1
Câu 1: Trình bày những giá trị chủ đạo của lịch sử tư tưởng chính trị Việt nam?
Tác dụng xây dựng CNXH Việt Nam hiện nay:
Hoàn cảnh địa lý: Việt Nam là một nước đất không rộng, người không đông, được
thiên nhiên ưu đãi, tài nguyên khá phong phú Ở vị trí quan trọng của vùng Đông Nam Á,
là nơi gặp gỡ của các luồng giao lưu kinh tế, văn hóa là địa bàn chiến lược lợi hại mà các
nước lớn đều mong muốn chiếm giữ.
Đặc điểm dân cư sinh sống: Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, sống trên nhiều địa
bàn khác nhau và đan xen nhau, đa tôn giáo-tín ngưỡng sống hòa thuận nương tựa vào nhau;
là quốc gia nông nghiệp trồng lúa nước, dân cư sống quần tụ theo làng.
Đặc điểm hình thành nhà nước và dân tộc: Xuất phát từ truyền thống yêu nước
của người Việt Nam, các dân tộc mang tính cộng đồng sâu sắc. Nhà nước ra đời do yêu cầu
tập hợp sức mạnh cộng đồng, đại diện cho cả dân tộc để điều hành, quản lý đời sống chung
mà chủ yếu là chống trả thiên nhiên và giặc ngoại xâm.
Các giá trị chủ đạo của tư tưởng chính trị Việt nam:
- Thứ nhất, toàn dân đồng tâm hiệp lực dựng nước và giữ nước dưới sự lãnh
đạo của một tổ chức những người tiên tiến.
Chống thiên nhiên và giặc ngoại xâm là hai nhiệm vụ nặng nề, chỉ có thể được giải
quyết bằng sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc. Lịch sử đã chứng minh nhân dân ta đã làm
tốt công tác phòng chống thiên tai (đắp đê, xây đập, đào kênh thoát nước, ) và chống giặc
ngoại xâm.
Xuất phát từ hai nhiệm vụ trên đòi hỏi phải có những người (đủ đức, đủ tài) chỉ huy,
điều hành một cách thống nhất, được tổ chức một cách chặt chẽ, đủ sức tập hợp và lãnh đạo
dân tộc vượt qua khó khăn.
- Thứ hai, tự lực tự cường xây dựng và phát triển nền độc lập dân tộc, chủ
quyền quốc gia ngang tầm thời đại.
Các thế lực bên ngoài luôn tìm mọi cách để xâm lấn nước ta. Muốn tồn tại và phát
triển, dân tộc ta phải tự vươn lên bảo vệ các quyền thiêng liêng của mình, tự xây dựng và
phát triển đất nước bằng chính sức mình.
- Thứ ba, thực thi nền chính trị nhân bản vì con người, vì quốc gia dân tộc.
Chỉ có nền chính trị chăm lo cho con người, đại diện cho lợi ích của quốc gia dân tộc
mới hợp với đạo lý, với quy luật tồn tại và phát triển của con người và dân tộc Việt Nam.
Nhân bản đã trở thành nguyên tắc căn bản cho mọi hoạt động của các lực lượng chính trị đại
diện cho quốc gia dân tộc Việt Nam.
- Thứ tư, con người chính trị Việt Nam là người có Đức và có Tài mà đức là gốc.
Người lãnh đạo chính trị phải là người:
+ Yêu dân, khoan dung, độ lượng, chăm lo cho dân, biết “khoan thư sức dân”.
+ Bản lĩnh trước kẻ thù, mưu trí và linh hoạt biết địch biết ta, biết thời biết thế, biết
tiến, biết lùi.
+ Tận tụy với công việc, phải trái phân minh, sống có nghĩa tình trước sau.
Tóm lại, lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam là lịch sử của sự phát triển đường lối
chính trị đấu tranh cho nền độc lập dân tộc, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền quốc gia;
đấu tranh vì những giá trị con người, tạo nên sức mạnh chiến thắng giặc ngoại xâm, khắc
phục thiên tai, xây dựng đất nước trong thời kỳ đổi mới.
Tác dụng đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay:
- Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Phát huy nội lực dân tộc, chủ động mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế.
- Xây dựng và chỉnh đốn Đảng để Đảng ngày trong sạch vững mạnh.
2
- Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
- Xây dựng một xã hội công dân mạnh.
- Xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân mạnh.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có đức, tài.
Câu 2: Đồng chí hãy trình bày giá trị của học thuyết Đức trị? Giá trị đó có tác
dụng gì đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta:
Thời Xuân thu - Chiến quốc có nhiều chuyển biến:
- Về chính trị-xã hội: Thời kỳ này xã hội loạn lạc, Thiên tử nhà Chu bị các vua chư
hầu lấn át; các nước chư hầu gây chiến tranh giành quyền bá chủ nhân dân đói khổ;
- Về kinh tế: Sức sản xuất phát triển rõ rệt, công cụ bằng sắt được sử dụng khá phổ
biến, năng suất lao động tăng, chế độ tư hữu ra đời làm cho chế độ Tỉnh điền tan rã;
- Về đạo đức xã hội bị suy thoái nghiêm trọng, tình trang tôi giết vua, con giết cha
diễn ra thường xuyên;
- Về văn hóa - tư tưởng: Chế độ giáo dục trước đây dành riêng cho tầng lớp quí tộc
được chuyển dần xuống tầng lớp dưới, mở rộng thành tự học, trong xã hội xuất hiện tầng
lớp trí thức mới. Điều đó tạo điều kiện cho nhiều trường phái tư tưởng và nhiều học thuyết
chính trị ra đời, tiêu biểu là học thuyết đức trị của phái nho gia. Đại biểu cho học thuyết Đức
trị của phái nho gia là Khổng Tử, Mạnh Tử.
1. Khái niệm: Đức trị cách cai trị dân bằng lòng nhân từ độ lượng của người cai trị;
giáo hoá dân, tu dưỡng đức hạnh của người bị trị.
2. Học thuyết chính trị của Khổng Tử:
* Quan niệm về Nhân:
- Nhân là lòng yêu thương con người, giúp đỡ và không làm hại người khác.
- Người có nhân đạt được hai điều cốt lõi có tính nguyên tắc là:
+ Muốn lập thân phải giúp người lập thân, muốn thông đạt phải giúp người thông
đạt.
+ Điều gì mình không muốn thì chớ đem đối xử với người khác.
- Nhân bao gồm cả trí và dũng. Dũng chính là sức mạnh của người nhân.
- “Nhân” đối với người cầm quyền là phải giữ được lòng tin của dân; lo cho dân giàu
sau đó dạy dân.
* Quan niệm về Lễ:
- Là hệ thống chuẩn mực để chiều chỉnh hành vi của con người, đảm bảo cho gia
đình và xã hội có trật tự.
- Những gì hợp với Lễ thì làm theo, và ngược lại thì không làm theo.
- Lễ giúp cho con người xác định được danh phận, cư xử theo thói quen của Lễ để từ
đó hình thành phẩm chất đạo đức.
* Mối quan hệ giữa Nhân và Lễ:
- Nhân là nội dung, Lễ là hình thức.
- Mục đích lập nhân là để phục lễ và phục lễ là làm điều nhân.
* Quan niệm về “thân thân” và “trọng hiền”:
- Thân thân là thương yêu người thân và trao quyền cho thân tộc.
- Khổng Tử cũng chủ trương tôn trọng người hiền, xem trọng người có đức, tài,
không phân biệt đẳng cấp.
* Quan hệ về Chính danh:
Chính danh là ai ở địa vị nào phải làm tròn trách nhiệm, mọi người phải tự giác giữ
lấy danh phận của mình, không được “Việt vị” – “Chính danh định phận”.
3
- Là xác định đúng danh phận, địa vị và thực hiện đúng bổn phận, trách nhiệm của
địa vị đó.
- Phương thức cơ bản để thực hiện chính danh là rèn luyện theo những chuẩn mực
của Nhân và Lễ.
3. Học thuyết chính trị của Mạnh Tử:
* Thuyết tính thiện: Mạnh Tử cho rằng “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Bản tính con
người thể hiện ở bốn đức tính cơ bản “Nhân, lễ, nghĩa, trí”.
* Quan điểm về bản tính con người: Bản tính của con người vốn là “Thiện”. Tự mỗi
người có: Lòng “Trắc ẩn”: (nhân) biết thương xót; Lòng “Tu ố”: (Nghĩa) biết xấu hổ; Lòng
“Từ nhượng”: (Lễ) biết nhường nhịn; Lòng “Thị phi”: (Trí) biết đúng sai.
* Chính sách “Vương đạo và được lòng dân”:
- “Vương đạo” là nền chính trị nhân nghĩa mà vua, quan đều vui buồn, sướng khổ
cùng dân;
- “Bá đạo” là nền chính trị cai trị dân bằng vũ lực đàn áp dân chỉ vì lợi ích của những
kẻ cầm quyền;
- Thái độ của người cai trị như thế nào thì dân đối xử tương ứng với người cai trị như
thế ấy;
- Mạnh Tử chủ trương xóa bỏ vua vô đạo, hại nước hại dân.
Thi hành chính sách “Vương đạo và được lòng dân” thể hiện tư tưởng lấy dân làm
gốc, được lòng dân thì được thiên hạ.
* Đánh giá:
- Mặt tích cực: Một số nội dung của học thuyết vẫn mang giá trị thời đại như:
+ Khuyên mỗi người sống nhân nghĩa, đề cao giáo dục đạo đức; phải xác định đúng
địa vị và thực hiện đầy đủ, đúng đắn nghĩa vụ, quyền hạn của địa vị đó.
+ Khuyên người cầm quyền phải thường xuyên rèn đức, luyện tài, làm gương cho
dân, giữ lòng tin của dân, yêu thương dân;
+ Trọng dụng, đề cử người có đức, tài.
- Mặt hạn chế:
Do hạn chế của thế giới quan duy tâm nên giải thích không đúng về nguyên nhân
chính của thực trạng xã hội. Họ cho rằng, loạn lạc là do “lễ hư, nhạc hỏng”, danh không phù
hợp với thực” mà không thấy được sự tồn tại xã hội đã và đang thay đổi.
Quá đề cao giáo dục, trông chờ vào đạo đức của con người mà không quan tâm đến
pháp luật, thưởng phạt.
4- Giá trị đối với việc xây dựng đất nước ta hiện nay:
- Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện hệ thống pháp luật.
- Đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo nhất là giáo dục về đạo đức.
- Xây dựng chế độ chính trị nhân bản, đề cao pháp luật đạo đức theo những giá trị
nhân văn của dân tộc và thời đại.
- Chăm lo thường xuyên trong việc thực hiện và rèn luyện đạo đức cán bộ đảng viên.
Câu 3: Đồng chí hãy nêu những giá trị cơ bản của lịch sử tư tưởng chính trị
phương Tây?
1. Tư tưởng về người lãnh đạo chính trị:
Quan niệm về con người: Con người gắn bó với nhau hình thành xã hội. Xã hội lý
tưởng là xã hội đem lại vinh quang chung cho mọi người, đó là xã hội mà mỗi thành viên là
công dân của nhà nước và nhà nước bảo vệ công dân theo đạo luật mang tính pháp quyền. Xã
hội như thế mới đảm bảo quyền tự nhiên của con người là bất khả xâm phạm: quyền sống;
4
quyền tự do và quyền sở hữu. Trong đó, quyền sống là quyết định; quyền tự do là giữ vai trò
chủ đạo; quyền sở hữu là điều kiện để thực hiện hai quyền trên.
