng lực đấu thầu xây dựng
Sự nhiệt tình và tư duy sáng tạo trong công việc là tiền đề cho mọi thành
công không chỉ đối với một cá nhân mà là sự toàn diện của cả tập thế và chính điều
đó cấu thành năng lực. Dù hoạt động ở bất cứ lĩnh vực nào cũng cần có năng lực thì
6
mới có khả năng tồn tại và phát triển. Năng lực đấu thầu xây dựng được hiểu là
năng lực của nhà thầu tham gia vào hoạt động xây dựng như xây dựng dân dụng,

công nghiệp, xây lắp nhà xưởng, máy móc thiết bị, xây dựng công trình giao thông,
thủy điện …v.v. Năng lực của nhà thầu xây dựng được cấu thành bởi hai yếu tố
quan trọng là năng lực tài chính và kinh nghiệm thi công của nhà thầu. Bên cạnh đó
thì không thể không nói đến các yếu tố quan trọng khác như: Năng lực nhân sự,
năng lực máy móc thiết bị và năng lực cung ứng nội bộ.
2. Các bộ phận cấu thành năng lực đấu thầu trong lĩnh vực xây dựng
2.1. Khả năng tài chính
Tài chính luôn là một yếu tố quan trọng rất cần thiết cho sự phát triển kinh
tế. Trong lĩnh vực xây dựng lại càng đòi hỏi cần tài chính mạnh, tài chính là một chỉ
tiêu quan trọng để các chủ đầu tư xem xét trong quá trình duyệt hồ sơ dự thầu của
nhà thầu xây dựng. Một đặc trưng của ngành xây dựng là cần một lượng vốn rất lớn
và vốn bị đọng rất lâu ở các công trình, hay nói cách khác vòng quay của vốn rất
chậm. Đặc điểm này dẫn đến thực tế là các Công ty xây dựng phải là những Công ty
có nguồn vốn rất rồi rào đủ để trang trải chi phí thi công trong thời gian dài trước
khi công trình hoàn thành bàn giao cho bên chủ công trình. Vì vậy, tài chính là bộ
phận cót lõi hình thành nên năng lực của nhà thầu xây dựng. Bất kỳ nhà thầu xây
dựng nào muốn thắng thầu thì điều quan trọng trước tiên là phải chứng minh được
với chủ đầu tư rằng mình có đầy đủ năng lực tài chính để thực hiện gói thầu đó.
Thực hiện một công trình, một hạng mục công trình hay một công việc nào đó trong
gói thầu cũng cần nhà thầu phải có một lượng vốn lớn nhất định để thực hiện các
khoản chi phí ban đầu như: chi phí giải phóng mặt bằng, chi phí nhân công, chi phí
xây dựng nhà tạm, chi phí nguyên vật liệu, chi phí máy móc thiết bị và nhiều khoản
chi phí khác… Chính vì vậy nhà thầu muốn thực hiện được công trình theo đúng
tiến độ ghi trong hợp đồng kí kết với chủ đầu tư cần phải có năng lực tài chính đủ
để trang trải các chi phí phát sinh trong quá trình tiến hành thi công.
Tuy vậy, một nhà thầu dù mạnh đến đâu thì cũng khó có thể tự mình thực
hiện chi trả tất cả các chi phí phát sinh trong quá trình thực hiện, nhất là khi nhà
thầu đó không chỉ tham gia một công trình mà tham gia cùng một lúc nhiều công
trình, hạng mục công trình khác nhau và cần đến lượng vốn rất lớn. Vì vậy, bên
cạnh nguồn vốn của mình, nhà thầu cần huy động thêm vốn từ các nguồn khác đặc

biệt là các tổ chức tín dụng. Để huy động được nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng
này thì năng lực hay khả năng thanh toán nợ của nhà thầu lại là một yếu tố quan
7
trọng cần được cân nhắc, xem xét để có thể cho nhà thầu này mượn vốn thực hiện
công trình hay không. Theo quy định hiện hành thì nhà thầu muốn vay vốn thực
hiện công trình cần đảm bảo ít nhất 30% giá trị gói thầu.
Phân tích tài chính giúp cho chủ đầu tư nhận biết tình hình tài chính hiện tại
của các nhà thầu như thế nào? Và qua đó có sự lựa chọn nhà thầu phù hợp nhất.
Dựa vào việc đánh giá các chỉ tiêu dưới đây mà chúng ta có thể nắm bắt được “thực
lực” thật sự trong cạnh tranh của các doanh nghiệp tham dự đấu thầu. Hơn nữa đây
cũng là những chỉ tiêu nằm trong mối quan tâm chung của các nhà đầu tư khi hợp
tác làm ăn với các doanh nghiệp xây dựng. Có điều này là do đặc điểm nổi bật của
đấu thầu xây dựng mà chúng ta đã nói ở trên, đó là “ đặt nặng” vấn đề tài chính.
Chính vì thế mà các doanh nghiệp càng có chỉ tiêu tài chính đảm bảo bao nhiêu thì
lại càng được sự chú ý của nhà đầu tư bấy nhiêu, vì đó là lí do chắc chắn đảm bảo
công trình của họ được thực hiện một cách đầy đủ, có chất lượng và kịp thời, đáp
ứng được những yêu cầu đặt ra. Một doanh nghiệp xây dựng sẽ không thể đứng
vững trong nền kinh tế với sự cạnh tranh không khoan nhượng của các doanh
nghiệp khác nếu như nó không có thực lực về tài chính và được đảm bảo bởi những
công trình mà nó đã tham gia.
*Sự biến động về quy mô, cơ cấu của tài sản và nguồn vốn
Sự biến động về quy mô, cơ cấu của tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp
được phân tích bằng cách so sánh giá trị cuối năm với giá trị đầu năm của các chỉ
tiêu phản ánh quy mô, tài sản như: Tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, các khoản đầu tư
tài chính ngắn và dài hạn, các khoản nợ phải thu, bất động sản đầu tư… Phân tích
sự biến động về quy mô tài sản nhằm đánh giá kết quả và trạng thái tài chính của
nhà thầu cũng như dự tính những rủi ro và những tiềm năng về tài chính trong
tương lai của nhà thầu.
Quy mô, cơ cấu nguồn vốn: So sánh và phân tích các chỉ tiêu phản ánh nguồn
vốn như các khoản nợ, nợ ngắn hạn, nợ dài hạn, vốn chủ sở hữu… giúp nhà thầu và

