Vấn đề 1 : Nội dung của quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành
những thay đổi về chất và ngược lại. Ý nghĩa phương pháp luận. Sự vận dụng
của Đảng ta
Bài làm
Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin
làm nền tảng tư tưởng và vận dụng tư tưởng, lý luận đó vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam để đề ra đường lối, cương lĩnh đúng đắn nhằm lãnh đạo đất
nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Từ Đại hội Đảng lần thứ VI (tháng 12/1986) đến
nay, Đảng đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện và sâu sắc
trên toàn đất nước, trong đó chủ trương đổi mới của Đảng được Văn kiện Đại
hội IX xác định là “Con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta cần và
có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy
vọt”. Chủ trương này thể hiện sự vận dụng đúng đắn quy luật chuyển hóa từ
những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại của triết
học Mách Lênin (gọi tắt là quy luật lượng - chất) vào thực tiễn cách mạng Việt
Nam. Việc tìm hiểu quy luật lượng - chất cũng giúp ta tránh được những
khuynh hướng sai lầm nếu không nhận thức và áp dụng đúng quy luật này
trong thực tiễn.
Quy luật lượng và chất là 1 trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng
duy vật, nó chỉ rõ cách thức phát triển của sự vật, hiện tượng.
Chất là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có
của các sự vật hiện tượng (SVHT), là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính
làm cho nó là nó và phân biệt nó với cái khác. Chất của sự vật phụ thuộc vào
những yếu tố cấu thành và phương thức liên kết giữa các yếu tố đó. Mỗi sự vật
hiện tượng có nhiều thuộc tính nhưng chỉ có thuộc tính cơ bản mới quy định
“chất” của sự vật vì chỉ khi nào thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất của sự vật
mới thay đổi. Tuy nhiên, việc phân biệt chất và thuộc tính cũng chỉ là tương đối
vì nó còn phụ thuộc vào những mối quan hệ cụ thể của nó với những cái khác
và mỗi thuộc tính có thể coi là một chất trong một quan hệ khác. Chất biểu hiện
tính tương đối ổn định của sự vật và là cái khách quan vốn có không tách rời
sự vật.
Lượng là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật
về số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu, tốc độ của sự vận động, phát triển của
sự vật cũng như của các thuộc tính, yếu tố cấu thành nên sự vật. Lượng có thể
được biểu hiện thành con số, đại lượng hoặc mức độ … cũng giống như chất,
lượng là cái khách quan vốn có của sự vật. Sự phân biệt giữa chất và lượng
cũng là tương đối, nghĩa là có cái ở trong quan hệ này là chất nhưng trong
quan hệ khác lại là lượng và ngược lại.
Giữa lượng và chất có mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong 1
SVHT, chất và lượng thống nhất quy định lẫn với nhau : chất nào lượng ấy và
lượng nào chất ấy. Chất tương đối ổn định còn lượng thường xuyên biến đổi.
Sự biến đổi về lượng có thể làm thay đổi về chất và ngược lại, nhưng trong một
giới hạn nhất định thì sự thay đổi về lượng không làm thay đổi căn bản chất
của sự vật, phạm vi giới hạn ấy gọi là độ. Nói cách khác, không phải bất kỳ sự
thay đổi về lượng nào cũng dẫn đền sự thay đổi về chất ngay tức khắc mà chỉ
khi lượng thay đổi vượt quá giới hạn của độ thì mới dẫn đến sự thay đổi về
chất. Điểm giới hạn mà tại đó bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng đưa ngay
1
tới sự thay đổi về chất gọi là điểm nút. Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm
nút sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới và tạo thành độ mới.
Sự thay đổi về chất qua điểm nút gọi là bước nhảy. Bước nhảy là một
phạm triết học để chỉ ra sự chuyển hóa về chất của sự vật do những thay đổi
về lượng trước đó gây ra. Đây là bước ngoặc căn bản kết thúc một giai đoạn
trong sự biến đổi về lượng làm thay đổi chất, là sự gián đoạn trong quá trình
biến đổi liên tục của các sự vật. Không có bước nhảy tức là không có sự thay
đổi về chất. Khi chất mới ra đời nó sẽ quy định một lượng mới phù hợp với nó
để tạo sự thống nhất giữa chất và lượng ở mỗi độ nhất định và chất sẽ tác
động trở lại lượng, thúc đẩy quy mô, nhịp điệu tốc độ. Sự vật tồn tại trong sự
thống nhất ấy, cứ thế một quá trình tác động mới với quy mô, nhịp điệu mới lại
bắt đầu. Do đó có thể nói, phát triển là sự đứt đoạn trong liên tục, thông qua
hình thức những bước nhảy là trạng thái liên hợp của các điểm nút. Cách thức
của sự phát triển chính là những quá trình biến đổi đó :
Thế giới sự vật hiện tượng là đa dạng, phong phú cho nên các bước nhảy
cũng vậy. Có bước nhảy đột biến hoặc dần dần, có bước nhảy toàn bộ hoặc
cục bộ, tức là diễn ra với khoảng thời gian khác nhau, quy mô khác nhau,
nhưng dù với hình thức nào mỗi bước nhảy cũng là một sự thay đổi về chất.
Từ mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất, trong đó sự phát triển
của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất
và chất khi ra đời nó sẽ quy định lại quy mô, tốc độ của lượng, chúng ta khi
muốn cải tạo sự vật về chất phải quan tâm đến quá trình tích lũy về lượng.
Đồng thời phải chủ động tạo những điều kiện cần thiết để quá trình chuyển hóa
từ chất cũ sang chất mới được thực hiện hoàn hảo
Khi vận dụng quy luật mối quan hệ giữa chất và lượng vào thực tiễn, ta
không được tuyệt đối hóa mặt nào, nếu tuyệt đối hóa một trong hai mặt này thì
chúng ta sẽ rơi vào tư tưởng nôn nóng (tả khuynh) hoặc tư tưởng bảo thủ (hữu
khuynh).
Khuynh hướng nôn nóng tả khuynh là khuynh hướng không quan tâm
thực hiện quá trình tích lũy về lượng mà chỉ chú ý thực hiện những bước nhảy
vọt làm thay đổi về chất trong khi chưa có đủ điều kiện tích lũy về lượng cần
thiết. Những người có tư tưởng này trong hoạt động thực tiễn thường nóng vội,
chủ quan duy ý chí, họ cho rằng sự phát triển chỉ gồm toàn những bước nhảy
liên tục nên có thể đốt giai đoạn
Khuynh hướng bảo thủ hữu khuynh là khuynh hướng chí chú ý đến
quá trình tích lũy về lượng, không chú ý phát huy nổ lực của nhân tố chủ quan,
không dám thực hiện bước nhảy vọt về chất khi đã có sự tích lũy đầy đủ về
lượng hoặc kéo dài sự tích lũy, chỉ nhấn mạnh đến sự biến đổi dần về lượng.
Cả hai khuynh hướng trên đều dẫn đến những sai lầm có tác hại rất lớn
làm cản trở hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật hiện tượng. Trong thực tiễn
Việt Nam trước thời kỳ đổi mới, Đảng ta cũng có lúc phạm sai lầm của 2
khuynh hướng trên. Văn kiện Đại hội VI đã nêu “Do chưa nhận thức đầy đủ
rằng thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lịch sử tương đối dài,
phải trãi qua nhiều chặng đường và do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội
muốn bỏ qua những bước đi cần thiết trên thực tế, chúng ta đẩy mạnh công
nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, mặt khác chậm đổi mới
cơ chế quản lý kinh tế đã lỗi thời”. Văn kiện còn nhận định trong công tác tổ
chức thời kỳ này “khuyết điểm lớn nhất là sự trì trệ, chậm đổi mới công tác cán
bộ. Việc lựa chọn, bố trí cán bộ vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý các cấp
còn theo quan niệm cũ kỹ và tiêu chuẩn không đúng đắn, mang nặng tính hình
2
thức ” Chính những sai lầm này là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự
khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng ở nước ta trước thời kỳ đổi mới.
Từ những thất bại trong đường lối chỉ đạo trước thời kỳ đổi mới, Đảng đã
có những tổng kết, đánh giá kịp thời về những sai lầm trên. Đại hội VI của Đảng
(năm 1986) đánh dấu bước đột phá đầu tiên của tư duy lý luận của Đảng trong
việc vận dụng nội dung quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất
trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
Công cuộc đổi mới mà Đảng đã khởi xướng từ Đại hội VI và từ đó đến
nay đang diễn ra trên đất nước ta có ý nghĩa như là một quá trình mang tính
cách mạng bởi nó tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực đời sống
xã hội. Trong quá trình chuyển biến đó thì công nghiệp hóa, hiện đại hóa được
xem là nhiệm vụ trọng tâm và phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp. Để đạt được mục tiêu đề ra, Đảng đã khẳng định
“Con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn
thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt”.
Phương hướng này chỉ ra rằng bên cạnh việc thực hiện những giải pháp
nhằm tích lũy dần tiềm lực về khoa học công nghệ, về kết cấu hạ tầng ngày
càng hiện đại và chuyển biến quy trình sản xuất từ nền sản xuất lao động thủ
công sang lao động với phương tiện và phương pháp tiên tiến có năng suất
cao theo những bước đi phù hợp với quy luật phát triển, chúng ta cần phải biết
phát huy những lợi thế của đất nước, tạo điều kiện và phát huy tối đa nguồn lực
trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, chú trọng phát triển giáo
dục và đào tạo, Khoa học và công nghệ để làm nền tảng, động lực thúc đẩy
sự nghiệp phát triển CNH-HĐH của đất nước có những bước nhảy vọt, đột
phá. Nhân tố chủ quan có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tạo sự đột phá
về bước nhảy để rút ngắn thời gian trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước là sự
vận dụng đúng đắn quy luật tác động của chầt và lượng để tạo sự đột phá
trong bước nhảy. Tuy nhiên, quá trình CNH-HĐH cũng phải được xây dựng
trên những bước đi tuần tự trong việc xác định cơ chế kinh tế cũng như xây
dựng lực lượng lao động cơ bản trong hệ thống sản xuất tiên tiếncho phù hợp
với điều kiện sản xuất hiện đại, có trình độ khoa học - công nghệ, nghiệp vụ
chuyên môn và tay nghề vì như bất kỳ sự thay đổi về chất nào khác, những
bước nhảy trong con đường CNH-HĐH hiện nay cũng chỉ có thể là kết quả của
quá trình thay đổi về lượng, thích hợp ở đây bất kỳ một sự nôn nóng chủ quan,
ảo tưởng nào đều có thể gây ra tổn thất cho cách mạng, cản trở sự nghiệp đổi
mới đất nước.