Thủ lĩnh chính trị là người có đạo đức, trí tuệ, tài năng, vì lợi ích chung, tập hợp sức
mạnh của quần chúng, phục vụ nhân dân.
2. Tư tưởng về nguồn gốc của quyền lực nhà nước:
Quan niệm về chính trị là sự lãnh đạo và điều khiển toàn bộ xã hội. Làm chính trị là
làm sao cho đời sống con người, cộng đồng ngày càng tốt hơn, phải tập trung được trí tuệ của
giai cấp, của nhân dân, của thời đại. Chính trị là sự thống trị trí tuệ tối cao. Áp đặt, cưỡng bức
không phải chính trị chân chính.
Quyền lực chính trị là sức mạnh của cộng đồng để điều hòa, phối hợp tạo sự ổn định và
phát triển chung của toàn xã hội, tạo môi trường cho cá nhân có điều kiện sống, hoạt động và
mưu cầu hạnh phúc. Từ quyền lực nhân dân thông qua khế ước xã hội lập nên nhà nước phục
vụ nhân dân. Quyền lực nhân dân là cơ sở, cội nguồn của mọi quyền lực nhà nước, nhân dân có
quyền kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước do mình ủy thác và cũng có quyền thay đổi bằng
bạo lực cách mạng khi nhà nước vi phạm khế ước.
3. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền – xã hội công dân:
Để chống độc tài chuyên chế và lạm quyền xâm hại đến đời sống con người. Quyền lực
nhà nước được phân thành các cơ quan quyền lực khác nhau: Lập pháp (QH, ND), Hành pháp
(CP, CQ HCNN), Tư pháp (Thẩm phán).
Quyền lực được cân bằng, ức chế lẫn nhau (tam quyền phân lập), thuộc về nhân dân, có sự
phân công, phối hợp, điều hòa.
4. Tư tưởng về thể chế nhà nước:
+ Quân chủ chuyên chế là một thể chế nhà nước do một người cầm quyền là vua.
+ Cộng hòa quý tộc là một thể chế nhà nước do một số người tinh hoa về trí tuệ và đạo
đức của quốc gia cầm quyền vì lợi ích chung.
+ Cộng hòa dân chủ là một thể chế nhà nước do đông đảo nhân dân cầm quyền bằng bỏ
phiếu bầu ra các pháp quan, nên mọi quyết định là do cộng đồng và đều vì lợi ích chung, xã hội
được quản lý theo nguyên tắc bình đẳng, sự công bằng trước pháp luật được thực hiện.
Mỗi thể chế đều có ưu, khuyết điểm, không có thể chế nào hòan thiện, cho nên chính
phủ tốt nhất là chính phủ không theo một tiêu chí thuần túy nào mà phải biết chọn lọc cho
phù hợp với thời đại và xã hội.
Câu 4: Quyền lực chính trị là gì? Vì sao trong CNXH quyền lực chính trị thuộc
về nhân dân lao động?
1. Quyền lực:
- Thời cổ đại: Arixtot cho rằng quyền lực không chỉ là cái vốn có của mọi sự vật biết
cảm giác mà còn của cả giới tự nhiên vô cơ.
- Theo quan điểm tư sản:
+ K.Đantra cho rằng, nắm quyền lực có nghĩa là bắt người khác phải phục tùng.
+ Còn theo Lipson thì quyền lực là khả năng đạt tới kết quả nhờ các hoạt động phối hợp.
- Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin: Quyền lực là một phạm trù dùng để chỉ khả
năng thực hiện ý chí của mình tác động đến hành vi, phẩm hạnh của người khác thông qua một
phương tiện nào đó như uy tín, quyền hành, sức mạnh của nhà nước…
* Một số khái niệm và nội dung có liên quan:
- Quyền hành: Là quyền định đoạt và điều hành công việc trong phạm vi trách nhiệm
của mình.
- Quyền uy: Là quyền khiến người khác phải nể, sợ và tôn kính.
- Phân loại quyền lực:
5
+ Căn cứ vào chủ thể: Quyền lực cá nhân, quyền lực của một nhóm người, một tầng lớp
xã hội, một giai cấp, một dân tộc, một quốc gia.
+ Căn cứ vào tính chất tác động: Quyền lực mang tính tích cực, tiến bộ, cách mạng;
quyền lực mang tính tiêu cực, phản động.
+ Căn cứ vào lĩnh vực tác động: Quyền lực kinh tế, quyền lực chính trị, quyền lực xã
hội.
- Quyền lực xã hội, là loại quyền lực xuất phát từ ý chí của cộng đồng. Nhờ vậy mà xã
hội tồn tại trong vòng trật tự và quyền lực xã hội không mang tính giai cấp.
- Quyền lực nhà nước, là quyền lực của giai cấp thống trị; là một bộ phận quyền lực
chính trị, quyền lực nhà nước cũng mang đầy đủ tính chất và đặc trưng của quyền lực chính trị.
Điểm khác nhau căn bản giữa quyền lực nhà nước và quyền lực chính trị là quyền lực nhà
nước có khả năng vận dụng các công cụ, các lực lượng, các phương tiện nhà nước để buộc các
giai cấp, các tầng lớp phải phục tùng ý chí của giai cấp thống trị.
2. Quyền lực chính trị, là bạo lực có tổ chức của một giai cấp này để trấn áp giai cấp
khác.
- Đặc điểm của quyền lực chính trị:
+ Thứ nhất là, quyền lực chính trị bao giờ cũng mang tính giai cấp.
+ Thứ hai là, quyền lực chính trị thể hiện bên ngoài là thống nhất, nhưng trong quan hệ
nội tại thường chứa đựng mâu thuẩn, thậm chí là mâu thuẫn đối kháng.
+ Thứ ba là, sức mạnh của quyền lực chính trị là sức mạnh của một giai cấp (không phải
của một cá nhân).
3. Trong nhà nước chủ nghĩa xã hội quyền lực chính trị thuộc về nhân dân:
- Xét chung cho các chế độ xã hội có giai cấp bóc lột (CHNL, PK, TB) thì giai cấp bóc
lột không ngừng củng cố và xây dựng quyền lực nhà nước để quyền lực nhà nước có đầy đủ
công cụ, phương tiện trấn áp các giai cấp khác. Do vậy, quyền lực chính trị cơ bản thuộc về giai
cấp bóc lột.
- Trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì quyền lực chính trị thuộc về nhân dân là vì:
+ Xuất phát từ bản thân của chế độ xã hội chủ nghĩa mà đặc trưng là chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất.
+ Xuất phát từ lợi ích của giai cấp cầm quyền mà lợi ích của giai cấp công nhân trong
chế độ xã hội chủ nghĩa cơ bản thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động.
+ Bản chất của kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước của dân, do dân và vì
dân.
Biểu hiện cụ thể quyền lực chính trị thuộc về nhân dân đó là mọi công dân đều có:
- Quyền bình đẳng trước pháp luật;
- Quyền bầu cử, ứng cử vào các cơ quan nhà nước;
- Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí trong khuôn khổ của pháp luật hiện hành;
- Quyền và nghĩa vụ trong việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Giải pháp để phát huy quyền lực chính trị:
- Về kinh tế là, xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
- Về chính trị, tiến hành đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị (Đảng, nhà nước, các
tổ chức CT-XH). Mở rộng, phát triển và hoàn thiện nền dân chủ XHCN thông qua các hình
thức dân chủ trực tiếp hay gián tiếp.
- Về văn hóa – xã hội, từng bước nâng cao trình độ học vấn cho nhân dân, trước hết là
cán bộ, đảng viên; đẩy mạnh thực hiện công bằng xã hội.
6
Câu 5: Đồng chí hãy trình bày tính năng động của chính trị đối với kinh tế
trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay ?.
- Chính trị là phạm vi hoạt động gắn liền với quan hệ giữa các giai cấp, các tập
đoàn, các đảng phái chính trị, các dân tộc, các quốc gia…mà hạt nhân của nó là vấn đề
giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước.
- Kinh tế là toàn bộ các lĩnh vực, các ngành khác nhau của một nền kinh tế quốc dân
mà cơ sở là những quan hệ kinh tế cơ bản. Quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức
và quản lý sản xuất, quan hệ phân phối. Đó cũng là cơ sở kinh tế của một chế độ xã hội nhất
định. Kinh tế còn thể hiện tính chất đặc trưng đó là tính hiệu quả, sự tiết kiệm trong quá
trình sản xuất và kinh doanh.
- Vai trò của kinh tế đối với chính trị: Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin,
cơ sở hạ tầng quy định cấu trúc và tính chất của kiến trúc thượng tầng (tức là kinh tế quyết
định chính trị).
- Tác động trở lại của chính trị đối với kinh tế:
+ Thứ nhất, chính trị định hướng cho kinh tế phát triển.
+ Thứ hai, chính trị lựa chọn mô hình phát triển kinh tế.
+ Thứ ba, chính trị điều tiết tốc độ phát triển kinh tế.
+ Thứ tư, chính trị tác động đến các chủ thể kinh tế.
+ Thứ năm, chính trị tham gia quản lý chính trị – xã hội, con người trong các cơ sở
sản xuất.
Những quan điểm cơ bản của Đảng ta về chính trị với kinh tế trong đổi mới:
- Thứ nhất là xác định mối tương quan giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị:
Đổi mới kinh tế làm trọng tâm tùy thành quả và yêu cầu trong đổi mới kinh tế mà từng bước
đổi mới chính trị.
- Thứ hai là định hướng xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần:
Đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa.
- Thứ ba kinh tế hàng hóa nhiều thành phần dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng
cộng sản Việt Nam: Kinh tế nhiều thành phần nhưng không chấp nhận đa nguyên chính trị.
Một đảng, nhất nguyên chính trị còn là điều kiện đảm bảo sự ổn định chính trị để phát triển
kinh tế. Trong tình hình đó đòi hỏi đảng phải trong sạch, vững mạnh, có đường lối và có
niềm tin của nhân dân;
- Thứ tư là kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước: Là đảm bảo tính định hướng cho kinh tế, phát huy mặt tích cực và
hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế;
- Thứ năm là đổi mới hệ thống chính trị cho phù hợp với đổi mới kinh tế: Đổi mới
nâng cao hiệu lực hoạt động của hệ thống chính trị và từng bước hoàn thiện nền dân chủ
XHCN, làm tốt việc này chính là góp phần tạo động lực tổng hợp cho sự nghiệp xây dựng
đất nước.
Các yêu cầu đảm bảo tính năng động của chính trị với kinh tế:
- Chính trị lãnh đạo kinh tế là tổ chức và chỉ đạo nền kinh tế bảo vệ lợi ích giai cấp
và quan điểm giai cấp.
- Yêu cầu cơ bản của chính trị lãnh đạo kinh tế là:
+ Hiệu quả kinh tế và sự phát triển kinh tế;
+ Phải tôn trọng quy luật khách quan của sự vận động và phát triển kinh tế;
+ Xây dựng được mối quan hệ của các nhà lãnh đạo chính trị với các doanh nghiệp;
+ Kiểm soát chặt chẽ những vấn đề cơ bản và then chốt của kinh tế;
+ Động viên được các nguồn lực cho nền kinh tế.
7
+ Đảm bảo quyền lực chính trị tập trung thống nhất trong sự lãnh đạo và chỉ đạo nền
kinh tế.
Câu 6: Trình bày sự khác nhau giữa đặc trưng văn hóa chính trị Việt Nam với
đặc trưng văn hóa chính trị thế giới.