chủ đầu tư có thể xem xét, đánh giá thực trạng khả năng tài trợ cũng như huy động
vốn cho sản xuất kinh doanh của nhà thầu. Quy mô, cơ cấu nguồn vốn của nhà thầu
được biểu hiện thông qua một số chỉ số sau:
+ Tỉ suất tài trợ tổng quát: là chỉ tiêu biểu hiện mối quan hệ tỉ lệ giữa nguồn
vốn chủ sở hữu với tổng nguồn vốn; tỉ suất tài trợ tổng quát = Nguồn vốn chủ sở
hữu/ Tổng nguồn vốn.
8
+ Tỉ suất tự tài trợ cho tài sản ngắn hạn: là chỉ tiêu biểu hiện mối quan hệ tỉ lệ
giữa nguồn vốn chủ sở hữu với tài sản ngắn hạn trong đó nguồn vốn chủ sở hữu
bằng chênh lệch giữa tài sản ngắn hạn và nợ phải trả ngắn hạn. Chỉ tiêu này càng
cao cho thấy nguồn bù đắp vốn chủ sở hữu cho tài sản ngắn hạn của nhà thầu càng
lớn, điều này đồng nghĩa với rủi ro về tài chính của nhà thầu càng thấp.
+ Tỉ suất tài trợ cho tài sản dài hạn:
- Tỉ suất tài trợ cho tài sản cố định: chỉ tiêu này biểu hiện mối quan hệ tỉ lệ
giữa nguồn vốn chủ sở hữu với tài sản cố định; tỉ suất tài trợ cho tài sản cố định =
Nguồn vốn chủ sở hữu/ Tổng tài sản cố định. Tỉ suất này càng lớn chứng tỏ khả
năng trang trải vốn cho việc đầu tư tài sản cố định mở rộng quy mô năng lực sản
xuất của nhà thầu cao.
- Thời gian thu hồi vốn đầu tư bằng nguồn vốn tự tài trợ: Đây là chỉ tiêu biểu
hiện mối quan hệ giữa tổng số vốn đầu tư với mức lãi thu được từ nguồn vốn đã đầu
tư và khấu hao tài sản cố định bằng vốn đầu tư. Nếu lãi vay thu được càng nhanh và
càng nhiều thì thời hạn thu hồi vốn càng ngắn và thể hiện hiểu quả sử dụng vốn đầu
tư càng cao và ngược lại.
* Hiệu quả sử dụng vốn
Một doanh nghiệp hay bất kỳ một nhà thầu xây dựng nào cũng cần quan tâm
đến hiệu quả sử dụng vốn của mình vì với việc sử dụng vốn có hiệu quả hay không
sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình sản xuất kinh doanh đặc biệt là tới năng lực
tài chính của nhà thầu.
+ Hiệu quả sử dụng vốn tổng hợp: là tỉ lệ giữa kết quả đầu ra với tổng nguồn
vốn bình quân của nhà thầu; Hiệu quả sử dụng vốn = Doanh thu/ Tổng nguồn vốn.

Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn bình quân nhà thầu bỏ ra trong một kì kinh
doanh thu được về bao nhiêu đồng kết quả đầu ra. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ
hiệu quả sử dụng vốn của nhà thầu càng cao.
+ Tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu; tỉ suất = Lợi nhuận sau thuế của
doanh nghiệp/ Tổng nguồn vốn chủ sở hữu; Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn
chủ sở hữu dùng vào sản xuất kinh doanh trong kì thì nhà thầu thu được về bao
nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu
càng lớn, đặc biệt nếu vốn chỉ sở hữu càng lớn thì tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở
hữu lại càng nhỏ.
+ Tỉ suất lợi nhuận trên vốn vay; tỉ suất = Tổng lợi nhuận sau thuế / Tổng
nguồn vốn vay. Chỉ tiêu này cho biết cứ mỗi đồng vốn vay để dùng cho hoạt động
9
sản xuất kinh doanh trong một kì thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu
càng cao phản ánh hiệu quả sử dụng vốn vay của nhà thầu càng lớn.
* Khả năng thanh toán của nhà thầu.
Đặc điểm trong quá trình sản xuất kinh doanh của ngành xây dựng luôn chiếm
dụng lượng vốn rất lớn và vòng quay của vốn diễn ra chậm chính vì vậy trong khía
cạnh phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp không chỉ giúp nhà thầu tìm
ra nguyên nhân giải pháp cho sự đình trệ của nguồn vốn mà còn giúp các nhà đầu tư
có sự lựa chọn đúng đắn các nhà thầu có khả năng tài chính lành mạnh có khả năng
tốt. Tình hình tài chính lành mạnh được thể hiện qua kết quả sản xuất kinh doanh
cũng như sự hợp lý và linh hoạt trong cơ cấu tình chính của doanh nghiệp. Được
biểu hiện bởi các chỉ tiêu:
+ Tỉ suất nợ phải trả: tỉ suất = Tổng các khoản nợ phải trả / Tổng nguồn vốn
của nhà thầu; đây là chỉ tiêu được coi là tổng hợp phản ánh tình hình công nợ của
nhà thầu.
+ Tỉ trọng nợ ngắn hạn so với các khoản nợ phải trả của nhà thầu: tỉ trọng =
Tổng các khoản nợ ngắn hạn / Tổng các khoản nợ phải trả. Chỉ tiêu này phản ánh
100 đồng nợ phải trả của nhà thầu thì có bao nhiêu đồng nợ ngắn hạn, qua đó cho
thấy tình hình chiếm dụng vốn của nhà thầu với các doanh nghiệp khác.

+ Hệ số khả năng thanh toán tổng hợp: là chỉ tiêu phản ánh mối quan hệ tỉ lệ
giữa tổng số tiền có thể dùng để thanh toán với tổng số tiền phải thanh toán; hệ số
khả năng thanh toán tổng hợp = tổng tài sản ngắn hạn / nợ ngắn hạn. So sánh hệ số
này với 1 cho phép chúng ta đánh giá được khả năng thanh toán hay khả năng tài
chính của nhà thầu đang ở trong tình trạng tốt hay xấu, khả quan hay không.
+ Hệ số khả năng thanh toán nhanh: là tỉ số giữa tổng số tiền có thể sử dụng để
thanh toán với số tiền cần phải thanh toán; hệ số khả năng thanh toán nhanh = (Tài
sản ngắn han – Hàng tốn kho)/ nợ ngắn hạn.
Khi phân tích khả năng thanh toán của nhà thầu, cần kết hợp so sánh giữa
phân tích các khoản phải thu với các khoản phải trả để đưa ra kết luận chính xác
nhất về tình hình thanh toán của nhà thầu.
* Tình hình rủi ro về tài chính của nhà thầu
Bởi nguồn vốn đáp ứng nhu cầu trong bảo lãnh thực hiện hợp đồng và ứng
vốn của các nhà thầu xây dựng chủ yếu vẫn là nguồn vốn đi vay. Vì vậy khả năng
vay vốn rễ hay khó có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của các nhà
thầu. Tuy vậy, với bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng cần đưa ra các quyết định
10
thận trọng trong việc đầu tư sử dụng nguồn vốn này. Phân tích tình hình rủi ro về tài
chính của nhà thầu cũng dựa trên những số liệu này. Cụ thể như:
+ Hệ số nợ trên tổng tài sản: là tỉ lệ giữa tổng số nợ so với tổng tài sản của nhà
thầu. Chỉ tiêu này phản ánh trong 100 đồng tổng tài sản thì có bao nhiêu đồng là do
đi vay. Một hệ số nợ cao sẽ có ảnh hưởng xấu đến khả năng huy động vốn cho việc
thi công.
+ Hệ số thanh toán lãi vay: là tỉ lệ giữa lãi thuần từ hoạt động sản xuất kinh
doanh cộng với các chi phí lãi vay so với số lãi vay phải trả. Chỉ tiêu này phản ánh
cứ một đồng lãi vay phải trả của nhà thầu thì thu được bao nhiêu đồng lãi trước thuế
và chi phí trả lãi vay.
2.2. Năng lực về kinh nghiệm thi công
Kinh nghiệm thực tế của nhà thầu thường được quan tâm trên số năm kinh
nghiệm và lĩnh vực kinh doanh cùng các dự án có liên quan cũng như các dự án