Tóm lại, việc vận dụng nội dung quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa
lượng và chất cũng như ý nghĩa phương pháp luận của nó có vai trò to lớn
trong việc xem xét và giải quyết những vấn đề do công cuộc đổi mới theo định
hướng XHCN hiện nay ở nước ta đặt ra.
Đối với người Đảng viên, công viên chức nhà nước, việc nắm vững quy
luật lượng - chất sẽ giúp chúng ta trong hoạt động chuyên môn cũng như trong
quản lý, chỉ đạo : một mặt phải biết phát huy đúng mức vai trò của nhân tố chủ
quan, có quyết tâm và nghị lực cao trong việc thực hiện đột phá trong công việc
khi có điều kiện chín muồi, một mặt phải biết cách phân tích, xác định đúng quy
mô, nhịp điệu của các sự việc để có những biện pháp giải quyết thích hợp,
tránh rơi vào khuynh hướng nôn nóng chủ quan duy ý chí hoặc bảo thủ.
CÂU 2, TRIẾT: Nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự nhận thức và vận dụng
quy luật này của Đảng ta.
3
Bài làm:
Chủ nghĩa DVLS khẳng định rằng: PTSX là cách thức tiến hành SX vật chất
of con người trong giai đoạn lsử nhất định PTSX là một chỉnh thể do hai mặt of
quá trình SX cấu tạo nên nó là LLSX & QHSX. Giữa hai mặt of quá trình SX
luôn gắn bó chặt chẽ tác động biện chứng với nhau trong đó LLSX là nội dung
còn QHSX là hình thức of quá trình SX XH. Sự tác động biện chứng giữa LLSX
& QHSX diễn ra thường xuyên phổ biến & là nhu cầu khách quan of toàn bộ
tiến trình SX vật chất XH quyết định đến sự ptriển kế tiếp nhau of các hình thái
KT XH trong lsử, cũng như of từng hình thái. Mác là người đầu tiên đã khái
quát vấn đề trên thành qui luật mà những người Mácxít vẫn gọi là “qui luật
QHSX phù hợp với tính chất & trình độ of LLSX”. Vậy thực chất of qui luật trên
là gì? Và sự nhận thức vận dụng qui luật ở nước ta hiện nay ra sao?
- LLSX là biểu hiện mối quan hệ giữa con λ với tự nhiên trong quá trình SX
vật chất. LLSX là sự kết hợp thống nhất giữa λ lao động với TLSX (trước hết là
CCLĐ) để tạo thành sức SX XH. Ngày nay, khi khoa học mạnh mẽ và nó
được vận dụng nhanh chóng, rộng rãi, trực tiếp vào trong quá trình SX thì cùng
với công nghệ hiện đại nó đã trở thành 1 thành tố mới trong LLSX, làm thay đổi
sâu sắc bộ mặt of LLSX of nhân loại & quy định nội dung mới of sức SX XH
trong thời đại ngày nay. Chính vì lẽ đó mà Đảng ta quan niệm “cùng với GD-ĐT
& KHCN phải được coi là quốc sách hàng đầu “.
- QHSX dùng để chỉ quan hệ kinh tế giữa λ với λ trong quá trình SX vật chất
of XH. QHSX là tổng thể thống nhất bởi 3 quan hệ: QH sở hữu, QH tổ chức qlý
& QH phân phối. Trong chỉnh thể QHSX, QH sở hữu giữ vai trò quyết định đối
với các quan hệ khác, nó chính là mặt pháp lý of QHSX, nhưng QH tổ chức qlý
& QH phân phối cũng rất quan trọng, vai trò of nó biểu hiện ở chỗ nó có thể
củng cố QH sở hữu nhưng cũng có thể làm xói mòn, đổ vỡ QH sở hữu. Vì vậy,
nhận thức mối quan hệ giữa QHSX với LLSX phải thấy rõ tính chỉnh thể of nó,
không được có quan điểm thiếu đồng bộ.
Quy luật về sự phù hợp of QHSX với trình độ of LLSX thể hiện trước hết ở
vai trò quyết định of LLSX đối với QHSX. Điều này thể hiện qua việc LLSX ở
trình độ & tính chất nào thì nó yêu cầu tất yếu một kiểu QHSX thích ứng phù
hợp với nó mà kg đòi hỏi cao hơn hoặc thấp hơn nó. Mối QHSX chỉ hình thành
& tồn tại trên cơ sở một LLSX nhất định & chịu sự quyết định of LLSX ấy. Điều
đó cũng có nghĩa là QHSX mang tính khách quan, do vậy, con λ kg có quyền tự
do lựa chọn QHSX theo ý muốn chủ quan of mình.Ví dụ: nếu LLSX ở trình độ
thủ công thì nó chỉ đòi hỏi QHSX cá thể, tư hữu, tự cung tự cấp, tự qlý theo SX
nhỏ. Nhưng nếu LLSX ở trình độ cơ khí hóa, tính chất XH hóa cao (do dây
chuyền công nghệ khép kín, có sự chuyên môn hóa cao) thì nó đòi hỏi tất nhiên
phải có hình thức QHSX mang tính XH hóa cao thì quá trình SX mới trôi chảy
được. đương nhiên là QHSX có đáp ứng đúng đòi hỏi of LLSX hay kg thì còn
do nhiều nguyên nhân từ phía bản thân of QHSX.
Ở đây cần hiểu rằng xác định LLSX ở trình độ nào để xem xét QHSX phù hợp
với nó chỉ là tương đối và LLSX luôn ở trạng thái vận động liên tục. Trong
thực tiễn SX thường kg xuất hiện sự kg trùng khớp giữa đòi hỏi of LLSX & sự
đáp ứng of QHSX, điều đó là do sự can thiệp of chủ thể trái với tính tất yếu kinh
tế. Song tính tất yếu ktế bao giờ cũng tự vạch đường đi cho mình, do đó con λ
phải biết phát hiện và giải quyết những xung đột đó để đưa SX tiến lên.
Mặt khác, trong sự vận động biến đổi kg ngừng of SX vật chất, LLSX là yếu tố
biến đổi trước, vừa mang tính cách mạng, vừa mang tính chất kế tục lsử, năng
động hơn QHSX do phải thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao & tiên tục of con λ.
4
Sự of LLSX đòi hỏi QHSX cũng phải biến đổi theo để phù hợp với trình độ
mới of LLSX. Mỗi khi xuất hiện QHSX mới phù hợp với LLSX thì cũng có nghĩa
là phương thức SX mới ra đời thay thế cho phương thức SX cũ, thúc đẩy XH
tiến lên 1 bước cao hơn. Ăng Ghen đã từng khẳng định “Suy đến cùng thì mọi
sự biến đổi từ chế độ chiếm hữu này sang chế độ chiếm hữu khác đều là kết
quả tất yếu of việc tạo nên những LLSX mới”. Mác cũng khẳng định: “do có
được những LLSX mới, loài λ thay đổi phương thức SX of mình và do thay đổi
phương thức SX cách kiếm sống of mình, loài λ thay đổi tất cả các quan hệ XH
of mình.
Ngày nay, trên thế giới khi mà LLSX đã mang tính quốc tế rộng lớn và sâu
sắc thì tất yếu đòi hỏi trong quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia, dân tộc
cũng phải theo xu hướng đó. Việc hình thành các khối liên kết kinh tế quốc tế
và khu vực, các hình thức công tất yếu đa quốc gia, xuyên quốc gia hay việc
điều chỉnh ở những phạm vi, mức độ nhất định of QHSX trong các nước tư bản
đều thể hiện đúng yêu cầu of quy luật QHSX phù hợp với trình độ of lực
lượng SX trong điều kiện quốc tế hiện nay.
Mặc dù khẳng định LLSX là yếu tố quyết định đối với QHSX, Triết học M-L
cũng chỉ ra rằng QHSX kg hoàn toàn phụ thuộc 1 cách thụ động vào LLSX, nó
có vai trò độc lập tương đối trong sự tác động trở lại LLSX. Sự tác động of
QHSX đối với LLSX diễn ra theo 2 hướng: phù hợp or kg phù hợp, điều này do
QHSX mang tính ổn định tương đối và biến đổi chậm hơn so với LLSX, mặt
khác còn do trình độ năng lực of chủ thể SX, do quan hệ lsử gcấp chi phối
Sự tác động of QHSX gọi là phù hợp với LLSX nghĩa là QHSX sau khi hình
thành và tồn tại, nó đáp ứng đúng đòi hỏi tất yếu of LLSX và sau đó nó có vai
trò tạo ra sự liên kết, kết hợp có hiệu quả hơn giữa các yếu tố cấu thành LLSX,
làm cho tất cả các yếu tố ấy phát huy tất cả tiềm năng, sức mạnh vốn có of nó,
nhờ vậy tiềm năng of người lao động và TLSX được khai thác tốt hơn, tạo ra
năng suất lao động cao hơn. Với ý nghĩa đó, QHSX là hình thức , là địa bàn
rộng lớn, là động lực thúc đẩy sự of LLSX.