1. Khái niệm:
- Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo trong
lịch sử, biểu hiện sức sáng tạo và năng lực vươn lên của con người trong tiến trình cải biến
tự nhiên, cải biến xã hội và cải biến chính bản thân mình theo hệ chuẩn Chân – Thiện – Mỹ
cụ thể.
- Văn hóa chính trị là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần trong đời sống
chính trị của chủ thể, phản ánh trình độ và năng lực vươn lên để thực thi quyền lực và lợi
ích của giai cấp, dân tộc và con người trong tiến trình lịch sử.
2. Đặc trưng văn hóa chính trị thế giới
- Văn hóa chính trị mang tính giai cấp: Văn hóa chính trị được hình thành trong thực
tiễn đấu tranh giai cấp; là sản phẩm và công cụ trực tiếp của đấu tranh giai cấp; thế giới
quan giai cấp là nền tảng định hướng giá trị của chủ thể; giá trị giai cấp giữ vai trò chủ đạo
trong định hướng giá trị.
- Văn hóa chính trị mang tính lịch sử cụ thể: Văn hóa chính trị được quy định bởi
những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan; dựa trên cơ sở lý tưởng chính trị, lập
trường và hành vi Các giá trị của văn hóa chính trị không phải là cái bất biết mà luôn có sự
vận động và phát triển. Văn hóa chính trị rất phức tạp trong việc xác định giá trị của các chủ
thể, ý thức giai cấp chi phối sự nhìn nhận của chủ thể và phải được xem xét trong hoàn cảnh
cụ thể.
- Văn hóa chính trị mang tính kế thừa: Văn hóa chính trị là tổng hòa các giá trị văn
hóa như văn hóa đạo đức, văn hóa khoa học, văn hóa thẫm mỹ thâu thái, thâu hóa những
giá trị văn hóa khác thành văn hóa chính trị.
3. Đặc trưng văn hóa chính trị Việt Nam
- Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí minh là bộ phận cốt lõi trong văn hóa
chính trị Việt Nam.
- Văn hóa chính trị Việt Nam kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống của dân
tộc, trong đó chủ nghĩa yêu nước là kết tinh những giá trị tiêu biểu nhất của văn hóa chính
trị Việt Nam.
- Thống nhất chủ nghĩa yêu nước gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội: Xây dựng một xã
hội không có bóc lột; lợi ích của mỗi con người gắn liền với lợi ích của quốc gia, dân tộc.
- Tiếp thu có chọn lọc những giá trị văn hóa chính trị của nhân loại để bảo tồn và
phát triển mới các giá trị văn hóa Việt Nam.
4. Giải pháp (Nhớ ý trình bày không cần viết):
- Phát triển văn hóa dân tộc: Phát triển toàn diện nền văn hóa dân tộc; phát triển
khoa học, giáo dục; xây dựng văn hóa cộng đồng.
- Phát triển giá trị văn hóa chính trị: đẩy mạnh công tác tư tưởng, lý luận, khai thác
văn hóa chính trị dân tộc; phát huy quyền lực chính trị của nhân dân.
Câu 7: Đồng chí hãy trình bày quy trình, giải pháp xử lý điểm nóng chính trị xã
hội.
1. Khái niệm:
- Điểm nóng xã hội, là đời sống xã hội không bình thường, bất ổn định, rối loạn,
diễn ra sự xung đột, chống đối giữa các lực lượng với những hành vi không còn tự kìm chế
8
được. Đã vượt ra ngoài khuôn khổ của pháp luật và chuẩn mực văn hóa, đạo đức, diễn ra tại
một địa điểm, trong một thời gian nhất định và có khả năng lan tỏa ra nơi khác.
- Điểm nóng chính trị - xã hội, là điểm nóng xã hội, diễn ra trong lĩnh vực chính trị-
xã hội khi mà sự chống đối của đám đông quần chúng, của các lực lượng đối lập đã hướng
trực tiếp vào những người nắm quyền lực chính trị, cơ quan quyền lực và các thể chế chính
sách của chính quyền nhà nước.
* Đặc điểm điểm nóng chính trị - xã hội (nhớ ý để trình bày không cần viết):
- Đời sống xã hội trong trạng thái không bình thường, mất ổn định và thậm chí rối
loạn.
- Xung đột xảy ra giữa các lực lượng đám đông mà không kiềm chế được.
- Hành vi của đám đông tham gia điểm nóng đã vượt ra khuôn khổ pháp luật và
những chuẩn mực về văn hóa-đạo đức.
- Diễn ra trong không gian và thời gian nhất định và có khả năng lan tỏa sang nơi
khác.
- Mũi nhọn đấu tranh của đám đông hướng trực tiếp vào lãnh đạo.
- Họ đòi thay đổi các thể chế chính sách nhà nước.
2. Quy trình các giải pháp xử lý điểm nóng chính trị xã hội :
* Bước 1: Nắm tình hình, phân tích nguyên nhân, nhận dạng mâu thuẫn.
- Nắm tình hình: Số lượng người tham gia, thành phần, đối tượng, hình thức tổ chức,
yêu sách gì? Cơ quan nào có trách nhiệm giải quyết? Ai là người cầm đầu, số lượng người
quá khích?
- Phân tích nguyên nhân: Nguyên nhân khách quan, chủ quan, nguyên nhân bên
trong, bên ngoài, nguyên nhân sâu xa và trực tiếp.
- Nhận dạng mâu thuẫn: Xem xét tính chất của mâu thuẫn, mâu thuẫn đối kháng hay
không đối kháng, mâu thuẫn giữa nội bộ nhân dân hay mâu thuẫn địch ta.
* Bước 2: Áp dụng biện pháp rút ngồi nổ và hạn chế lan tỏa sang nơi khác.
- Thiết lập ban chỉ đạo xử lý điểm nóng trong đó chú ý việc lựa chọn đúng người chỉ
huy và ban tham mưu.
- Xác định phương thức xử lý (vận động, thuyết phục, hành chính, pháp luật, trấn
áp), lựa chọn lực lượng thích hợp (cán bộ Đảng viên, các đoàn thể và quần chúng tốt, lực
lượng vũ trang) và nghệ thuật sử dụng các phương tiện hỗ trợ (báo chí, truyền thanh, truyền
hình ).
- Chuẩn bị phương án xấu nhất có thể xảy ra, ngăn ngừa nguy cơ lan tỏa sang nơi khác
(chính trị tư tưởng, tâm lý) để ngăn ngừa.
- Nắm vững phương châm xử lý đó là kiên định về nguyên tắc, mềm dẻo về phương pháp,
linh hoạt trong biện pháp xử lý (trên cơ sở dựa vào dân, nắm lấy dân).
→ Giải tán đám đông, tuỳ từng điểm nóng có thể áp dụng các trường hợp:
+ Giải quyết yêu sách chính đáng của nhân dân.
+ Cho người trà trộn vào đám đông để vận động thuyết phục.
+ Trường hợp nguy cấp phải sử dụng sức mạnh để buộc mọi người phải giải tán.
→ Đối sách với người cầm đầu, tuỳ từng điểm nóng có thể áp dụng các biện pháp:
+ Thương lượng với họ để họ đứng ra vận động đám đông giải tán.
+ Nếu người cầm đầu là phần tử xấu, kích động thì phải đấu tranh với họ.
+ Trong một số trường hợp cần thiết phải bắt giữ người cầm đầu (chú ý đúng pháp
luật và được người dân ủng hộ).
* Bước 3: Khắc phục hậu quả sau khi điểm nóng được xử lý.
- Nhanh chóng đưa sản xuất và mọi mặt cuộc sống trở lại bình thường;
9
- Khắc phục thiệt hại về người và của (nếu có);
- Xác định rõ đúng sai, xử lý công khai và đúng pháp luật đối với người sai phạm.
* Bước 4: Đánh giá, rút kinh nghiệm.
- Đánh giá ưu khuyết điểm của cán bộ lãnh đạo nơi xảy ra điểm nóng; của hệ thống
chính trị; của phương thức lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành.
- Đánh giá cơ sở chính trị trong nhân dân nơi xảy ra điểm nóng.
- Áp dụng tổng hợp các giải pháp về kinh tế, chính trị, xã hội…thực chất chính là
thực hiện chiến lược an dân để tạo sự bền vững của chế độ.
Các giải pháp cơ bản xử lý điểm nóng chính trị - xã hội:
- Phát hiện kịp thời những mâu thuẫn phát sinh và giải quyết nhanh chóng, dứt điểm
những đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân từ cơ sở.
- Đổi mới tổ chức hoạt động của hệ thống chính trị, đặc biệt là nhà nước.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, nâng cao năng lực nắm bắt, phát hiện và xử lý điểm nóng
của cán bộ.
- Hoàn thiện thể chế pháp luật của nhà nước nhất là pháp luật liên quan đến đất đai.
- Chăm lo mọi mặt đời sống nhân dân, đặc biệt là vùng dân tộc và tôn giáo.
Câu 8: Quyết sách chính trị là gì? Vai trò của quyết sách chính trị của nước ta
hiện nay?
1. Khái niệm quyết sách chính trị: Quyết sách chính trị là đường lối, là nghị quyết
chính trị của Đảng.
2. Vai trò của quyết sách chính trị:
a. Đối với toàn xã hội nói chung: Quyết sách chính trị tác động và liên quan trực
tiếp đến các lĩnh vực đời sống xã hội, vì vậy quyết sách chính trị đề ra đúng đắn phù hợp thì
sẽ tạo điều kiện cho đời sống xã hội phát triển nhanh và ngược lại.
b. Đối với các chủ thể ban hành, đặc biệt trong điều kiện Việt Nam uy tín và vai trò
lãnh đạo của Đảng ngày càng được xác lập và nâng cao trong đời sống xã hội hay không
trước hết phụ thuộc vào việc đề ra quyết sách chính trị.
3. Vai trò của quyết sách chính trị của nước ta hiện nay
* Sự thể hiện quyết sách chính trị ở Việt Nam:
- Chủ thể cao nhất để thực hiện quyết sách chính trị là Đảng cộng sản Việt Nam.
Quyết sách chính trị cơ bản của Đảng ta là đường lối cách mạng Việt Nam trong đấu tranh
giải phóng dân tộc và quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay.
- Cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện quyết sách chính trị là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên minh
công nhân – nông dân – trí thức.
- Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ và đường lối phát triển kinh tế – xã
hội nêu trong văn kiện Đại hội thời kỳ đổi mới và các nghị quyết chuyên đề trong từng giai
đoạn đổi mới được xem là quyết sách chính trị của Đảng. Quyết sách ấy là một hệ thống các
quan điểm về con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam mà cốt lõi là phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
- Quyết sách của đảng ta về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam do đảng ta đề ra là
một quyết sách hợp lòng dân, mang tính khoa học và cách mạng, ngày càng hoàn thiện và
sáng rõ hơn; được cụ thể hoá trong hoạt động thực tiễn của nhà nước. Đây là yếu tố đưa
cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi. Đây cũng là yếu tố góp phần nâng cao uy tín của
Đảng và vị thế của dân tộc ta trên trường quốc tế.
10
- Những hiện tượng trì trệ, duy ý chí, độc đoán, tiêu cực, quan liêu, cửa quyền…của
cán bộ trong hệ thống chính trị (nhà nước, Đảng, mặt trận đoàn thể) đã và đang cản trở việc
thực hiện quyết sách chính trị của đảng, là một thực tế cần quan tâm chấn chỉnh hiện nay.
