Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tài liệu tổng hợp ôn thi môn chủ nghĩa xã hội khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (521.84 KB, 14 trang )

Vấn đề 1 : Phân tích và chứng
minh tính đúng đắn của Cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam
A. Bối cảnh lịch sử
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX,
sau khi cơ bản kết thúc giai đoạn xâm lược vũ
trang, thực dân Pháp đã thi hành nhiều chính
sách thống trị nô dịch và bóc lột nhân dân ta
rất tàn bạo. Đất nước Việt Nam biến đổi từ
một xã hội phong kiến thành một xã hội thuộc
địa, mất hẳn quyền độc lập, chủ quyền trở
thành một dân tộc bị nô lệ, mất nước.
Các giai cấp xã hội bị biến, xã
hội Việt Nam hình thành 2 mâu thuẫn cơ bản
là : mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam
với chủ nghĩa đế quốc xâm lược Pháp và bọn
tay sai; mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam,
chủ yếu là giai cấp nông dân với giai cấp địa
chủ phong kiến.
Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ
XX, nhân dân Việt Nam đã nhiều lần nổi dậy
đấu tranh chống Pháp dưới nhiều ngọn cờ, tư
tưởng khác nhau, hình thức và phương pháp
đấu tranh khác nhau, nhưng các phong trào
yêu nước này đều thất bại, chứng tỏ CMVN
đang thực sự lâm vào tình trạng khủng hoảng
về đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo
cách mạng. Từ đó nảy sinh yêu cầu khách
quan là cần có một đường hướng cứu nước
mới cho CMVN.
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước


cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước,
Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm con đường cứu
nước theo phương hướng mới. Sau nhiều năm
bôn ba hải ngoại, Người nghiên cứu nhiều loại
hình chủ nghĩa cả về lí luận và thực tiễn. Cách
mạng tháng Mười Nga thành công, Người đã
hướng đến cách mạng tháng Mười và chịu ảnh
hưởng của cuộc cách mạng vĩ đại đó, Người
gia nhập Đảng cộng sản Pháp và trở thành
người chiến sĩ cộng sản đầu tiên của giai cấp
công nhân và và dân tộc Việt Nam.
Từ khi trở thành người cộng
sản, Người thành lập tổ chức Việt Nam thanh
niên cách mạng đồng chí hội, thông qua tổ
chức này và các báo : Người cùng khổ, Nhân
đạo, tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp,
Đường cách mệnh…truyền bá chủ nghĩa Mác-
Lenin về Việt Nam và đã trở thành tư tưởng
cách mạng hướng đạo phong trào dân tộc và
các tổ chức chính trị theo khuynh hướng cách
mạng vô sản, dẫn đến sự ra đời các tổ chức
Đảng cộng sản ở Việt Nam là : Đông Dương
cộng sản Đảng, An Nam cộng sản Đảng, Đông
Dương cộng sản liên đoàn.
Trước tình hình xuất hiện ba tổ
chức cộng sản trong một nước. Được giao
nhiệm vụ của Quốc tế cộng sản, đ/c Nguyễn
Ái Quốc chịu trách nhiệm hợp nhất các phần
tử chân chính lại để thành lập một Đảng duy
nhất. Hội nghị hợp nhất được tiến hành từ 3/2

đến 7/2/1930 (hội nghị tháng Hai) tại Hương
Cảng v thống nhất hợp nhất cc tổ chức cộng
sản thnh một Đảng lấy tên là Đảng cộng sản
Việt Nam, thông qua 4 văn kiện do Nguyễn Ái
Quốc dự thảo : Chính cương vắn tắt, sách
lược vắn tắt, điều lệ vắn tắt và lời kêu gọi của
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế
cộng sản và Đảng cộng sản Việt Nam gửi đến
quần chúng công, nông, binh, đồng bào và
đồng chí trong cả nước nhân dịp thành lập
Đảng. Bốn văn kiện này được coi là cương
lĩnh chính trị đầu tin của Đảng ta.
Tuy bị Hội nghị BCH.TW
Đảng tháng 10/1930 phê phán Chánh cương
vắn tắt, sách lược vắn tắt của hội nghị tháng
Hai có nhiều sai lầm, thậm chí còn cho rằng
sai phạm chính trị rất nguy hiểm nên quyết
định thủ tiêu Chánh cương vắn tắt, sách lược
vắn tắt và điều lệ của Đảng; thay đổi bằng
luận cương : Tư sản dân quyền cách mạng
do Trần Phú soạn thảo và đổi tên Đảng là :
Đảng cộng sản Đông Dương. Nhưng thực
tiễn quá trình lãnh đạo CMVN đã chứng minh
sự sáng tạo, tính đúng đắn của cương lĩnh đầu
tiên về quan điểm, tư tưởng, đường lối chiến
lược và sách lược của Đảng, phù hợp với
nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân.
Tính đúng đắn của cương lĩnh đầu tiên của
Đảng ta được thể hiện ở nội dung cơ bản
Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt của

Đảng như sau :
Một là cách mạng Việt Nam
phải là cách mạng tư sản dân quyền và thổ
địa cách mạng để tiến lên xã hội cộng sản.
Thực chất đó là một cuộc cách mạng có 2 giai
đoạn : giai đoạn thứ nhất đó là cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc, giai đoạn thứ hai là
sau khi giành được thắng lợi sẽ chuyển sang
làm cách mạng xã hội chủ nghĩa để tiến tới xã
hội cộng sản.
Hai là trong cách mạng tư sản
dân quyền có hai nhiệm vụ chiến lược là
chống đế quốc và chống phong kiến (phản
đế, phản phong). Hai nhiệm vụ này có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, phải được tiến
hành khắng khít không tách rời nhau nhưng
trong đó nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai
(phản đế) phải đặt lên hàng đầu.
Ba là xác định lực lượng cách
mạng, Đảng phải vận động, thu phục giai cấp
mình để lãnh đạo dân chúng, dựa hẳn vào dân
cày nghèo, liên lạc với trung nông. Lực lượng
cách mạng bao gồm : thứ nhất là giai cấp công
- nông là gốc, là động lực của cách mạng, thứ
hai là những người yêu nước trong các giai
cấp khác là đồng minh của cách mạng.
Bốn là lãnh đạo cách mạng là
giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong
của giai cấp là Đảng cộng sản Việt Nam.
Năm là về phương pháp cách

mạng, Đảng chủ trương phải giành chính
quyền bằng bạo lực cách mạng.
Sáu là cách mạng Việt Nam
đoàn kết với giai cấp vô sản và các dân tộc
thuộc địa trên thế giới để chống chủ nghĩa đế
quốc. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận
của cách mạng thế giới.
B. Tính đúng đắn của Cương
lĩnh
Từ những nội dung cơ bản trên,
Đảng đã thể hiện trình độ tư duy sâu sắc và
sáng tạo : vừa vận dụng đúng đắn chủ nghĩa
Mác-Lênin vào cách mạng Việt Nam, vừa đáp
ứng chính xác những yêu cầu khách quan của
xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
Trước nhất, tính đúng đắn và
khoa học của Cương lĩnh thể hiện ở việc xác
định đúng mục tiêu và con đường của cách
mạng Việt Nam, đó là “làm cách mạng tư sản
dân quyền và thổ địa cách mạng để tiến lên
chủ nghĩa cộng sản chính”. Sự lựa chọn xuất
phát từ việc xác định đúng đắn các mâu thuẩn
cơ bản của xã hội Việt Nam và nhận thức
đúng xu thế phát triển của thời đại.
1. Cương lĩnh đầu tiên của
Đảng xác định rõ nước ta là một xứ thuộc địa,
nửa phong kiến và phân tích những chính sách
kìm hãm sự phát triển kinh tế và thủ đoạn độc
quyền khai thác thuộc địa của tư bản Pháp,
gây nên những hậu quả tai hại, cản trở sự phát

triển độc lập của kinh tế Việt Nam. Nông dân
bị tước đoạt ruộng đất, nhiều người bị lâm vào
nạn thất nghiệp. Tình hình đó đưa đến mâu
thuẫn ngày càng gay gắt giữa một bên là dân
tộc ta (trong đó có công nhân, nông dân và
toàn thể dân tộc) với một bên là đế quốc Pháp
và tay sai của chúng. Bên cạnh đó, còn nổi lên
mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam - mà đa số
là nông dân - với bọn địa chủ phong kiến
chung quanh vấn đề ruộng đất, người dân cày
hoàn toàn phụ thuộc vào địa chủ, bị trói chặt
vào mảnh ruộng của giai cấp địa chủ và bị bóc
lột với tô thuế nặng nề.
Từ hai mâu thuẫn cơ bản trên
cho thấy rằng nguyện vọng tha thiết và cấp
bách của dân tộc lúc này chính là đánh đổ đế
quốc để giải phóng dân tộc, giành độc lập tự
do và đánh đổ phong kiến để giành dân chủ,
giành ruộng đất cho người cày. Chỉ có giải
quyết 02 mâu thuẫn này thì xã hội Việt Nam
mới thoát khỏi áp bức, bóc lột, phát triển đi
lên. Muốn giải quyết mâu thuẫn đó, nhân dân
Việt Nam phải làm "tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản".
Như vậy, cương lĩnh cũng đã
xác định rõ mục tiêu cuối cùng của cách mạng
Việt Nam không chỉ dừng lại ở giai đoạn hoàn
thành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mà
phải thực hiện tiếp cuộc cách mạng xã hội chủ

nghĩa, đưa cả nước đi lên CNXH, CNCS – mà
thắng lợi của Cách mạng tháng 10 Nga năm
1917 là sự mở đường cho thời kỳ quá độ lên
CNXH trên toàn thế giới. Về thực chất, đó là
con đường cách mạng giành độc lập dân tộc,
thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng” và
các quyền dân chủ chính trị, kinh tế, văn
hóa… cho các tầng lớp nhân dân, bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa đi tới xã hội cộng sản mà
chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu của nó. Hai
cuộc cách mạng này liên quan mật thiết với
nhau, ảnh hưởng và thúc đẩy lẫn nhau, cuộc
cách mạng trước thành công tạo điều kiện cho
cuộc cách mạng sau giành thắng lợi. Vì vậy,
giữa hai giai đoạn cách mạng này: giải phóng
dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội không
có bức tường ngǎn cách.
Luận điểm trên đánh dấu sự
phát triển vượt bậc tư duy lý luận chính trị của
cách mạng Việt Nam và chứng tỏ rằng, ngay
từ khi ra đời, Đảng ta đã nǎm vững nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng
sáng tạo kinh nghiệm cách mạng thế giới, thấu
suốt con đường phát triển tất yếu của cách
mạng Việt Nam, nhận rõ mối quan hệ biện
chứng giữa cách mạng dân tộc dân chủ với
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Con đường cách
mạng Cương lĩnh chính trị đã nêu mang tính
triệt để và rọi sáng một hướng phát triển mới
của Cách mạng Việt Nam và cũng là một chân

lý cách mạng mà Đảng cộng sản Việt Nam và
nhân dân Việt Nam phấn đấu thực hiện : giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng
con người; tự do hạnh phúc của nhân dân là
giá trị chân thực của độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội.
2. Việc giải quyết mối quan hệ
giữa nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ
chống phong kiến là vấn đề phức tạp. Trong 2
nhiệm vụ chiến lược “phản đế, phản phong”,
cương lĩnh chính trị cũng đã nêu rõ mặc dù cả
2 nhiệm vụ phải được tiến hành đồng thời và
khắng khít với nhau, song về chỉ đạo chiến
lược, Đảng xác định phải đặt nhiệm vụ giải
phóng dân tộc lên hàng đầu, với khẩu hiệu "Tổ
quốc trên hết" . Điều này xuất phát từ hoàn
cảnh xã hội nước ta là xã hội thuộc địa, mâu
thuẫn giai cấp tuy có sâu sắc nhưng mâu thuẫn
chủ yếu nhất, bức xúc nhất vẫn là mâu thuẫn
giữa dân tộc Việt Nam với bọn thực dân xâm
lược Pháp cùng bọn tay sai của chúng (đại địa
chủ, đại tư sản phản cách mạng và vua quan
phong kiến) giành lại độc lập, tự do, dân chủ
cho toàn dân tộc. Việc xác định đúng kẻ thù
chủ yếu và nhiệm vụ chủ yếu để nắm vững
ngọn cờ dân tộc để tập hợp lực lượng, phát
huy cao độ sức mạnh dân tộc nhưng không
coi nhẹ những nhiệm vụ giải phóng giai cấp là
một những tư tưởng đúng đắn, sáng tạo của
Đảng ta bắt nguồn từ việc khéo kết hợp yếu tố

dân tộc với yếu tố giai cấp để xem xét vấn đề
xã hội
3. Lực lượng CM : Cương lĩnh
của Đảng chủ trương đoàn kết tất cả các giai
cấp cách mạng, các lực lượng tiến bộ và cá
nhân yêu nước nhằm tập trung lực lượng đánh
đổ kẻ thù chủ yếu của dân tộc là CNĐQ Pháp
và tay sai, mở đường cho cách mạng phát triển
đến thắng lợi hoàn toàn. Về lực lượng CM
Đảng ta xác định : Mọi người Việt Nam đều
là con Lạc, cháu Hồng. Ai cũng chịu cái khổ,
cái nhục của họa mất nước. Vì vậy, việc cứu
nước là việc của mọi người, không phụ thuộc
vào địa vị xã hội, vào hoàn cảnh kinh tế, vào
năng lực cá nhân. Trong đó xác định giai cấp
công nông là động lực chính của CMVN.
Trong tác phẩm Đường cách
mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ :công nông
là gốc cách mệnh còn học trò, nhà buôn nhỏ,
điền chủ nhỏ… chỉ là bầu bạn của cách mệnh
công nông. Đảng phải thu phục cho được
công nông và làm cho giai cấp công nhân lãnh
đạo được đông đảo quần chúng; ngoài lực
lượng công nông là chính, phải hết sức liên lạc
với tiểu tư sản, trí thức, trung nông… để kéo
họ về phía vô sản giai cấp. Đối với phú nông,
trung tiểu địa chủ và tư sản Việt Nam mà chưa
rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu
mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào
đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến) thì

phải đánh đổ. Trong khi liên lạc tạm thời với
các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào
nhượng bộ một chút lợi ích gì của giai cấp
công nông mà đi vào đường lối thỏa hiệp. Tư
tưởng này của Nguyễn Ái Quốc khác với luận
cương 10/30 là : Luận cương tư sản dân
quyền cách mạng tháng 10/1930 chưa xác
định đầy đủ tính chất giai cấp của xã hội
đương thời, lực lượng cách mạng chỉ dựa vào
công nông và thành phần lao khổ thành phố
(như là bọn bán rao ngoài đường, bọn thủ
công nghiệp nhỏ không mướn thợ, bọn trí thức
thất nghiệp,…), phủ nhận và phủ định những
mặt tích cực của các thành phần yêu nước
khác (thành phần tiểu tư sản, trí thức, trung
nông, tư sản dân tộc…) và chủ trương không
thành lập mặt trận, nên không lợi dụng và huy
động được sức mạnh của cả dân tộc tham gia
cách mạng.
Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng
cho rằng tất cả những người yêu nước Việt
Nam đều có khả năng trở thành cộng sản, và
người cộng sản chân chính là người có tinh
thần yêu nước triệt để. Chính sách Đại đoàn
kết dân tộc là tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh,
là nhân tố cơ bản và quyết định thắng lợi của
CMVN. Chính sách Đại đoàn kết là truyền
thống yêu nước của dân tộc ta đã thực hiện
trong quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước
của dân tộc như : Hội nghị Diên Hồng, Hội