Ngược lại, nếu QHSX tác động không phù hợp với đòi hỏi tất yếu of LLSX
thì nó sẽ kìm hãm, phá hoại sự of LLSX dẫn đến những hậu quả KT-XH
nghiêm trọng. Biểu hiện of sự không phù hợp thể hiện ở 2 khía cạnh: một là khi
QHSX đã lỗi thời, lạc hậu so với trình độ mới of LLSX, hai là trường hợp chú
thể dùng ý chí chủ quan of mình áp đặt một “mô hình” QHSX”, “cao hơn” trình
độ LLSX. Cả 2 trường hợp này đều kìm hãm sự of LLSX, nhưng không có
nghĩa là LLSX đứng im tại chổ với LLSX thì nó sẽ kìm hãm, thậm chí phá hoại
đối với LLSX. Tình hình đó làm cho SX có thể bị đình đốn, có khi dẫn đến
khủng hoảng KT-XH nghiêm trọng
Tóm lại, thực chất of quy luật là LLSX đòi hỏi QHSX phải luôn phù hợp với
tính chất và trình độ of LLSX. Song do nhiều yếu tố bản thân QHSX chi phối
cho nên QHSX phù hợp hoặc không phù hợp với LLSX. Do vậy, hiểu phù hợp
ở đây là bao trùm mâu thuẫn, sự giải quyết mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX là
thường xuyên và theo yêu cầu phù hợp, thúc đẩy LLSX : đó chính là nguồn
động lực of sự phương thức SX, các hình thái KT-XH.
Trong thời kỳ trước đổi mới (trước Đại hội 6), Đảng ta đã có những sai
lầm thiếu sót trong việc nhận thức và vận dụng quy luật XH, đặc biệt là sai lầm
trong việc nhận thức và vận dụng quy luật QHSX phù hợp với trình độ of LLSX.
Những sai lầm thiếu sót ấy được biểu hiện tập trung trong quan điểm chỉ
đạo & chính sách cải tạo QHSX cũ, xây dựng QHSX mới. Do nóng vội, nhận
thức chưa đúng quy luật khách quan, Đảng ta đã sai lầm khi cho rằng đối với
5
một nước lạc hậu, trình độ LLSX còn thấp như nước ta để tiến lên CNXH thì
QHSX XHCN tiên tiến có thể đi trước mở đường cho LLSX lạc hậu nhanh lên
hiện đại. Từ nhận thức sai lầm này, thực tế đường lối chính sách of Đảng và
NN ta giai đoạn này chỉ chú ý đến việc xây dựng QHSX mới mà kg quan tâm
đến việc LLSX, do đó đã kéo dài quá lâu trình độ SX thấp, thủ công, đầu tư
công nghiệp nặng kg đúng hướng, đầu tư dàn đều, tràn lan, không chú ý đầu tư
chiều sâu mà chỉ đầu tư chiều rộng, kg phát huy tiềm năng vốn có về TLSX (đất
đai), lợi thế tự nhiên từng vùng …
Trong QHSX, Đảng & NN ta đã đưa QHSX lên quá cao so với trình độ
lạc hậu of LLSX ở nước ta làm cho LLSX kg ptriển được & SX bị đình trệ. ĐH
VI đánh giá như sau: “Trong nhận thức cũng như hành động, chúng ta chưa
thật sự thừa nhận cơ cấu KT nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một
thời gian tương đối dài nên đã nóng vội muốn nhanh chóng xóa bỏ KT tư bản
tư nhân, KT cá thể để sớm có KT XHCN chiếm ưu thế tuyệt đối. Việc xác lập
QHSX còn kg đồng bộ &có yếu tố đẩy quá xa, vượt lên trên trình độ of LLSX
thể hiện ở chỗ: kg đồng bộ trong các ngành, trong cơ cấu ktế, trong bản thân 3
mặt of QHSX. Trong việc tổ chức hình thức SX, chúng ta đã có xu hướng tổ
chức quá nhanh mô hình SX, tập đoàn, HTX … với quy mô lớn mà kg tính đến
khả năng trang bị kỹ thuật, trình độ qlý & năng lực of cán bộ. “Về nội dung cải
tạo, thường nhấn mạnh việc thay đổi quan hệ sở hữu về TLSX mà kg coi trọng
giải quyết các vấn đề tổ chức qlý & chế độ phân phối”. Mặt khác chúng ta cũng
kg thừa nhận nền ktế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ. Do đó
kg chấp nhận KTTT, đa dạng hoá hình thức sở hữu, qlý phân phối. Kg thấy
được đòi hỏi of LLSX đang ở trong tình trạng đan xen những trình độ, tính chất
khác nhau để mà xác lập QHSX. Bỏ qua TBCN nhưng lại kg thấy tính chất quá
độ là đan xen tồn tại lâu dài of cả LLSX, QHSX & kiến trúc thượng tầng. Một sai
lầm thiếu sót khác là ta đã duy trì quá lâu cơ chế qlý ktế quan liêu bao cấp vào
QH SX vốn đã xác lập kg phù hợp với LLSX, do đó cơ chế này đã làm ngưng
động tính sáng tạo of người lao động, kìm hãm LLSX & đã coi thường tính tất
yếu ktế of SX nhỏ đang chuyển sang SX lớn, nghĩa là thông qua SX hàng hoá
thị trường mới đi lên được
Cương lĩnh xây dựng đất nước đã nêu rõ: “Trong cách mạng XHCN
Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng đường lối xác định
đúng mục tiêu & phương hướng XHCN. Nhưng Đảng đã phạm sai lầm chủ
quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan, nóng vội cải tạo XHCN, xóa bỏ
ngay nền KT nhiều thành phần, có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công
nghiệp nặng, duy trì quá lâu, cơ chế quản lý KT tập trung quan liêu bao cấp, có
nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương. Công tác tư
tưởng và tổ chức các bộ phạm nhiều khuyết điểm nghiêm trọng”.
Từ những sai lầm đó đã dẫn đến khủng hoảng ktế - XH trầm trọng, lạm
phát đạt đến mức khủng khiếp 774% (những năm 80) SX bị đình trệ. Qua thực
tiễn cuộc sống, Đảng ta đã rút ra được những bài học thấm thía là kg thể nóng
vội, làm trái với quy luật khách quan.
Để khắc phục những sai lầm trên và vận dụng hiệu quả quy luật này, Đại
hội 6 of Đảng đã đề xuất quan điểm đổi mới toàn diện, trong đó đặc biệt chú ý
đổi mới nhận thức & vận dụng các quy luật khách quan, trong đó quy luật
QHSX phù hợp với trình độ of LLSX. Quan điểm ấy đã được ĐH IX tiếp tục
khẳng định “Đẩy mạnh CNH-HĐH, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ,
đưa nước ta trở thành 1 nước công nghiệp, ưu tiên LLSX, đồng thời
xây dựng QHSX phù hợp theo định hướng XHCN”.
6
Như vậy, từ ĐH VI đến nay, Đảng đã căn cứ vào thực trạng LLSX hiện
có of đất nước ta đối chiếu với lý luận QHSX và LLSX để xây dựng chế độ
QHSX phù hợp với trình độ LLSX ở nước ta. Thực tiễn cho thấy hệ thống trình
độ LLSX nước ta nhìn chung còn thấp, SX nhỏ ở nước ta còn phổ biến. Do đó
để bắt đầu xây dựng 1 chế độ XH mới nhất thiết bắt đầu từ việc đẩy mạnh
LLSX trước rồi sau đó mới QHSX theo sự of LLSX, tuy nhiên chúng ta
không chờ QHSX một cách tự nhiên mà tạo điều kiện cho ra đời QHSX mới
phù hợp
Cái thiếu lớn nhất of đất nước ta kề từ khi bước vào thời kỳ quá độ hiện
nay là thiếu 1 LLSX , hiện đại, đủ đảm bảo cho nền ktế tăng trưởng nhanh &
bền vững. Việc LLSX chỉ có thế thực hiện được khi chúng ta tăng cường tính
khoa học và hiện đại vào trong LLSX hiện tại, vì vậy Đảng đã chủ trương đẩy
mạnh CNH, HĐH và xem đây là trọng tâm of suốt thời kỳ quá độ. Bởi vì CNH
thực chất là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH, đó là quá trình
chuyển dịch cơ cấu ktế gắn đổi mới căn bản về công nghệ, chuyển từ nền SX
nhỏ thủ công sang nền SX lớn có trình độ chuyên môn hóa & công nghiệp hóa
cao, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả & lâu bền cho nền KT
quốc dân. Với con đường CNH-HĐH đất nước và chính sách mở cửa về đối
ngoại, chúng ta có thể tận dụng mọi khả năng để tiếp cận, học tập những thành
tựu trên thế giới nhằm đạt được trình độ tiên tiến, hiện đại về KHCN, đặc biệt là
CNTT và CNSH, từng bước nền ktế tri thức. ĐH IX cũng đã chỉ rõ nước ta
đang từng bước xây dựng và nền ktế tri thức: ”Phát huy những lợi thế of đất
nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là
CNTT và CNSH, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức độ cao hơn
và phổ biến hơn những thành tựu mới về KHCN, từng bước phát triển kinh tế
trí thức”. Việc phát huy nguồn lực trí tuê và sức mạnh of LLSX được thực hiện
song song với việc coi trọng GD-ĐT và KHCN xem đây là nền tảng và là
động lực cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
Song song đó, do toàn cầu hóa ktế đang là xu thế tất yếu trong điều kiện
of cuộc CM đại ngày nay nên Đảng đã xác định phải kết hợp chặt chẽ việc chủ
động hội nhập ktế quốc tế, mà mục tiêu trước mắt là hội nhập APTA & là thành
viên chính thức of WTO với việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo
những phương hướng “độc lập, tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời
có tiềm lực kinh tế đủ mạnh, có mức tích lũy ngày càng cao với .từ nội bộ
nền kinh tế; có cơ cấu kinh tế hợp lý, có sức cạnh tranh, kết cấu hạ tầng
ngày càng hiện đại và có một ngành công nghiệp nặng then chốt, có năng
lực nội sinh về KH-CN ”
Về QHSX. ĐH VII đã nêu: để phù hợp với sự of LLSX, chúng ta phải thiết
lập từng bước QHSX XHCN từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở
hữu, nền ktế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành
theo cơ chế thị trường có sự qlý of NN. ĐH VIII of Đảng đã đề ra chủ trương :
“Nếu CNH, HĐH tạo nên LLSX cần thiết cho chế độ XH mới thì việc nền KT
nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ thống QHSX phù hợp”. Trong xu
hướng vận động chung, thành phần ktế NN phải giữ vai trò chủ đạo, hỗ trợ các
thành phần ktế khác . Chủ trương này đã khơi dậy tiềm năng SX , khơi dậy
năng lực sáng tạo, chủ động of các chủ thể lao động trong SX kinh doanh, thúc
đẩy SX . Văn kiện ĐH IX còn xác định “ LLSX hiện đại gắn liền với xây dựng
QHSX mới phù hợp cả 3 mặt sở hữu, quản lý và phân phối”. Đảng ta đã thừa
nhận sự tồn tại of nhiều hình thức sở hữu và các loại hình tổ chức ktế gắn liền
với các hình thức sở hữu đó do lsử để lại, phù hợp với từng thành phần ktế. Về
7
qlý văn kiện ĐH VI và ĐH IX cũng đã nêu chính sách phát triển nền KTTT theo
định hướng XHCN có sự qlý of NN là mô hình ktế tổng quát trong thời kỳ quá
độ. Việc qlý nền ktế of NN phải bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách và sử dụng cơ chế thị trường. Về phân phối, ĐH IX cũng đã
nhấn mạnh “thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả
kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào
SXKD và thông qua phúc lợi XH. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến
bộ và công bằng XH ngay trong từng bước ”
Tóm lại, nhận thức và vận dụng đúng đắn quy luật QHSX phù hợp với trình
độ of LLSX cùng các hệ thống, các quy luật KT-XH khác of nền kinh tế hàng
hoá thị trường dưới sự lãnh đạo of Đảng, quản lý NN theo định hướng XHCN,
nhất định chúng ta sẽ thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, XH công
bằng, dân chủ văn minh. Những thành tựu to lớn mà chúng ta đã đạt được sau
hơn 20 năm đổi mới là những minh chứng xác thực nhất cho điều đó.