khác đã từng thực hiện. Rõ ràng một nhà thầu với kinh nghiệm và chuyên môn
vững vàng sẽ có rất nhiều ưu thế trong buổi đầu cạnh tranh với các doanh nghiệp
khác. Chính vì lẽ đó mà hiện nay muốn nâng cao khả năng cạnh tranh với các doanh
nghiệp xây dựng trong lĩnh vực đấu thầu xây dựng thì trước tiên nhà thầu xây dựng
phải tạo cho mình một hồ sơ kinh nghiệm vững chắc, đủ sức thuyết phục các nhà
đầu tư ngay từ buổi ban đầu, có như vậy mới có thể đường hoàng tiến vào “vòng
trong” tiếp tục cuộc chiến với các doanh nghiệp khác. Theo luật đấu thầu, yêu cầu
kinh nghiệm của nhà thầu cần đáp ứng được các điều kiện về năng lực kinh nghiệm
thi công xây dựng cụ thể như sau:
* Đối với nhà thầu chính:
- Đã thực hiện thi công xây lắp ít nhất một công trình tương tự hoặc ba công
trình cùng loại cấp thấp hơn liền kề;
- Trực tiếp đảm nhận công việc chính và thực hiện 50% công việc theo hợp
đồng ký với chỉ đầu tư;
- Phải có đủ lực lượng chuyên môn, nghiệp vụ, công nhân kĩ thuật được đào
tạo đáp ứng yêu cầu công tác thi công xây dựng công trình;
- Phải có đủ só người đáp ứng các điều kiện năng lực để làm chỉ huy trưởng
thi công và phụ trách kỹ thuật thi công theo yêu cầu của công tác thi công công
trình;
11
- Chỉ huy trưởng thi công phải có trình độ đại học trở lên thuộc chuyên ngành
xây dựng phù hợp với công trình đảm nhận và đáp ứng một trong số các điều kiện
sau:
+ Đã có kinh nghiệm là chỉ huy trưởng của một công trình cùng loại, cùng
cấp.
+ Đã có kinh nghiệm là chỉ huy trưởng thi công 2 công trình cùng loại, có cấp
thấp hơn liền kề.
+ Đã phụ trách kỹ thuật thi công xây dựng của 2 công trình tương tự.
- Người phụ trách kỹ thuật thi công phải có trình độ đại học trở lên thuộc
chuyên ngành xây dựng phù hợp với chuyên môn kỹ thuật đảm nhiệm và đáp ứng

được một trong các điều kiện sau:
+ Đã phụ trách kỹ thuật thi công của 1 công trình cùng loại, cùng cấp.
+ Đã phụ trách kỹ thuật thi công của 2 công trình cùng loại, cấp thấp hơn liền
kề.
+ Đã là cán bộ kỹ thuật thi công các công trình tương tự trong thời gian ít nhất
3 năm.
* Đối với nhà thầu là tổng thầu:
- Đối với tổng thầu thiết kế: Đã từng làm tổng thầu thiết kế cho ít nhất 1 công
trình tương tự hoặc thầu chính thiết kế 2 công trình tương tự;
- Đối với tổng thầu Xây lắp: Đã từng là tổng thầu xây lắp 1 công trình tương
tự hoặc thầu chính xây lắp 2 công trình tương tự.
- Đối với tổng thầu thiết kế và xây lắp: Đã làm tổng thầu thiết kế và xây lắp
hoặc tổng thầu xây lắp 1 công trình tương tự.
- Đối với tổng thầu EPC: Đã từng làm tổng thầu EPC hoặc tổng thầu thiết kế
và xây lắp hoặc tổng thầu xây lắp 1 công trình tương tự hoặc thầu chính xây lắp 3
công trình tương tự.
- Đối với tổng thầu chìa khóa trao tay: Đã từng làm tổng thầu chìa khóa trao
tay 1 dự án tương tự hoặc tổng thầu EPC hoặc tổng thầu thiết kế và xây lắp 1 công
trình hoặc một dự án tương tự.
Như vậy, có thể thấy rằng chủ đầu tư luôn đặt ra nhiều yêu cầu rất cao về năng
lực kinh nghiệm thi công của các nhà thầu xây dựng. Một nhà thầu đảm bảo về
năng lực tài chính và có nhiều kinh nghiệm thi công các công trình với yêu cầu kỹ
thuật tương tự sẽ có rất nhiều khả năng thắng thầu với một mức giá dự thầu hợp lý.
12
2.3. Năng lực nhân sự
Yếu tố con người là gốc rễ cho mọi sự thành công của các doanh nghiệp.
Trước hết, ảnh hưởng của nguồn nhân lực trong doanh nghiệp tới chất lượng của
công tác dự thầu thể hiện một cách trực tiếp thông qua việc bố trí nhân lực tại hiện
trường. Chất lượng của đội ngũ quản trị viên cao cấp trực tiếp quản lý quá trình thi
công cũng như chất lượng và sự phù hợp về cơ cấu ngành nghề của đội ngũ công