nghị Bình Than thời nhà Trần đã tập hợp được
lòng yêu nước của nhân dân đánh bại quân
Nguyên Mông ở thế kỷ XIII, lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã tập hợp được mọi tầng lớp quần chúng
nhân dân lao động đánh đuổi đế quốc Pháp
xâm lược với cách mạng 8/1945 thành công
xây dựng nên Nước VNDCCH, chiến thắng
Điện Biên Phủ vang dội năm 1954, miền Bắc
hoàn thành cuộc cách mạng DTDC tiến lên
CNXH. Đại thắng mùa xuân năm 1975 thống
nhất nước nhà, hoàn thành CMDTDCND ở
miền Nam, cả nước cùng tiến lên xây dựng
CNXH.
4. Xác định giai cấp lãnh đạo
CMVN là giai cấp công nhân lãnh đạo thông
qua đội tiền phong của họ là Đảng cộng sản
Việt Nam, và khẳng định sự lãnh đạo của
Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách
mạng. Đảng là đội tiên phong của vô sản giai
cấp, cho nên Đảng có trách nhiệm thu phục
cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm
cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng,
phải thu phục cho được đại đa số dân cày (lúc
này Việt Nam trên 90% là nông dân) và phải
dựa chắc vào dân cày nghèo, phải liên lạc với
các giai cấp cách mạng và các tầng lớp yêu
nước để đoàn kết họ lại. Đảng là một khối
thống nhất ý chí và hành động. đảng viên
phải : hăng hái tranh đấu cẩn thận và dám hi

sinh, phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh
phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận Đảng.
Từ thực tiễn các phong trào đấu
tranh từ năm 1919-1925, đã có nhiều cuộc đấu
tranh của phong trào công nhân như : 8/3/1920
226 thủy thủ ở Sài Gòn bãi công đòi phụ cấp
đắt đỏ, 1924 thợ nhuộm Sài Gòn - Chợ Lớn
bãi công, 27/2/1924 công nhân nhà máy dệt
Nam Định bãi công… nhưng các cuộc bãi
công này vẫn mang tính chất tự phát, chỉ đưa
yêu sách kinh tế chứ chưa có tổ chức chỉ đạo
chặt chẽ và chưa nêu được khẩu hiệu chính trị
(chưa giác ngộ chính trị, chưa có ý thức tổ
chức kỷ luật). Từ 1926, khi tổ chức VNTN
phát triển mạnh ở trong và ngoài nước, thì giai
cấp công nhân được nhận thức chủ nghĩa Mác-
Lênin, đồng thời khi có Đảng tiền phong của
GCCN ra đời đã kết thúc giai đoạn đấu tranh
tự phát, đạt đến trình độ đấu tranh tự giác ngày
càng cao đưa cuộc đấu tranh dân tộc kết hợp
chặt chẽ với cuộc đấu tranh giai cấp tiến lên
giành thắng lợi. Chính vì vậy, GCCN Việt
Nam đã đảm nhận được vai trò lịch sử, thông
qua đội tiền phong của họ là Đảng CSVN
(Đảng lấy chủ nghĩa Lênin làm kim chỉ nam,
Đảng có vững cách mạng mới thành công) và
trở thành giai cấp lãnh đạo CMVN.
5. Đảng chủ trương giành chính
quyền bằng phương pháp bạo lực cách mạng,
thiết lập chính quyền mới của GCCN. Cương

lĩnh của Đảng đã khẳng định CMVN phải tiến
hành bằng bạo lực cách mạng của quần chúng,
để đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phong kiến
làm cho nước nam hoàn toàn được độc lập, rồi
dựng nên chính quyền công, nông, binh chứ
không phải bằng con đường cải lương, thỏa
hiệp. Kinh nghiệm của cách mạng tháng Mười
Nga, sau cách mạng DCTS tháng 2/1917, tồn
tại song song hai chính quyền : Chính phủ tư
sản lâm thời và chính quyền Xô viết, hai nền
chuyên chính với hai bản chất giai cấp đối lập
nhau không thể cùng tồn tại trong một nước.
Lênin chủ trương thực hiện 2 phương án hòa
bình & vũ trang. Phương án đấu tranh hòa bị
thất bại, Đảng cộng sản Bônsêvích phải rút
vào hoạt động bí mật và Đảng đã tổ chức lãnh
đạo hoạt động cách mạng bằng phương pháp
đấu tranh vũ trang và đã giành được thắng lợi.
Vì vậy, Đảng ta đã rút ra kinh nghiệm là do
bản chất của CNĐQ và giai cấp tư sản với hai
bản chất giai cấp hoàn toàn đối lập, là một
cuộc chiến đấu không khoan nhượng; phải
dùng bạo lực cách mạng đánh đổ bạo lực phản
cách mạng mới giành được thắng lợi hoàn
toàn.
Lịch sử Việt Nam đã chứng
minh trong quá trình dựng nước và giữ nước;
cách mạng tháng 8/1945 thành lập nước
VN.DCCH, trận Điện Biên Phủ 1954 buộc
Pháp phải ngồi vào bàn hội nghị ký kết hiệp

định Giơnevơ, miền Bắc hoàn toàn được giải
phóng, và 30/4/1975 giải phóng hoàn toàn
miền Nam thống nhất tổ quốc; Đảng ta đã
dùng bạo lực cách mạng đánh đuổi lần lượt đế
quốc Pháp, Nhật, Mỹ và tay sai hoàn thành
cuộc cách mạng DTDC nhân dân, cả nước
cùng tiến lên xây dựng chế độ CNXH.
6. Cương lĩnh khẳng định cách
mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng
vô sản thế giới, đứng trong mặt trận cách
mạng của các dân tộc bị áp bức và giai cấp
công nhân thế giới mà đội quân tiên phong của
mặt trận này là Liên Xô. Sách lược vắn tắt ghi
rõ: "Trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu
nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền
và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và
vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp
Pháp" . Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng :
“Những tư tưởng dân tộc chân chính đồng thời
cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính”.
Sự bóc lột thuộc địa không chỉ là một nguồn
sống của bọn tư bản mà còn là cái “nền móng”
của chủ nghĩa đế quốc. Do đó, cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc không những phải trở
thành bộ phận khắng khít của cuộc cách mạng
vô sản mang tính toàn cầu mà còn có vai trò là
một trào lưu lớn của cách mạng trong thế kỷ
này. Tư tưởng này là cơ sở cho sự phát triển
chính sách đoàn kết quốc tế của Đảng ta.
Chính sách đó luôn được bổ sung, hoàn thiện

và là một nguồn tǎng thêm sức mạnh lớn hơn
sức mạnh vốn có của ta, là một nhân tố thắng
lợi của cách mạng Việt Nam
Ngoài ra, do sớm nhận thức
được sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc
với giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội
trong cách mạng vô sản ở nước thuộc địa, coi
trọng độc lập tự chủ, tự lực tự cường của từng
quốc gia, việc đặt tên Đảng là Đảng cộng sản
Việt Nam (chứ không phải là Đảng Cộng sản
Đông dương theo hướng chỉ đạo của Quốc tế
Cộng sản) là hoàn toàn đúng đắn xuất phát từ
sự hiểu biết đúng đắn về tình hình, đặc điểm,
tâm lý dân tộc của ba nước Đông Dương (Việt
Nam, Cao Miên, Lào) và theo quan điểm
LêNin: các dân tộc bị lệ thuộc sau khi độc lập
được tách ra để xây dựng độc lập dân tộc và
có quyền tự quyết.
Đối với công cuộc đổi mới
hiện nay cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng có ý nghĩa rất quan trọng: một là đổi
mới phải kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa,
hai là đổi mới phải tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng, ba là đổi mới phải động viên được
đông đảo quần chúng tham gia. Bốn là đổi mới
phải mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, đa
phương, đa dạng quan hệ ngoại giao.
Tóm lại : Thắng lợi của
CMVN dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN là
bằng chứng không thể bác bỏ tính đúng đắn

của tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó sự
nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai
cấp bằng con đường đi lên CNXH. Đảng ta đã
nắm vững bản chất khoa học và cách mang
của chủ nghĩa Mác - Lênin, giải quyết đúng
đắn mối quan hệ giữa yếu tố dân tộc và yếu tố
giai cấp, sớm kết hợp yếu tố giai cấp với yếu
tố dân tộc một cách sáng tạo, gắn chủ nghĩa
yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô
sản, phát huy được truyền thống yêu nước,
đánh giá đúng vị trí của từng giai cấp cách
mạng, đoàn kết được các lực lương yêu nước,
nhờ đó mà Đảng đã nắm được quyền lãnh đạo
cách mang. Chúng ta cũng không thể phủ nhận
được rằng những chủ trương, mục tiêu, nhiệm
vụ mà Cương lĩnh đã nêu thời gian qua đã
chứng tỏ sự đúng đắn, khoa học và như một
thứ động lực tinh thần hợp lòng người nhất, để
trên nền móng đó phát huy sức mạnh của lòng
yêu nước của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là
trong công cuộc đổi mới xây dựng CNXH
ngày nay./.
Vấn đề 2 : Trong bản Chỉ
thị kháng chiến kiến quốc của thường
vụ Trung ương Đảng ngày
25/11/1945 có khẳng định : “Giành
chính quyền càng dễ bao nhiêu thì giữ
chính quyền lại càng khó bấy nhiêu”.
Bằng kiến thức lịch sử Đảng, đồng
chí hãy phân tích làm rõ nhận định

trên. Trình bày những chủ trương
biện pháp của đảng để giữ chính
quyền trong thời kỳ 1945-1946? Liên
hệ với việc xây dựng nhà nước của
dân, do dân và vì dân hiện nay.
Vấn đề chính quyền như
Lênin đã nhiều lần chỉ rõ là vấn đề cơ
bản và quyết định sự phát triển của cách
mạng. Người nhấn mạnh: "Chính quyền
nhà nước nhất định là vấn đề chủ yếu
nhất của mọi cuộc cách mạng. Giai cấp
nào giữ chính quyền? Điều đó quyết
định tất cả". Vì vậy, Đảng cộng sản khi
lãnh đạo cách mạng nhất thiết đặt lên
hàng đầu mục tiêu giành lấy chính
quyền về tay giai cấp công nhân và
nhân dân lao động. Trong lịch sử đấu
tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc
Việt Nam, đánh đuổi giặc ngoại xâm để
giành lấy chính quyền đã khó, thì việc
giữ vững chính quyền về tay nhân dân
lại càng khó khăn hơn, lâu dài và gian
khổ hơn. Lịch sử cách mạng Việt Nam
đã chứng minh điều đó, đặc biệt là
trong giai đoạn sau Cách mạng tháng 8
năm 1945, việc giữ vững một chính
quyền còn non trẻ trong thời kỳ 1945-
1946 với vô vàn những khó khăn, thù
trong, giặc ngoài.
Các giai cấp và thế lực

thống trị cũ không bao giờ tự rời bỏ địa
vị thống trị của chúng. Vì thế, cuộc đấu
tranh giành chính quyền phải trải qua
nhiều hy sinh, gian khổ và cuối cùng
bằng bạo lực cách mạng của quần
chúng mới có thể giành được thắng lợi.
Tuy nhiên, việc giành được chính
quyền mới chỉ là nhiệm vụ bước đầu và
cũng chưa phải là nhiệm vụ khó nhất.
Nhiệm vụ nặng nề, khó khǎn và phức
tạp nhất chính là xây dựng và bảo vệ
chính quyền mới, làm cho nó thật sự là
công cụ có hiệu lực để cải tạo xã hội cũ,
xây dựng thành công xã hội mới, vì
hạnh phúc của nhân dân. Thực tiễn của
tất cả các cuộc cách mạng từ trước tới
nay ngày càng cho thấy: "Giữ vững
chính quyền thì khó hơn là giành lấy
chính quyền".
Thắng lợi của Cách mạng
tháng Tám nǎm 1945 dẫn tới sự ra đời
Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở
Việt Nam và ở vùng Đông Nam á. Đó
là thành quả của 15 nǎm đấu tranh
giành chính quyền của nhân dân ta dưới
sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh, mở ra kỷ nguyên mới trong
lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự
do và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, trong giai đoạn

này, nước ta còn gặp rất nhiều khó khăn
trên tất cả phương diện kinh tế, xã hội,
chính trị, ngoạo giao. Về kinh tế : nền
kinh tế vốn đã nghèo nàn lạc hậu, bị
chiến tranh và thiên tai tàn phá nặng nề
làm cho xơ xác, kiệt quệ. Nạn đói đầu
năm 1945 do Pháp, Nhật gây ra làm 2
triệu người chết chưa được khắc phục,
thì tháng 8/1945 lại xảy ra lụt lớn ở
Miền Bắc, sau đó thì bị hạn kéo dài.
Sản xuất nông nghiệp bị đình đốn, hàng
vạn công nhân không có việc làm, hàng
hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt. Tài
chính cạn kiệt, ngân sách trống rỗng,
Ngân hàng Đông dương còn nằm trong
tay tư bản Pháp. Quân Tưởng tung tiền
Quan kim mất giá ra thị trường gây rối
loạn nền tài chính, kinh tế của ta. Đã
vậy, ta còn phải cung cấp lương thực
cho 20 vạn quân Tưởng. Về mặt xã hội,
dưới chính sách ngu dân của Pháp, 95%
dân số mù chữ, tệ nạn xã hội phát triển
mạnh mẽ. Về ngoại giao : Chính phủ
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chưa
được thế giới công nhận và đặt quan hệ
ngoại giao với ta. Chính quyền non trẻ
chưa được lực lượng tiến bộ trên thế
giới giúp đỡ.
Nhưng nghiêm trọng hơn
vẫn là tình hình an ninh, chính trị. Ngay

sau cách mạng thành công, chủ nghĩa
đế quốc và các thế lực phản động đã
bao vây, chống phá hòng tiêu diệt chính
quyền cách mạng non trẻ. Gần 20 vạn
quân Tưởng, đồng minh của đế quốc
Mỹ cùng bọn tay sai kéo vào miền Bắc
nước ta với ý đồ tiêu diệt Đảng ta, lật
đổ chính quyền cách mạng, lập nên
chính quyền tay sai của chúng. Ở miền
Nam, quân đội Pháp được đế quốc Anh
che chở đã đánh chiếm Nam Bộ hòng
lập lại chế độ thực dân của chúng.
Nhiều đảng phái phản động (Việt Quốc,
Việt Cách, Đại Việt ) công khai hoạt
động chống chính quyền. Chính quyền
cách mạng tiếp thu một đất nước đổ nát
với nạn đói và sự kiệt quệ về kinh tế, tài
chính và biết bao hậu quả khác mà chế
độ phong kiến, thực dân để lại. Với
những thử thách nặng nề đó, sự mất -
còn của chính quyền đặt trong thế
"ngàn cân treo sợi tóc". Chính quyền
nhân dân có thể bị lật đổ, nền độc lập
mới giành được có nguy cơ bị mất.
Tình hình đó đòi hỏi đảng và chính
quyền cách mạng phải có đường lối
chiến lược và sách lược đúng đắn mới
có thể bảo vệ và phát triển thành quả
cách mạng. Đảng đã chủ trương bất kể
tình hình như thế nào cũng phải "củng

cố chính quyền, chống thực dân Pháp
xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời
sống cho nhân dân".
Củng cố chính quyền
trước hết là tǎng cường sức mạnh, hiệu
lực và cơ sở pháp lý về cả đối nội cũng
như đối ngoại. Chính quyền mới ra đời
trong hoàn cảnh đất nước đã bị chế độ
phong kiến thống trị hàng ngàn nǎm và
chế độ thực dân cai trị gần một thế kỷ
nên nước ta không có hiến pháp, nhân
dân ta không được hưởng quyền tự do
dân chủ. Vấn đề cấp bách đặt ra là
"chúng ta phải có ngay một hiến pháp
dân chủ". Đảng chủ trương phải xúc
tiến nhanh việc bầu cử Quốc hội, lập
chính phủ chính thức và soạn thảo Hiến
pháp. Ngày 6-1-1946, lần đầu tiên ở
nước ta tổ chức tổng tuyển cử bầu Quốc
hội của một nhà nước dân chủ. Ngày 2-
3-1946, Quốc hội họp, cử ra chính phủ
tiêu biểu cho ý chí, lợi ích của toàn dân.
Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà được công bố ngày 9-
11-1946 và sau đó Nhà nước ban hành
hàng loạt sắc lệnh và những quy định
cần thiết
Xây dựng và củng cố bộ
máy chính quyền các cấp là một nhiệm
vụ bức bách. Chính phủ đã xem xét các