Đề 3: Nội dung cơ bản của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất – Liên hệ tình hình thực tiễn
ở nước ta.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định rằng: Phương thức sản xuất là cách
thức tiến hành sản xuất vật chất của con người trong giai đoạn lịch sử nhất
định. Phương thức sản xuất là một chỉnh thể do hai mặt của quá trình sản xuất
cấu tạo nên nó là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Giữa hai mặt của
quá trình sản xuất luôn gắn bó chặt chẽ, tác động biện chứng với nhau, trong
đó lực lượng sản xuất là nội dung, còn quan hệ sản xuất là hình thức của quá
trình sản xuất xã hội. sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất diễn ra thường xuyên, phổ biến và là nhu cầu khách quan của toàn
bộ tiến trình sản xuất vật chất xã hội, quyết định đến sự phát triển kế tiếp nhau
của các hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử, cũng như của từng hình thái. Mác
là người đầu tiên đã khái quát vấn đề trên thành quy luật mà những người
Mácxít vẫn gọi là Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trong những quy luật
cơ bản chi phối sự vận động và phát triển của xã hội loài người. Sự tác động
của quy luật đó cùng với các quy luật khác như quy luật hình thành giai cấp và
đấu tranh giai cấp, cách mạng xã hội và Nhà nước … làm cho xã hội loài người
vận động và phát triển từ thấp đến cao qua các giai đoạn trong lịch sử nhân
loại.
Vậy thực chất của quy trên là gì ? Và sự nhận thức vận dụng quy luật ở
nước ta hiện nay ra sao? Trước hết chúng ta cần làm rõ hai khái niệm cơ bản
đó là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Lực lượng sản xuất là sự thống nhất giữa người lao động và tư liệu sản
xuất, tạo thành sức sản xuất của xã hội. Ngày nay nói đến lực lượng sản xuất
cần chú ý đến nội dung hiện đại của khái niệm này. Đó là khoa học đã trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp cùng với công nghệ hiện đại, nó làm thay đổi sau
sắc bộ mặt lực lượng sản xuất của nhân loại, nó quy định nội dung mới của
sức sản xuất xã hội trong thời đại ngày nay. Chính vì lẻ đó mà Đảng ta quan
niệm cùng với giáo dục đào tạo khoa công nghệ phải được coi là quốc sách
hàng đầu. Còn quan hệ sản xuất đó là quan hệ kinh tế giữa người với người
hình thành trong quá trình sản xuất vật chất của xã hội. quan hệ sản xuất bao
8
giờ cũng lf một chỉnh thể thống nhất của 3 mối quan hệ: quan hệ giữa người
với người trong việc sở hữu đối với tư liệu sản xuất (gọi tắt là quan hệ sở hữu);
quan hệ giữa người với người trong việc tổ chức quản lý sản xuất và trao đổi
cho nhau trong sản xuất (gọi tắt là quan hệ quản lý); quan hệ giữa người với
người trong việc phân phối sản phẩm xã hội làm ra (gọi tắt là quan hệ phân
phối). Trong chỉnh thể quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu giữ vai trò quyết định
đối với các quan hệ khác, nó chính là mặt pháp lý của quan hệ sản xuất, nhưng
quan hệ quản lý và phân phối cũng rất quan trọng, vai trò của nó biểu hiện ở
chổ có thể củng cố quan hệ sở hữu, cũng có thể làm xói mòn và đổ vỡ quan hệ
sở hữu. Vì vậy nhận thức quan hệ sản xuất trong quan hệ với lực lượng sản
xuất phải thấy rõ tính chỉnh thể của nó, không được có quan điểm thiếu đồng
bộ.
Trên cơ sở hai khái niệm cơ bản, chúng ta đi sâu nghiên cứu nội dung
quy luật. Khi chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định rằng: Phương thức sản xuất
là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội , thì điều đố có nghĩa là
phải nhận thức sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất theo yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất.
Nội dung quy luật chỉ rõ: Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất,
quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất theo yêu cầu phù hợp với
sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất được biểu
hiện ở chổ: Lực lượng sản xuất ở trình độ và tính chất nào thì nó yêu cầu tất
yếu một kiểu quan hệ sản xuất thích ứng phù hợp với nó. Điều đó có nghĩa là
quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người, nhưng nó mang tính khách
quan, do vậy con người không có quyền tự do lựa chọn quan hệ sản xuất theo
ý muốn chủ quan của mình. Mọi quan hệ sản xuất chỉ hình thành, tồn tại trên
cơ sở một lực lượng sản xuất nhất định và chịu sự quyết định của lực lượng
sản xuất ấy. Ở đây cần hiểu rằng xác định lực lượng sản xuất ở tình trạng nào
để xem xét quan hệ sản xuất phù hợp với nó chỉ là tương đối và lực lượng sản
xuất luôn ở trạng thái vận động, phát triển liên tục. Khi nói lực lượng sản xuất
ở trình độ nào (nghĩa là tính chất và trình độ nào) thì nó yêu cầu kiểu quan hệ
sản xuất phát huy ở tình trạng đó, chứ nó không đòi hỏi quan hệ sản xuất cao
hơn hay thấp hơn. Trong lịch sử nhân loại đã chứng minh rõ điều đó, khi lực
lượng sản xuất ở trình độ thủ công, tính chất cá nhân của nó đòi hỏi quan hệ
sản xuất về mặt sở hữu cũng mang tính tư hữu. Nếu lực lượng sản xuất ở trình
độ cơ khí hóa, tự động hóa và tính chất xã hội hóa ngày càng cao thì nó yêu
cầu quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của nó là kiểu quan hệ sản
xuất mang tính xã hội, đương nhiên là quan hệ sản xuất có đáp ứng đúng đòi
hỏi đó của lực lượng sản xuất hay không thì còn do nhiều nguyên nhân từ phía
bản thân của quan hệ sản xuất.
Tính chất quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất còn
biểu hiện: Lực lượng sản xuất là yếu tố thường xuyên biến đổi phát triển một
cách năng động, vừa mang tính chất kế tục lịch sử, vừa mang tính cách mạng.
Mỗi bước vận động phát triển của nó, đặc biệt khi lực lượng sản xuất có sự
thay đổi căn bản từ trình độ này lên trình độ khác thì nó luôn luôn đòi hỏi quan
hệ sản xuất cũng phải vận động phát triển cho phù hợp với nó. Nói cách khác
mọi sự vận động phát triển của quan hệ sản xuất đều có nguyên nhân trực tiếp
9
là từ sự vận động phát triển của lực lượng sản xuất. Các–Mác đã nói: Bất cứ
sự thay đổi nào về mặt chế độ xã hội, bất cứ sự cải biến nào về mặt quan hệ
chiếm hữu cũng đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản
xuất mới.
Vấn đề đặt ra là tại sao lực lượng sản xuất là yếu tố năng động hơn và
vận động phát triển trước quan hệ sản xuất. Để trả lời vấn đề này chỉ có thể bắt
đầu từ việc phân tích nhu cầu về vật chất và văn hóa của con người ngày càng
cao, để đáp ứng nhu cầu của mình ngày càng tốt hơn, con người tất nhiên phải
phát triển sản xuất vật chất. Quá trình phát triển sản xuất vật chất chỉ có thể
thực hiện được nhờ con người bắt đầu bằng việc thay đổi cải tiến lao động của
mình, đây là quá trình liên tục không bao giờ ngừng của mọi thế hệ con người
từ trước đến nay. Nói cách khác đó là quá trình lực lượng sản xuất phát triển
liên tục, sự phát triển ấy đòi hỏi quan hệ sản xuất cũng phải thay đổi theo. Với
lý do đó, Mác nói: Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay
đổi phương thức sản xuất của mình, và do thay đổi phương thức sản xuất,
cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả các quan hệ sản xuất của
mình.