* Vai trò của quyết sách chính trị thể hiện ở Việt Nam: Quyết sách chính trị ở Việt
Nam ta là đúng đắn, khoa học quá trình thực hiện đạt kết quả cao:
- Kịp thời phục vụ cho sự phát triển kinh tế-xã hội và chỉ đạo trong giải quyết những
vấn đề thực tiễn (trong quá trình thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội).
- Phát huy nội lực, tận dụng ngoại lực trong thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần.
- Tăng cường sức mạnh bảo vệ tổ quốc, giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã
hội.
Câu 9: Đồng chí hãy trình bày những giải pháp để xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay?
1. Khái niệm:
- Nhà nước pháp quyền, là một nhà nước dựa trên cơ sở của pháp luật, vai trò và
nhiệm của nhà nước chỉ được thực hiện thông qua pháp luật và cũng bị hạn chế bởi pháp luật.
- Xã hội công dân, là một xã hội mà con người được hình thành trong quá trình biến cư
dân của một nước thành những công dân. Các thành viên của xã hội có khả năng và cảm thấy
xứng đáng được tham gia vào đời sống chính trị của cộng đồng.
* Dấu hiệu:
- Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước;
- Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân;
- Pháp luật ở vị trí tối cao;
- Trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc
phân quyền, dùng quyền lực để kiếm tra giám sát quyền lực.
* Đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
- Toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân trên lập trường giai cấp công nhân;
- Pháp luật luôn đảm bảo tính tối cao;
- Thực hiện và bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công dân và quyền của con
người;
- Quyền lực nhà nước là tập trung thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp;
- Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
2. Phương hướng xây dựng nhà nước pháp quyền:
- Xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa;
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ quyền con người và quyền công dân;
- Cải cách, hoàn thiện bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập quyền có phân công,
phối hợp;
- Đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức có năng lực chuyên môn, có phẩm chất cách
mạng;
- Chú ý công tác giáo dục pháp luật, ý thức pháp luật cho toàn dân;
- Bảo tồn và phát triển những giá trị văn hóa trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện
nhà nước pháp quyền.
3. Giải pháp xây dựng nhà nước pháp quyền:
- Tiếp tục hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa;
- Nâng cao chất chất lượng đội ngũ cán bộ công chức;
- Tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước.
11
Câu 10: Vì sao định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam phải thực hiện
chế độ một đảng và nhất nguyên chính trị?
1. Khái niệm:
- Đảng chính trị là đội tiên phong của giai cấp, lãnh đạo giai cấp đó đấu tranh để
hiện thực hóa quyền lực, lợi ích của giai cấp mà mình đại diện.
- Nhất nguyên chính trị: Chế độ nhất nguyên chính trị là trong một quốc gia, vai trò
lãnh đạo nhà nước và xã hội thuộc về một đảng chính trị duy nhất.
Ưu điểm: Thuận lợi hơn trong huy động các nguồn lực phục vụ quốc gia và xã hội.
Chính trị dễ ổn định hơn.
Hạn chế: Nếu dân chủ không được thực thi đúng mức thì sẽ sinh ra đặc quyền đặc
lợi trong một bộ phận cán bộ đảng viên có chức quyền trong bộ máy của Đảng và nhà nước.
Hệ thống chính trị dễ bị quan liêu (do không có lực lượng phản biện nào khác do đó
đòi hỏi Đảng phải không ngừng tự chỉnh đốn, tự đổi mới).
2. Các nước xã hội chủ nghĩa đều theo chế độ nhất nguyên vì:
- Xuất phát từ điều kiện lịch sử nhất định, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Sau khi giành chính quyền, hệ thống chính trị mới được thiết lập, trong đó Đảng cộng sản
giữ vai trò duy nhất lãnh đạo vì là lực lượng có thực lực, có uy tín với nhân dân, đại biểu
trung thành của giai cấp công nhân, có đặc điểm của giai cấp công nhân là có ý thức tổ chức
kỷ luật cao.
- Xuất phát từ lợi ích do có sự thống nhất về cơ bản giữa lợi ích của giai cấp công
nhân, các tầng lớp nhân dân và toàn dân tộc. Do đó chỉ cần duy nhất một đảng cộng sản.
3. Đảng ta khẳng định định hướng xã hội chủ nghĩa nhất định phải thực hiện
nhất nguyên chính trị nói cách khác khẳng định duy nhất vai trò của Đảng cộng sản
Việt Nam không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng chính trị. Bởi vì:
- Thứ nhất, xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể nước ta, đảng ta đã được dân ta lựa chọn là
lực lượng chính trị duy nhất có đủ uy tín và năng lực để nắm giữ ngọn cờ lãnh đạo cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc, giai cấp và con người.
- Thứ hai, nhất nguyên chính trị đã được quyết định trong quyết sách chính trị
của Đảng và nhà nước ta, là vấn đề có tính nguyên tắc. Nếu thực hiện đa nguyên đa đảng
chính là dọn đường cho lực lượng phản động trong và ngoài nước, những phần tử cơ hội,
biến chất, bất mãn…lập Đảng phái hoạt động lúc đó sẽ đe dọa trực tiếp đến sự ổn định
chính trị và những thành quả đạt được trong đấu tranh cách mạng và mục tiêu xã hội chủ
nghĩa.
- Thứ ba, xuất phát từ bài học quốc tế Liên Xô và Đông Âu.
+ Với khẩu hiệu tự do ngôn luận, dân chủ Đảng cộng sản Liên Xô đã buông lỏng các
phương tiện thông tin đại chúng, các lực lượng cơ hội chống đối có điều kiện công kích
đảng cộng sản và chủ nghĩa xã hội, từng bước làm xói mòn niềm tin trong dân.
+ Việc Đảng cộng sản Liên Xô cho phép tự do lập các tổ chức chính trị xã hội và các
đảng chính trị càng làm cho tình hình trở nên rối loạn và không thể kiểm soát được. Đảng
cộng sản cầm quyền bị bao vây bởi nhiều đảng chính trị và lực lượng chống đối có sự hậu
thuẫn của phương tây nên việc mất chính quyền là điều không tránh khỏi.
- Thứ tư, xuất phát từ hạn chế của đa nguyên.
+ Xã hội dễ bị chia rẽ, khó ổn định tình hình chính trị do có sự đấu tranh giữa các
Đảng phái để dành quyền lực chính trị.
+ Cơ chế cạnh tranh chỉ có lợi cho các Đảng mạnh. Các đảng bị loại luôn tìm cách
lật đổ Đảng cầm quyền dẫn đến xã hội luôn tìm ẩn khả năng xung đột.
+ Liên minh giữa các đảng là tạm thời, không bền vững dễ bị đổi vỡ.
12
13
Câu 7: Vai trò của quần chúng nhân dân, liên hệ bài học lấy dân làm gốc, phát
huy đại đoàn kết dân tộc nước ta.
Xã hội loài người tồn tại và phát triển theo những quy luật khách quan và
những quy luật đó được thực hiện thông qua hoạt động có ý thức của con người,
trong đó hoạt động của quần chúng nhân dân có vai trò quyết định rất lớn đến sự phát
triển của lịch sử xã hội. Trên cơ sở nghiên cứu, vận dụng quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lên nin về vai trò của quần chúng nhân dân vào công cuộc đổi mới trong xây
dựng đất nước, Đảng ta luôn thấm nhuần tư tưởng “lấy dân làm gốc” và khẳng định
“Đổi mới phải dựa vào nhân dân phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo”.
Theo quan điểm triết học Mác-Lênin, quần chúng nhân dân là một khối người
đông đảo trong xã hội-bao hàm những lực lượng, tầng lớp nhân dân trong xã hội-mà
qua hoạt động của họ, lịch sử sẽ biến đổi tuỳ từng điều kiện lịch sử, sự kiện lịch sử.
Quần chúng nhân dân là tất cả nhân dân lao động và các lực lượng tiến bộ trong xã
hội mà qua hoạt động của họ, lịch sử sẽ phát triển. Trong xã hội có giai cấp, quần
chúng nhân dân không bao gồm giai cấp áp bức bóc lột và các thế lực thi hành chính
sách chống nhân dân.
Triết học Mác khẳng định quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính
của lịch sử, là lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử.
Vai trò được thể hiện trước nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất
cơ bản của xã hội. Nếu sản xuất vật chất là nền tảng quyết định sự phát triển của xã
hội thì quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội bởi vì họ là
những người trực tiếp sản xuất ra mọi của cải vật chất để bảo đảm sự tồn tại và phát
triển của xã hội. Mặt khác quần chúng nhân dân là người cải tiến, chế tạo ra công cụ
lao động, đồng thời trong quá trình sản xuất, họ không ngừng tích lũy kinh nghiệm,
kỹ năng lao động, làm cho lực lượng sản xuất ngày càng phát triển. Hơn nữa lực
lượng sản xuất của quần chúng nhân dân là động lực cho sự phát triển của khoa học
kỹ thuật. Nhu cầu sản xuất của quần chúng đã thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ
thuật và hình thành các môn khoa học mới. Như vậy quần chúng nhân dân đóng vai
trò quyết định trong sản xuất vật chất của xã hội.
Bên cạnh đó, quần chúng nhân dân còn là lực lượng cơ bản của mọi cuộc
cách mạng xã hội. Xã hội vận động và phát triển theo quy luật nội tại của nó mà
trước hết là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Mâu thuẩn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong đấu
tranh có giai cấp được biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẩn đối kháng giữa các giai
cấp. Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội có giai cấp mà đỉnh cao của
đấu tranh giai cấp là cách mạng xã hội. Cách mạng xã hội là sự nghiệp của đông đảo
quần chúng nhân dân lao động. Nếu không có hoạt động của hàng triệu quần chúng
thì cũng không có các cuộc cách mạng lớn trong lịch sử. Đặc biệt trong thời kỳ bão
táp cách mạng thì tinh thần cách mạng, ý chí sáng tạo của quần chúng nhân dân được
phát huy đến cao độ.
Ngoài vai trò quyết định trong sản xuất vật chất của xã hội và là lực lượng cơ
bản trong cách mạng xã hội, quần chúng nhân dân có vai trò to lớn trong sản xuất
tinh thần. Quần chúng nhân dân là người trực tiếp sáng tạo ra những giá trị tinh
thần của xã hội. Tục ngữ, ca dao, hò vè, điệu múa, lời hát cũng đều là những giá trị
14
tinh thần trực tiếp do nhân dân sáng tạo ra. Những giá trị đó là cơ sở để phát triển nền
văn hoá nghệ thuật lớn. Mặt khác, thực tiễn lao động sản xuất và đấu tranh cách
mạng của quần chúng nhân dân là nguồn cảm hứng cho các văn nghệ sỹ chuyên
nghiệp sáng tác. Tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân làm cơ sở cho sự
phát triển của văn hoá-nghệ thuật. Như vậy, quần chúng nhân dân đóng vai trò quan
trọng trong sản xuất tinh thần.
Trên tất cả các mặt sản xuất vật chất, đấu tranh cách mạng và sản xuất tinh
thần đã chứng tỏ chân lý quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính của lịch
sử, là lực lượng quyết định sự phát triển của xã hội.