vǎn bản của Uỷ ban nhân dân các xứ và
có kế hoạch "cải cách chính quyền nhân
dân ở các địa phương và thanh trừng
những phần tử xấu trong Uỷ ban nhân
dân địa phương và cải tiến cách làm
việc của những Uỷ ban ấy". Chính
quyền nhân dân cũng đã kiên quyết
"trừng trị bọn phản quốc đã nhân những
khó khǎn về nội trị, ngoại giao và dựa
vào thế lực bên ngoài mà ngóc đầu dậy;
trừng trị bọn chia rẽ, bọn đầu cơ, tích
trữ và bọn lạm quyền, nhiễu dân". Đảng
chủ trương trong mọi tình thế phải bảo
đảm sự thống nhất của chính quyền
nhân dân từ trung ương đến cơ sở, xử
trí kịp thời "bọn đối lập".
Với tinh thần “Nước độc
lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự
do thì độc lập cũng có không nghĩa lý
gì”, Đảng ta nhận thức rằng chính
quyền cách mạng trước mắt phải chǎm
lo đời sống nhân dân, đưa đất nước
nhanh chóng thoát khỏi nạn đói. Do
vậy, việc cứu đói thật sự cần kíp như
đánh giặc ngoài mặt trận. Chính phủ
quyết định phát động phong trào tăng
gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, cứu
đói cho nhân dân. Chỉ trong một thời
gian ngắn, nhân dân ta đã quyên góp
được hàng vạn tấn gạo, hoa màu được

trồng nhiều ở các địa phương, sản
lượng lương thực đã tăng đáng kể,
nhiều diện tích đất đai đã được khôi
phục sử dụng, nhờ đó mà nạn đói đã
được khắc phục nhanh chóng. Cùng với
những biện pháp khẩn cấp trước mắt,
chính quyền mới cũng đã bước đầu thực
thi nhiều cải cách dân chủ, đáp ứng
nguyện vọng thiết tha của nhân dân, đặc
biệt là nông dân : tịch thu ruộng đất của
ruộng công, giảm tô 25% cho nông dân.
Quy định ngày làm việc 8 giờ, bảo vệ
quyền lợi của công dân. Công tác y tế,
văn hóa, giáo dục mà nổi bật là vấn đề
thanh toán nạn mù chữ rất được quan
tâm chú ý. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh “Một dân tộc dốt là một dân
tộc yếu” đã có tác dụng kích thích lòng
tự hào dân tộc, tạo nên một phong trào
bình dân học vụ trong cả nước với khí
thế sôi nổi người người đi học, nhà nhà
đi học, nâng cao dân trí góp phần xây
dựng biết viết, đó là một thành tích nổi
bật trong điều kiện đất nước vừa mới
được độc lập còn biết bao khó khăn cần
giải quyết
Song song với việc khôi
phục, phát triển kinh tế để ổn định đời
sống nhân dân, Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh còn đặc biệt quan tâm chỉnh

đốn bộ máy và đội ngũ cán bộ chính
quyền, ngǎn chặn nguy cơ quan liêu
hoá, cán bộ chính quyền trở thành
những "quan cách mạng". Trong Thư
gửi Uỷ ban nhân dân các cấp, tháng 10-
1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra
những cǎn bệnh xuất hiện trong bộ máy
chính quyền mới như: trái phép, cậy
thế, hủ hoá, tư túi, chia rẽ, kiêu ngạo.
Những hành vi đó là trái với bản chất
của chính quyền nhân dân, làm giảm uy
tín, làm suy yếu chính quyền. Người
vạch rõ: Các cơ quan của Chính phủ từ
toàn quốc cho đến các làng đều là đầy
tớ của nhân dân, nghĩa là để gánh việc
chung cho dân.
Trong hoàn cảnh cùng một
lúc chính quyền phải đương đầu với
nhiều kẻ thù (quân Pháp - Tưởng) và
nhà nước ta lúc bấy giờ chưa có sự giúp
đỡ trực tiếp của các nước anh em, bầu
bạn trên thế giới, đòi hỏi Đảng và
Chính phủ phải thực hiện một chính
sách ngoại giao đúng đắn, khôn khéo
thì mới có thể củng cố và giữ vững
chính quyền cách mạng non trẻ. Quán
triệt tư tưởng “thêm bạn bớt thù”, Đảng
và chính quyền cách mạng đã thực hiện
chính sách nhân nhượng có nguyên tắc,
khéo léo “hòa để tiến” đồng thời ttriệt

để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ
kẻ thù, phân hoá chúng . Với sách lược
mềm dẻo nhưng có nguyên tắc : khi thì
hoà với Tưởng để tập trung đánh thực
dân Pháp, khi thì hoà với Pháp để đuổi
Tưởng, chẳng những bảo vệ được sự
tồn tại của chính quyền mà còn đưa sự
nghiệp cách mạng phát triển một cách
vững chắc.Đó cũng là nét nổi bật về và
là một mẫu mực về khả nǎng tự bảo vệ
của chính quyền cách mạng Việt Nam
trong hoàn cảnh khó khǎn điển hình.
Nhà nước và nhân dân ta
muốn hoà bình nên đã nhân nhượng với
thực dân Pháp. Nhưng dã tâm xâm lược
của thực dân Pháp ngày càng trắng
trợn. Khi không thể nhân nhượng được
nữa, chính quyền cách mạng đã chủ
động phát động nhân dân cả nước đứng
lên kháng chiến. Kháng chiến toàn quốc
chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ
(từ 12-1946 đến 7-1954) là tiếp tục sự
nghiệp của Cách mạng tháng Tám, là
tiếp tục công cuộc bảo vệ chính quyền
bằng một cuộc chiến tranh cách mạng.
Cuộc kháng chiến được tiến hành trong
điều kiện đã có chính quyền cách mạng.
Chính quyền là công cụ mạnh mẽ và
hiệu lực để tổ chức, động viên nhân dân
tham gia kháng chiến.

Tóm lại, trong khoảng thời
gian 16 tháng (9-1945 đến 12-1946),
trước bao tình thế khó khăn, hiểm
nghèo, trước những thử thách cực kỳ
nghiêm trọng tưởng chừng không thể
vượt qua, nhưng nhờ có sự lãnh đạo
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính
quyền mới vẫn phát huy hiệu lực và bản
chất của mình, từng bước đưa đất nước
vượt qua những khó khăn, thử thách.
Từ những thành công của Đảng trong
việc xây dựng, bảo vệ chính quyền giai
đoạn 1945-1946, có thể rút ra một số
kinh nghiệm trong quá trình xây dựng
nhà nước ta giai đoạn hiện nay như
sau :
Một là, phải gắn bó mật
thiết với nhân dân, dựa hẳn vào dân,
vì lợi ích của nhân dân, đó là nguồn
gốc sức mạnh của chính quyền trong
các giai đoạn cách mạng. Là chính
quyền nhân dân, chính quyền với nhân
dân "phải kết thành một khối", chính
quyền phải gắn bó với dân, dựa vào sức
mạnh của nhân dân và phải trở thành
công cụ làm chủ thật sự của nhân dân.
Quyền làm chủ của dân, những yêu cầu
dân chủ cơ bản phải được thể chế hoá
bằng hiến pháp và hệ thống pháp luật,
quy chế, quy tắc trong đời sống xã hội,

được ghi nhận và thực hiện qua các
chính sách kinh tế, xã hội. Hệ thống
pháp luật và chính sách kết tinh ý chí,
nguyện vọng và lợi ích của nhân dân,
nó càng đúng đắn và hoàn chỉnh bao
nhiêu, càng thể hiện quyền làm chủ của
nhân dân bấy nhiêu. Đó cũng là thước
đo trình độ của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa của nước ta hiện nay. Xây dựng
và củng cố chính quyền thực sự của
dân, do dân và vì dân là một quá trình
đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, giữa ý
thức và nǎng lực làm chủ của nhân dân
với thói quen an phận của người bị trị
dưới chế độ cũ cùng lề thói hủ lậu của
kẻ có chức quyền. Quá trình đó đòi hỏi
phải có nhận thức và quan điểm đúng
đắn, phải đổi mới, hoàn thiện cơ cấu tổ
chức, cơ chế quản lý, phương thức hoạt
động và cả sự lựa chọn con người vào
bộ máy chính quyền sao cho thể hiện
đúng bản chất của chính quyền nhân
dân
Hai là, phải thường
xuyên củng cố bộ máy nhà nước trong
sạch, vững mạnh, chống nguy cơ
quan liêu hoá, bảo đảm khả nǎng tự
bảo vệ. Sức mạnh của nhà nước biểu
hiện trước hết ở sự trong sạch, vững
mạnh trong bộ máy của nó, ở nǎng lực

tổ chức, quản lý mọi hoạt động kinh tế -
xã hội theo pháp luật. Vì vậy, tǎng
cường sức mạnh của nhà nước là tǎng
cường bộ máy nhà nước sao cho gọn
nhẹ, hiệu quả vững mạnh. Hoạt động
của các cơ quan quyền lực đã đi vào
thực chất, khắc phục chủ nghĩa hình
thức, mang lại hiệu quả thiết thực. Quốc
hội đã từng bước làm được chức nǎng
của cơ quan quyền lực cao nhất của nhà
nước. Chính phủ và các cấp chính
quyền với chức nǎng hành pháp, quản
lý, điều hành theo cơ chế quản lý mới
và nắm chắc công cụ pháp luật. Các cơ
quan bảo vệ luật pháp đã phát huy vai
trò độc lập của mình. Chính sự chuyển
động tích cực và đúng hướng đó đã làm
cho bộ máy có hiệu lực hơn và sức
mạnh của Nhà nước được tǎng cường.
Ba là không ngừng chǎm
lo xây dựng, củng cố cơ sở kinh tế và
cơ sở xã hội là sự bảo đảm cho chính
quyền nhân dân vững mạnh . Cơ sở
kinh tế, xã hội quyết định sức mạnh của
nhà nước, ngược lại nhà nước có vai trò
quan trọng, thậm chí là nhân tố quyết
định làm cho cơ sở kinh tế và xã hội
ngày càng lớn mạnh. Vì vậy, phát triển
kinh tế, xã hội là một trong những chính
sách hàng đầu của Nhà nước ta trong

mọi giai đoạn cách mạng, đặc biệt là
trong giai đoạn hiện nay. Điều đó
không chỉ nhằm củng cố sức mạnh của
Nhà nước, mà còn là mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội.
Bốn là phải có sách lược
mềm dẻo, khôn khéo, lợi dụng mâu
thuẩn trong hàng ngũ địch, cô lập cao
độ kẻ thù chính, trung lập những người
có thể trung lập, tranh thủ những người
có thể tranh thủ, nhằm làm suy yếu vị
trí và thế lực của chúng, làm tăng thêm
sức mạnh và tạo điều kiện đưa cách
mạng tiến lên
Năm là sự lãnh đạo của
Đảng là nhân tố quyết định bản chất,
sức mạnh và sự tồn tại của chính
quyền nhân dân . Giữ vững và nâng
cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước không chỉ có ý nghĩa quyết
định sự sống còn của chính quyền cách
mạng, mà còn là sự tồn tại của bản thân
Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Để
đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng
phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức, phải thường xuyên tự đổi
mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình
độ trí tuệ, nǎng lực lãnh đạo. Giữ vững
truyền thống đoàn kết thống nhất trong
Đảng, bảo đảm đầy đủ dân chủ và kỷ

luật trong sinh hoạt Đảng.
Tóm lại, xây dựng và bảo vệ
chính quyền nhân dân là một bài học
lớn của quá trình đấu tranh cách mạng
của nhân dân ta từ khi Đảng lãnh đạo
chính quyền. Diễn biến phức tạp của
tình hình quốc tế, nhiệm vụ nặng nề của
thời kỳ quá độ ở nước ta đòi hỏi Đảng
và nhân dân ta nâng cao cảnh giác, nỗ
lực phấn đấu xây dựng chính quyền
nhân dân thật sự trong sạch, vững
mạnh, xứng đáng là công cụ có hiệu lực
nhất tổ chức thắng lợi sự nghiệp đổi
mới và xây dựng đất nước theo con
đường xã hội chủ nghĩa./.
Vấn đề 3 : Nghiên cứu vị trí
lãnh đạo của Đảng trong bước chuyển
cách mạng Miền Nam
Từ khi ra đời đến nay, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn là nhân tố quyết
định sự thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước là cuộc đụng đầu lịch sử, một thử
thách lớn đối với Đảng và dân tộc Việt
Nam. Với đường lối chính trị, quân sự
đúng đắn và phương pháp cách mạng sáng
tạo do Đảng đề ra thể hiện trong từng
chiến dịch, từng trận đánh đã đưa cách
mạng dân tộc giành thắng lợi vẻ vang,
thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên

chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi trong cách
mạng miền Nam giai đoạn 1954-1975
chính là sự khẳng định vị trí, vai trò lãnh
đạo quan trọng của Đảng trong công cuộc
đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc.
1. Đánh bại chiến lược
“chiến tranh đơn phương”
Sau Hiệp định Giơnevơ (7-
1954), đế quốc Mỹ lấn dần thực dân Pháp,
độc chiếm miền Nam nước ta, chúng thiết
lập chế độ thực dân mới và dựng nên chính
quyền tay sai Ngô Đình Diệm. Chế độ Mỹ
- Diệm đàn áp dã man phong trào đấu
tranh của nhân dân ta ở miền . Tình hình
của đất nước sau Hiệp định Genève “bế tắc
tưởng chừng như không có đường ra" (Lê
Duẩn).
Đảng ta đã ra Nghị quyết 15
(tháng 1-1959) về cách mạng miền Nam
xác định nhiệm vụ chiến lược là hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ, trước
mắt lật đổ chế độ Diệm và tay sai, hoà hợp
dân tộc, cải thiện đời sống nhân dân. Chỉ
đạo quan trọng nhất của Nghị quyết lần
này là đã đề cập đến các vấn đề: đấu tranh
vũ trang; xây dựng lực lượng vũ trang và
căn cứ địa, kết hợp đấu tranh chính trị với
đấu tranh vũ trang. Những đường lối, chủ
trương của Đảng đưa ra đã đáp ứng yêu
cầu bức thiết của nhân dân, dấy lên phong

trào đồng khởi lan rộng mà đỉnh cao là
phong trào Đồng Khởi mùa Xuân 1960,
đập tan từng mảng chính quyền ngụy Sài
Gòn ở nhiều vùng nông thôn miền Nam
rộng lớn. Ngày 20-12-1960, Mặt trận Dân
tộc giải phóng miền Nam ra đời, tập hợp
đông đảo lực lượng yêu nước, nặng lòng
với dân tộc, không phân biệt giai tầng, địa
vị xã hội, quá khứ, sắc tộc, tín ngưỡng
nhằm mục tiêu chung giải phóng miền
Nam. Thắng lợi của Phong trào Đồng Khởi
phản ánh đường lối cách mạng đúng đắn
của Đảng và sự sáng tạo cách mạng của
nhân dân ta ở miền Nam (đánh địch từ 3
mũi giáp công : chính trị, quân sự và binh
vận) và đã kiềm chế được đế quốc Mỹ sớm
đưa quân vào miền Nam, làm thất bại
“chiến tranh đơn phương” của Mỹ, một
hình thức thống trị điển hình của chủ nghĩa
thực dân kiểu mới mà đế quốc Mỹ thiết lập
tại miền Nam Việt Nam, đưa cách mạng
miền Nam chuyển từ thế bị động “giữ gìn
lực lượng” sang thế tiến công.
2. Đánh bại chiến lược
“chiến tranh đặc biệt” :
Bước vào những nǎm 60, để
thích ứng với tình hình, đế quốc Mỹ cho ra
đời chiến lược quân sự mới vừa có tính
chất tiến công, vừa có tính chất phòng ngự.
Đó là chiến lược "phản ứng linh hoạt" với

ba loại chiến tranh: "chiến tranh thế giới",
"chiến tranh cục bộ", và "chiến tranh đặc
biệt". ở miền Nam nước ta từ khi có
Phong trào Đồng khởi, đế quốc Mỹ đã
thực hiện "chiến tranh đặc biệt", đây là
cuộc chiên tranh không giới tuyến, đánh
bằng mọi phương tiên, vũ khí nhằm ba
mục đích: đàn áp phong trào giải phóng
dân tộc, thực hiện chính sách thực dân
mới; xây dựng cǎn cứ quân sự, chuẩn bị
tiến công phe xã hội chủ nghĩa và ngǎn
chặn CNXH lan xuống Đông Nam á. Mỹ
đã ra sức tăng cường lực lượng chiến tranh
: quân Ngụy tăng 16 vạn lên 50 vạn, lực
lượng cố vấn tăng từ 200 lên 2500 và viện
trợ kinh tế tăng cấp số nhân và thực hiện
chiến lược bình định miền Nam trong vòng
18 tháng : gom 10 triệu dân vào 16.000 ấp
chiến lược.
Từ tháng 1-1961 đến tháng
9/1961 và tháng 12/1963, Bộ Chính trị họp
và ra nghị quyết chỉ rõ hướng phát triển
của cách mạng miền Nam là chuyển từ
khởi nghĩa từng phần sang chiến tranh
cách mạng, kết hợp khởi nghĩa quần chúng
với chiến tranh cách mạng để đưa cách
mạng tiến lên, đẩy mạnh hơn nữa đẩy
mạnh đấu tranh vũ trang lên song song với
đấu tranh chính trị, tấn công địch bằng cả
hai mặt quân sự và chính trị. Tổ chức đánh