nhân tham gia thi công công trình. Đó là lý do tại sao bên mời thầu cũng rất chú ý
tới chỉ tiêu này khi xét thầu. Bên cạnh đó, thì điều này còn được thể hiện thông qua
quá trình tạo lập Hồ sơ dự thầu; việc tiên lượng lắp giá chính xác, sát thực tế; việc
đưa ra một bản thuyết trình tổ chức thi công và đưa ra các biện pháp kỹ thuật hợp
lý để tạo ra một bộ Hồ sơ dự thầu có chất lượng đều do cán bộ tham gia đấu thầu
lập lên. Có thể nói trình độ năng lực của cán bộ tham gia đấu thầu có ảnh hưởng
trực tiếp đến chất lượng của Hồ sơ dự thầu. Trong khi đó yêu cầu đòi hỏi của những
gói thầu ngày càng cao. Muốn trúng thầu phải có những cán bộ có kiến thức sâu
rộng trong lập Hồ sơ dự thầu và những cán bộ, chuyên viên kỹ thuật giỏi có năng lực,
trình độ chuyên môn tham gia vào ban lập dự án công trình và đảm trách các vị trí quan
trọng như thuyết minh giải pháp kỹ thuật, biện pháp thi công và chỉ huy công trình. Do
đó nâng cao trình độ cho các cán bộ tham gia đấu thầu cũng chính là nâng cao chất
lượng của Hồ sơ dự thầu và nâng cao khả năng trúng thầu của công ty.
Nhìn chung, khi đề cập tới mối quan hệ này có thể xem xét trên các phương
diện khác nhau nhưng chung quy lại phải thấy rõ vai trò hết sức quan trọng của việc
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công nhân viên đối với công tác dự thầu trong
xây dựng và ngược lại.
Khi đánh giá về chất lượng nguồn nhân lực của một doanh nghiệp xây dựng
chúng ta chủ yếu phân tích 2 mặt chính sau: Quy mô, cơ cấu nguồn nhân lực và
chính sách đào tạo, tuyển dụng của doanh nghiệp:
* Sự biến động quy mô, cơ cấu nguồn nhân lực theo thời gian:
Quy mô nguồn nhân lực là chỉ tiêu khái quát chung giúp chủ đầu tư đưa ra
nhận định ban đầu về năng lực của nhà thầu, sự lớn mạnh về nguồn nhân lực là một
minh chứng cho sự lớn mạnh của công ty. Tuy nhiên, để làm rõ chất lượng nguồn
nhân lực của nhà thầu, chúng ta cần phải phân tích được cơ cấu nguồn nhân lực đó
như thế nào. Đối với nhà thầu xây dựng nguồn nhân lực gồm 3 bộ phận chính:
+ Công nhân kĩ thuật: Là lực lượng lao động trực tiếp, được đào tạo để có một
nghề thi công chuyên sâu nhất định, góp phần quyết định tới năng suất và chất
13
lượng thi công của các công trình. Công nhân kĩ thuật trực tiếp thi công công trình

do đó chất lượng công trình phụ thuộc nhiều vào trình độ tay nghề, bậc thợ của
công nhân chính vì vậy việc lựa chọn công nhân đủ năng lực kinh nghiệm, trình độ
tay nghề để trực tiếp thi công là vấn đề cần được hết sức quan tâm.
+ Các bộ quản lí kinh tế, cán bộ kĩ thuật: Là đội ngũ quản lí, lao động gián
tiếp, được đào tạo chuyên môn về nghiệp vụ quản lí kinh tế và kĩ thuật cao, có vai
trò quyết định trong việc ứng dụng khoa học công nghệ vào trong hoạt động sản
xuất kinh doanh và nâng cao năng suất lao động.
+ Cán bộ lãnh đạo: Là cấp quản lý cao nhất, là những người đưa ra quyết sách
quan trọng của doanh nghiệp. Đây là bộ phận ít người nhất nhưng lại có sức ảnh
hưởng lớn nhất đến sự phát triển của công ty vì cán bộ lãnh đạo là những người
định hướng kinh doanh cho doanh nghiệp, nắm trong tay mọi quyền điều hành.
* Chính sách đào tạo tuyển dụng
Đào tạo và tuyển dụng là một chính sách không thể thiếu đối với không chỉ
các doanh nghiệp xây dựng mà đối với tất cả các doanh nghiệp khác nói chung.
Doanh nghiệp nào có sự chú trọng đúng mức đến chính sách đào tạo tuyển dụng sẽ
tránh được sự thay đổi nguồn nhân lực bất ngờ nhất lầ bộ phận công nhân kĩ thuật.
Một nhà thầu xây dựng có thể lựa chọn nguồn lao động giá rẻ tại các địa phương
nơi đang thi công công trình, hoặc liên kết với các trường đào tạo nghề, đào tạo
công nhân kĩ thuật của địa phương hoặc của ngành để có thể đáp ứng nhu cầu nhân
lực của mình. Ngoài ra một nhà thầu có nhu cầu lớn, có đủ năng lực có thể cân nhắc
đến việc tự thành lập một cơ sở chuyên đào tạo nhân lực riêng cho mình. Mặt khác,
đào tạo tuyển dụng giúp doanh nghiệp có được đội ngũ cán bộ, công nhân viên phù
hợp với công việc mà doanh nghiệp đang thực hiện mà không tốn thời gian thử việc
hay đào tạo lại khi nhân sự đang là vấn đề cấp bách với doanh nghiệp.
2.4. Năng lực máy móc thiết bị, ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại trong quá
trình sản xuất thi công công trình
Năng lực máy móc thiết bị của một nhà thầu trước hết cũng được thể hiện
qua quy mô lực lượng xe máy, thiết bị. Với lực lượng xe máy, thiết bị hùng hậu
hơn, nhà thầu không chỉ giúp giảm chi phí lao động mà còn có thể đáp ứng được
nhiều yêu cầu của chỉ đầu tư về chất lượng và tiến độ thi công công trình; đồng thời

có thể tham gia nhiều công trình khác nhau cùng một lúc. Tuy vậy, nhiều xe máy,
thiết bị chưa hẳn đã tốt mà điều quan trọng nhất là hiệu quả sử dụng chúng. Yếu tố
hiệu quả chỉ có thể đạt được khi nhà thầu biết đầu tư và sử dụng đúng, đủ, kịp thời
14
máy móc thiết bị của mình. Một nhà thầu với lực lượng xe máy, thiết bị đồng bộ
chắc chắn sẽ làm việc hiệu quả hơn là huy động thật nhiều thiết bị nhưng không ăn
khớp với nhau trong hoạt động.
Năng lực về xe máy, thiết bị thi công sẽ được các nhà thầu giới thiệu trong
hồ sơ dự thầu của mình, nó chứng minh cho bên mời thầu biết khả năng huy động
nguồn lực về xe máy thi công công trình đáp ứng yêu câù của chủ đầu tư. Năng lực
về thiết bị sẽ được đánh giá qua các nội dung sau:
+ Nguồn lực về máy móc thiết bị và xe máy thi công của doanh nghiệp thể
hiện thông qua tổng giá trị các tài sản là máy móc thiết bị và xe máy thi công hiện
có của doanh nghiệp về số lượng, chủng loại của các máy móc thiết bị đó. Nếu
nguồn lực này không đảm bảo doanh nghiệp phải đi thuê phục vụ cho thi công sẽ
ảnh hưởng đến khả năng tranh thầu.
+ Trình độ hiện đại của công nghệ sản xuất, tức là các máy móc thiết bị công
nghệ của doanh nghiệp sử dụng có hiện đại so với trình độ công nghệ hiện tại trong
ngành xây dựng hay không.Trình độ hiện đại của công nghệ được thể hiện qua các
thông số kỹ thuật về đặc tính sử dụng, công suất và phương pháp sản xuất của công
nghệ hoặc có thể đánh giá qua thông số về năm sản xuất, quốc gia sản xuất và giá trị
còn lại của máy móc thiết bị .
+ Mức độ hợp lý của thiết bị xe máy và công nghệ hiện có, tức là tính đồng bộ
trong sử dụng máy móc thiết bị và công nghệ và sự phù hợp trong điều kiện đặc thù
về địa lý, khí hậu, địa chất, nguyên vật liệu sự phù hợp giữa giá cả và chất lượng
của sản phẩm do công nghệ đó sản xuất ra.
Bên cạnh năng lực máy móc thiết bị, yếu tố quan trọng giúp nhà thầu giảm
giá thành, rút ngắn thời gian thi công mà vẫn đảm bảo chất lượng công trình đó là
việc ứng dụng KHCN hiện đại vào hoạt động xản suất kinh doanh. Ứng dụng
KHCN có thể được triển khai trên nhiều khía cạnh như: Ứng dụng KHCN vào trong