Ngày nay trên thế giới khi mà lực lượng sản xuất đã mang tính chất quốc
tế hóa rộng lớn và sâu sắc thì tất yếu đòi hỏi trong quan hệ kinh tế quốc tế giữa
các quốc gia, dân tộc cũng phải phát triển theo xu hướng đó. Việc hình thành
các khối liên kết kinh tế quốc tế và khu vực, các hình thức công ty tất yếu đa
quốc gia, xuyên quốc gia hay việc điều chỉnh ở phạm vi mức độ nhất định của
quan hệ sản xuất trong các nước tư bản phát triển đều thể hiện đúng yêu cầu
của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất trong điều kiện quốc tế hiện nay.
Như vậy, lực lượng sản xuất là yếu tố nhất định đối với quan hệ sản xuất,
đây là sự quyết định của nội dung đối với hình thức của quá trình sản xuất.
Song, quan hệ sản xuất không hoàn toàn phù hợp một cách thụ động vào lực
lượng sản xuất, nó có vai trò độc lập tương đối trong sự tác động trở lại lực
lượng sản xuất. Sự tác động của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất
diễn ra theo hai hướng: Phù hợp hoặc không phù hợp, điều này do quan hệ
sản xuất mang tính ổn định tương đối và biến đổi chậm hơn so với của lực
lượng sản xuất, mặt khác còn do trình độ năng lực của chủ thể sản xuất, do
quan hệ lịch sử giai cấp chi phối.
Sự tác động của quan hệ sản xuất gọi là phù hợp với lực lượng sản xuất
khi quan hệ sản xuất đó hình thành tồn tại đã tạo ra được khả năng liên kết
giữa các yếu tố của lực lượng sản xuất có hiệu quả hơn, do đó tạo ra địa bàn
cho sự phát triển tốt hơn của lực lượng sản xuất. Vì vậy, khích thích được sản
xuất, tiềm năng của người lao động và tư liệu sản xuất được khai thác tốt hơn,
tạo ra sức lao động cao hơn. Khi nói con người ở trong thời kỳ biết tự giác nhờ
trình độ tri thức phát triển cao mà chủ động xác lập quan hệ sản xuất thì chứng
tỏ con người đã nhận thức và vận dụng đúng đắn quy luật, thực tế từ Đại hội VI
của Đảng ta đã chứng minh điều đó.
Ngược lại nếu quan hệ sản xuất tác động không phù hợp với lực lượng
sản xuất thì nó sẽ kìm hãm, thậm chí phá hoại đối với lực lượng sản xuất. Tình
hình đó làm cho sản xuất có thể bị đình đốn, có khi dẫn đến khủng hoảng kinh
tế xã hội nghiêm trọng.
10
Trường hợp này thường biểu hiện ở hai khuynh hướng. Một là quan hệ
sản xuất lạc hậu so với sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự lạc hậu này có
thể diễn ra trên cả 3 mặt của quan hệ sản xuất hoặc 1 trong 3 mặt đó. Trong
lịch sử điều này thể hiện rất rõ ở mỗi cuối giai đoạn phát triển của một phương
thức sản xuất, làm cho lực lượng sản xuất tiên tiến mâu thuẩn gay gắt với quan
hệ sản xuất lạc hậu, giải quyết mâu thuẩn này chỉ có thể bằng một cuộc cách
mạng xã hội. Nhờ vậy mà xã hội có bước phát triển mới giống như Mác đã nói:
Tới một giai đoạn nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội
sẽ mâu thuẩn với những quan hệ sản xuất hiện có… từ chổ là những hình thức
phát triển của lực lượng sản xuất những quan hệ ấy trở thành xiềng xích trói
buộc các lực lượng sản xuất, khi đó bắt đầu thời đại của một cuộc cách mạng
xã hội. Hai là khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ có những yếu tố
vượt quá xa so với trình độ của lực lượng sản xuất thì chẳng những không hề
mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển mà bản thân quan hệ sản xuất
phá hại nghiêm trọng đối với lực lượng sản xuất. Trường hợp này thường do
trình độ hiểu biết quy luật của con người thường bị hạn chế, chủ quan áp đặt
theo ý muốn của mình. Do vậy để tránh sai lầm thiếu sót, con người phải không
ngứng nâng cao trình độ hiểu biết và vận dụng quy luật của chính mình.
Tóm lại, thực chất của quy luật là lực lượng sản xuất đòi hỏi quan hệ sản
xuất phải luôn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Song,
do nhiều yếu tố bản thân quan hệ sản xuất chi phối, cho nên quan hệ sản xuất
phù hợp hoặc không phù hợp với lực lượng sản xuất. Do vậy, hiểu phù hợp ở
đây là bao trùm mâu thuẩn, sự giải quyết mâu thuẩn giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất là thường xuyên và theo yêu cầu phù hợp, thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển đó là nguồn gốc động lực phát triển phương thức sản
xuất, các hình thái kinh tế xã hội.
Đảng ta đã nhận thức và vận dụng quy luật này như thế nào? Ở đây
chúng ta có thể tóm tắt thành hai thời kỳ lớn: Thời kỳ trước Đại hội VI (Đại hội
đổi mới toàn diện của Đảng) và thời kỳ sau Đại hội VI đến nay.
Nhìn tổng quát mà nói: Trước Đại hội VI bên cạnh những thành tích và
những việc đã làm được của cách mạng xã hội, chúng ta phải thấy rằng Đảng
ta có những sai lầm thiếu sót trong việc nhận thức và vận dụng quy luật xã hội,
đặc biệt là nhận thức và vận dụng đúng đắn quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Chúng ta có thể thấy rõ biểu
hiện tập trung của những sai lầm thiếu sót ấy trong quan điểm chỉ đạo và chính
sách cải tạo quan hệ sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất mới. Biểu hiện sai
lầm về quan điểm cho rằng một nước lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội thì quan
hệ sản xuất có thể đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển (cách
mạng quan hệ sản xuất có thể làm trước khi có lực lượng sản xuất).
Về chủ trương chính sách lớn: Cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng
quan hệ sản xuất mới chúng ta đã nôn nóng, ấu trĩ cho rằng chủ nghĩa xã hội
chỉ tồn tại hình thức sở hữu quốc doanh và tập thể. Do đó chủ trương xóa
nhanh các thành phần kinh tế không phải quốc doanh và tập thể, và xây dựng
nhanh quan hệ sản xuất chưa dựa trên sở hữu quốc doanh và tập thể. Và
chúng ta không thừa nhận nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kỳ
quá độ. Do đó không chấp nhận kinh tế thị trường, đa dạng hóa hình thức sở
hữu, quản lý phân phối. Không thấy được đòi hỏi của lực lượng sản xuất đang
ở trong tình trạng đan xen những trình độ, tính chất khác nhau để mà xác lập
11
quan hệ sản xuất. Nói cách khác bỏ qua tư bản chủ nghĩa nhưng lại không thấy
tính chất quá độ là đan xen tồn tại lâu dài của cả lực lượng sản xuất, quan hệ
sản xuất, kiến trúc thượng tầng.
Xác lập quan hệ sản xuất không trên cơ sở thực trạng lực lượng sản xuất
mà còn xác lập không đồng bộ và có yếu tố đẩy quá xa. Vượt lên trên trình độ
của lực lượng sản xuất ở chổ: Không đồng bộ trong các ngành, trong cơ cấu
kinh tế, trong bản thân 3 mặt của quan hệ sản xuất; vượt quá xa lực lượng sản
xuất thể hiện ở những mô hình quan hệ sản xuất quốc doanh và tập thể. Chúng
ta đã đi tới chổ đồng nhất cách mạng sở hữu với cách mạng quan hệ xã hội.
cách mạng quan hệ sản xuất với toàn bộ cách mạng xã hội chủ nghĩa, đồng
nhất hình thức kinh tế với kiểu quan hệ sở hữu, quy mô của quan hệ sở hữu
với bản chất quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Và sai lầm thiếu sót khác nữa
là áp dụng cơ chế quản lý kinh tế quan liêu thời chiến vào trong quan hệ sản
xuất vốn đã xác lập không phù hợp với lực lượng sản xuất, do đó cơ chế này
đã làm ngưng động tính sáng tạo của người lao động, kìm hãm lực lượng sản
xuất, và đã không sớm nhận thức được sai lầm đó, nên đã kéo dài, ăn sâu vào
nếp nghĩa, nếp hành động của thực tiễn, cho nên trở thành khó thay đổi và trở
nên quan liêu bảo thủ. Coi thường tính tất yếu kinh tế của sản xuất nhỏ đang
chuyển sang sản xuất lớn, nghĩa là thông qua sản xuất hàng hóa thị trường
mới đi lên được. Từ thực tiễn cuộc sống đã giúp chúng ta tỉnh ngộ và rút ra
được những bài học thấm thía.
Để khắc phục những sai lầm trên và vận dụng có hiệu quả quy luật này,
Đại hội VI của Đảng ta đề xuất quan điểm đổi mới toàn diện, trong đó đặc biệt
chú ý đổi mới nhận thức và vận dụng quy luật khách quan . Đại hội VII tiếp tục
khẳng định và phát triển hơn nữa của quan điểm Đại hội VI. Những quan điểm
và chính sách sau đây chứng tỏ Đảng ta đã trưởng thành rất lớn trong tư duy lý
luận khi nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
của lực lượng sản xuất.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất là quy luật chung phổ biến. Khẳng định lực lượng sản xuất là
cái quyết định quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất phải hình thành trên cơ sở
lực lượng sản xuất và tác động đến lực lượng sản xuất nhằm thúc đẩy lực
lượng sản xuất. Trong hoàn cảnh một nước sản xuất nhỏ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, quy luật này có những biểu hiện đặc thù. Song, nó vẫn là nó chứ khống
biểu hiện trái quy luật như trước đây chúng ta nhầm tưởng, nghĩa là nước ta
quy luật chung không biểu hiện ở chổ lực lượng sản xuất đã phát triển ở mức
cao mâu thuẫn với quan hệ sản xuất lạc hậu đòi hỏi phải xóa bỏ quan hệ sản
xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới và khi xây dựng được quan hệ sản
xuất mới thì cơ bản có phù hợp giữa trình độ và tính chất xã hội hóa cao của
lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất công hữu, mà ở nước ta cả lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất đều ở trình độ tiền tư bản. Vì vậy, trên cơ sở xã
hội từng bước lực lượng sản xuất mà xác lập quan hệ sản xuất từ thấp đến cao
với sự đa dạng hóa sở hữu, quản lý, phân phối cho phù hợp với lực lượng sản
xuất.