địch bằng 3 mũi giáp công : chính trị -
quân sự - binh vận, trên 3 vùng chiến
lược : thành thị, nông thôn và miền núi,
bằng 3 thứ quân : du kích, chủ lực và dân
địa phương. Dưới sự chỉ đạo của Nghị
quyết Bộ Chính trị, cách mạng miền Nam
đã phát triển và trưởng thành nhanh chóng.
Một lực lượng lớn được đưa từ miền Bắc
vào cùng lực lượng tại chỗ tạo cho cách
mạng miền Nam vững vàng cả về thế và
lực. Với thế và lực đó, với phương hướng
tiến lên bằng cả lực lượng chính trị và
quân sự, bằng sự kết hợp cả hai hình thức
đấu tranh chính trị và quân sự, nhân dân ta
ở miền Nam đã liên tục tiến công địch, làm
phá sản kế hoạch Xtalây Taylơ nhằm bình
định miền Nam trong vòng 18 tháng
(1961-1962) và kế hoạch Giônxơn -
Mắcnamara cùng mục đích trên thực hiện
trong hai nǎm (1964-1965). Những chiến
thắng vang dội và có ý nghĩa bước ngoặt
như chiến thắng ấp Bắc (2-1-1963), chiến
thắng Bình Giã (12-1964), Ba Gia, Đồng
Xoài (5/1965) chứng tỏ sự trưởng thành
toàn diện của lực lượng cách mạng, khẳng
định thế tất thắng của nhân dân ta, mở ra
phong trào thi đua diệt nguy, diệt Mỹ khắp
miền Nam. 90 triệu lượt người đấu tranh
chính trị, trong đó nổi bậc là đấu tranh của
các phật tử ở Huế (8/5/1963), 70 vạn người

Sài Gòn xuống đường bắt đầu bằng vụ tự
thiêu của Hòa Thượng Thích Quảng Đức
(16/6/1963). Đến giữa nǎm 1965, quân
nguỵ bị đánh tan vỡ từng mảng, chính
quyền Sái gòn khủng hoảng triển miên
(tháng 1/11/1963, đảo chính chính quyền
Diệm và tháng 2/1965 Nguyễn Văn Thiệu
lên nắm chính quyền), quốc sách "ấp chiến
lược" bị phá sản (85% ấp chiến lược bị
phá), "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ - ngụy
bị thất bại. .
3. Đánh bại chiến lược
"chiến tranh cục bộ"
Giữa nǎm 1965, với bản chất
hiếu chiến và ngoan cố theo đuổi chiến
lược toàn cầu phản cách mạng, đế quốc
Mỹ đã leo thang chiến tranh, đưa quân
viễn chinh Mỹ và quân các nước chư hầu
(50 vạn) vào trực tiếp tham chiến ở miền
Nam, gia tăng lực lượng quân Ngụy lên 70
vạn, thực hiện "chiến tranh cục bộ" với
nội dung tiêu diệt và bình định nhằm cứu
nguy cho sự sụp đổ của chính quyền Sài
Gòn, giành thế chủ động, tǎng cường đánh
phá miền Bắc bằng không quân và hải
quân, để cắt viện trợ miền Nam, mở chiến
dịch ngoại giao để cô lập cách mạng miền
Nam dự kiến 2 năm sẽ đè bẹp cách mạng
miền Nam. Đây là một thử thách quyết liệt
có tính chất quyết định thắng bại với cả hai

bên tham chiến.
Trước tình hình đó, tháng 9-
1965, Bộ Chính trị họp và tháng 12-1965,
Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 12
bàn về cách mạng miền Nam đã nhận
định : so sánh lực lượng giữa ta và địch
không có gì thay đổi lớn, thế mạnh của
địch là vũ khí nhưng ta cũng có thế mạnh
là chính nghĩa và việc Mỹ đưa quân vào
Việt Nam là ở thế bị động chiến lược. Từ
đó Đảng đề ra phương châm chiến lược
của chiến tranh giải phóng miền Nam và
những hình thức, biện pháp cụ thể như : tư
tưởng chiến lược là “tiến công kiên quyết
tiến công và liên tục tiến công”, chủ
trương : đánh lâu dài dựa vào sức mình là
chính, đồng thời dựa vào mở tiến công để
giành thắng lợi trong thời gian ngắn;
phương pháp đấu tranh kết hợp giữa quân
sự, chính trị và ngoại giao, đánh địch bằng
3 mũi giáp công, 3 vùng chiến lược và 3
thứ quân, kết hợp các kiểu đánh lớn, vừa,
nhỏ, đánh du kích kết hợp với hiện đại,
thực hiện khởi nghĩa quần chúng, đấu
tranh cách mạng để giành thắng lợi từng
bước tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.
Dưới sự chỉ đạo của Đảng,
phong trào đấu tranh mở rông, trong đó nổi
bậc về đấu tranh chính trị có vụ sinh viên
Quách Thị Trang Nhất Chi Mai tự

thiêu.Tháng 5-1965, chiến thắng tại cǎn cứ
Núi Thành tập kích tiêu diệt gọn một đại
đội lính thủy đánh bộ Mỹ, 180 tên chết và
bị thương. Tiếp theo là chiến thắng Vạn
Tường, Plâyme, đánh bại hai cuộc phản
công chiến lược của Mỹ vào hai mùa khô
1965-1966 và 1966-1967. Với cuộc phản
công chiến lược mùa khô 1966-1967 thì sự
cố gắng cùng sự thất bại của Mỹ đã đến độ
cao, cho phép ta chuyển cuộc chiến tranh
cách mạng sang một thời kỳ mới. Quân và
dân ta ở miền Nam đã thực hiện bước
chuyển đó bằng cuộc tổng tiến công và nổi
dậy đồng loạt khắp nông thôn và thành thị
miền Nam vào đầu Xuân 1968. Đây là đòn
quyết định đánh bại "chiến tranh cục bộ"
của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ xuống thang
chiến tranh ngừng ném bom miền Bắc,
ngồi vào bàn đàm phán với ta và phá sản
chiến tranh cục bộ. Tuy vậy, trong chiến
dịch mùa Xuân 1968, do sai lầm chủ quan
nên ta cũng bị tổn thất nặng nề về lực
lượng.
4. Đánh bại chiến lược
“Việt Nam hóa chiến tranh”
Phải xuống thang chiến tranh,
nhưng đế quốc Mỹ lại thực hiện chiến lược
"Việt Nam hoá chiến tranh" hòng kéo dài
chiến tranh, duy trì chủ nghĩa thực dân mới
ở miền Nam. Mỹ tiếp tục đổ tiền của vào

cố xây dựng cho được ngụy quyền và ngụy
quân làm xương sống cho kế hoạch và ở
miền Nam một lúc ba loại chiến tranh:
giành dân, bóp nghẹt và huỷ diệt tàn khốc
hơn bất kỳ thời kỳ nào trước đó, đồng thời
thực hiện chiến lược quét và giữ, ổn định
khu vực đô thị, vì vậy từ 1969-1971 ta bị
đánh bật ra khỏi đồng bằng. Chúng tăng
cường đánh phá Trường Sơn, huy động
không quân Anh Pháp Đức bỏ bom phá
hoại miền Bắc lần 2 (tháng 4/1972); thực
hiện Đông Dương hóa chiến tranh đưa 10
vạn quân ngụy đánh Campuchia. Về ngoại
giao, Mỹ thực hiện chiến lược lôi kéo
Trung Quốc, hòa hoãn Liên Xô nhằm cắt
đứt viện trợ cho Việt Nam. Vì vậy, sau
năm 1972 Liên Xô và Trung Quốc cắt dần
viện trợ cho nước ta.
Tháng 1/1970, Trung ương
Đảng ta họp Hội nghị lần thứ 18, Hội nghị
đã phân tích sâu sắc tính chất thâm độc của
chiến lược "Việt Nam hoá" và những mâu
thuẫn không thể khắc phục được của nó.
Trên cơ sở đó, Hội nghị đề ra nhiệm vụ
cho cách mạng miền Nam là : trở về bám
đất, bám dân phá kế hoạch bình định, ra
sức xây dựng lực lượng quân sự và chính
trị, phát triển chiến tranh nhân dân và tăng
cường lực lượng 3 thứ quân, đẩy mạnh tiến
công quân sự, chính trị lấy nông thôn làm

hướng chính, lập hội đồng chi viện tiền
tuyến của Trung ương và tăng cường liên
minh 3 nước Đông Dương để phá Đông
Dương hóa chiến tranh, tăng cường ngoại
giao làm thất bại âm mưu "Việt Nam hoá
chiến tranh" của đế quốc Mỹ.
Quân và dân ta đã thực hiện
xuất sắc những nhiệm vụ trên và đã giành
những thắng lợi quyết định. Tận dụng sai
lầm của Mỹ mở rộng chiến tranh sang
Campuchia, tháng 4-1970, Hội nghị cấp
cao Đông Dương đã họp, hình thành mặt
trận thống nhất nhân dân Đông Dương
đoàn kết chống Mỹ. Mặt trận ngoại giao đã
chủ động và phối hợp chặt chẽ với đấu
tranh quân sự và chính trị, liên tục tiến
công đế quốc Mỹ tại Hội nghị Pari và
trước dư luận toàn thế giới. Mũi tiến công
quân sự đã giành thắng lợi rực rỡ, thực sự
làm đòn xeo cho mũi tiến công chính trị và
ngoại giao. Nǎm 1969-1971, ta phối hợp
với quân dân Lào và Campuchia giành
thắng lợi lớn ở XǎmThông - Loong Chẹng,
Cánh Đồng Chum trên chiến trường Lào
và giải phóng phần lớn đất đai cùng 4,5
triệu dân ở Campuchia, chiến thắng đường
số 9 - Nam Lào đã mở ra khả nǎng thực tế
làm thất bại chiến lược "Việt Nam hoá
chiến tranh" của Níchxơn. Ngày 30-3-
1972, ta mở cuộc tiến công chiến lược ở

miền Nam với quy mô lớn, cường độ
mạnh, với đủ các binh chủng tác chiến hợp
đồng và kéo dài suốt nǎm 1972. Bị thất bại
nặng, Mỹ đã "Mỹ hoá" trở lại cuộc chiến
tranh, thả mìn các cửa sông, cửa biển và
ném bom trở lại miền Bắc, đồng thời thực
hiện chính sách ngoại giao xảo quyệt hòng
ngǎn cản thắng lợi của ta. Mỹ lật lọng tại
Hội nghị Pari và tháng 12-1972, chúng mở
cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay
B.52 vào Hà Nội, Hải Phòng suốt 12 ngày
đêm. Nhưng cũng như ở miền Nam, cuộc
tập kích này của Mỹ đã thất bại nặng nề.
Thắng lợi to lớn của cuộc tiến công chiến
lược nǎm 1972 và chiến công xuất sắc của
quân và dân ta đập tan cuộc tập kích chiến
lược bằng máy bay B. 52 vào Hà Nội, Hải
Phòng, cuối cùng đã buộc đế quốc Mỹ
phải ký kết Hiệp định Pari về Việt Nam,
rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi
nước ta từ 27/1/1973 đến 29/3/1973 .
Phải ký Hiệp định Pari, rút
quân về nước nhưng đế quốc Mỹ vẫn
ngoan cố tiếp tục dùng ngụy quyền Sài
Gòn làm công cụ thực hiện chủ nghĩa thực
dân mới của chúng ở miền Nam. Sau Hiệp
định Pari, ở miền Nam chưa có ngừng bắn
hoàn toàn, chưa có hoà bình thật sự, Mỹ -
ngụy vẫn tiến hành bình định và lấn chiếm
khắp miền Nam. Tháng 7-1973, Trung