sản xuất vật liệu: giúp hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm và
thân thiện hơn với môi trường; Ứng dụng KHCN vào trong thi công xây dựng:
doanh nghiệp sẽ giảm được giá thành và rút ngắn quá trình thi công, làm tăng năng
suất lao động; Ứng dụng KHCN vào trong quản lý doanh nghiệp: việc ứng dụng
công nghệ thông tin vào trong quản lý doanh nghiệp là điều dễ nhận thấy hiện nay ở
các doanh nghiệp, xây dựng mạng nội bộ giúp doanh nghiệp kiểm soát, chia sẻ và
bảo mật thông tin tiện lợi hơn, cùng với đó là việc áp dụng các phần mềm kế toán,
15
phần mềm quản lý dự án hoặc lập dự toán công trình cũng giúp doanh nghiệp chuẩn
hóa và tăng hiệu quả hoạt động quản lý.
Như vậy năng lực về máy móc, thiết bị, khả năng ứng dụng KHCN vào sản
xuất phần nào đó quyết định khả năng cạnh tranh hay khả năng thắng thầu và ngược
lại khi doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh của mình cũng có nghĩa là
doanh nghiệp đã tăng khả năng về máy móc, thiết bị.
2.5. Khả năng cung ứng nội bộ
Năng lực cung ứng nội bộ ở đây được hiểu là khả năng đáp ứng các nhu cầu
đầu vào cần thiết cho hoạt động xây dựng như: Nhân lực, nguyên vật liệu, máy móc
thiết bị, các dịch vụ tư vấn xây dựng, thiết kế… Đối với nhà thầu xây dựng duy trì
được nguồn cung cấp ổn định các nhu cầu đầu vào này với chất lượng cao và chi
phí hợp lí sẽ đảm bảo được tiến độ, chất lượng cũng như hiệu quả kinh tế của các
công trình. Và đây cũng là một điểm mạnh trong cạnh tranh đấu thầu nếu khả năng
cung ứng nội bộ của doanh nghiệp thực sự được các chủ thầu đánh giá cao. Năng
lực cung ứng của nhà thầu được thể hiện bởi các mặt sau:
+ Năng lực cung ứng nguồn nhân lực: Nhà thầu có thể đáp ứng nhu cầu này
bằng nhiều cách khác nhau như: Điều động nhân lực từ các công trình khác về hỗ
trợ, tuyển dụng nhân lực địa phương vào làm việc hoặc ký hợp đồng tạm thời cung
cấp nhân lực đối với các trường dạy nghề, các trung tâm đào tạo. Tuy nhiên, để
cung ứng được nguồn nhân lực trong dài hạn thì doanh nghiệp cần phải có định
hướng đúng đắn trong việc tuyển dụng, đào tạo và chế độ đãi ngộ xứng đáng với
công nhân của mình để đảm bảo quá trình sản xuất hoạt động thông suốt liên tục.

+ Năng lực cung ứng máy móc thiết bị: Đối với doanh nghiệp xây dựng thì
máy móc thiết bị là vấn đề tối quan trọng trong quá trình thi công. Chính vì vậy việc
cung ứng đầy đủ nhanh chóng, kịp thời các thiết bị máy móc phục vụ thi công là
điều mà các doanh nghiệp cần chú trọng. Để làm được điều này thì các nhà thầu nên
tìm cho mình những hợp đồng kinh doanh, xây dựng mối liên kết chặt chẽ với các
nhà sản xuất, các doanh nghiệp cho thuê máy để đáp ứng kịp thời nhu cầu của mình.
+ Năng lực cung ứng nguyên, nhiên vật liệu: Trong thi công xây dựng công
trình thì yếu tố đầu vào nguyên, nhiên vật liệu luôn có ý nghĩa quyết định đến tiến
độ và chất lượng công trình. Mặt khác, nguyên nhiên vật liệu cung cấp luôn chiếm
lượng vốn rất lớn trong quá trình xây dựng nên khả năng cung ứng của doanh
nghiệp chủ yếu phụ thuộc vào khả năng tài chính của nhà thầu và các mối quan hệ
giữa nhà thầu với các nhà cung ứng.
16
+ Năng lực cung ứng dịch vụ: Cũng như các lĩnh vực kinh doanh khác, trong
lĩnh vực xây dựng cũng không thể thiếu được các dịch vụ kèm theo như: dịch vụ
vận tải, tư vấn, thiết kế, giám sát Tuy không trực tiếp tham gia vào thi công
nhưng các dịch vụ này cũng góp phân không nhỏ vào tiến độ và chất lượng của các
công trình. Với doanh nghiệp mạnh, hoạt động rộng trên nhiều lĩnh vực trong ngành
xây dựng thì việc cung cấp các dịch vụ này dường như là một lợi thế cho doanh
nghiệp trong cạnh tranh đấu thầu.
2.6. Năng lực dự báo giá trong đấu thầu
Khác với các loại sản phẩm khác, giá cả sản phẩm xây dựng được xác định
trước khi nó ra đời và đem ra tiêu dùng. Khi được định giá thông qua dự thầu, giá
cả sản phẩm xây dựng chính là giá bỏ thầu hay giá dự thầu của các nhà thầu được
ghi trong hồ sơ dự thầu. Vậy “giá dự thầu là giá do các nhà thầu ghi trong hồ sơ dự
thầu sau khi đã trừ phần giảm giá (nếu có) bao gồm toàn bộ các chi phí cần thiết để
thực hiện gói thầu”. Giá dự thầu sẽ là cố định chọn gói để thực hiện toàn bộ khối
lượng công việc xây dựng theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Giá dự thầu bao gồm
các nội dung sau:
+ Tổng giá: Bao gồm tổng giá các hạng mục công trình.