Phải nhận thức đúng tính khách quan của nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần tồn tại, phát triển trong cơ chế thị trường. Song, vì mục tiêu là tiến
lên chủ nghĩa xã hội cho nên phải có sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Từ đó phải cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục
12
trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với những hình thức và bước đi
thích hợp làm cho quan hệ xã hội phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất.
Đại hội VII đã phát triển thêm quan điểm này của Đại hội VI, chỉ đạo quá
trình vận dụng quy luật là: Phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản
xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao
với sự đa dạng về hình thức sở hữu, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân, thực hiện nhiều
hình thức phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.
Cụ thể là sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế, phát triển và
khai thác những kế hoạch của các thành phần kinh tế phục vụ cho sự phát
triển kinh tế xã hội của đất nước, sử dụng trong khuôn khổ pháp luật. Cải
tạo ở đây là lâu dài không đồng nhất xóa bỏ mà là cải biến dần dần một
cách tự nguyện theo sự định hướng xã hội chủ nghĩa và cải tạo bao gồm
loại bỏ các yếu tố tiêu cực, lạc hậu, và kế thừa những mặt mạnh để phát
triển.
Tóm lại, khi chúng ta nhận thức và vận dụng đúng đắn quy luật quan hệ
sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất cùng các hệ
thống, các quy luật kinh tế xã hội khác của nền kinh tế hàng hóa thị trường
dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, nhất định chúng ta sẽ thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh
Câu 3 : Đồng chí hãy trình bày quan điểm Mác xít về mối quan hệ biện
chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Ý nghĩa của vấn đề
này đối với việc xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ở nước
ta hiện nay.
Trả lời
Triết học Mác là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân,
một giai cấp tiến bộ và cách mạng nhất, một giai cấp có lợi ích phù hợp
với lợi ích cơ bản của nhân dân lao động và với sự phát triển xã hội.
Nghiên cứu triết học Mác không thể bỏ qua những quy luật vận động phát
triển của xã hội. Đặc trưng của quá trình lịch sử tự nhiên là sự thống nhất
và tác động biện chứng lẫn nhau của các yếu tố đó trong từng xã hội tạo
ra những quan hệ có tính quy luật và động lực bên trong quyết định sự
vận động và phát triển của xã hội cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
luôn có mối quan hệ biện chứng và là một trong những quy luật tất yếu.
Mọi xã hội có kết cấu kinh tế đặc trưng riêng tức là cơ sở hiện thực của
xã hội trên đó xây dựng lên một kiến trúc thượng tầng.
Cơ sở hạ tầng là tổng hợp những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu
kinh tế của một xã hội nhất định, cơ sở hạ tầng hình thành một cách khách
quan trong quá trình sản xuất vật chất của xã hội nó bao gồm không chỉ những
quan hệ trực tiếp giữa người với người trong sản xuất vật chất mà còn bao
gồm cả những quan hệ kinh tế trong quá trình tái sản xuất ra đời sống xã hội.
Mọi hình thái kinh tế - xã hội có cơ sở hạ tầng của nó và đặc trưng của mỗi cơ
sở hạ tầng do những quan hệ sản xuất nhất định qui định. Cơ sở hạ tầng của
một xã hội cụ thể đặc trưng ở kiểu quan hệ sản xuất thống trị trong nền kinh tế
13
ở những hình thái kinh tế xã hội đã phát triển, các quan hệ kinh tế tàn dư, mầm
móng có vị trí không đáng kể còn cơ sở hạ tầng của xã hội còn đang ở giai
đoạn mang tính chất quá độ thì quan hệ kinh tế tàn dư và mầm móng lại có vị
trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Trong các xã hội có đối
kháng giai cấp cơ sở hạ tầng của xã hội cũng mang tính chất đối kháng.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp luật,
triết học, tồn giáo, đạo đức, nghệ thuật … với những thể chế tương ứng (Nhà
nước, tôn giáo, Đảng phái, các tổ chức kinh tế xã hội khác) được hình thành
trên cơ sở hạ tầng nhất định. Đặc trưng kiến trúc thượng tầng của một chế độ
xã hội là sự thống trị về chính trị và tư tưởng của giai cấp thống trị đối với toàn
bộ đời sống xã hội, mỗi bộ phận trong kiến trúc thượng tầng có vị trí vai trò của
nó và có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó các bộ phận như Nhà nước,
chính Đảng, phát luật, các tổ chức chính trị xã hội, hệ tư tưởng các liên hệ trực
tiếp với cơ sở hạ tầng, những bộ phận khác chỉ liên hệ gián tiếp. Toàn bộ kiến
trúc thượng tầng của xã hội mới không nảy sinh đầy đủ trong lòng xã hội cũ,
nhưng những bộ phận nhất định thì đã có thể ra đời ngay trong lòng xã hội cũ
đặc biệt ở giai đoạn phát triển cuối cùng ở xã hội cũ. Trong xã hội có giai cấp
kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp trong đó Nhà nước là bộ máy quyền
lực của giai cấp thống trị.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt thống nhất biện
chứng trong một hình thái chính trị nhất định. Quan hệ này là một biểu hiện đặc
trưng của mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị tư tưởng, do đó nó diễn ra trên
cơ sở tính quyết định của kinh tế.
Trong sự tác động qua lại giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng thì cơ
sở hạ tầng giữa vai trò qui định kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng với tính
cách là cơ cấu kinh tế hiện thực sản sinh ra một kiến trúc thượng tầng tương
ứng, qui định tính chất của kiến trúc thượng tầng nói một cách khác tính chất
xã hội và giai cấp của kiến trúc thượng tầng phản ánh tính chất xã hội và giai
cấp của cơ sở hạ tầng. Vai trò qui định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc
thượng tầng còn thể hiện ở chổ sự biến đổi cưn bản trong cơ sở hạ tầng tăng
dần đến sự biến đổi căn bản của kiến trúc thượng tầng. Song điều đó không có
nghĩa là cơ sở hạ tầng cũ mất đi cơ sở hạ tầng mới xuất hiện thì kiến trúc
thượng tầng cũ sẽ bị thủ tiên toàn bộ tức khắc và kiến trúc thượng tầng mới sẽ
nảy sinh đầy đủ, vững chắc ngay lập tức.
Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng còn có sự tác động qua lại của
kiến trúc thượng tầng. Kiến trúc thượng tầng nảy sinh từ kinh tế, tồn tại trên cơ
sở kinh tế là mục đích của chính trị. Không phải có Nhà nước mới có tác dụng
to lớn đối với cơ sở hạ tầng mà các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng như
triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật … cũng đều tác động đến cơ sở hạ
tầng. Các yếu tố của kiến trúc thượng tầng không chỉ tác động đến cơ sở hạ
tầng mà chúng còn tác động lẫn nhau. Sự tác động thông qua Nhà nước với
những luật pháp tương ứng có được hiệu lực mạnh mẽ hơn cả đối với cơ sở
hạ tầng.
Tóm lại, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có mối quan hệ biện
chứng tác động lẫn nhau, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt
thống nhất biện chứng trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định.
14
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội việc xây dựng cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng phải được tiến hành từng bước với những hình thái và
qui mô thích hợp, Thời kỳ quá độ là một giai đoạn lịch sử chuyển tiếp, cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng và kiến trúc thượng tầng ở đây chưa phải là cơ
sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa với đầy đủ những đặc
trưng của nó, cơ sở hạ tầng mang tính chất quá độ với một kết cấu kinh tế
nhiều thành phần đang xen nhau của nhiều loại kinh tế xã hội khác nhau, trong
đó kinh tế giữa vai trò chủ đạo định hướng kinh tế lên chủ nghĩa xã hội là kinh
tế của Nhà nước và tập thể. Quá trình hình thành cơ sở hạ tầng và kiến trức
thượng tầng là quá trình vừa tiến hành cải cách kinh tế vừa tiến hành cách
mạng trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa, xây dựng thế giới quan và nhân sinh
quan của giai cấp vô sản, xây dựng đạo đức mới cho nhân dân lao động.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa không còn mâu
thuẩn đối kháng vì trong kết cấu kinh tế đó không bao hàm sự đối địch về lợi
ích căn bản của nền kinh tế là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, quan hệ
người với người trong sản xuất là quan hệ tương trợ, nguyên tắc phân phối sản
phẩm là phân phối theo lao động. Những đặc điểm đó qui định đặc trưng kiến
trúc thượng tầng, đó là một kiến trúc thượng tầng với sự nhất trí về chính trị và
tinh thần.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa là cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng tiên tiến, song trong thực tế chúng ta chưa tao
lập được một cơ sở kinh tế với những đặc trưng riêng của nó và một kiến trúc
thượng tầng tương ứng. Bởi vậy công cuộc cải cách kinh tế là việc đổi mới thể
chế chính trị là một quá trình mang tính cách mạng để từng bước xóa bỏ những
yếu tố có thể làm nảy sinh mâu thuẩn đối kháng trong cơ sở hạ tầng cũng như
trên kiến trúc thượng tầng. Trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thàn
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Đảng ta vận dụng và quán
triệt quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Cơ sở hạ tầng kinh tế nước ta hiện nay là kết cấu kinh tế đa thành phần,
trong đó có thành phần kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể và nhiều thành phần
kinh tế khác. Tính chất đan xem quá độ về kết cấu của cơ sở kinh tế làm cho
nền kinh tế sống động, phong phú mang tính phức tạp trong quá trình thực hiện
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một kết cấu kinh tế năng động, phong phú
của nền kinh tế được phản chiếu lên kiến trúc thượng tầng và đặt ra đòi hỏi
khách quan là kiến trúc thượng tầng cũng phải được đổi mới để đáp ứng đòi
hỏi của cơ sở kinh tế.