ương Đảng đã kịp thời họp Hội nghị lần
thứ 21, phân tích rõ tình hình trên, âm mưu
và hành động phá hoại Hiệp định Pari của
Mỹ - nguỵ. Hội nghị cũng chỉ ra điểm
mạnh, điểm yếu của địch. Hội nghị nhận
định thế và lực của cách mạng miền Nam
hiện mạnh hơn bất cứ thời kỳ nào kể từ
nǎm 1954 đến đó. Nhưng ta cũng còn
nhiều mặt cần nhanh chóng khắc phục,
nhất là đấu tranh quân sự, chính trị, binh
vận và xây dựng lực lượng phát triển chưa
đều từ sau Hiệp định Pari. Hội nghị khẳng
định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền
Nam lúc này là: tiếp tục thực hiện chiến
lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
đánh đổ ngụy quyền, làm thất bại hoàn
toàn chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ.
Phương pháp cách mạng bạo lực là nhất
quán cả quá trình cách mạng miền Nam đi
tới giành thắng lợi hoàn toàn.
Nghị quyết 21 của Trung
ương giúp các đảng bộ miền Nam kịp thời
nhận thức và khắc phục những thiếu sót,
lệch lạc từ sau Hiệp định Pari. Nhờ vậy,
tình hình chiến trường miền Nam có
những chuyển biến tích cực và nhanh
chóng. Đầu nǎm 1974, về cơ bản ta đã thu
hồi được các vùng giải phóng và vùng
tranh chấp bị địch lấn chiếm từ sau Hiệp
định Pari và giải phóng thêm được gần nửa

triệu dân. Từ giữa nǎm 1974, những điều
kiện cho việc giải phóng hoàn toàn miền
Nam đang chín muồi.
Tháng 10 - 1974, Bộ Chính
trị họp đề ra kế hoạch giải phóng miền
Nam trong 2 nǎm (1975-1976). Sau đó Bộ
Chính trị làm việc với các đồng chí lãnh
đạo và chỉ huy các chiến trường miền
Nam. Tháng 1-1975, Bộ Chính trị nhận
định: "Chưa bao giờ ta có điều kiện đầy đủ
về quân sự, chính trị như hiện nay, có thời
cơ chiến lược to lớn, thuận lợi như hiện
nay để hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới hoà
bình thống nhất Tổ quốc".
Bộ Chính trị và Quân uỷ
Trung ương quyết định lấy chiến trường
Tây Nguyên và Buôn Ma Thuột làm chiến
trường và điểm mở đầu cho kế hoạch giải
phóng hoàn toàn miền Nam. Bộ Chính trị
theo dõi chặt chẽ và chỉ đạo kịp thời các
bước tiến quân giành thắng lợi ở các chiến
trường miền Nam.
Chiến dịch giải phóng Tây
Nguyên (từ ngày 10 đến 20-3-1975) đã
điểm trúng huyệt vào Buôn Ma Thuột, làm
rung chuyển hệ thống bố trí chiến lược của
quân ngụy Sài Gòn, ngụy quyền hốt hoảng
cho rút quân chiến lược khỏi Tây Nguyên,
làm rối loạn quân ngụy. Ta giải phóng

hoàn toàn Tây Nguyên.
Chiến dịch giải phóng Huế -
Đà Nẵng (từ ngày 21 đến 29-3-1975) đã
phá tan âm mưu co cụm về giữ đồng bằng
ven biển miền Trung của địch, đẩy địch
lún sâu hơn nữa vào thế suy sụp, tan vỡ
không sao cứu vãn nổi, làm xuất hiện thời
cơ tổng tiến công và nổi dậy vào sào huyệt
cuối cùng của địch: Chiến dịch giải phóng
Sài Gòn và Nam Bộ - Chiến dịch Hồ Chí
Minh (từ ngày 26 đến 30-4-1975). 17 giờ
ngày 26-4-1975, nǎm quân đoàn của ta mở
cuộc tổng tiến công vào Sài Gòn - Gia
Định, 11 giờ ngày 30-4-1975, quân ta
chiếm dinh tổng thống ngy, buộc ngụy
quyền Sài Gòn đầu hàng vô điều kiện. Sự
nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam
của nhân dân ta toàn thắng.
Tóm lại, qua kết quả thắng
lợi của cách mạng Miền Nam cho thấy bên
cạnh lòng dũng cảm, sự bền bỉ của ý chí
thì nguyên nhân quan trọng nhất đưa đến
chiến thắng là do Đảng ta đã đề ra và vận
dụng một cách linh hoạt nghệ thuật biết
thắng từng bước. Với kẻ thù mạnh hơn ta
rất nhiều về tiềm năng kinh tế, quân sự,
Đảng ta đã áp dụng chủ trương, sách lược
đúng đắn ở từng thời kỳ để kiềm chế đế
quốc Mỹ, giành thắng lợi từng bước để đi
đến thắng lợi hoàn toàn. Nổi bật trong

đường lối, chủ trương, sách lược đó là :biết
sáng tạo ra nhiều cách đánh, cách thắng Đế
quốc Mỹ, biết tổ chức và chỉ đạo phối hợp
chặt chẽ cách mạng hai miền Nam - Bắc
trên nhiều mặt từ chiến lược, sách lược,
biết đoàn kết và tranh thủ sự giúp đỡ quốc
tế cao nhất. Với những phân tích trên,
chúng ta có thể tin tưởng và khẳng định
rằng vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng trong
cách mạng Miền Nam là nhân tố quyết
định cho thắng lợi của cách mạng Miền
Nam nói chung và cũng như trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc ngày nay
nói riêng.
Vấn đề 4 : Các nghị quyết Đại
hội Đảng Toàn quốc và hội nghị BCHTW
các nhiệm kỳ từ Đại hội VI đến Đại hội X về
các vấn đề kinh tế thị trường định hướng
XHCN
Đảng cộng sản Việt Nam
ra đời đầu năm 1930 là kết quả tất yếu của
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp ở Việt Nam , là sản phẩm của sự kết
hợp giữa lý luận cách mạng với phong trài
công nhân và phong trào yêu nước sôi sục ở
Việt Nam những năm đầu thế kỷ 20. Dưới sự
lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, cách
mạng Việt Nam đã thu được những thắng lợi
lịch sử vẽ vang, đó là đất nước Việt Nam hoàn
toàn độc lập, thống nhất bằng đại thắng mùa

xuân năm 1975, đưa đất nước bước vào thời
kỳ quá độ lênCNXH. Đại hội VI (1986) của
Đảng các vấn đề CNH-HDH, kinh tế thị
trường định hướng XHCN, rút ra các bài học
kinh nghiệm lớn cho công cuộc đổi mới.
+Thuận lợi: Việt Nam
hoàn toàn độc lập, thống nhất đi vào hoà bình,
xây dựng, khí thế cách mạng của 1 dân tộc
vừa chiến thắng, thiết tha với độc lập và
CNXH; hệ thống chính trị vững mạnh dưới sự
lãnh đạo của Đảng; có những thành tựu đáng
kể trong xây dựng CNXH ở Miền Bắc.
+ Khó khăn: chúng ta đi
lên CNXH từ 1 nước thuộc địa nữa phong
kiến, nền kinh tế của cả nước chủ yếu là sản
xuất nhỏ, lạc hậu; hậu quả chiến tranh để lại
nặng nề phải khắc phục; âm mưu của các thế
lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam
còn tiếp tục diễn ra.
- Xác định cách mạng Việt
Nam có 2 nhiệm vụ chiến lược là xây dựng
CNXH và BVTQ Việt Nam XHCN xây dựng
CNXH là nhiệm vụ trọng tâm, bảo vệ tổ quốc
là quan trọng.
- Xác định nước ta đang ở
chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên
CNXH. Mọi chủ trương, chính sách kể cả
công nghiệp hoá cũng phải được hoạch định
cho phù hợp với yêu cầu và điều kiện của
chặng đường đầu tiên.

- Điều chỉnh nội dung,
bước đi của công nghiệp hoá: đề cao vị trí
nông nghiệp, coi công nghiệp là mặt trận
hàng, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, tiếp
tục xây dựng 1 số ngành công nghiệp nặng
quan trọng.
Quan điểm của Đảng ta về
kinh tế thị trường dịnh hướng XHCN từ
Đại hội VI đến nay.
Kinh tế thị trường là mô hình
kinh tế mà ở đó các quan hệ kinh tế đều được
thực hiện trên thị trường, thông qua quá trình
trao đổi, mua bán. Nói cách khác kinh tế thị
trường là nền kinh tế dựa vào thị trường để
vận động và phát triển. Việc sản xuất ra những
hàng hóa gì, sản xuất như thế nào, sán xuất
cho ai, sản xuất bao nhiêu, cần có những dịch
vụ nào đều xuất phát từ nhu cầu thị trường.
Quan hệ kinh tế-hàng hóa phát triển, mở rộng
và phổ biến trong mọi hoạt động sản xuất kinh
doanh. Thái độ cư xử của từng thành viên
tham gia thị trường là hướng vào tìm kiếm lợi
ích cho chính mình theo sự dẫn dắt của giá cả
thị trường.
Trong kinh tế thị trường, các
quy luật cơ bản của thị trường phát huy tác
dụng trong các lĩnh vực sản xuất xã hội. Quan
hệ hàng hóa tiền tệ phát triển ở một trình độ
cao sẽ đạt đến kinh tế thị trường. Kinh tế thị
trường là giai đọan phát triển cao của kinh tế

hàng hóa, dựa trên sự phát triển của LLSX ở
một trình độ nhất định.
Trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam, sự tồn tại của sản xuất
hàng hóa là tất yếu khách quan. Thị trường
gắn liền với quá trình sản xuất và lưu thông
hàng hóa, vì vậy thừa nhận sản xuất hàng hóa
không thể phủ định sự tồn tại khách quan của
thị trường. Chủ trương phát triển nền kinh tế
hàng hóa theo cơ chế thị trường đã được
khẳng định tại Đại hội VI của Đảng “phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước.”
Phát triển quan điểm kinh tế
của Đại hội VI, Hội nghị TW6 Ban Chấp hành
Trung ương khóa VI đã khẳng định phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là một
chủ trương chiến lược lâu dài trong thời kỳ
quá độ lên CNXH. Chính sách ấy đã khơi dậy
được nhiều tiềm năng và sức sáng tạo của
nhân dân để phát triển kinh tế dịch vụ, tạo
thêm việc làm và sản phẩm cho xã hội; thúc
đẩy sự hình thành và phát triển nền kinh tế
hàng hóa, tạo sự cạnh tranh sống động trên thị
trường (169).
Quan điểm này tiếp tục được
Đại hội VII của Đảng xác định: “Cơ chế vận
hành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
theo định hướng XHCN là cơ chế thị trường

có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế
hoạch, chính sách và các công cụ khác. Trong
cơ chế đó, các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ
sản xuất kinh doanh, quan hệ bình đẳng, cạnh
tranh hợp pháp, hợp tác và liên doanh tự
nguyện; thị trường có vai trò trực tiếp hướng
dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt
động và phương án tổ chức sản xuất kinh
doanh có hiệu quả; Nhà nước quản lý nền kinh
tế nhằm định hướng, dẫn dắt các thành phần
kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi
cho hoạt động sản xuất, kinh doanh theo cơ
chế thị trường, kiểm soát chặt chẽ và xử lý các
vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh tế, bảo
đảm sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát
triển xã hội”. (199-200).
Đánh giá tình hình thực hiện
Nghị quyết Đại hội VII, trong văn kiện Đại
hội VIII, Đảng ta đánh giá: Cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần đang hình thành. Cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng XHCN đang trở thành cơ chế vận hành
của nền kinh tế. Việc bổ sung pháp luật, việc
tiếp tục đổi mới cơ chế và chính sách về kế
hoạch hóa, về tỷ giá, tài chính, ngân hàng, lao
động, tiền công, đất đai… đã tạo môi trường
thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp phát huy
tính năng động, tự chủ, tự chịu trách nhiệm
trong sản xuất kinh doanh… (283-284). Tuy
nhiên, cơ chế thị trường đang ở giai đoạn sơ

khai, mang nhiều yếu tố tự phát. Hiệu lực
quản lý nhà nước còn thấp, vừa chưa phát huy
đầy đủ sức mạnh của cơ chế thị trường, vừa
chưa hạn chế được nhiều mặt của cơ chế đó.
Hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh, thi hành
chưa nghiêm. Công tác kế hoạch hóa, hoạt
động của hệ thống tài chính, ngân hàng còn
nhiều yếu kém và tiêu cực. Chế độ phân phối
còn nhiều bất hợp lý, thực hiện tùy tiện và
không thống nhất; nguyên tắc phân phối theo
lao động chưa được tôn trọng(289).
Xuất phát từ tình hình nêu trên,
văn kiện Đại hội VIII, Đảng ta tiếp tục khẳng
định quan điểm: “Thực hiện nhất quán chính
sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, tạo
động lực và môi trường thuận lợi hơn nữa cho
các thành phần kinh tế, các loại hình doanh
nghiệp phát triển nhanh và có hiệu quả cao”
Xây dựng đồng bộ cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng
XHCN”.
Đánh giá kết quả 5 năm thực
hiện Nghị quyết Đại hội VIII và những bài học
chủ yếu của 15 năm đổi mới, Đại hội IX của
Đảng ta xác định con đường đi lên CNXH ở
nước ta và tiếp tục khẳng định quan điểm:
“Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện
nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà

nước theo định hướng XHCN, đó là nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN”.
Đây là lần đầu tiên khái niệm
về "nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa" được chính thức nêu trong văn kiện
Đại hội IX của Đảng. Vậy đặc trưng của nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN là gì?
Mục đích của nền KTTT định
hướng XHCN là phát triển lực lượng sản xuất,
phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất-
kỹ thuật của CNXH, nâng cao đời sống nhân
dân. Phát triển LLSX hiện đại gắn liền với xây
dựng QHSX mới phù hợp trên cả ba mặt sở
hữu, quản lý và tổ chức.
KTTT định hướng XHCN có
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Chế độ sở hữu công cộng (công
hữu) về TLSX chủ yếu từng bước được xác
lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi CNXH
được xây dựng xong về cơ bản. Xây dựng chế
độ đó là một quá trình phát triển kinh tế-xã hội
lâu dài qua nhiều bước, nhiều hình thức từ
thấp đến cao. Phải từ thực tiễn tìm tòi, thử
nghiệm để xây dựng chế độ sở hữu công cộng
nói riêng và QHSX mới nói chung với bước đi
vững chắc. Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá
hiệu quả xây dựng QHSX theo định hướng

XHCN là thúc đẩy phát triển LLSX, cải thiện
đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã
hội.
KTTT định hướng XHCN có
sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước ta là Nhà
nước XHCN, quản lý nền kinh tế bằng pháp
luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính
sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các
hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của
nền KTTT để kích thích sản xuất, giải phóng
sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế
và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị
trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động,
của toàn thể nhân dân.
Kinh tế thị trường định hướng
XHCN thực hiện phân phối chủ yếu theo kết
quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời
phân phối theo mức đóng góp vốn và các
nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và
thông qua phúc lợi xã hội.
Chủ trương xây dựng và phát
triển kinh tế thị trường định hướng XHCN thể
hiện tư duy, quan niệm của Đảng ta về sự phù
hợp giữa QHSX với tính chất và trình độ của
LLSX. Đó là mô hình kinh tế tổng quát của
nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH
(463-464).
Từ các hình thức sở hữu cơ
bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu
tư nhân hình thành nhiều thành phần kinh tế

với những hình thức tổ chức kinh doanh đa
dạng, đan xen, hỗn hợp. Văn kiện Đại hội IX
xác định có các thành phần kinh tế gồm: kinh
tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu
chủ; kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà
nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Kiểm điểm 5 năm thực hiện
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng và nhìn lại 20
năm đổi mới, trong văn kiện Đại hội X, Đảng
ta đánh giá: Các thành phần kinh tế đều phát
triển. Thể chế KTTT định hướng XHCN bước
đầu được xây dựng. Thị trường hàng hóa phát
triển tương đối nhanh; một số loại thị trường
mới đã hình thành. Tuy nhiên, việc hoạch định
và thực hiện các chủ trương, chính sách thúc
đẩy phát triển và vận hành hệ thống thị trường
chưa đồng bộ; một số nguyên tắc của thị
trường bị vi phạm; tư duy bao cấp chưa được
khắc phục triệt để (620-623).
Nhìn lại 20 năm đổi mới, với
sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt
những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Văn kiện Đại hội X, Đảng ta tiếp tục khẳng
định quan điểm: “Để đi lên CNXH, chúng ta
phải phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN”. Để phát triển KTTT định
hướng XHCN chúng ta phải tiếp tục hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Nội dung hoàn thiện thể chế kinh tế

thị trường định hướng XHCN bao gồm:
- Nắm vững định hướng XHCN
trong nền KTTT ở nước ta là:
Thực hiện mục tiêu “dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”.
Phát triển nền kinh tế nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo
cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Thực hiện chế độ phân phối
chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh
tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các
nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội.
- Nâng cao vai trò và hiệu lực
quản lý của Nhà nước. Nhà nước tập trung
làm tốt các chức năng: định hướng sự phát
triển; tạo môi trường pháp lý và cơ chế, chính
sách thuận lợi; hỗ trợ phát triển, xây dựng hệ
thống kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, hệ thống
an sinh xã hội…
- Phát triển đồng bộ và quản lý
có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ
bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh, bao
gồm: thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị
trường tài chính, thị trường bất động sản; thị
trường sức lao động, thị trường khoa học và
công nghệ.
- Phát triển mạnh các thành

phần kinh tế, các loại hình sản xuất kinh
doanh: Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân,
tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức
sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế
nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân, kinh
tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài. Quan điểm này có sự khác biệt lớn so
với quan điểm Đại hội IX, thể hiện ở chỗ: gắn
chặt việc phát triển các thành phần kinh tế với
các hình thức kinh tế trung gian quá độ; không
coi kinh tế tư bản tư nhân là một thành phần
kinh tế riêng mà gộp chung vào thành phần
kinh tế tư nhân cùng với kinh tế cá thể, tiểu
chủ; có sự nhấn mạnh vai trò loại hình doanh
nghiệp cổ phần và HTX kiểu mới, liên hiệp
HTX cổ phần.
Hội nghị TW6 khóa X của
Đảng, đánh giá: Sau hơn 20 năm đổi mới,
nước ta đã chuyển đổi thành công từ thể chế
kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao
cấp sang thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Đường lối đổi mới của Đảng
đã được thể chế hoá thành Hiến pháp, pháp
luật, tạo hành lang pháp lý cho nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa hình
thành và phát triển. Chế độ sở hữu và cơ cấu
các thành phần kinh tế được đổi mới cơ bản từ
sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, kinh tế quốc
doanh và kinh tế tập thể là chủ yếu sang nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế

đan xen hỗn hợp, trong đó kinh tế nhà nước
đóng vai trò chủ đạo, tạo động lực và điều
kiện thuận lợi cho khai thác tiềm năng trong
và ngoài nước vào phát triển kinh tế-xã hội.
Các loại thị trường cơ bản đã ra đời và từng
bước phát triển thống nhất trong cả nước, gắn
với thị trường khu vực và thế giới. Cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước đã đi vào
cuộc sống, doanh nghiệp và doanh nhân được
tự chủ kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh để
phát triển. Quản lý nhà nước về kinh tế được
đổi mới từ can thiệp trực tiếp bằng mệnh lệnh
hành chính vào hoạt động sản xuất kinh doanh
chuyển sang quản lý bằng luật pháp, chính
sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế-xã hội và các công cụ điều tiết vĩ
mô khác. Việc gắn phát triển kinh tế với giải
quyết các vấn đề xã hội, xoá đói, giảm nghèo
đạt nhiều kết quả tích cực.
Tuy nhiên, quá trình xây dựng thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa còn chậm, chưa theo kịp yêu cầu của
công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế
của đất nước. Hệ thống luật pháp, cơ chế,
chính sách chưa đầy đủ, đồng bộ và thống
nhất. Việc xử lý các vấn đề liên quan đến đất
đai còn nhiều vướng mắc. Vấn đề sở hữu,
quản lý và phân phối trong các doanh nghiệp
nhà nước chưa giải quyết tốt, gây khó khăn
cho sự phát triển và làm thất thoát tài sản nhà

nước, nhất là khi tiến hành cổ phần hoá.
Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
khác còn bị phân biệt đối xử. Các yếu tố thị
trường và các loại thị trường hình thành, phát
triển chậm, thiếu đồng bộ, vận hành chưa
thông suốt. Tình trạng cạnh tranh không lành
mạnh, gian lận thương mại, trốn, lậu thuế còn
nhiều, chậm được khắc phục. Phân bổ nguồn
lực quốc gia chưa hợp lý. Chính sách tiền
lương còn mang tính bình quân, chưa bảo đảm
đời sống của người hưởng lương, chưa khuyến
khích, thu hút và sử dụng được người tài. Hệ
thống thuế chưa thực hiện tốt chức năng điều
tiết và bảo đảm công bằng xã hội, thúc đẩy
đầu tư, đổi mới công nghệ, nuôi dưỡng và phát
triển nguồn thu. Cơ cấu tổ chức, cơ chế vận
hành của bộ máy nhà nước còn nhiều bất cập,
hiệu lực, hiệu quả quản lý còn thấp. Cải cách
hành chính chưa đạt được mục tiêu, yêu cầu
đề ra. Tệ tham nhũng, quan liêu, lãng phí vẫn
nghiêm trọng. Cơ chế, chính sách phát triển
các lĩnh vực văn hoá, xã hội đổi mới chậm,
chất lượng dịch vụ y tế, giáo dục-đào tạo còn
thấp. Khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng
lớp dân cư, giữa các vùng ngày càng lớn. Hệ
thống an sinh xã hội còn sơ khai. Tỉ lệ người
tham gia bảo hiểm xã hội thấp. Nhiều vấn đề
bất cập, bức xúc trong xã hội và bảo vệ môi
trường chưa được giải quyết tốt.
Những hạn chế trên có nguyên

nhân do việc xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là hoàn
toàn mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Nhận
thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều hạn chế.
Công tác lý luận chưa theo kịp đòi hỏi của
thực tiễn. Nền kinh tế vẫn trong tình trạng
kém phát triển; sự chênh lệch phát triển giữa
các vùng, miền, các thành phần kinh tế và các
tầng lớp dân cư còn cao. Năng lực thể chế hoá
và quản lý, tổ chức thực hiện của Nhà nước
còn hạn chế, nhất là trong việc giải quyết các
vấn đề kinh tế-xã hội bức xúc. Vai trò tham
gia hoạch định chính sách, thực hiện và giám
sát thực hiện chính sách của các cơ quan dân
cử, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần
chúng, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp còn
yếu.
Trên cơ sở đánh giá những kết quả
đạt được cũng như nhìn nhận những hạn chế
yếu kém, Hội nghị TW6 khóa X của Đảng ta
đã nêu quan điểm về tiếp tục hoàn thiện thể
chế KKTT định hướng XHCN. Nội dung
những quan điểm đó là:
- Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và
vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan
của kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế, phù
hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam,
bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền

kinh tế.
- Bảo đảm tính đồng bộ giữa các
bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế; giữa
các yếu tố thị trường và các loại thị trường;
giữa thể chế kinh tế với thể chế chính trị, xã
hội; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Gắn
kết hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với tiến
bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá và
bảo vệ môi trường.
- Chủ động, tích cực với quyết tâm
chính trị cao, tập trung giải quyết các vấn đề
lý luận và thực tiễn quan trọng, bức xúc, đồng
thời phải có bước đi vững chắc, vừa làm vừa
tổng kết, rút kinh nghiệm.
- Kế thừa có chọn lọc thành tựu
phát triển kinh tế thị trường của nhân loại và
kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở
nước ta; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế, đồng thời bảo đảm giữ vững độc lập,
chủ quyền quốc gia, giữ vững an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội.
- Nâng cao năng lực lãnh đạo của
Đảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà
nước, phát huy sức mạnh của cả hệ thống
chính trị trong quá trình hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Văn kiện ĐH XI (trang 35, 73)
Tóm lại : Những thành tựu trên
có ý nghĩa rất quan trọng là cơ sở phấn đấu để

sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát
triển ,với nền Kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta là hoàn toàn mới,
chưa có tiền lệ trong lịch sử. Phát triển kinh tế
thị trường định hướng XHCN ở nước ta là một
quá trình nhận thức và vận dụng các quy luật
khách quan của kinh tế thị trường, đồng thời
kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển kinh
tế thị trường của nhân loại và kinh nghiệm
tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở nước ta. Để
tiếp tục hoàn thiện thể chế KTTT định hướng
XHCN, chúng ta phải quán triệt nội dung quan
điểm Nghị quyết Hội nghị TW6 khóa X về
tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với
những nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị
trường nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển
nhanh, hiệu quả, bền vững và cơ bản đưa nước
ta trở thành nước CN theo hướng hiện đại vào
năm 2020 góp phần thực hiện thắng lợi mục
tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ ,
công bằng, văn minh", xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
./.
Vấn đề 5 : Các nghị
quyết Đại hội Đảng Toàn quốc và hội
nghị BCHTW các nhiệm kỳ từ Đại
hội VI đến Đại hội X về các vấn đề :
CNH- HĐH
Đảng cộng sản Việt

Nam ra đời đầu năm 1930 là kết quả tất
yếu của cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp ở Việt Nam , là
sản phẩm của sự kết hợp giữa lý luận
cách mạng với phong trài công nhân và
phong trào yêu nước sôi sục ở Việt
Nam những năm đầu thế kỷ 20. Dưới sự
lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng,
cách mạng Việt Nam đã thu được
những thắng lợi lịch sử vẽ vang, đó là
đất nước Việt Nam hoàn toàn độc lập,
thống nhất bằng đại thắng mùa xuân
năm 1975, đưa đất nước bước vào thời
kỳ quá độ lênCNXH. Đại hội VI (1986)
của Đảng các vấn đề CNH-HDH, kinh
tế thị trường định hướng XHCN, rút ra
các bài học kinh nghiệm lớn cho công
cuộc đổi mới.
+Thuận lợi: Việt Nam
hoàn toàn độc lập, thống nhất đi vào
hoà bình, xây dựng, khí thế cách mạng
của 1 dân tộc vừa chiến thắng, thiết tha
với độc lập và CNXH; hệ thống chính
trị vững mạnh dưới sự lãnh đạo của
Đảng; có những thành tựu đáng kể
trong xây dựng CNXH ở Miền Bắc.
+ Khó khăn: chúng ta
đi lên CNXH từ 1 nước thuộc địa nữa
phong kiến, nền kinh tế của cả nước
chủ yếu là sản xuất nhỏ, lạc hậu; hậu

quả chiến tranh để lại nặng nề phải khắc
phục; âm mưu của các thế lực thù địch
chống phá cách mạng Việt Nam còn
tiếp tục diễn ra.
- Xác định cách mạng
Việt Nam có 2 nhiệm vụ chiến lược là
xây dựng CNXH và BVTQ Việt Nam
XHCN xây dựng CNXH là nhiệm vụ
trọng tâm, bảo vệ tổ quốc là quan trọng.
- Xác định nước ta
đang ở chặng đường đầu tiên của thời
kỳ quá độ lên CNXH. Mọi chủ trương,
chính sách kể cả công nghiệp hoá cũng
phải được hoạch định cho phù hợp với
yêu cầu và điều kiện của chặng đường
đầu tiên.
- Điều chỉnh nội dung,
bước đi của công nghiệp hoá: đề cao vị
trí nông nghiệp, coi công nghiệp là mặt
trận hàng, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu
dùng, tiếp tục xây dựng 1 số ngành
công nghiệp nặng quan trọng.
Quan điểm của Đảng ta
về công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ
Đại hội VI đến nay
Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa (CNH, HĐH) là quá trình chuyển
đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản
xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh
tế-xã hội từ sử dụng sức lao động thủ

công là chính, sang sử dụng một cách
phổ biến sức lao động với công nghệ,
phương tiện và phương pháp tiên tiến,
hiện đại dựa trên sự phát triển của công
nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ tạo
năng suất lao động xã hội cao.
Vai trò của CNH, HĐH
trong việc đưa đất nước quá độ lên
CNXH:
CNH, HĐH là giai đoạn
phát triển đưa đất nước ra khỏi tình trạng
lạc hậu và tùng bước rút ngắn khoảng
cách về sự phát triển kinh tế của nước ta
so với các nước trong khu vực và thế
giới.
CNH, HĐH sẽ tạo lập cơ sở
vật chất kỹ thuật hiện đại và cơ cấu kinh
tế hợp lý, thay thế lao động thủ công
bằng lao động sử dụng máy móc, kỹ
thuật và công nghệ tiên tiến trong tất cả
các ngành của nền kinh tế quốc dân.
CNH, HĐH tạo cơ sở nền
tảng về mọi mặt cho việc xác lập, củng
cố, hoàn thiện QHSX mới.
CNH, HĐH đóng vai trò to
lớn trong việc củng cố và tăng cường hệ
thống chính trị quốc gia.
CNH, HĐH góp phần tăng
cường tiềm lực QP-AN của đất nước,
bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc.

Quan niệm CNH, HĐH
trước đổi mới :
Nước ta chưa qua cuộc cách
mạng công nghiệp và từ nền nông nghiệp
lạc hậu, kém phát triển quá độ lên CNXH
tất yếu phải tiến hành CNH, HĐH mới
có nền kinh tế thị trường phát triển, có xã
hội văn minh và nền văn hóa, khoa học
có trình độ cao. Từ Đại hội III, Đảng ta
đã vạch ra phương hướng nhiệm vụ thực
hiện một bước CNH xã hội chủ nghĩa …
Sau khi đất nước hoàn toàn
độc lập và thống nhất, Đại hội IV (tháng
12/1976) của Đảng đã xác định đường lối
chung của cách mạng XHCN: “… đẩy
mạnh CNH xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ
trọng tâm của cả thời kỳ quá độ lên
CNXH …”. Do chưa nhận thức đầy đủ
rằng thời kỳ quá độ lên CNXH là một
quá trình tương đối dài, phải trải qua
nhiều chặng đường, và do tư tưởng chủ
quan, nóng vội, muốn bỏ qua những
bước đi cần thiết, Đại hội IV chưa xác
định những mục tiêu của chặng đường
đầu tiên. Trong 5 năm 1976-1980, trên
thực tế, chúng ta đã chủ trương đẩy mạnh
công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ
các tiền đề cần thiết, mặt khác, chậm đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế đã lỗi thời.
Trong 5 năm qua, đã đề ra những chỉ tiêu

kế hoạch quá cao về xây dựng cơ bản và
phát phát triển sản xuất, không coi trọng
đúng mức việc khôi phục và sắp xếp lại
nền kinh tế, thiên về xây dựng công
nghiệp nặng và những công trình quy mô
lớn, không tập trung sức giải quyết về
căn bản vấn đề lương thực, thực phẩm,
phát triển sản xuất hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu. Kết quả là đầu tư nhiều,
nhưng hiệu quả rất thấp.
Trên cơ sở xác định lại
bước đi của công nghiệp hóa, Đại hội lần
thứ V chủ trương trong 5 năm 1980-1985
phải vừa phát triển, vừa sắp xếp lại sản
xuất, bố trí lại xây dựng cơ bản để nâng
cao hiệu quả đầu tư, nhẳm ổn định tình
hình kinh tế-xã hội, ổn định đời sống
nhân dân, tạo tiền đề đẩy mạnh công
nghiệp hóa.
Nhưng chúng ta đã không
thực hiệm nghiêm chỉnh Nghị quyết của
Đại hội lần V. Nông nghiệp chưa thật sự
được coi là mặt trận hàng đầu, không
được bảo đảm những điều kiện cần thiết
để phát triển, nhất là vật tư, tiền vốn và
các chính sách khuyến khích. Công
nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, kể cả
tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, vẫn bị
coi nhẹ về tổ chức, đầu tư, chính sách.
Công nghiệp nặng không phục vụ kịp

thời nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
Một khuyết điểm lớn là đã hầu như
không sắp xếp lại các cơ sở sản xuất để
khắc phục sự chồng chéo, bất hợp lý…
Mặt khác trong xây dựng cơ bản, tuy đã
đình, hoãn một số công trình tương đối
lớn, tập trung cho các công trình trọng
điểm, nhưng về căn bản vẫn chưa điều
chỉnh hợp lý, không kiên quyết đình,
hoãn những công trình chưa thật sự cấp
bách và kém hiệu quả, còn ham xây dựng
nhiều công trình quy mô lớn …
Từ thực tiễn cách mạng
những năm qua, Đại hội VI của Đảng rút
ra những bài học kinh nghiệm quý báu và
tiếp tục khẳng định: “Trong những năm
còn lại của chặng đường đầu tiên, trước
mắt là trong kế hoạch 5 năm 1986-1990,
phải thực sự tập trung sức người, sức của
vào việc thực hiện cho được ba chương
trình mục tiêu kinh tế lớn về lương thực-
thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu … Các chương trình mục tiêu trên
cụ thể hóa nội dung chính của CNH xã
hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu
tiên đã được Đại hội lần thứ V của Đảng
xác định”.
Yêu cầu cấp bách về lương
thực, thực phẩm, về nguyên liệu sản xuất
hàng tiêu dùng, về hàng xuất khẩu quyết