+ Giá các hạng mục: Gồm chi phí cho các công việc cần thực hiện để hoàn
thành toàn bộ hạng mục. Chi phí cho một công việc được xác định trên cơ sở các
yếu tố chi phí và khối lượng công việc cần thực hiện. Các vấn đề liên quan đến khối
lượng công việc được xác định trong hồ sơ mời thầu.
+ Giá công việc (đơn giá): Gồm toàn bộ các yếu tố chi phí cần thiết như vật
liệu, nhân công, máy móc thiết bị, bảo hiểm, chi phí chung thu nhập chịu thuế tính
trước và thuế để hoàn thành một đơn vị công tác riêng biệt gắn với đơn vị thi công
và đặc tính kỹ thuật cụ thể của công việc phù hợp với các quy định hiện hành của
Nhà nước, Bộ Xây Dựng, các cơ quan quản lý. Cơ sở để tính các yếu tố chi phí phải
được nêu đầy đủ, rõ ràng, có giải thích cụ thể lý do áp dụng.
Khi xét thầu, do quy luật về hành vi tiêu dùng, bên mời thầu sẽ lựa chọn nhà
thầu có mức giá thấp nhất khi đã quy đổi được khả năng đáp ứng của các nhà thầu
đối với các tiêu chuẩn khác về cùng một mặt bằng đánh giá. Vì vậy giá dự thầu là
một nhân tố chính quyết định khả năng thắng thầu của doanh nghiệp. Để đạt mục
tiêu thắng thầu doanh nghiệp phải xác định được một mức giá dự thầu hợp lý. Tuy
nhiên, mức giá dự thầu này phải thấp hơn dự toán của chủ đầu tư nếu không doanh
nghiệp sẽ bị loại mà không cần xét tới các chỉ tiêu khác. Giá dự thầu cũng không
17
được thấp hơn dưới mức đảm bảo chất lượng công trình. Vì vậy, việc đưa ra một dự
đoán chính xác về giá dự thầu sẽ làm cho khả năng thắng thầu của doanh nghiệp
được nâng cao rõ rệt. Ngược lại, nguy cơ trượt thầu vì giá dự thầu không hợp lý là
một vấn đề cần được các doanh nghiệp quan tâm nghiên cứu hơn nữa.
3. Các yếu tố tác động tới khả năng cạnh tranh trong đấu thầu của các doanh
nghiệp xây dựng
3.1. Kinh nghiệm nhà thầu
Kinh nghiệm là một trong số nhiều yếu tố quan trọng đối với nhà thầu xây
dựng. Đây cũng là một đòi hỏi chính đáng của chủ đầu tư vì công trình xây dựng là
những sản phẩm quan trọng và là thứ “hàng hoá” đặc biệt không thể thường xuyên
thay đổi, hay xây dựng mới. Một nhà thầu mới bước chân vào thị trường, vốn dù
nhiều, nhưng kinh nghiệm non nớt thì cũng không thể giành thắng lợi trong cuộc

cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Nhân tố này có tác động không nhỏ tới kết
quả đánh giá chung của bên mời thầu đối với nhà thầu cũng bởi vì sản phẩm xây
dựng được tiêu thụ trước khi tiến hành việc xây lắp tạo ra các sản phẩm này và tài
liệu quá khứ của nhà thầu chính là bằng chứng thực tế để nhà thầu khẳng định khả
năng và năng lực thi công của mình có thể xây lắp và hoàn thành các công trình có
tính chất và qui mô tương tự với công trình đang được đấu thầu với chất lượng đảm
bảo. Đối với những công trình có qui mô lớn, yêu cầu kỹ thuật phức tạp thì nhân tố
này được nhà thầu khá coi trọng và sẽ chiếm một tỉ lệ khá cao trong tổng số điểm
đánh giá nhà thầu của bên mời thầu. Mặt khác, khi doanh nghiệp đã nâng cao khả
năng cạnh tranh của mình, tức là có điều kiện thi công các công trình và như vậy
kinh nghiệm trong ngành xây dựng của doanh nghiệp cũng được nâng lên.
Kinh nghiệm nhà thầu cũng được thể hiện qua tỉ lệ thắng thầu trên tổng số
các công trình mà công ty tham gia dự thầu:

Số công trình thắng thầu
Tỷ lệ thắng thầu =
Tổng số công trình tham gia dự thầu
Số lượng công trình, dự án mà công ty đã tham gia thực hiện là tiêu chí cơ bản
và sát thực nhất đảm bảo với nhà đầu tư về uy tín, kinh nghiệm cũng như độ thành
công và những đảm bảo khác kèm theo khi doanh nghiệp được thực hiện công trình,
chính vì thế, một doanh nghiệp phát triển và làm ăn có hiệu quả là doanh nghiệp
18
“chiếm” được nhiều công trình hơn so với các doanh nghiệp khác, điều đó cũng
đông nghĩa một điều rằng: doanh nghiệp đó có sức cạnh tranh trên thị trường.
3.2. Khả năng tài chính
Qua được “vòng loại” tức là đánh giá hồ sơ sơ tuyển, các nhà thầu bây giờ
mới thực sự bước vào cuộc cạnh tranh khốc liệt khi bên mời thầu tiến hành đánh giá
chi tiết hồ sơ dự thầu, mà trong đó năng lực tài chính là yếu tố được xem xét hàng
đầu và cũng là yếu tố chủ đạo tạo ra sự khác biệt giữa các nhà thầu, còn năng lực kĩ
thuật, thật ra đã vào đến vòng này thì hầu hết các nhà thầu đều đảm bảo rất tốt về

mặt kĩ thuật, do vậy “tài chính” chính là yếu tố trực tiếp ảnh hưởng tới cuộc cạnh
tranh trong lúc này.
Phần lớn các công trình xây dựng đều được tiến hành với số vốn không nhỏ,
mà chủ thầu lại phải chi phần nhiều số vốn đó cho việc tiến hành thi công công
trình, thường là chỉ đến khi hoàn thành được 80% công việc nhận thầu thì chủ đầu
tư mới thanh toán cho nhà thầu theo đợt hoặc theo thỏa thuận từ trước. Chính vì thế
mà chủ thầu xây dựng phải đảm bảo các điều kiện về năng lực tài chính: vốn tự có,
vốn vay, lợi nhuận ba năm liên tiếp, thu nhập bình quân của lao động trong doanh
nghiệp theo đúng các yêu cầu mà bên mời thầu đưa ra. Đảm bảo được những điều
này nhà thầu có thể tạo niềm tin trong lòng đối tác là các nhà đầu tư, đồng thời bên
mời thầu cũng được đảm bảo về mặt tiến độ, chất lượng, cũng như chi phí để hoàn
thành công trình. Nhược bằng nhà thầu không thể đáp ứng những điều kiện mà bên
mời thầu đã nêu ra trong hồ sơ mời thầu thì sẽ không có tư cách để tham gia gói
thầu này. Đó là điều hiển nhiên không thể chối cãi , vì tất cả những yêu cầu về năng
lực tài chính là những tiêu chí cơ bản cho thấy khả năng tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp, nhà đầu tư cần hợp tác với một doanh nghiệp “đang sống” chứ
không cần làm ăn với một doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản, nợ nần chồng
chất, đời sống công nhân viên không được đảm bảo thì họ làm sao có thể yên tâm
tận tâm tận lực với công việc được giao.
Bản chất của đầu tư là bỏ vốn và sinh lợi nhuận, vốn ít mà lợi nhuận cao
và đồng vốn bỏ ra luôn an toàn luôn là mong muốn lớn nhất và là mối quan tâm
hàng đầu của nhà đầu tư.Phương trâm của chủ thầu là “Chọn mặt gửi vàng” nên
nhà đầu tư đương nhiên phải quan tâm tới yếu tố tài chính của nhà thầu. Và đó
cung là lí do khiến cho năng lực tài chính trở thành yếu tố cạnh tranh giữa các
nhà thầu xây dựng.
19
3.3. Giá dự thầu
Với bản chất là quan hệ giữa người mua – người bán, nên chủ đầu tư – người
mua thì luôn muốn mua hàng với giá thấp nhất, còn người bán – nhà thầu xây dựng
thì muốn bán được hàng và bán với giá cao nhất có thể. Chính vì thế mà giá dự thầu