Từ nhận thức trên Đảng ta đã vận dụng trong công cuộc xây dựng đất
nước ta trong suốt thời gian qua, nhất từ thời kỳ Đại hội VI đến nay, thực tế cho
thấy rằng nền kinh tế có những chuyển biến tích cực bước đầu hình thành nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước. Nguồn lực của sản xuất xã hội được huy động tốt hơn, tốc độ
lạm phát được kiềm chế, đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phận nhân
dân có phần được cải thiện, sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được
phát huy nội dung và phương thức hoạt động của các tổ chức trong hệ thống trị
có một bước đổi mới theo hướng phát huy dân chủ nội bộ và quyền làm chủ
của nhân dân lao động.
Bước vào thập kỷ 90, công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu
bước đầu rất quan trọng. Qua năm năm thực hiện nghị quyết Đại hội VII với cố
15
gắng to lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân nền kinh tế nước ta không
những đứng vững trước những thử thách gay gắt mang còn đạt được nhiều
thành tựu to lớn có ý nghĩa rất quan trọng. Trong công cuộc đổi mới vừa qua,
Đảng ta luôn luôn kiên trì và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ, triệt để và
có bước đi thích hợp về việc xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng,
Đảng ta tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách
của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội coi đó là điều kiện quan trọng để tiến
hành thuận lợi trong đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời đổi mới kinh tế
phải từng bước đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động của hệ thống chính trị,
phát huy ngày càng tốt hơn quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân
lao động trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Vì chính trị đụng
chạm đến các mối quan hệ đặc biệt phức tạp và nhạy cảm trong xã hội, nên
việc đổi mới trong hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và
chuẩn bị rất nghiêm túc không cho phép gây mất ổn định chính trị dẫn đến sự
rối loạn, nhưng không vì thế mà tiến hành chậm trễ gây hạn chế đến sự phát
triển kinh tế xã hội. Vì kinh tế chính trị là cốt lõi của mối quan hệ giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng trong mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị thì
kinh tế giữ vai trò quyết định. Trong công cuộc đổi mới xã hội ngày nay, Đảng
ta tiến hành đổi mới một cách toàn diện.
Trước hết là đổi mới cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới qui
trình công nghệ nhằm làm cho nền kinh tế nước ta phát triển hòa nhập được
với tốc độ phát triển kinh tế thế giới. Cùng với đổi mới kinh tế, phải đổi mới hệ
thống chính trị, đổi mới tổ chức, đổi mới bộ máy, đổi mới con người, đổi mới
phong cách lãnh đạo của Đảng, dân chủ hóa.
Trước hết từ trong các cơ quan Đảng và Nhà nước chống tham nhũng
… để làm cho Nhà nước thực sự là một Nhà nước mạnh với đúng nghĩa của
nó. Trong điều kiện dân tộc và quốc tế hiện nay, đổi mới kinh tế về chính trị,
phải thực hiện đường lối mở cửa một cách sáng tạo để khai thác tối đa sức
mạnh thời đại, hòa nhập với cộng đồng thế giới mà không bị hòa tan. Những
năm qua thực tiễn tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng ta càng nhận rõ : cùng
với việc lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm thì đồng thời từng bước đổi mới hệ
thống chính trị.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ
cuốn hút tất cả các nước ở mức độ khác nhau, nên sản xuất vật chất và đời
sống xã hội đang trong quá trình quốc tế hóa sâu sắc ảnh hưởng lớn đến sự
phát triển lịch sử và cuộc sống. Nhận thức rõ yêu cầu mới của cách mạng và
âm mưu thủ đoạn chống phá của kẻ thù, Đảng ta xác định trong giai đoạn hiện
nay “Lãnh đạo kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then
chốt”, khẳng định sự đúng đắn của mối quan hệ biện chứng, giữa kinh tế chính
trị hay theo chủ nghĩa Mác Lênin là mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng trong mỗi hình thái kinh tế xã hội.
Câu 4 TRIET : Lý luận MácXít về vai trò của quần chúng nhân dân trong
lịch sử. Ý nghĩa phương pháp luận & sự vận dụng of Đảng ta.
Bài làm
16
Xã hội loài người tồn tại & ptriển theo những quy luật khách quan & những quy luật
đó được thực hiện thông qua hđộng có ý thức of con người, trong đó hđộng of quần
chúng nhân dân (QCND) có vai trò quyết định rất lớn đến sự ptriển of lsử XH. Hiện
nay, nước ta đang tiến hành công cuộc đổi mới nhằm tạo sự chuyển biến về chất toàn
diện & sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực of đời sống đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng
nước nghèo, kém ptriển & ptriển vững chắc lên CNXH. Đây là một cuộc cách mạng lớn
mà trong đó vai trò of QCND là hết sức quan trọng cho sự thành công of sự nghiệp đổi
mới.
Theo quan điểm triết học Mác- LêNin, QCND là một khối người đông đảo trong XH,
bao hàm những lực lượng, tầng lớp nhân dân trong XH, mà qua hđộng of họ, lịch sử sẽ
biến đổi tuỳ từng điều kiện lsử, sự kiện lsử. Nói chung QCND là tất cả nhân dân lao
động & các lực lượng tiến bộ trong XH mà qua hđộng of họ lsử sẽ ptriển. Trong XH có
gcấp, QCND không bao gồm gcấp áp bức bóc lột & các thế lực thi hành chính sách
chống nhân dân.
Triết học Mác khẳng định QCND là người sáng tạo chân chính of lsử, là lực lượng
quyết định sự ptriển of lsử.
Vai trò được thể hiện trước nhất qua vai trò QCND là LLSX cơ bản of XH. Nếu SX
vật chất là nền tảng quyết định sự ptriển of XH thì QCND là LLSX cơ bản of XH bởi vì
họ là những người trực tiếp SX ra mọi of cải vật chất để bảo đảm sự tồn tại & ptriển of
XH. Mặt khác QCND là người cải tiến, chế tạo ra công cụ lao động, đồng thời trong quá
trình SX, họ kg ngừng tích lũy kinh nghiệm, kỹ năng lao động, điều đó làm cho lực
lượng SX ngày càng ptriển. Hơn nữa LLSX of QCND là động lực cho sự ptriển of khoa
học kỹ thuật. Nhu cầu SX of quần chúng đã thúc đẩy sự ptriển of khoa học- kỹ thuật &
hình thành các môn khoa học mới. Như vậy QCND đóng vai trò quyết định trong SX
vật chất of XH.
Bên cạnh đó, QCND còn là lực lượng cơ bản of mọi cuộc cách mạng XH. XH vận
động & ptriển theo quy luật nội tại of nó mà trước hết là quy luật về sự phù hợp of
QHSX với trình độ ptriển of LLSX. Mâu thuẩn giữa LLSX & QHSX trong đấu tranh
có gcấp được biểu hiện về mặt XH là >< đối kháng giữa các gcấp. Đấu tranh gcấp là
động lực ptriển of XH có gcấp mà đỉnh cao of đấu tranh gcấp là cách mạng XH. Cách
mạng XH là sự nghiệp of đông đảo QCND lao động. Nếu kg có hđộng of hàng triệu
quần chúng thì cũng kg có các cuộc cách mạng lớn lao trong lsử. Đặc biệt trong thời kỳ
bão táp cách mạng thì tinh thần cách mạng, ý chí sáng tạo của QCND được phát huy
đến cao độ. Như vậy, có thể nói cách mạng là sự nghiệp of quần chúng.
Ngoài vai trò quyết định trong SX vật chất of XH & là lực lượng cơ bản trong cách
mạng XH, QCND có vai trò to lớn trong SX tinh thần. QCND là người trực tiếp sáng
tạo ra những giá trị tinh thần of XH. Tục ngữ, ca dao, hò vè, điệu múa, lời hát cũng đều
là những giá trị tinh thần trực tiếp do nhân dân sáng tạo ra. Những giá trị đó là cơ sở để
ptriển nền văn hoá nghệ thuật lớn. Mặt khác, thực tiễn lao động SX & đấu tranh cách
mạng of QCND là nguồn cảm hứng cho các văn nghệ sỹ chuyên nghiệp sáng tác. Tâm
tư, nguyện vọng of QCND làm cơ sở cho sự ptriển of văn hoá -nghệ thuật. Như vậy,
QCND đóng vai trò quan trọng trong SX tinh thần.
Tóm lại, trên tất cả các mặt SX vật chất, đấu tranh cách mạng & SX tinh thần đã
chứng tỏ chân lý QCND là người sáng tạo chân chính of lsử, là lực lượng quyết định sự
ptriển of XH.