Triết học Mácxít khẳng định vai trò quyết định của quần chúng nhân dân
nhưng cũng đề cao vai trò của cá nhân, lãnh tụ-người quyết định quy mô, tốc độ, nhịp
độ của các tiến trình khách quan trong lịch sử. Cá nhân lãnh tụ là lãnh tụ của quần
chúng nhân dân, được quần chúng suy tôn, tín nhiệm làm lãnh tục của họ. Ý chí của
người lãnh tụ là sự thể hiện ý chí nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Ngược lại
quần chúng nhân dân và phong trào của quần chúng lại cần đến người tổ chức, lôi
kéo, tập họp và hướng dẫn phong trào mới, bảo đảm phong trào của quần chúng đạt
hiệu quả cao. Tuy lãnh tụ có vai trò quan trọng nhưng triết học Mácxít cũng cương
quyết chống lại tệ “sùng bái cá nhân”. Chỉ khi nào mà những tư tưởng những định
hướng về đường lối trên tất cả các mặt đời sống xã hội do các vĩ nhân, lãnh tụ vạch ra
đều được sự đồng tình hưởng ứng của các tầng lớp tổ chức quần chúng nhân dân thì
khi đó vai trò của lãnh tụ vĩ nhân mới phát huy tác dụng. Ngược lại cho dù những tư
tưởng, định hướng, đường lối của các vĩ nhân có tiến bộ tích cực đến mấy khi chưa
được sự đồng tình của nhân dân thì cũng không có giá trị. Chúng ta cần chống tư
tưởng sùng bái cá nhân, tuyệt đối hóa vai trò của lãnh tụ vĩ nhân đi đến chổ quần
chúng không tin vào chính bản thân mình nhưng ngược lại cũng phải biết trân trọng
tôn kính những anh hùng vĩ nhân kiệt xuất của dân tộc của lịch sử.
Phát huy truyền thống, coi trọng vai trò của quần chúng nhân dân, trong lịch sử
phát triển của dân tộc, đồng thời lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và
thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã rút ra bài học lấy lấy dân làm gốc.
Thời kỳ trước đổi mới (năm 1986) bệnh quan liêu, tư tưởng phong kiến, gia
trưởng còn nặng ở một số cán bộ Đảng viên là người lãnh đạo đã làm xói mòn mối
liên hệ mật thiết vốn có giữa Đảng và quần chúng. Hậu quả của tình trạng đó không
những làm tính tích cực xã hội của quần chúng nhân dân bị hạn chế hoặc tước bỏ
quyền làm chủ của quần chúng, làm cho quần chúng thiếu tin tưởng vào lực lượng
của bản thân mình, làm cho họ có thái độ phục tùng tiêu cực mù quáng, thiếu suy
nghĩ phán đoán, thiếu độc lập tự chủ, không phát huy được tính tích cực sáng tạo của
đông đảo quần chúng trong sự nghiệp cách mạng, mà còn làm suy yếu vai trò lãnh
đạo của Đảng. Từ thực tiễn nước ta Đảng đã rút ra một trong những bài học kinh
nghiệm là “trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân
làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân”. Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH cũng khẳng định “Sự nghiệp cách mạng
là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ
đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh đất nước”.
15
Quán triệt bài học này, trong quá trình đổi mới chúng ta đã đạt được những
thành tựu to lớn. Vì vậy, Đảng đã rút ra bài học đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì
lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, đổi mới cũng là sự nghiệp của dân,
do dân, vì dân. Để đưa công cuộc đổi mới tới thắng lợi, phải phát huy được tính chủ
động, sáng tạo, tham gia một cách tích cực, tự giác của nhân dân. Đổi mới là một sự
nghiệp mới mẻ, chưa có tiền lệ. Nhiều vấn đề mới nảy sinh, nhiều khó khăn xuất hiện
cần có nhận thức mới, giải pháp mới. Chính ở đây, việc dựa vào dân, qua thực tiễn
phong phú của nhân dân tiến hành tổng kết, từng bước tìm ra quy luật các mặt của
cuộc sống để đi lên, đó là chìa khóa của thành công.
Từ khi bắt đầu khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đến nay,
cùng với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân, thực hiện việc quản lý xã hội bằng pháp quyền, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, thực hiện phương châm “dân biết, dân làm, dân kiểm tra”, Đảng thực sự
dựa vào dân, huy động sức mạnh của nhân dân trong việc giải quyết những vấn đề
bức xúc của cuộc sống đặt ra. Bên cạnh đó, trong công cuộc đổi mới Đảng đã chú
trọng đến việc phát huy phong trào quần chúng và việc tăng cường công tác dân vận
giữ vai trò quan trọng. Đó là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị. Trong công tác dân
vận, Đảng ta đã khẳng định 5 quan điểm xuyên suốt trong quá trình hoạt động. Một
là mọi đường lối, chủ trương của Đảng, luật pháp chính sách của Nhà nước phải xuất
phát từ tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân và phù hợp với khả năng của
quần chúng. Hai là phải biến quan điểm, đường lối của Đảng thành phong trào cách
mạng của quần chúng. Ba là phải chăm lo lợi ích thiết thân của quần chúng và thực
hiện các chính sách xã hội để đảm bảo công bằng xã hội. Bốn là các hình thức tập
hợp quần chúng phải đa dạng và phù hợp với trình độ của từng đối tượng. Năm là
phải phát huy cả hệ thống chính trị trong công tác dân vận. Mỗi cán bộ, Đảng viên
công chức nhà nước đều liên hệ tốt đều liên hệ tốt với nhân dân và làm tốt công tác
dân vận, lấy các tổ chức chính trị xã hội làm nòng cốt trong công tác dân vận. Tất cả
những nội dung trên nhằm tạo ra những phong trào mạnh mẽ của quần chúng và xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Đó là động lực chủ yếu để phát triển xã hội.
Mặt khác, quá trình hình thành đường lối đổi mới cũng như trong suốt quá
trình triển khai thực hiện đường lối đó, Đảng ta luôn quán triệt tư tưởng dựa vào dân,
lấy dân làm gốc, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, tổng kết những điển
hình tiên tiến và những kinh nhiệm hay của nhân dân trong quá trình thực hiện đường
lối của Đảng để không ngừng hoàn thiện đường lối, chính sách.
Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, việc ban hành những chủ trương chính
sách dựa vào dân và trên cơ sở tổng kết thực tiễn đã góp phần rất lớn tạo nên những
thành tựu trong sự nghiệp đổi mới đất nước do đã tạo nên sự đồng thuận trong xã hội,
khơi dậy nguồn lực vô tận của sức mạnh nhân dân cả nước là những minh chứng sinh
động về bài học dựa vào nhân dân, vì nhân dân, xuất phát từ thực tiễn và phù hợp với
thực tiễn.
Cách mạng phải sáng tạo. Song, để sự sáng tạo không dẫn tới tình trạng vô
nguyên tắc, một mặt, phải nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, phát triển lý luận, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân
16
loại và những kinh nghiệm của các nước phù hợp với hồn cảnh nước ta. Mặt khác,
phải thường xun tổng kết thực tiễn, tìm ra nhân tố mới để nhân rộng và phát triển;
những điểm khơng phù hợp trong chủ trương, chính sách cụ thể, để có sự điều chỉnh,
bổ sung và phát triển cần thiết về chủ trương, phương pháp, biện pháp, cách làm mới,
linh hoạt, sáng tạo, nhạy bén nắm bắt, tận dụng thời cơ, khắc phục sự trì trệ, rập
khn máy móc. Vì vậy phải động viên được các tầng lớp nhân dân tích cực thực
hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước với tư cách
người làm chủ cơng việc của đất nước.
Tóm lại, vai trò của quần chúng nhân dân là rất to lớn trong việc quyết định sự
phát triển của lịch sử, vận mệnh của đất nước, điều đó đã được khẳng định trong triết
học Mácxít và lịch sử cách mạng Việt Nam. Ngày nay, trong cơng cuộc đổi mới để
xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, người cán bộ cơng chức, đảng viên
phải nhận thức sâu sắc vai trò to lớn của quần chúng nhân dân để định hướng đúng
đắn trong nhận thức và hành động phù hợp với lợi ích của nhân dân đồng thời gần gũi
với nhân dân nhằm vận động, tập hợp sức mạnh của nhân dân vào trong sự nghiệp
xây dựng đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó là một trong những điều kiện để
đảm bảo sự thành cơng của cơng cuộc đổi mới đất nước.
Câu 6: Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X có đoạn viết : “Cách mạng
là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Những ý kiến, nguyện vọng và sáng
kiến của nhân dân có vai trò quan trọng trong việc hình thành đường lối đổi mới của Đảng”.
(Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.
CTQG, Hà Nội, 2006, tr.71).
Đồng chí hãy phân tích cơ sở triết học của luận điểm trên. Liên hệâ thực tiễn đổi mới
của đất nước và đòa phương , đơn vò đồng chí công tác .
Bài làm:
Xã hội lồi người tồn tại và phát triển theo những quy luật khách quan và những quy luật đó
được thực hiện thơng qua hoạt động có ý thức của con người, trong đó hoạt động của quần chúng
nhân dân có vai trò quyết định rất lớn đến sự phát triển của lịch sử xã hội. Trên cơ sở nghiên cứu,
vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lên nin về vai trò của quần chúng nhân dân vào cơng cuộc
đổi mới trong xây dựng đất nước, Đảng ta ln thấm nhuần tư tưởng “lấy dân làm gốc” và khẳng
định “Đổi mới phải dựa vào nhân dân phù hợp với thực tiễn, ln ln sáng tạo”.
Theo quan điểm triết học Mác-Lênin, quần chúng nhân dân là một khối người đơng đảo
trong xã hội-bao hàm những lực lượng, tầng lớp nhân dân trong xã hội-mà qua hoạt động của họ,
lịch sử sẽ biến đổi tuỳ từng điều kiện lịch sử, sự kiện lịch sử. Quần chúng nhân dân là tất cả nhân
dân lao động và các lực lượng tiến bộ trong xã hội mà qua hoạt động của họ, lịch sử sẽ phát triển.
Trong xã hội có giai cấp, quần chúng nhân dân khơng bao gồm giai cấp áp bức bóc lột và các thế
lực thi hành chính sách chống nhân dân.
Triết học Mác khẳng định quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính của lịch sử, là
lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử.
Vai trò được thể hiện trước nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của
xã hội. Nếu sản xuất vật chất là nền tảng quyết định sự phát triển của xã hội thì quần chúng nhân
dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội bởi vì họ là những người trực tiếp sản xuất ra mọi của
cải vật chất để bảo đảm sự tồn tại và phát triển của xã hội. Mặt khác quần chúng nhân dân là người
cải tiến, chế tạo ra cơng cụ lao động, đồng thời trong q trình sản xuất, họ khơng ngừng tích lũy
kinh nghiệm, kỹ năng lao động, làm cho lực lượng sản xuất ngày càng phát triển. Hơn nữa lực
17
lượng sản xuất của quần chúng nhân dân là động lực cho sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Nhu
cầu sản xuất của quần chúng đã thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật và hình thành các mơn
khoa học mới. Như vậy quần chúng nhân dân đóng vai trò quyết định trong sản xuất vật chất của xã
hội.
Bên cạnh đó, quần chúng nhân dân còn là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã
hội. Xã hội vận động và phát triển theo quy luật nội tại của nó mà trước hết là quy luật về sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Mâu thuẩn giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất trong đấu tranh có giai cấp được biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẩn
đối kháng giữa các giai cấp. Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội có giai cấp mà đỉnh
cao của đấu tranh giai cấp là cách mạng xã hội. Cách mạng xã hội là sự nghiệp của đơng đảo quần
chúng nhân dân lao động. Nếu khơng có hoạt động của hàng triệu quần chúng thì cũng khơng có
các cuộc cách mạng lớn trong lịch sử. Đặc biệt trong thời kỳ bão táp cách mạng thì tinh thần cách
mạng, ý chí sáng tạo của quần chúng nhân dân được phát huy đến cao độ.