trở thành nhân tố quan trọng bậc nhất trong cạnh tranh về đấu thầu giữa các doanh
nghiệp xây dựng. Có rất nhiều nhà thầu trong cuộc cạnh tranh đó có những điều
kiện tương đồng về kinh nghiệm, tài chính và năng lực kĩ thuật, tuy nhiên nhà thầu
giành phần thắng chính là nhà thầu bỏ thầu với mức giá thấp nhất trong số đó và đó
là mức giá hợp lí. Nói hợp lí bởi vì, để tránh tình trạng móc ngoặc giữa nhà thầu và
bên mời thầu trong một số trường hợp (như các công trình của nhà nước) thì pháp
luật về đấu thầu đã quy định mức giá bỏ thầu thấp nhất cũng không chênh lệch quá
15% so với mức giá mà chủ đầu tư đưa ra, nêu vượt quá con số đó sẽ bị loại trực
tiếp hồ sơ dự thầu. Điều này đòi hỏi các nhà thầu phải tính toán chi tiết và cặn kẽ
các loại chi phí phát sinh, để có thể có được mức giá dự thầu tốt nhất.
3.4. Mức độ đáp ứng các mục tiêu của chủ đầu tư
Các yêu cầu mà chủ đầu tư đưa ra trong hồ sơ mời thầu đòi hỏi các nhà thầu
khi tham gia đấu thầu phải tuân thủ nghiêm ngặt các nội dung cũng như thứ tự sắp
xếp các nội dung trong đó, đặc biệt bên mời thầu quan tâm nhiều đến mục tiêu quan
trọng đó là: Hiệu quả. Với mục tiêu này yêu cầu chủ đầu tư phải đảm bảo cả về mặt
chi phí hợp lí lẫn thời gian hoàn thành công việc. Bên cạnh đó nhà thầu cũng cần
phải tham dự đấu thầu một cách trong sáng, cạnh tranh lành mạnh và đảm bảo
không có gì thiên vị hay khuất tất. Tóm lại bốn mục tiêu mà cả bên mời thầu lẫn
nhà thầu đều quan tâm , đó là làm sao đảm bảo tính hiệu quả, cạnh tranh, công bằng
và minh bạch. Ngoài ra vì là khách hàng nên bên mời thầu có quyền bỏ tiền ra mua
sản phẩm hợp ý mình, cho nên nhà thầu vì thế phải đảm bảo những yêu cầu mà bên
mời thầu đưa ra. Nếu không thể làm được hoặc không làm đúng theo những yêu cầu
đó nhà thầu có thể không tham gia dự thầu hoặc sẽ bị loại khỏi cuộc chơi đó.
Như vậy bên cạnh việc xem xét những yếu tố về giá, kinh nghiệm và tài
chính, việc đưa ra những mục tiêu tối cần thiết và bắt buộc đối với các nhà thầu
nhằm tạo ra một sân chơi lành mạnh cho các nhà thầu khi tham dự vào cuộc đấu
thầu cũng là một trong số những tiêu chí có tầm quan trọng ảnh hưởng lớn tới sức
cạnh tranh trong đấu thầu của các nhà thầu.
20
III. SỰ CÂN THIẾT PHẢI NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH

TRONG ĐẤU THẦU XÂY DỰNG
1. Đặc điểm của ngành xây dựng và nhà thầu xây dựng
1.1. Đặc điểm của ngành xây dựng
Với nhiều ngành, quá trình tiêu thụ sản phẩm thường xảy ra sau giai đoạn
sản xuất, còn ở ngành xây dựng, đặc biệt trong lĩnh vực xây lắp, quá trình mua bán
lại xảy ra trước lúc bắt đầu giai đoạn thi công xây dựng công trình thông qua việc
thương lượng, đấu thầu và ký kết hợp đồng xây dựng. Quá trình này còn tiếp diễn
qua các đợt thanh toán trung gian, cho tới khi bàn giao và quyết toán công trình. Thị
trường xây dựng công trình là vô cùng rộng lớn và có sức hấp dẫn, song để có thể
tìm được chỗ đứng vững chắc và uy tín nhất định, các doanh nghiệp đều phải liên
tục đưa ra những phương pháp và đối sách cạnh tranh phù hợp để tồn tại trong cuộc
chiến cạnh tranh khốc liệt trên thương trường. Với lĩnh xây dựng, do đặc điểm tính
chất các công trình xây dựng mà năng lực tài chính là yếu tố được quan tâm hàng
đầu khi xét tuyển hồ sơ dự thầu. Chính vì vậy mà hình thức cạnh tranh chủ yếu và
phổ biến của các nhà thầu xây dựng vẫn là cạnh tranh về giá. Bởi đấu thầu là một
hoạt động cạnh tranh công bằng và minh bạch, do đó nhà thầu chỉ có thể cạnh tranh
với nhau về giá mà thôi. Vì bỏ giá thấp hợp lí là điều kiện tiên quyết đưa nhà thầu
đến với thắng lợi trong cuộc cạnh tranh với các nhà thầu khác. Mà để có được giá
dự thầu thấp lại không bị lỗ vốn đó là một bài toán nan giải mà chỉ có những nhà
thầu có năng lực thực sự mới có thể giải quyết được.
Ngoài ra trong lĩnh vực xây dựng còn có một mục tiêu tối quan trọng nữa mà
chủ đầu tư luôn dặt lên hàng đầu đối với các nhà thầu xây dựng đó là tính “hiệu
quả”. Hiệu quả cả về mặt tài chính và thời gian. Nghĩa là nhà thầu được chọn sẽ
phải đáp ứng được yêu cầu với giá thấp nhất và thời gian thực hiện gói thầu phải
đảm bảo để dự án phát huy tác dụng.
Trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt của thị trường việc đấu thầu để nhận
được hợp đồng và đặc biệt hợp đồng có giá cao, để thi công có lợi nhuận đối với
các doanh nghiệp là rất khó khăn. Do cạnh tranh, nên doanh nghiệp phải tìm mọi
cách để thắng thầu. Khi tham gia ĐTXD công trình doanh nghiệp phải tập trung
nhân lực, thiết bị và chất xám để lập hồ sơ thầu; đồng thời cho thấy có doanh