định vị trí hàng đầu của nông nghiệp.
Công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp
đáp ứng cho được nhu cầu của nhân dân
về những loại hàng thông thường, bảo
đảm yêu cầu chế biến nông, lâm, thủy
sản, tăng nhanh việc làm hàng gia công
xuất khẩu và các mặt hàng xuất khẩu
khác…Việc phát triển công nghiệp nặng
và xây dựng kết cấu hạ tầng phải nhằm
phục vụ các mục tiêu kinh tế, quốc
phòng trong chặng đường đầu tiên, và
theo khả năng thực tế, chuẩn bị tiền đề
cho sự phát triển kinh tế trong chặng
đường tiếp theo…
Khoa học, kỹ thuật thật sự
trở thành một động lực to lớn thúc đẩy
nhanh quá trình phát triển kinh tế-xã hội
của đất nước.
Quan điểm về công nghiệp
hóa được Đại hội VII của Đảng tiếp tục
khẳng định: “… Phải phát huy sức mạnh
của các thành phần kinh tế; đẩy mạnh ba
chương trình kinh tế với những nội dung
cao hơn trước và từng bước xây dựng cơ
cấu kinh tế mới theo yêu cầu CNH; đẩy
nhanh nhịp độ ứng dụng tiến bộ khoa
học, kỹ thuật; hình thành về cơ bản và
vận hành tương đối thông suốt cơ chế
quản lý mới”.
Hội nghị TW7 khóa VII

(tháng 7/1994) của Đảng, trên cơ sở kế
thừa có chọn lọc và phát triển những tri
thức của văn minh nhân loại về công
nghiệp hóa trong điều kiện cụ thể của
nước ta trong thời kỳ mới đã khẳng định:
“Công nghiệp hóa nước ta hiện nay tất
yếu phải gắn liền với hiện đại hóa và dưa
ra chủ trương đưa đất nước chuyển sang
thời kỳ mới. Thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH”.
Sau khi cân nhắc, đánh giá
khách quan những thành tựu nổi bật cũng
như những hạn chế, Đại hội VIII nhận
định: Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường
đầu của thời kỳ quá độ về cơ bản đã hoàn
thành, cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước. Văn kiện
Đại hội VIII khẳng định: “… cần tiếp tục
nắm vững hai nhiệm vụ xây dựng CNXH
và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh CNH,
HĐH. Mục tiêu của CNH, HĐH là xây
dựng nước ta thành một nước công
nghiệp có cơ sở vật chất-kỹ thuật hiện
đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, QHSX tiến bộ,
phù hợp với trình độ phát triển của
LLSX, đời sống vật chất và tinh thần
cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn
minh. Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn
đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một

nước công nghiệp”.
Nội dung cơ bản của CNH,
HĐH trong những năm còn lại của thập
kỷ 90 là:
- CNH, HĐH nông nghiệp
và nông thôn.
- Phát triển công nghiệp, ưu
tiên các ngành chế biến lương thực-thực
phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất
khẩu, công nghiệp điện tử và công nghệ
thông tin. Phát triển chọn lọc một số cơ
sở công nghiệp nặng …
- Xây dựng kết cấu hạ tầng:
giao thông, thông tin liên lạc, điện, tăng
đầu tư cho kết cấu hạ tầng xã hội.
- Phát triển nhanh du lịch,
các dịch vụ.
- Phát triển hợp lý các vùng
lãnh thổ.
- Mở rộng và nâng cao hiệu
quả kinh tế đối ngoại.
Đại hội IX, Đảng ta đánh
giá: 15 năm đổi mới (1986-2000) đã cho
ta nhiều kinh nghiệm quý báu. Những bài
học đổi mới do các Đại hội VI, VII, VIII
của Đảng nêu lên đến nay vẫn còn có giá
trị lớn. Trong đường lối và chiến lược
phát triển kinh tế-xã hội, văn kiện Đại
hội IX tiếp tục khẳng định: “Phát triển
kinh tế, CNH, HĐH là nhiệm vụ trung

tâm”.
Con đường CNH, HĐH của
nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian,
vừa có những bước tuần tự, vừa có bước
nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất
nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình
độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công
nghệ thông tin và công nghệ sinh học,
tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn,
ở mức cao hơn và phổ biến hơn những
thành tựu mới về khoa học và công nghệ,
từng bức phát triển kinh tế trí thức. Phát
huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh của
tinh thần của người Việt Nam; coi phát
triển giáo dục và đào tạo khoa học và
công nghệ là nền tảng và động lực của sự
nghiệp CNH, HĐH.
- Phát triển nhanh, có hiệu
quả và bền vững, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng
CNH, HĐH.
- Tăng cường sự chỉ đạo và
huy động các nguồn lực cần thiết để đẩy
nhanh CNH, HĐH nông nghiệp và nông
thôn.
- Công nghiệp vừa phát
triển các ngành sử dụng nhiều lao động,
vừa đi nhanh vào một số ngành, lĩnh vực
có công nghệ hiện đại, công nghệ cao.
- Phát triển mạnh và nâng

cao chất lượng các ngành dịch vụ.
- Xây dựng đồng bộ và từng
bước hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ
tầng.
- Phát triển mạng lưới đô thị
phân bố hợp lý trên các vùng.
- Phát huy vai trò của các
vùng kinh tế trọng điểm có mức tăng
trưởng cao, tích lũy lớn; đồng thời tạo
điều kiện phát triển các vùng khác trên
cơ sở phát huy thế mạnh của từng vùng,
liên kết với vùng trọng điểm tạo mức
tăng trưởng khá.
- Phát triển mạnh và phát
huy vai trò chiến lược của kinh tế biển
kết hợp với bảo vệ vùng biển.
- Sử dụng hợp lý và tiết
kiệm tài nguyên, bảo vệ và cải tạo môi
trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh
học.
Đại hội X, Đảng ta đánh
giá: Từ thực tiễn 20 năm đổi mới, Đảng
và Nhà nước ta càng tích lũy thêm nhiều
kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý và tiếp
tục khẳng định: “Đẩy mạnh CNH, HĐH
gắn với kinh tế tri thức”.
Tranh thủ cơ hội thuận lợi
do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng,
lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình
CNH, HĐH đất nước theo định hướng

XHCN gắn với phát triển kinh tế tri thức,
coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng
của nền kinh tế và CNH, HĐH”.
Nội dung chủ yếu của
CNH, HĐH, đó là:
Đẩy nhanh CNH, HĐH
nông nghiệp và nông thôn, giải quyết
đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông
thôn và nông dân.
Phát triển nhanh hơn công
nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
Phát triển kinh tế vùng.
Phát triển kinh tế biển.
Chuyển dịch cơ cấu lao
động, cơ cấu công nghệ.
Bảo vệ và sử dụng có hiệu
quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi
trường tự nhiên.
Đại hội XI (2011) đã đưa
ra nhiệm vụ đổi mới mô hình tăng
trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy
mạnh CNH-HĐH, phát triển nhanh, bền
vững cho 5 năm tới là:
- Đổi mới mô hình tăng
trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, nâng
cao chất lượng, hiệu quả, phát triển
kinh tế nhanh, bền vững;
- Phát triển công nghiệp và
xây dựng theo hướng hiện đại, tiêp tục
tạo nền tảng cho nước công nghiệp và

nâng cao khả năng độc lập, tự chủ của
nền kinh tế;
- Phát triển nông – lâm –
ngư nghiệp toàn diện theo hướng CNH-
HĐH gắn với giải quyết tốt vấn đề nông
dân, nông thôn;
- Phát triển các ngành dịch
vụ, nhất là dịch vụ tài chính, ngân hàng,
thương mại, du lịch và các dịch vụ có
giá trị gia tăng cao;
- Tập trung xây dựng, tạo
bước đột phá về hệ thống kết cấu hạ
tầng kinh tế đáp ứng yêu cầu phát triển
của đất nước;
- Phát triển kinh tế-xã hội
hài hòa giữa các vùng, đô thị và nông
thôn.
Tóm lại : Những thành tựu
trên có ý nghĩa rất quan trọng là cơ sở
phấn đấu để sớm đưa nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển ,với nền Kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta là hoàn toàn mới, chưa
có tiền lệ trong lịch sử. Phát triển kinh
tế thị trường định hướng XHCN ở nước
ta là một quá trình nhận thức và vận
dụng các quy luật khách quan của kinh
tế thị trường, đồng thời kế thừa có chọn
lọc thành tựu phát triển kinh tế thị
trường của nhân loại và kinh nghiệm

tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở nước ta.
Để tiếp tục hoàn thiện thể chế KTTT
định hướng XHCN, chúng ta phải quán
triệt nội dung quan điểm Nghị quyết
Hội nghị TW6 khóa X về tiếp tục hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với
những nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị
trường nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát
triển nhanh, hiệu quả, bền vững và cơ
bản đưa nước ta trở thành nước CN
theo hướng hiện đại vào năm 2020 góp
phần thực hiện thắng lợi mục tiêu "dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh", xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa ./.
Vấn đề 6 : Phân tích quá
trình nhận thức của Đảng trong cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân 1930-1954.
Nhìn lại lịch sử đấu tranh
cách mạng gần 70 năm qua, chúng ta
thấy rõ đường lối cách mạng đúng đắn
của đảng là nguyên nhân quyết định nhất
đưa nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác. Đó là kết quả của việc đề
ra đường lối chính sách đúng đắn của
đảng, là sự trưởng thành của đảng ta
trong cả nhận thức và hành động thực
tiễn. Để củng cố lòng tin vào đảng, thực

hiện thắng lợi mục tiêu của đảng đòi hỏi
chúng ta phải nâng cao nhận thức về
những vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn xuyên suốt quá trình cách mạng nước
ta. Để thấy được quá trình nhận thức của
đảng trong giai đoạn 1930-1954, chúng ta
cần tìm hiểu đường lối cách mạng dân tộc
dân chủ của đảng trong giai đoạn này, từ
đó thấy được sự đúng đắn trong tư duy
nhận thức của đảng ta đối với quá trình
lãnh đạo cách mạng.
Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX, dưới sự thống trị tàn bạo của thực
dân Pháp, xã hội Việt Nam chìm đắm
trong đai họa: Dân tộc bị tước đoạt tự do,
mất độc lập; đất nước bị chia cắt; nhân
dân lao động bị bần cùng hóa. Nhiều mâu
thuẫn nảy sinh phát triển, đặc biệt là mâu
thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với đế
quốc Pháp và bọn tay sai của chúng. Mâu
thuẫn này đòi hỏi cách mạng Việt Nam
đồng thời đánh đổ đế quốc thực dân Pháp
và chế độ phong kiến Việt Nam, trong đó
nhiệm vụ đánh đuổi đế quốc và bọn tay
sai để giành độc lập cho dân tộc phải
được đặt lên hàng đầu.
Với mục tiêu trên đã có
nhiều phong trào yêu nước chống thực
dân Pháp với những nội dung và phương
pháp khác nhau. Thế nhưng tất cả đều

thất bại. Thất bại ấy thể hiện sự khủng
hoảng sâu sắc của cách mạng Việt Nam
về con đường cứu nước giải phóng dân
tộc, chưa đáp ứng được những yêu cầu
khách quan mà xã hội đặt ra. Nói cách
khác, phong trào yêu nước lúc này đều có
đường lối xa rời thực tiễn, thiển cận. Bên
cạnh đó xã hội Việt Nam dưới tác động
của chính khai thác thuộc địa của Pháp
đã đang diễn ra sự phân hóa sâu sắc,
nhiều giai cấp mới xuất hiện. Nhìn chung
các giai cấp đương thời, trừ giai cấp công
nhân, đều đã trở thành đối tượng, hoặc
lực lượng của cách mạng ở các mức độ
khác nhau. Giai cấp công nhân lúc này,
do những đặc điểm của họ, chỉ có thể trở
thành giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt
Nam với điều kiện: giác ngộ lý luận Mác-
Lênin và tự tổ chức ra chính đảng của
mình.
Từ thực tế trên vừa là hoàn
cảnh vật chất để sản sinh phong trào cách
mạng, vừa là thước đo đường lối của các
tổ chức chính trị, các phong trào cách
mạng Việt Nam. Sự vận động của các
phong trào yêu nước Việt Nam với những
thất bại của nó, một mặt nhấn mạnh sự
cần thiết phải tìm con đường cứu nước
mới; mặt khác, lý giải vì sao phong trào
yêu nước và phong trào công nhân ở Việt

Nam lại gặp nhau ở điểm lấy chủ nghĩa
Mác-Lênin làm cẩm nang giải phóng dân
tộc giải phóng giai cấp. Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời là sản phẩm tất yếu của
sự gặp gỡ trên. Vì thế, ngay từ đầu, đảng
ta đã xây dựng đường lối cách mạng phù
hợp với yêu cầu khách quan của dân tộc,
giai cấp và xã hội đặt ra.
Chính cương vắn tắt, sách
lược vắn tắt (cương lĩnh đầu tiên của
đảng) chỉ rõ:
- Một là cách mạng Việt
Nam phải là cách mạng tư sản dân quyền
và thổ địa cách mạng để tiến lên xã hội
cộng sản. Thực chất đó là một cuộc cách
mạng có 2 giai đoạn: giai đoạn thứ nhất
đó là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc,
giai đoạn thứ hai là sau khi giành được
thắng lợi sẽ chuyển sang làm cách mạng
xã hội chủ nghĩa để tiến tới xã hội cộng
sản.
- Hai là trong cách mạng tư
sản dân quyền có hai nhiệm vụ chiến
lược là chống đế quốc và chống phong
kiến (phản đế, phản phong). Hai nhiệm vụ
này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau,
phải được tiến hành khắng khít không
tách rời nhau nhưng trong đó nhiệm vụ
chống đế quốc và tay sai (phản đế) phải
đặt lên hàng đầu.

- Ba là xác định lực lượng
cách mạng, Đảng phải vận động, thu phục
giai cấp mình để lãnh đạo dân chúng, dựa
hẳn vào dân cày nghèo, liên lạc với trung
nông. Lực lượng cách mạng bao gồm:
thứ nhất là giai cấp công - nông là gốc, là
động lực của cách mạng, thứ hai là
những người yêu nước trong các giai cấp
khác là đồng minh của cách mạng.
- Bốn là lãnh đạo cách mạng
là giai cấp công nhân thông qua đội tiên
phong của giai cấp là Đảng Cộng sản Việt
Nam.
- Năm là về phương pháp
cách mạng, Đảng chủ trương phải giành
chính quyền bằng bạo lực cách mạng.
- Sáu là cách mạng Việt
Nam đoàn kết với giai cấp vô sản và các
dân tộc thuộc địa trên thế giới để chống
chủ nghĩa đế quốc. Cách mạng Việt Nam
là một bộ phận của cách mạng thế giới.
Với đường lối đó, đảng ta đã
thể hiện trình độ tư duy năng động, sáng
tạo của mình. Một mặt, vận dụng linh hoạt
chủ nghĩa Mác-Lênin, mặt khác đáp ứng
chính xác những yêu cầu khách quan của
xã hội Việt Nam.
Cương lĩnh đầu tiên của
đảng là kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo học thuyết Mác-Lênin,

đường lối quốc tế vô sản và kinh nghiệm
cách mạng thế giới vào hoàn cảnh cụ thể
của nước ta, là sự thể hiện tập trung tư
tưởng cơ bản của đồng chí Nguyễn Ái
Quốc về cách mạng dân tộc dân chủ và
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước
thuộc địa nửa phong kiến.
Nghị quyết của Ban chấp
hành trung ương đảng tháng 10/1930,
dưới tác động của tư tưởng “tả khuynh”
trong phong trào cộng sản quốc tế, nhận
thức về cách mạng giải phóng dân tộc
của đảng đã có sự thay đổi. Đảng đã thủ
tiêu chính cương vắn tắt, sách lược vắn
tắt, đồng thời xác định một số quan điểm
đề cao đấu tranh giai cấp, giảm nhẹ yếu
tố dân tộc trong đấu tranh giải phóng dân
tộc Việt Nam (luận cương chính trị); đổi
tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng
Cộng sản Đông Dương… Thực trạng xã
hội Việt Nam lúc đó cho thấy các quan
điểm này bóc lột nhiều nhược điểm trong
việc tập hợp lực lượng dân tộc đánh
Pháp, chưa đề cao việc giải phóng dân
tộc. Tuy có kế thừa chính cương vắn tắt,
sách lược vắn tắt một số điểm như: xác
định đường lối chiến lược cách mạng hai
giai đoạn, sự lãnh đạo giai cấp công nhân
là Đảng Cộng sản, muốn giành chính
quyền phải dùng bạo lực cách mạng…