Ngồi vai trò quyết định trong sản xuất vật chất của xã hội và là lực lượng cơ bản trong cách
mạng xã hội, quần chúng nhân dân có vai trò to lớn trong sản xuất tinh thần. Quần chúng nhân dân
là người trực tiếp sáng tạo ra những giá trị tinh thần của xã hội. Tục ngữ, ca dao, hò vè, điệu
múa, lời hát cũng đều là những giá trị tinh thần trực tiếp do nhân dân sáng tạo ra. Những giá trị đó
là cơ sở để phát triển nền văn hố nghệ thuật lớn. Mặt khác, thực tiễn lao động sản xuất và đấu
tranh cách mạng của quần chúng nhân dân là nguồn cảm hứng cho các văn nghệ sỹ chun nghiệp
sáng tác. Tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân làm cơ sở cho sự phát triển của văn hố-
nghệ thuật. Như vậy, quần chúng nhân dân đóng vai trò quan trọng trong sản xuất tinh thần.
Trên tất cả các mặt sản xuất vật chất, đấu tranh cách mạng và sản xuất tinh thần đã chứng tỏ
chân lý quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính của lịch sử, là lực lượng quyết định sự
phát triển của xã hội.
Triết học Mácxít khẳng định vai trò quyết định của quần chúng nhân dân nhưng cũng đề cao
vai trò của cá nhân, lãnh tụ-người quyết định quy mơ, tốc độ, nhịp độ của các tiến trình khách quan
trong lịch sử. Cá nhân lãnh tụ là lãnh tụ của quần chúng nhân dân, được quần chúng suy tơn, tín
nhiệm làm lãnh tục của họ. Ý chí của người lãnh tụ là sự thể hiện ý chí nguyện vọng của quần
chúng nhân dân. Ngược lại quần chúng nhân dân và phong trào của quần chúng lại cần đến người tổ
chức, lơi kéo, tập họp và hướng dẫn phong trào mới, bảo đảm phong trào của quần chúng đạt hiệu
quả cao. Tuy lãnh tụ có vai trò quan trọng nhưng triết học Mácxít cũng cương quyết chống lại tệ
“sùng bái cá nhân”. Chỉ khi nào mà những tư tưởng những định hướng về đường lối trên tất cả các
mặt đời sống xã hội do các vĩ nhân, lãnh tụ vạch ra đều được sự đồng tình hưởng ứng của các tầng
lớp tổ chức quần chúng nhân dân thì khi đó vai trò của lãnh tụ vĩ nhân mới phát huy tác dụng.
Ngược lại cho dù những tư tưởng, định hướng, đường lối của các vĩ nhân có tiến bộ tích cực đến
mấy khi chưa được sự đồng tình của nhân dân thì cũng khơng có giá trị. Chúng ta cần chống tư
tưởng sùng bái cá nhân, tuyệt đối hóa vai trò của lãnh tụ vĩ nhân đi đến chổ quần chúng khơng tin
vào chính bản thân mình nhưng ngược lại cũng phải biết trân trọng tơn kính những anh hùng vĩ
nhân kiệt xuất của dân tộc của lịch sử.
Phát huy truyền thống, coi trọng vai trò của quần chúng nhân dân, trong lịch sử phát triển
của dân tộc, đồng thời lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và thực tiễn cách mạng Việt
Nam, Đảng ta đã rút ra bài học lấy lấy dân làm gốc.
Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lòch sử, là lực lượng quyết đònh sự
phát triển của lòch sử. Hoạt động SX ra của cải vật chất là nhân tố quyết đònh sự
tồn tại và phát triển của xã hội mà quần chúng nhân dân là những người trực
tiếp tham gia vào hoạt động đó, đồng thời là lực lựơng có vai trò to lớn trong SX tinh
thần. Đồng thời điểm khởi đầu và cũng là mục đích cuối cùng của các hành động
cách mạng là lợi ích của quần chúng nhân dân. Họ là chủ thể của mọi hoạt động ,
cải tạo các quá trình KT, CT, XH là người sáng tạo ra lòch sử nhưng vai trò đó trong
từng cụ thể không giống nhau. Vai trò ấy được phát huy đến mức nào còn tuỳ thuộc
vào tính tích cực, vào tri thức, vào trình độ SX, trong một hoàn cảnh lòch sử, một chế
18
độ XH, một phương thức SX nhất đònh. Cùng với sự phát triển của XH thì vai trò
sáng tạo của QCND ngày càng tăng và xét trên mọi phương diện từ kinh tế đến
chính trò, từ thực tiễn đến tinh thần nhân dân luôn đóng vai trò quyết đònh trong lòch
sử.
Nhận thức và vận dụng CN MLN và tư tưởng HCM về vấn đề con người và vai
trò của QCND trong lòch sử, Đảng ta khẳng đònh: “Trong toàn bộ hoạt động của mình
Đảng ta “lấy dân làm gốc”, XD quyền làm chủ của QCND”.
Điều này đã được giai cấp phong kiến thống trò ở Phng Đông cũng như ở
nước ta trải nghiệm. Người xưa xem “dân là gốc nước”. Gốc ở đây mang ý nghóa là
nếu dân có cuộc sống yên bình, ổn đònh thì một triều chính được xây dựng trên đó
sẽ được bền vững.
Người anh hùng Lý Thường Kiệt đã nêu rõ tư tưởng : “người làm vua của dân,
cốt phải nuôi dân”. Với Lý Thường Kiệt, nuôi dân thì phải bỏ các kế sách tham
tà, loại trừ sự sách nhiễu, làm hại dân, phải ngăn chặn sự đục khoét dân để làm
giàu cho mình. Còn Hưng Đạo Vương chủ trương: “khoan sức cho dân, để làm kế sâu
rễ bén gốc, đó là thượng sách của việc giữ nước”. Nguyễn Trãi lại thể hiện nội
dung này bằng triết lý “việc nhân nghóa cốt ở yên dân”, “chở thuyền cũng là dân,
lật thuyền cũng là dân”. Đối với các nhà chí só yêu nước Phan Bội Châu thì đã có
tư tưởng tiến bộ hơn nhiều: “nước lấy dân làm chủ, dân coi việc nước như nhà hay
dân là dân nước, nước là nước dân”. Tiếp thu tinh hoa truyền thống dân tộc, chủ
tòch HCM khẳng đònh : “ND là gốc, công nông là gốc của CM”
“Gốc có vững cây mới bền
Xây lầu thắng lợi trên nền ND”
Người nói: “nếu không có nhân dân giúp sức, thì Đảng không làm được việc
gì hết” rằng “trong toàn bộ hoạt động của mình , Đang phải quán triệt tư tưởng “lấy
dân làm gốc”, XD và phát huy quyền làm chủ của NDLĐ”, “Phong trào chống tham
ô, lãng phí, quan liêu, ắc phải dựa vào lực lượng quần chúng thì mới thành công”.
Theo quan điểm đó thì mọi chủ trương đường lối, chính sách của Đảng muốn trở
thành hiện thực, hiệu quả trong cuộc sống đều doND tham gia, thực hiện.
Nhận thức được đều đó Đảng ta xác đònh chỉ có thể dựa vào QCND, được QC
ủng hộ thì sự nghiệp đổi mới của Đảng mới thành công. Ngoài một số công việc
mang tính nội bộ, Đảng không có điều gì “bí mật” với ND. Trong điều lệ Đảng cũng
như trong Nghò quyết, chỉ thò khác Đảng luôn chủ trương phải dựa vào dân để xây
dựng Đảng, cán bộ, Đảng viên phải liên hệ mật thiết với ND, là đầy tớ thật trung
thành của ND. Mọi quyết đònh, chỉ thò của Đảng phải xuất phát từ lợi ích , nguyện
vọng và khả năng của NDLĐ, phải khơi dậy sự đồng tình hưởng ứng của QC, phát
huy quyền làm chủ của NDLĐ… Trải qua bao khó khăn và thử thách dưới sự sự
lãnh đạo của Đảng khối đại đoàn kết của nhân dân được cũng cố và phát triển.
Song bên cạnh những thành tựu đã đạt , Đảng ta đã mạnh dạn đánh giá những thiếu
sót khuyết điểm của mình mà biểu hiện là nhiều lúc chưa thực sựcoi dân là gốc
của CM, nhiều cấp ủy, tổ chức Đảng, nhiều cán bộ, Đảng viên coi công việc của
Đảng là một cái gì đó không dính dáng đến ND, chưa coi trọng việc XD và phát huy
vai trò, chức năng của các đoàn thể QC, một số cơ quan nhà nước mắc bệnh quan
liêu, mệnh lệnh cửa quyền, vi phạm quyền làm chủ của ND, một bộ phận không
nhỏ cán bộ Đảng viên rthoái hoá biến chất , lợi dụng chất quyền ức hiếp QCND
làm tổn thương đến uy tín của Đảng và Nhà nước…
Gần đây, Đảng ta đưa ra chủ trương : “ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ” hay phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, thực
hiện quy chế dân chủ cơ sở, cách thức thực hiện các chủ trương, phương châm đó như
thế nào thì vẫn còn lúng túng, chưa thgống nhất, ít nơi làm một cách méo mó, hình
thức…
19
Tổng kết quá trình lãnh đạo CM của mình một trong những bài học kinh nghiệm
được Đảng rút ra là : “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư
tửơng của mình lấy dân làm gốc, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của
NDLĐ”, ngày nay để đưa công cuộc đổi mới tới thắng lợi phải phát huy được tính
chủ động sáng tạo tham gia một cách tích cực tự giác của ND. Đổi mới là một sự
nghiệp mới mẽ chưa có tiền lề. Nhiều vấn đề mới nảy sinh, nhiều khó khăn xuất
hiện cần có nhận thức mới, giải pháp mới. Chính ở đây, việc dựa vào nhân dân ,
qua thực tiển phong phong của ND tiến hành tổng kết từng bước tìm ra quy luật của
các mặt cuộc sống để đi lên đó là chìa khoá của thành công. Từ thực tế khó
khăn của thời kỳ chống lại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế
quốc Mỹ, ND Quãng Bình đã đưa ra một tổng kết vô cùng quý giá: “Dễ mười lần
không dân cũng chòu, Khó trăm lần dân liệu cũng xong”.
HCM hết sức tâm đắt với sự tổng kết đó và đã không ít lần sử dụng lại các
bài viết, bài nói chuyện của mình. Ngày nay bài học đó vẫn giữ nguyên giá trò.
Quá trình hình thành đường lối đổi mới cũng như trong suốt quá trình triển khai,
thực hiện đường lối đó, Đảng ta luôn quán triệttư tưởng dựa vào dân, lấy dân làm
gốc, lắng nghe ý kiến của dân, tổng kết những điển hình tiến tiến và những kinh
nghiệm hay của ND ta trong quá trình thực hiện đường lối chính sách.
Sự ra đời của chỉ thò 100 của Ban Bí Thư (01/1981) về khoán trong nông nghiệp,
quyết đònh 25 của chính phủ (1981) về quyền chủ động SX và tự chủ về tài chánh
trong xí nghiệp quốc doanh, chủ trương phát triển kinh tế theo mô hình VAC hay nghò
quyết của Bộ Chính trò Khoá VIII về kinh tế trang trại… là những minh chứng sinh
động về bài học dựa vào nhân dân , vì ND, từ ND, xuất phát từ thực tiễn và phù
hợp với thực tiễn. Bên cạnh đó Đảng phải động viên được các tầng lớp ND tích cực
thực hiện đường lối chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước với tư
cách là người làm chủ công việc của đất nước.