nghiệp phải chi phí đến hàng trăm triệu đồng cho đấu thầu một dự án.
21
1.2. Đặc điểm đấu thầu trong lĩnh vực xây dựng
Đấu thầu có thể được xem như công việc thường ngày của doanh nghiệp xây
dựng. Tuy nhiên, một trong những quyết định quan trọng nhất mà doanh nghiệp đưa
ra, là có tham gia hay không khi xuất hiện cơ hội tranh thầu. Khi xuất hiện một gói
thầu cụ thể, doanh nghiệp cần phải nghiên cứu hồ sơ mời thầu, nghiên cứu gói thầu,
phân tích môi trường đấu thầu, đánh giá khả năng của mình với gói thầu và dự đoán
các đối thủ cạnh tranh, để xác định trạng thái của từng chỉ tiêu trong bảng danh mục
và số điểm tương ứng với trạng thái đó. Cuối cùng tính toán ra chỉ tiêu tổng hợp
theo công thức sau:
TH=

=
N
i
Aipi
1
(1) Trong đó:
TH: Chỉ tiêu tổng hợp.
N: Số các chỉ tiêu trong danh mục
Ai: điểm số của chỉ tiêu số i ứng với trạng thái của nó
Pi: Trong số các chỉ tiêu i.
Khả năng thắng thầu được đo bằng tỷ lệ % theo công thức sau:
K=
100x
M
TH
(2) Trong đó:
K: khả năng thắng thầu tính bằng %

TH: điểm tổng hợp được tính theo công thức (1)
M: mức điểm tối đa trong thang điểm được dùng.
Doanh nghiệp chỉ nên tham gia tranh thầu khi khả năng thắng thầu K > 50%.
Khả năng thắng thầu giúp cho doanh nghiệp quyết định theo đuổi hay từ bỏ
một gói thầu để đạt được mục tiêu và tránh những chi phí không cần thiết. Nếu
tham gia thì doanh nghiệp mới bắt tay vào việc lập phương án và chiến lược đấu
thầu. Sau khi có phương án và chiến lược tranh thầu, doanh nghiệp phải kiểm tra
lần nữa để ra quyết định nộp hồ sơ dự thầu và theo đuổi gói thầu. Loại quyết định
này được xác định dựa trên đặc điểm của đấu thầu xây dựng là khả năng thắng thầu
của nhà thầu phải đảm bảo trên 50% mới tham gia thầu.
2. Sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng
Trong cơ chế thị trường thì sự cạnh tranh là rất khốc liệt và đó là một trong
những động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội. Trong hoạt động đấu thầu thì sự
cạnh tranh cũng không kém phần quyết liệt đó là cạnh tranh về giá bỏ thầu, cạnh
tranh về chất lượng công trình, cạnh tranh về tiến độ thi công (thể hiện thông qua
các biện pháp kỹ thuật – thi công) và sự cạnh tranh giúp cho các nhà thầu lớn lên về
22
mọi mặt. Để thắng lợi trong cạnh tranh các doanh nghiệp càng phải có chiến lược
đấu thầu phù hợp với từng hoàn cảnh, từng thời điểm, từng công trình và phù hợp
với khả năng của chính bản thân doanh nghiệp. Cùng với sự đòi hỏi ngày càng cao
của các chủ đầu tư về chất lượng công trình và tiến độ thi công công trình. Hoạt
động đấu thầu ngày càng trở nên có tính quyết định đến sự tồn tại và phát triển của
Công ty. Điều này khiến các Công ty cần phải luôn luôn nổ lực để nâng cao năng
lực cạnh tranh của mình trong đấu thầu xây dựng. Chiến lược đấu thầu không
những làm cho các nhà nghiên cứu quan tâm mà còn là vấn đề hàng đầu của các tổ
chức xây dựng. Việc nâng cao hiệu quả đấu thầu đã có ý nghĩa hết sức to lớn.
Việt Nam ra nhập tổ chức thương mại Quốc tế WTO, hội nhập kinh tế quốc tế
vừa có được những cơ hội lớn, vừa phải đối đầu với những thách thức không nhỏ. Cơ
hội tự nó không biến thành lực lượng vật chất trên thị trường mà tùy thuộc vào khả
năng tận dụng cơ hội của chúng ta. Thách thức tuy là sức ép trực tiếp nhưng tác động

của nó đến đâu còn tùy thuộc vào nỗ lực vươn lên của chúng ta. Khi tất cả các ngành,
các nghề đều phát triển thì ngành xây dựng cũng không thể nằm ngoài quy luật phát
triển đó được. Ngành xây dựng phát triển tỉ lệ thuận với toàn ngành kinh tế. Bởi, khi
kinh tế phát triển đòi hỏi con người phải phát triển, cơ sở vật chất cũng phải được cải
thiện để phục vụ cho sự phát triển chung của toàn xã hội. Điều đó đồng nghĩa với nhiều
công trình cũ được sửa chữa, tu bổ và rất nhiều công trình mới ra đời. Và như vậy, xây
dựng cũng đòi hỏi phát triển theo. Khi đó ngành xây dựng cũng đặt ra nhiều yêu cầu
cao hơn để đáp ứng được với nhu cầu phát triển của nền kinh tế.
Đối với lĩnh vực xây dựng thì năng lực của nhà thầu hết sức quan trọng, nó không
chỉ là điều kiện để chủ đầu tư xét duyệt hồ sơ dự thầu mà còn là cơ sở để nhà thầu đứng
vững trong lĩnh vực xây dựng; một lĩnh vực mà đòi hỏi ở đó có sự kết hợp của rất nhiều
yếu tố và một môi trường làm việc khắc nghiệt. Trong bất cứ hồ sơ dự thầu nào của nhà
thầu tham gia đầu thầu không thể thiếu được bản thuyết minh năng lực của công ty mình,
trong đó có thiết kế kỹ thuật và thiết kế bản vẽ thi công, các phụ lục mô tả đặc điểm kỹ
thuật, quy cách, chất lượng và bản thuyết minh kỹ thuật và giá cả của công trình. Để làm
được điều này đòi hỏi nhà thầu cần có các phòng ban chuyên nghiệp để làm công tác
thiết kế, định giá dự án để tham gia đấu thầu. Trong quá trình tham gia đấu thầu, năng
lực của nhà thầu là yếu tố để chủ đầu tư xem xét để ra quyết định xem nhà thầu nào sẽ
thắng thầu. Do vậy năng lực của nhà thầu là rất quan trọng.
Thị trường xây dựng Việt Nam, quy chế đấu thầu ngày càng hoàn thiện điều
này buộc các doanh nghiệp xây dựng muốn tồn tại hay đồng nghĩa với việc giành
thắng lợi trong đấu thầu, thì phải tự hoàn thiện mình.
23

×