Triết học Mácxít khẳng định vai trò quyết định of QCND nhưng cũng đề cao vai trò
of cá nhân, lãnh tụ, người quyết định quy mô, tốc độ, nhịp độ of các tiến trình khách
quan trong lsử. Cá nhân lãnh tụ là lãnh tụ of QCND, được quần chúng suy tôn, tín
nhiệm làm lãnh tụ của họ. Ý chí of nguời lãnh tụ là sự thể hiện ý chí nguyện vọng of
QCND. Ngược lại QCND & phong trào of quần chúng lại cần đến người tổ chức, lôi
17
kéo, tập họp và hướng dẫn phong trào mới, bảo đảm phong trào of quần chúng đạt hiệu
quả cao. Tuy lãnh tụ có vai trò quan trọng nhưng triết học Mácxít cũng cương quyết
chống lại tệ “sùng bái cá nhân”. Chỉ khi nào mà những tư tưởng những định hướng về
đường lối trên tất cả các mặt đời sống XH do các vĩ nhân, lãnh tụ vạch ra đều được sự
đồng tình hưởng ứng of các tầng lớp tổ chức QCND thì khi đó vai trò of lãnh tụ vĩ nhân
mới phát huy tác dụng. Ngược lại cho dù những tư tưởng, định hướng, đường lối of các
vĩ nhân có tiến bộ tích cực đến mấy khi chưa đồng tình of nhân dân thì cũng kg có giá
trị. Chúng ta cần chống tư tưởng sùng bái cá nhân, tuyệt đối hóa vai trò of lãnh tụ vĩ
nhân đi đến chổ quần chúng kg tin vào chính bản thân mình nhưng ngược lại cũng phải
biết trân trọng tôn kính những anh hùng vĩ nhân kiệt xuất of dtộc of lsử.
Phát huy truyền thống coi trọng vai trò of QCND trong lsử ptriển of dtộc, đồng thời
lấy CN Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng & thực tiễn cách mạng VNam, Đảng ta đã rút
ra bài học lấy lấy dân làm gốc. Từ thực tế khó khăn of thời kỳ chống lại cuộc chiến
tranh phá hoại bằng kg quân of đế quốc Mỹ, nhân dân Quảng Bình đã đưa một tổng kết
quý giá :”Dễ mười lần không dân cũng chịu; Khó trăm lần dân liệu cũng xong”. HCM
hết sức tâm đắc với sự tổng kết đó, và đã không ít lần sử dụng lại trong các bài viết, bài
nói của mình. Ngày nay, bài học đó vẫn giữ nguyên giá trị.
Tuy vậy, những năm qua, đặc biệt là thời kỳ trước đổi mới (năm 1986) bệnh quan
liêu, tư tưởng phong kiến, gia trưởng còn nặng ở một số cán bộ Đảng viên là người lãnh
đạo đã làm xói mòn mối liên hệ mật thiết vốn có giữa Đảng và quần chúng. Hậu quả của
tình trạng đó không những làm tính tích cực xã hội của quần chúng nhân dân bị hạn chế
hoặc tước bỏ quyền làm chủ của quần chúng, làm cho quần chúng thiếu tin tưởng vào
lực lượng của bản thân mình, làm cho họ có thái độ phục tùng tiêu cực mù quáng, thiếu
suy nghĩ phán đoán, thiếu độc lập tự chủ, không phát huy được tính tích cực sáng tạo
của đông đảo quần chúng trong sự nghiệp cách mạng, mà còn làm suy yếu vai trò lãnh
đạo của Đảng. Từ thực tiễn nước ta trước 1986, Văn kiện Đại hội Đảng lần VI đã rút ra
một trong những bài học kinh nghiệm là “trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải
quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH cũng khẳng
định “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân Quan liêu,
mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận
mệnh đất nước”
Quán triệt bài học này, trong quá trình đổi mới chúng ta đã đạt được những thành tựu to
lớn. Vì vậy, Đại hội IX của Đảng đã tổng kết 15 năm đổi mới và rút ra bài học “Đổi mới
phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn luôn luôn sáng
tạo”.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, đổi mới cũng là sự nghiệp của dân, do dân,
vì dân. Để đưa công cuộc đổi mới tới thắng lợi, phải phát huy được tính chủ động, sáng
tạo, tham gia một cách tích cực, tự giác của nhân dân. Đổi mới là một sự nghiệp mới
mẻ, chưa có tiền lệ. Nhiều vấn đề mới nảy sinh, nhiều khó khăn xuất hiện cần có nhận
thức mới, giải pháp mới. Chính ở đây, việc dựa vào dân, qua thực tiễn phong phú của
nhân dân tiến hành tổng kết, từng bước tìm ra quy luật các mặt của cuộc sống để đi lên,
đó là chìa khóa của thành công.
Từ khi bắt đầu khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước năm 1986 đến nay,
cùng với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân,
thực hiện việc quản lý xã hội bằng pháp quyền, phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
thực hiện phương châm “ dân biết, dân làm, dân kiểm tra”, Đảng thực sự dựa vào dân,
huy động sức mạnh của nhân dân trong việc giải quyết những vấn đề bức xúc của cuộc
sống đặt ra. tại Đại hội Đảng lần VII, Đảng đã khẳng định “Tăng cường hơn nữa khối
đoàn kết toàn dân, động viên được lực lượng của mọi tầng lớp nhân dân vào việc thực
18
hiện mục tiêu xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Giữ vững đoàn kết trong Đảng và thắt chặt
mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân”. Bên cạnh đó, trong công cuộc đổi mới
Đảng đã chú trọng đến việc phát huy phong trào quần chúng và việc tăng cường công
tác dân vận giữ vai trò quan trọng. Đó là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị. Trong
công tác dân vận, Đảng ta đã khẳng định 5 quan điểm xuyên suốt trong quá trình hoạt
động. Một là mọi đường lối, chủ trương của Đảng, luật pháp chính sách của Nhà nước
phải xuất phát từ tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân và phù hợp với khả
năng của quần chúng. Hai là phải biến quan điểm, đường lối của Đảng thành phong trào
cách mạng của quần chúng. Ba là phải chăm lo lợi ích thiết thân của quần chúng và
thực hiện các chính sách xã hội để đảm bảo công bằng xã hội. Bốn là các hình thức tập
họp quần chúng phải đa dạng và phù hợp với trình độ của từng đối tượng. Năm là phải
phát huy cả hệ thống chính trị trong công tác dân vận. Mỗi cán bộ, Đảng viên công chức
nhà nước đều liên hệ tốt đều liên hê tốt với nhân dân và làm tốt công tác dân vận, lấy
các tổ chức chính trị xã hội làm nòng cốt trong công tác dân vận. Tất cả những nội dung
trên nhằm tạo ra những phong trào mạnh mẽ của quần chúng và xây dựng khối đại đoàn
kết dân tộc. Đó là động lực chủ yếu để phát triển xã hội.
Mặt khác, quá trình hình thành đường lối đổi mới cũng như trong suốt quá trình triển
khai thực hiện đường lối đó, Đảng ta luôn quán triệt tư tưởng dực vào dân, lấy dân làm
gốc, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, tổng kết những điển hình tiên tiến và
những kinh nhiệm hay của nhân dân trong quá trình thực hiện đường lối của Đảng để
không ngừng hoàn thiện đường lối, chính sách. Sự ra đời của Chỉ thị 100 của Ban Bí
thư (1-1981) về khoán trong nông nghiệp, Quyết định 25 của Chính phủ (1981) về
quyền chủ động sản xuất và tự chủ về tài chính trong xí nghiệp quốc doanh, chủ trương
phát triển kinh tế hộ theo mô hình VAC (vườn – ao - chuồng), Nghị quyết của Bộ
Chính trị khoá VIII về kinh tế trang trại, Nghị quyết 09/NQ-CP của Chính phủ (6-2000)
về một số chủ trương và chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm
nông nghiệp… là những minh chứng sinh động về bài học dựa vào nhân dân, vì nhân
dân, xuất phát từ thực tiễn và phù hợp với thực tiễn. Tổng kết thực tiễn trên cơ sở đổi
mới tư duy, Đảng ta đã tìm ra cái mới, từ đó thể chế hóa trong chủ trương, chính sách,
nhân rộng nhân tố mới thành phong trào quần chúng sâu rộng, được nhân dân đồng tình,
hưởng ứng, tích cục thực hiện.
Rõ ràng việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân (trong bầu cử các cấp, trong các
cuộc trưng cầu ý dân cho việc ban hành các văn bản pháp luật, qua thực hiện dân chủ cơ
sở tại các cơ quan tạo nhiều diều kiện cho “dân biết, dân làm, dân kiểm tra”) , xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc, việc ban hành những chủ trương chính sách dựa vào
dân và trên cơ sở tổng kết thực tiễn đã góp phần rất lớn tạo nên những thành tựu
trong sự nghiệp đổi mới đất nước do đã tạo nên sự đồng thuận trong xã hội, khơi dậy
nguồn lực vô tận của sức mạnh nhân dân cả nước.
Cách mạng phải sáng tạo. Song, để tự sáng tạo không dẫn tới tình trạng vô nguyên
tắc, một mặt, như trên đã đề cập, phải nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phát triển lý luận, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa
nhân loại và những kinh nghiệm của các nước phù hợp với hoàn cảnh nước ta. Mặt
khác, phải thường xuyên tổng kết thực tiễn, tìm ra nhân tố mới để nhân rộng và phát
triển những điểm không phù hợp trong chủ trương, chính sách cụ thể, từ đó có sự điều
điều chỉnh, bổ sung và phát triển cần thiết về chủ trương, phương pháp, biện pháp, cách
làm mới, linh hoạt, sáng tạo, nhạy bén nắm bắt, tận dụng thời cơ, khắc phục sự trì trệ
hoặc rập khuôn máy móc, làm chuyển biến tình hình. Vì vậy phải động viên được các
tầng lớp nhân dân tích cực thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước với tư cách người làm chủ công việc của đất nước.
19
Tóm lại, vai trò của quần chúng nhân dân là rất to lớn trong việc quyết định sự phát
triển của lịch sử, vận mệnh của đất nước, điều đó đã được khẳng định trong triết học
MácXít và lịch sử cách mạng Việt Nam. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới để xây
dựng một đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, người cán bộ công chức, đảng
viên phải nhận thức sâu sắc vai trò to lớn của quần chúng nhân dân để định hướng đúng
đắn trong nhận thức và hành động phù hợp với lợi ích của nhân dân đồng thời gần gũi
với nhân dân nhằm vận động, tập họp sức mạnh của nhân dân vào trong sự nghiệp xây
dựng đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó là một những điều kiện để đảm bảo sự
thành công của công cuộc đổi mới đất nước.
20