Đại hội IX: “Đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân” và “Đổi mới là sự nghiệp
của nhân dân và vì nhân dân . để công cuộc đổi mới thành công phải động viên được mọi tần lớp nhân
dân và các thành phần kinh tế tham gia (trang 81 - 82)”.
Tóm lại, vai trò của quần chúng nhân dân là rất to lớn trong việc quyết định sự phát triển
của lịch sử, vận mệnh của đất nước, điều đó đã được khẳng định trong triết học Mácxít và lịch sử
cách mạng Việt Nam. Ngày nay, trong cơng cuộc đổi mới để xây dựng một nước Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, người cán bộ cơng chức, đảng viên phải nhận thức sâu sắc vai trò to lớn của quần chúng
nhân dân để định hướng đúng đắn trong nhận thức và hành động phù hợp với lợi ích của nhân dân
đồng thời gần gũi với nhân dân nhằm vận động, tập hợp sức mạnh của nhân dân vào trong sự
nghiệp xây dựng đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó là một trong những điều kiện để đảm bảo
sự thành cơng của cơng cuộc đổi mới đất nước.
Câu 7:
Bằng lý luận triết học mácxít và thực tiễn quá trình
đổi mới ở nước ta, đồng chí hãy phân tích luận điểm sau:
“Kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát
triển văn hoá, xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ
20
xã hội, giữa đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân”.
(Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng
thời kỳ đổi mới. Nxb. CTQG, Hà Nội, 2006, tr. ).
(Học viên được sử dụng tài liệu của các Nhà xuất bản trong phòng thi)
Bài làm
Xã h i lồi ng i t n t i và phát tri n theo nh ng quyộ ườ ồ ạ ể ữ
lu t khách quan và nh ng quy lu t ó c th c hi nậ ữ ậ đ đượ ự ệ
thơng qua ho t ng có ý th c c a con ng i. Do ó,ạ độ ứ ủ ườ đ
nh n th c úng n b n ch t c a ý th c xã h i và sậ ứ đ đắ ả ấ ủ ứ ộ ự
chuy n hóa t t t ng thành hi n th c trong i s ng xãể ừ ư ưở ệ ự đờ ố
h i có ý ngh a r t quan tr ng hi u l ch s xã h i lồiộ ĩ ấ ọ để ể ị ử ộ
ng i. Trên c s nghiên c u, v n d ng m i quan h bi nườ ơ ở ứ ậ ụ ố ệ ệ
ch ng gi a t n t i xã h i và ý th c xã h i, trong ph ngứ ữ ồ ạ ộ ứ ộ ươ
h ng i m i t n c, ng ta ã kh ng nh “ướ đổ ớ đấ ư ớ Đả đ ẳ đị T ngă
tr ng kinh t i lên g n li n v i phát tri n v n hóa,ưở ế đ ắ ề ớ ể ă
t ng b c c i thi n i s ng v t ch t và tinh th nừ ướ ả ệ đờ ố ậ ấ ầ
c a nhân dân, th c hi n ti n b và cơng b ng xã h i, b oủ ự ệ ế ộ ằ ộ ả
v và c i thi n mơi tr ng xã h iệ ả ệ ườ ộ ”.
Trong Văn kiện Đảng thời kỳ đổ mới Đảng ta lại
khảng đònh :“Kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế với
phát triển văn hoá, xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với
tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân”.
Tồn tại xã hội là đời sống (sinh hoạt) vật chất của xã hội cùng tồn bộ những
điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Trước hết sinh hoạt vật chất của xã hội
phương thức sản xuất (bao gồm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất). Sinh hoạt
vật chất của xã hội còn bao gồm những sinh hoạt vật chất khác như : trao đổi, tiêu
dùng hàng ngày, kế thừa tài sản Điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội bao gồm :
điều kiện tự nhiên xung quanh, hồn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân số … Trong
21
các yếu tố cấu thành nên tồn tại xã hội, phương thức SX là nhân tố cơ bản vì nó có
ảnh hưởng quyết định đến sự biến đổi của ý thức xã hội và nó làm thay đổi ý nghĩa
của hoàn cảnh địa lý và điều kiện dân số trong sự phát triển của xã hội.
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội bao gồm toàn bộ những quan
điểm tư tưởng lý luận cùng những tình cảm, tâm trạng, mong muốn, truyền thống …
phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển lịch sử xã hội nhất định.
Căn cứ vào trình độ nhận thức, có thể phân ý thức xã hội thành ý thức xã hội
thông thường và ý thức lý luận (ý thức lý luận làm gia tăng yếu tố khoa học, trí tuệ
của ý thức thông thường). Nói cách khác, ý thức xã hội biểu hiện qua tâm lý xã hội và
hệ tư tưởng.
Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp có những điều kiện sinh hoạt vật chất khác
nhau, những lợi ích khác nhau do địa vị xã hội của mỗi giai cấp quy định nên ý thức
xã hội cũng có tính giai cấp, nghĩa là mỗi giai cấp đều có những quan điểm, tư tưởng
và tâm lý riêng, không có ý thức chung cho mọi giai cấp mà chỉ có ý thức chung cho
một giai cấp nhất định. Hệ tư tưởng thống trị trong mỗi thời đại là hệ tư tưởng của
giai cấp thống trị về kinh tế. Giai cấp thống trị luôn tìm cách hạn chế ý thức của giai
cấp bị trị và truyền bá ý thức của giai cấp hình thành của xã hội.
Khi nghiên cứu về ý thức xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử đã đặt ý thức xã hội
trong quan hệ với cơ sở vật chất, với cơ sở kinh tế để nghiên cứu và từ đó khẳng định
ý thức xã hội và tồn tại xã hội có quan hệ biện chứng với nhau.
Trong mối quan hệ đó tồn tại xã hội giữ vai trò quyết định đến nội dung, khuynh
hướng phát triển của ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, phụ
thuộc vào tồn tại xã hội. Ý thức xã hội do tồn tại xã hội sinh ra, nội dung của nó là kết quả
của sự phản ánh tồn tại xã hội. Khi tồn tại xã hội tác động đến nhận thức của chủ thể thì
hình thành những quan điểm, tư tưởng, nhận định và thái độ của chủ thể. Sự phản ánh
của ý thức xã hội bao giờ cũng xuyên qua một mắt khâu là lợi ích, trong xã hội có giai cấp
đó là lợi ích của giai cấp. Do đó xem xét nội dung của ý thức xã hội phải gắn chặt chẽ với
quan hệ lợi ích. Mặt khác, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội nhưng không phải
bất cứ tư tưởng nào, một hình thức ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp
các quan hệ kinh tế của thời đại mà nó có thể là phản ánh trực tiếp hoặc gián tiếp qua
khâu trung gian, nhưng xét đến cùng bằng cách này hay cách khác nó vẫn phản ánh các
quan hệ kinh tế của thời đại. Tính quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội còn
thể hiện khi tồn tại xã hội - nhất là phương thức sản xuất - biến đổi thì ý thức xã hội
(những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học,
đạo đức, văn hóa, nghệ thuật …) sớm muộn sẽ biến đổi theo. Thực tiễn lịch sử đã chứng
minh các thời đại khác nhau có những tư tưởng khác nhau đều bắt nguồn từ sự khác
nhau của cơ sở kinh tế và sự thay đổi, phát triển của ý thức xã hội trước hết là xuất phát
từ sự thay đổi và phát triển của phương thức sản xuất.
Khi khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội, chủ
nghĩa duy vật lịch sử không xem ý thức xã hội như là một yếu tố thụ động trái lại còn
nhấn mạnh tác động tích cực, sáng tạo của ý thức xã hội đối với đời sống kinh tế xã
hội, nhấn mạnh tính độc lập tương đối của ý thức xã hội, nghĩa là tuy bị tồn tại xã hội
quy định nhưng ý thức xã hội lại vừa có tính quy luật, lôgíc phát triển riêng. Sự thống
nhất giữa chức năng phản ánh và chức năng sáng tạo tích cực của ý thức xã hội đối
22
với tồn tại xã hội biểu hiện ở chổ ý thức xã hội vừa vượt trước vừa lạc hậu so với sự
phát triển của tồn tại xã hội.
Sự lạc hậu của ý thức xã hội thường xảy ra khi ý thức xã hội không phản ánh
kịp thời sự vận động, phát triển của đời sống xã hội bởi vì ý thức xã hội chí là cái
phản ánh được sinh ra từ tồn tại xã hội, còn tồn tại xã hội thì gắn trực tiếp với hoạt
động thực tiễn nên thường biến đổi nhanh hơn. Sự lạc hậu của ý thức xã hội còn thể
hiện ở những tư tưởng và đặc biệt là tâm lý của xã hội của xã hội cũ còn rơi rớt lại
vẫn tồn tại dai dẳng sau khi tồn tại xã hội đã thay đổi, bởi vì những tư tưởng, tâm lý
một khi đã ăn sâu vào đời sống xã hội và trở thành lối sống, nếp nghĩ phong tục, tập
quán, thói quen thì nó có tính ổn định tương đối và tồn tại lâu hơn, không dễ mất đi
ngay. Mặt khác, các giai cấp lỗi thời, phản động cũng tìm cách duy trì những tư
tưởng cũa nhằm phục vụ lợi ích của chúng, như lối sống ăn bám, chây lười lao động,
tệ nạn tham nhũng … Lê nin nói rằng: “Một người bệnh chết đi ta có thể đem chôn
cùng với căn bệnh nhưng một xã hội mất đi ta không thể đem chôn cùng những căn
bệnh của nó được mà những căn bệnh này rữa ra xâm nhập vào những con người
đang sống”
Những hiện tượng ý thức lạc hậu tiêu cực không mất đi dễ dàng cho nên sự
nghiệp xây dựng xã hội mới phải thường xuyên tăng cường công tác tư tưởng xây
dựng ý thức xã hội mới (cách mạng tư tưởng) đấu tranh chống lại những âm mưu và
hành động phá hoại của những lực lượng thù địch về mặt tư tưởng, kiên trì xóa bỏ
những tàn dư ý thức cũ đồng thời ra sức phát huy những truyền thống tư tưởng tốt
đẹp.
Khi khẳng định tính lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội, triết
học Mác đồng thời cũng thừa nhận rằng trong những điều kiện vật chất nhất định, tư
tưởng của con người đặc biệt những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự
phát triển của tồn tại xã hội, phản ánh đúng quy luật vận động và phát triển của tồn
tại xã hội. Từ đó nó đưa ra các dự báo tương lai một cách khoa học, giúp con người
xác định được mục tiêu và lựa chọn những giải pháp, định hướng cho việc tổ chức
chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người để đạt được mục tiêu đó. Tuy nhiên khi nói
tư tưởng tiên tiến có thể vượt trước tồn tại xã hội, dự kiến được quá trình khách quan
của sự phát triển xã hội thì không có nghĩa là trong trường hợp này ý thức xã hội
không còn bị tồn tại xã hội quyết định nữa. Tư tưởng khoa học tiên tiến không thoát
ly tồn tại xã hội mà phản ánh chính xác, sâu sắc mối quan hệ tất yếu, bản chất của tồn
tại xã hội.
Ý thức xã hội của một thời đại bao giờ cũng phản ánh đời sống vật chất của thời
đại đó, đồng thời là sự kế thừa của những giá trị tinh thần mà các thế hệ trước đó tích
lũy được. Quan hệ kế thừa nói lên sự phát triển liên tục về tư duy giữa các thế hệ, tuy
nhiên nó không phải là việc sử dụng kế thừa máy móc mà trên cơ sở “lọc bỏ”. Kế
thừa và lọc bỏ là biện chứng của sự phát triển của ý thức xã hội, nội dung kế thừa
hoặc lọc bỏ xuất phát từ quan hệ về lợi ích và nhu cầu của giai cấp chi phối. Những
giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác nhau của các thời đại trước.
Vì vậy, khi tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực ý thức thì không những
phải vạch ra tính chất phản khoa học, phản tiến bộ của những trào lưu tư tưởng phản
23
động trong điều kiện hiện tại mà còn phải chỉ ra những nguồn gốc lý luận của chúng
trong lịch sử và phải kế thừa, phát huy những giá trị tinh thần tiến bộ của dân tộc và
nhân loại. Tuy nhiên, xét đến cùng thì tồn tại xã hội vẫn quyết định nội dung và
khuynh hướng của sự kế thừa.
Trong quá trình phản ánh hiện thực, mỗi hình thái ý thức xã hội đều phản ánh
tồn tại xã hội với những đặc trưng riêng và giữ chức năng xã hội khác nhau, không
thể thay thế cho nhau nhưng lại tồn tại trong sự liên hệ tác động xâm nhập vào nhau,
làm cho mỗi hình thái ý thức xã hội có những mặt, những tính chất bị ảnh hưởng bởi
hình thái khác. Trong sự ảnh hưởng, tác động lẫn nhau đó thì tuỳ điều kiện cụ thể mà
một hình thái nào đó có ảnh hưởng lớn hơn nhưng ở xã hội hiện đại thì ý thức chính
trị có ảnh hưởng to lớn nhất. Do đó trong quá trình xây dựng ý thức xã hội mới phải
phát triển hài hòa và đồng bộ tất cả các hình thái ý thức xã hội tránh mâu thuẩn đối
lập nhau.
Ý thức xã hội là do tồn tại xã hội quyết định nhưng lại tác động trở lại tồn tại xã
hội. Sự tác động này vừa thể hiện tính độc lập tương đối của ý thức xã hội vừa nói lên
vai trò của ý thức xã hội. Sự tác động ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội diễn ra hai
khuynh hướng khác nhau. Những tư tưởng khoa học và tiến bộ góp phần thúc đẩy xã
hội phát triển; ngược lại những tư tưởng lạc hậu, phản động thì cản trở sự phát triển
của xã hội. Tính chất và hiệu quả tác động trở lại của ý thức xã hội phụ thuộc vào các
yếu tố : vai trò lịch sử của giai cấp chủ thể của tư tưởng, trình độ phù hợp của ý thức
đối với hiện thực và mức độ truyền bá và xâm nhập của tư tưởng cả bề rộng lẫn bề
sâu trong quần chúng nhân dân. Sự tác động của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội
không phải là trực tiếp biến đổi tồn tại xã hội mà nó tác động thông qua hoạt động
của con người ở chỗ ý thức xã hội vạch ra nội dung vận động và phát triển của tồn tại
xã hội, từ đó xác định đúng đắn các mục tiêu và lựa chọn các biện pháp tối ưu đồng
thời hướng dẫn hoạt động cải tạo .
Tóm lại, trên cơ sở nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa Tồn tại xã hội và Ý
thức xã hội, ta rút ra ý nghĩa phương pháp luận là khi xem xét, giải quyết các hiện
tượng thuộc ý thức xã hội trước hết phải xuất phát từ cơ sở vật chất, cơ sở kinh tế đã
sinh ra nó, đồng thời phải xem xét tính độc lập tương đối. Từ đó khẳng định được vai
trò động lực của những tư tưởng khoa học, tiến bộ.
Từ cơ sở lý luận trên, trong công cuộc cải cách đổi mới và xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta, Đại hội IX của Đảng đã khẳng định “Tăng trưởng kinh tế đi lên
gắn liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi
trường xã hội”
Đường lối chiến lược phát triển kinh tế - xã hội này của Đảng xuất phát từ nhận
thức rõ vai trò quyết định của kinh tế đối với ý thức xã hội. Trên con đường quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã khẳng định phát triển kinh tế bằng con đường công
nghiệp hóa - hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm. Để thực hiện được nhiệm vụ này và
bảo đảm sự phát triển toàn diện của xã hội thì đi đôi với tăng trưởng kinh tế phải phát
24
triển văn hóa và giáo dục nhằm phát huy mọi nguồn lực tinh thần của người Việt
Nam.
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành TW tại Đại hội VII chỉ rõ : phải kết hợp hài
hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa - xã hội, giữa đời sống vật chất và
đời sống tinh thần của nhân dân, coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện
tốt chính sách xã hội, là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Như vậy, với vai trò là
nguồn gốc sản sinh ra ý thức xã hội, nền kinh tế phát triển mạnh tạo điều kiện và là
tiền đề cho việc lành mạnh hóa các QHSX, bảo vệ truyền thống tốt đẹp của từng gia
đình và của cả dân tộc.
Đại hội IX của Đảng cũng đã khẳng định con đường đi lên CNXH ở nước ta là
“Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân”. Nó vừa là
mục tiêu vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội.
Trong giai đoạn quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, những tàn dư của tư
tưởng cũ vẫn còn, mặt tích cực và tiêu cực trong tình hình tư tưởng trong Đảng và
trong nhân dân hiện nay vẫn còn đan xen nhau, trong đó mặt tích cực là cơ bản, đã và
đang quyết định chiều hướng phát triển của xã hội, là nguyên tố quan trọng tạo nên
thắng lợi của cuộc đổi mới đất nước. Tính tích cực năng động sáng tạo của các tầng
lớp nhân dân ngày càng rõ trên các lĩnh vực xã hội, được phát huy tinh thần đoàn kết
tương thân tương ái lòng yêu nước ý thức tự hào tự tôn dân tộc truyền thống cách
mạng và lịch sử bản sắc dân tộc được tiếp tục giữ gìn và phát huy. Tuy nhiên, Hiện
nay nhiều vấn đề xã hội còn phức tạp, một mặt nền kinh tế thị trường vừa tạo ra
những yếu tố tích cực để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần nhưng mặt khác nó lại
vừa tạo ra những yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của xã hội đặc biệt
là về tư tưởng đạo đức và lối sống. Trong đó những hạn chế mơ hồ về tư tưởng, nhận
thức và tình trạng suy thoái về đạo đức lối sống cũng khá phổ biến. Sự suy thoái về
nhận thức, tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán
bộ - Đảng viên chưa được ngăn chặn hình thức phai nhạt lý tưởng cách mạng sa sút
phẩm chất đạo đức tệ quan liêu tham nhũng lãng phí chủ nghĩa cá nhân tư tưởng cơ
hội thực dụng có chiều hướng phát triển. Những mặt tiêu cực là nguy cơ tiềm ẩn liên
quan sự mất còn của Đảng, của chế độ.
Từ tình hình đó, Đảng ta chủ trương toàn Đảng phải nghiêm túc học tập chủ
nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng bồi dưỡng nâng cao tính chất
đạo đức cách mạng và mục tiêu của cuộc cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng cần đạt
được là xây dựng nền văn hóa mới và con người mới XHCN. Để thực hiện hai nhiệm
vụ trong giai đoạn hiện nay là : nhiệm vụ trọng tâm về tư tưởng là làm cho chủ nghĩa
Mác Lênin và tư tưởng HCM giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội.
Còn nhiệm vụ cấp bách về văn hóa là xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc : “Hướng mọi hoạt động văn hóa vào việc xây dựng con người VN phát
triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo,
có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái khoan dung, trọng tình nghĩa, lối sống có văn
hóa, quan hệ hài hòa trong giáo dục, cộng đồng và xã hội” và nêu cao tinh thần
25
trách nhiệm của gia đình trong việc xây dựng và bồi dưỡng các thành viên có lối sống
văn hóa làm cho gia đình thật sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của
xã hội. Đẩy mạnh phong trào “Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hóa”;
ngăn chặn việc phục hồi các thủ tục, khắc phục tình trạng mê tín đang có xu
hướng lan rộng trong xã hội “(VK 9 trang 114-116). Mặt khác, trong cơng cuộc tiến
hành cách mạng tư tưởng văn hóa, xây dựng con người mới và nền văn hóa mới, ta
phải biết chọn lọc, tiếp thu, kế thừa những thành quả văn minh, những di sản q giá
do lồi người tạo ra bao thế hệ những thành tựu văn hóa, khoa học hiện đại đồng thời
cũng kiên quyết chống chủ nghĩa hư vơ và khuynh hướng siêu giai cấp trong việc kế
thừa di sản để lại
Việc tăng trưởng kinh tế sẽ dẫn đến việc gia tăng hiệu quả kinh tế. Hiệu quả
kinh tế gắn liền với hiệu quả xã hội. Việc đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế tạo cơ hội
cho mọi tầng lớp nhân dân tự do làm ăn theo pháp luật sẽ là một tiến bộ về mặt xã
hội, là thực hiện dân chủ hóa trong lĩnh vực kinh tế, từ đó giải quyết tốt hơn việc làm
thu nhập và đời sống tạo tiền đề vật chất cho việc xử lý các vấn đề xã hội. Tuy nhiên
tăng trưởng kinh tế tự nó khơng thể giải quyết được tất cả các vấn đề xã hội trong đó
có sự phân hóa giàu nghèo là khơng tránh khỏi. Do đó, trong đường lối phát triển
kinh tế xã hội, một mặt Đảng và Nhà nước ta chủ trương bảo vệ và khuyến khích
cơng dân làm giàu hợp pháp, được hưởng thụ văn hóa, giáo dục đào tạo, chăm lo y tế,
được hưởng thụ xứng đáng với cơng sức, tiền của bỏ vào sản xuất, chống tư tưởng
bình qn, ỷ lại, đãi ngộ xứng đáng tài năng; một mặt Đảng và Nhà nước phải chăm
lo việc thực hiện phân phối cơng bằng theo lao động, mở rộng phúc lợi xã hội, đổi
mới tốt chính sách bảo hiểm xã hội, bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể lực cho nhân dân,
bảo đảm nhu cầu thuốc chữa bệnh. Thực hiện tốt chính sách đền ơn đáp nghĩa, xóa
đói giảm nghèo, tạo phong trào đồn kết giúp đỡ trong nhân dân theo truyền thống
“lá lành đùm lá rách” tương thân tương ái đùm bọc lẫn nhau. Đẩy mạnh hơn nữa
chống tham nhũng, bất cơng xã hội nghiêm trọng hiện nay. Cải cách chế độ tiền
lương để người lao động hăng hái làm việc đủ sống và nâng cao mức sống, mức đóng
góp cho xã hội.
Ngược lại chính việc giải quyết tốt những vấn đề xã hội là điều kiện quyết định
để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chúng ta khơng thể sớm có ngay một xã hội tốt đẹp
trong khi kinh tế nước ta còn kém phát triển, năng suất lao động thấp, kinh tế kỹ thuật
còn lạc hậu nhưng ta phải kết hợp ngay từ đầu tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội.
Tóm lại, vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội,
Đảng đã xác định đúng đắn đường lối phát triển kinh tế gắn chặt với cơng bằng xã
hội và phát triển mạnh mẽ văn hóa giàu bản sắc dân tộc ở nước ta, đó là điều kiện
đảm bảo sự thành cơng và bền vững cho tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Câu 4:
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X có đoạn viết: “Xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghóa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là yêu cầu bức thiết của xã
hội”.