Nhưng luận cương chính trị tháng
10/1930 vẫn còn những hạn chế: chưa chỉ
ra được mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội
thuộc địa; chưa xác định nhiệm vụ giải
phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu;
trong khi nhấn mạnh vai trò của công
nông, chưa chủ yếu đúng mức đến vai
trò, vị trí, khả năng cách mạng của các
giai cấp, tầng lớp khác. Những hạn chế
nói trên đã được hội nghị Ban chấp hành
trung ương đảng tiếp theo khắc phục.
Cao trào cách mạng 1930-
1931 và Xô viết Nghệ Tĩnh là cuộc diễn
tập đầu tiên của đảng ta đã xác định đội
quân chủ lực của cách mạng, thấu hiểu
được sự liên minh đấu tranh của hai giai
cấp công nhân và nông dân, làm cho
quần chúng càng tin tưởng vào giai cấp
công nhân, sức mạnh công nông được
phát huy mạnh mẽ.
Chỉ thị thành lập “Hội đồng
phản đế đồng minh Đông Dương” tháng
11/1930 khẳng định nếu chỉ thấy lực
lượng cách mạng chỉ có hai giai cấp công
nhân và nông dân thì sẽ dẫn tới cô lập,
hẹp hòi, hạn chế việc mở rộng lực lượng
cách mạng, thực chất là đặt nhiệm vụ
chống đế quốc lên trên. Chỉ thị còn khẳng
định: “Cách mạng tư sản dân quyền ở
Đông Dương mà không tổ chức được

toàn dân lại thành một lực lượng thật
rộng, thật lớn thì cuộc cách mạng cũng
khó thành công”. Nhưng trên thực tế chỉ
thị này không được đưa vào cuộc sống,
nhưng dẫu sao cũng đã thể hiện nhận
thức mới, cách nhìn mới của đảng vì giai
cấp và dân tộc.
Trong thời kỳ 1930-1931 hai
nhiệm vụ chiến lược chống đế quốc và
chống phong kiến đã được cụ thể hóa
bằng nhiều mục tiêu trước mắt như cải
thiện đời sống, chống khủng bố trắng.
Từ năm 1936-1939 cách
mạng Việt Nam diễn ra trong bối cảnh có
nhiều diễn biến phức tạp, chủ nghĩa phát
xít xuất hiện, nhân loại đứng trước thảm
họa chiến tranh. Trên cơ sở quan điểm
thể hiện trong nghị quyết của quốc tế
cộng sản, hội nghị trung ương tháng
7/1936 đảng ta đã xác định kẻ thù chủ
yếu trước mắt là bọn thực dân Pháp và
bè lũ tay sai, mục tiêu trước mắt là đấu
tranh chống bọn phản động thuộc địa,
chống phát xít và đấu tranh đòi tự do dân
chủ hòa bình. Để thực hiện mục tiêu đó
đảng chủ trương thành lập “mặt trận dân
chủ” thay cho “mặt trận thống nhất phản
đế”, bao gồm các lực lượng tiên tiến
không chỉ có công nhân và nông dân mà
còn cả tầng lớp tư sản dân tộc, địa chủ

yêu nước, các đảng phái cải lương ít
nhiều tiến bộ, không chỉ trong nước mà cả
Việt kiều tán thành mục tiêu trên, lấy liên
minh công nông làm nền tảng. Hội nghị
cũng đã đưa ra chủ trương mới chuyển
hướng nhiệm vụ tạm thời, không nêu
khẩu hiệu độc lập dân tộc và ruộng đất
cho dân cày, chỉ nêu khẩu hiệu đấu tranh
can thiệp dân sinh, dân chủ, chống phản
động thuộc địa và chủ trương từ đấu
tranh bí mật sang đấu tranh công khai, kết
hợp đấu tranh bán công khai và đấu tranh
bí mật.
Hội nghị cũng đã xem xét lại
chủ trương đồng thời chống đế quốc và
phong kiến ngang bằng nhau của đảng,
thể hiện trong luận cương chính trị tháng
10/1930 và khẳng định lại việc chống đế
quốc và tay sai với chống phong kiến phải
thực hiện ngang bằng nhau mà tùy vào
hoàn cảnh cụ thể đề cao nhiệm vụ này
hay nhiệm vụ kia. Những quan điểm chủ
trương của đảng thể hiện có hướng nhận
thức mới về cách mạng Việt Nam theo
tinh thần cương lĩnh đầu tiên của đảng.
Đến hội nghị lần thứ 6
tháng 11/1939 đã xác định kẻ thù chủ yếu
của nhân dân ta là chủ nghĩa đế quốc và
bọn tay sai phản bội dân tộc, xác định
cuộc cách mạng Đông Dương là cuộc

cách mạng giải phóng dân tộc. Hội nghị
quyết định chủ trương tịch thu ruộng đất
của bọn đế quốc và tay sai chia cho dân
cày, thành lập các tổ chức quần chúng
phản đế, hoạt động bí mật, bán hợp pháp
nhằm lãnh đạo quần chúng đấu tranh và
tiến tới bạo động giành chính quyền. Thắt
chặt mối quan hệ giữa đảng với quần
chúng nhân dân. Trong giai đoạn 1936-
1939 hai nhiệm vụ chống đế quốc và
phong kiến được cụ thể hóa bằng nhiều
mục tiêu như chống phát xít, chống phản
động thuộc địa, đòi tự do dân chủ…
Hội nghị lần thứ 7 của
đảng tháng 11/1940 đã xác định kẻ thù
của nhân dân là phát xít Nhật, Pháp. Hội
nghị khẳng định nhiệm vụ hàng đầu của
cách mạng Đông Dương là giải phóng
dân tộc, chủ động vũ trang bạo động
giành chính quyền về tay nhân dân.
Hội nghị trung ương lần
thứ VIII tháng 5/1941 đã khẳng định
nhiệm vụ giải phóng dân tộc giành độc lập
dân tộc cho đất nước là nhiệm vụ trước
tiên của đảng ta. Hội nghị cũng chú trọng
giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ
từng nước của ba nước Đông Dương và
theo đề nghị của đồng chí Nguyễn Ai
Quốc. Hội nghị quyết định thành lập “Mặt
trận Việt Nam độc lập đồng minh” gọi tắt

là “Mặt trận Việt Minh” để tập trung các
lực lượng yêu nước chống đế quốc giải
phóng dân tộc. Cương lĩnh Việt Minh rất
phù hợp với nguyện vọng của nhân dân,
mọi người hăng hái tham gia, Mặt trận
Việt Minh phát triển nhanh chóng. Hội
nghị cũng đã tìm ra quy luật khởi nghĩa đó
là khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi
nghĩa. Phải xây dựng lực lượng về mọi
mặt vừa có lực lượng chính trị, vừa có lực
lượng vũ trang, đẩy mạnh hình thức đấu
tranh vũ trang khi cần thiết.
Hội nghị toàn quốc của
đảng tiến hành từ 14 đến 15/8/1945 tại
Tân Trào đã quyết định phát động toàn
dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay
phát xít Nhật. Cách mạng là cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, ở đó nổi bật
tính chất giải phóng dân tộc. Cách mạng
tháng 8 đã đem lại cho đảng ta nhiều bài
học kinh nghiệm quý giá, đứng vững trên
lập trường của giai cấp công nhân,
giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai
nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong
kiến. Triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong
nội bộ kẻ thù, xây dựng mặt trận dân tộc
thống nhất rộng khắp, thực hiện con
đường bạo lực giành chính quyền. Tích
cực chuẩn bị chớp lấy thời cơ, phát động

toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền,
xây dựng một đảng theo phương châm
chủ nghĩa Mác-Lênin, đúng đắn về chính
trị, thống nhất về tư tưởng trong sạch và
vững mạnh về tổ chức và liên hệ chặt chẽ
với quần chúng. Cách mạng tháng 8 mở
ra kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc Việt
Nam, kỷ nguyên đất nước độc lập thống
nhất và phát triển theo chủ nghĩa xã hội.
Ngày 25/11/1945 trung ương
đảng ra chỉ thị “kháng chiến kiến quốc”
vạch rõ nhiệm vụ chiến lược và những
mục tiêu trước mắt của cách mạng Việt
Nam, chỉ thị chỉ rõ cách mạng Đông
Dương lúc này là: “vẫn là cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc” kẻ thù chính của dân
tộc ta là thực dân Pháp xâm lược, khẩu
hiệu cách mạng vẫn là “dân tộc trên hết”,
“Tổ quốc trên hết” nhiệm vụ chủ yếu của
chúng ta là củng cố chính quyền, chống
thực dân Pháp, bài trừ nội phản, cải thiện
đời sống nhân dân. Trong thời kỳ 1939-
1945 đảng đề ra nghị quyết 6, 7, 8 chủ
trương đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên
hàng đầu, còn nhiệm vụ chống phong
kiến rải ra phục vụ cho nhiệm vụ chống đế
quốc.
Sau khi cách mạng tháng 8
thành công đảng vẫn đặt lợi ích của dân
tộc, tổ quốc trên hết, nhiệm vụ cách mạng

lúc này là giữ vững chính quyền, chống
thực dân Pháp nhưng đảng vẫn quan tâm
giải quyết quyền lợi cho nhân dân như
giảm tô, chia đất công cho cả Nam lẫn nữ,
xóa bỏ thuế thân, thuế độc quyền…
Đầu năm 1951 đại hội toàn
quốc lần thứ hai của Đảng Cộng sản
Đông Dương đã họp từ ngày 11 đến ngày
19/2/1951 tại Tuyên Quang đã xác định
đối tượng của cách mạng Việt Nam lúc
này là chủ nghĩa đế quốc xâm lược cụ thể
là thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, phong
kiến phản động làm tay sai cho đế quốc là
đối tượng thứ hai của cách mạng. Đảng
ta đã vạch ra ba nhiệm vụ cơ bản của
cách mạng Việt Nam là: Một, đánh đuổi
đế quốc giành độc lập dân tộc. Hai là xóa
bỏ những tàn tích phong kiến làm cho
người dân có ruộng. Ba là phát triển chế
độ dân chủ nhân dân gây cơ sở cho chủ
nghĩa xã hội.
Động lực của cuộc kháng
chiến là: giai cấp công nhân, nông dân,
tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức
và tư sản dân tộc, người lãnh đạo cách
mạng là giai cấp công nhân thông qua
đảng tiên phong là đảng lao động Việt
Nam. Lần đầu tiên khái niệm cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân được đảng
khái quát và đưa vào văn kiện, thuật ngữ

này không những chỉ rõ tính chất của
cuộc cách mạng mà còn bổ sung hoàn
chỉnh đường lối cách mạng giải phóng
dân tộc của đảng, bổ sung cho kho tàng lý
luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Trên cơ sở đánh giá tình
hình và so sánh lực lượng, đảng phát
động cuộc kháng chiến toàn dân, toàn
diện về chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại
giao. Đường lối xác định kháng chiến lâu
dài, tự lực cánh sinh, đảng chỉ đạo cuộc
kháng chiến chống Pháp theo phương
châm đánh lâu dài và phát triển theo ba
giai đoạn phòng ngự, cầm cự và tổng
phản công.
Đảng đã lãnh đạo xây dựng
lực lượng kháng chiến và tổ chức kháng
chiến với phương châm chỉ đạo đúng đắn
ta đã giành chiến thắng ở Việt Bắc, thắng
lợi đó chuyển thế cuộc kháng chiến từ
phòng ngự sang thế phản công, chiến
thắng biên giới năm 1950 đã làm thất bại
chiến lược quân sự “đánh nhanh thắng
nhanh” của địch đẩy Pháp từ thế tiến
công sang thế phòng ngự chiến lược và
chiến dịch đông xuân 1953-1954 quân ta
đã đánh bại hoàn toàn quân đội viễn
chinh Pháp, cuối cùng là Hiệp định
Geneve, cách mạng Việt Nam bước sang
thời kỳ đấu tranh mới.

Với thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp nhiệm
vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân mà đảng ta đã vạch ra trong
cương lĩnh đầu tiên của đảng đã căn bản
hoàn thành trên một nửa đất nước, mở
đường cho Miền Bắc bước vào thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng
hậu phương vững chắc để nhân dân ta
tiếp tục đấu tranh hoàn thành cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước
giải phóng Miền Nam thống nhất đất
nước.
Tóm lại đường lối cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân của đảng
ta từ 1930 đến 1954 là kết quả của sự
vận dụng và sáng tạo học thuyết Mác-
Lênin, đường lối của quốc tế cộng sản và
kinh nghiệm của cách mạng thế giới vào
hoàn cảnh cụ thể của nước ta nhất là
cương lĩnh đầu tiên của đảng đã thể hiện
tập trung tư tưởng cơ bản của đồng chí
Nguyễn Ái Quốc về cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở nước thuộc địa nửa phong
kiến. Bài học về nhân tố giai cấp - dân
tộc, dân tộc và quốc tế, về xác định kẻ
thù, về xây dựng lực lượng, dân tộc với
thời đại và độc lập dân tộc với chủ nghĩa
xã hội./.

Vấn đề 7 : Phân tích quá
trình nhận thức của Đảng về con đường
CNXH ở nước ta từ năm 1986 đến nay.
(THAM KHẢO THÊM 75-86)
Sau ngày miền Nam hoàn toàn
giải phóng, cả nước ta được độc lập, Đảng chủ
trương mau chóng hoàn thành thống nhất nước
nhà về mọi mặt và đưa cả nước cùng tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Trải qua hơn hai mươi năm
phấn đấu, Đảng ta đã thu được nhiều thành tựu
trong bước đường xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Nhất là trong tư duy nhận tức con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Nhận thức theo quy luật
logic của nó là sự tiếp nối tư duy, từ
những nhận thức đơn giản ban đầu đến
tư duy ngày càng sát hợp với thực tiễn,
không thể tách rời từng giai đoạn hoặc đổi
chiều. Đảng cộng sản Việt Nam nhận
thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
cũng đi theo con đường biện chứng đó.
Trước hết là nhận thức về mô hình, mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Từ 1986 đến nay, trong
nhận thức của Đảng ta có sự thay đổi
quan niệm về mô hình, mục tiêu CNXH
bắt đầu từ Đại hội VI và rõ nét hơn trong
Đại hội VII. Đảng đưa ra một mô hình mới
về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với sáu
đặc trưng đó là:

• Xây dựng nền sản xuất
hàng hóa phát triển cao trên cơ sở lực
lượng sản xuất hiện đại và chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
• Xây dựng nền văn hóa tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
• Con người được giải
phóng, làm theo năng lực, hưởng theo lao
động.
• Các dân tộc trong cả nước
bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát
triển.
• Quan hệ hữu nghị hợp tác
với các nước trên thế giới trên cơ sở các
bên cùng có lợi.
Giai đọan thứ nhất từ năm
1975 đến năm 1985 đây là quá trình Đảng ta
tìm tòi thực nghiệm, tích lũy về lượng để đi
đến biến đổi về chất trong tư duy nhận thức
của Đảng ta. (THÊM-THAM KHẢO)
Khởi đầu từ ĐH IV năm 1976,
Đảng ta đã thiết kế mô hình CNXH ở Việt
Nam theo mô hình bốn mục tiêu của thời kỳ
quá độ, đó là: xây dựng chế độ làm chủ của
nhân dân lao động, xây dựng nền sản xuất lớn
xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa mới
xã hội chủ nghĩa và xây dựng con người mới
xã hội chủ nghĩa. Biện pháp để thực hiện mô
hình trên thông qua việc : Nắm vững chuyên
chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể

của nhân dân lao động; Tiến hành đồng thời
ba cuộc cách mạng : cách mạng quan hệ sản
xuất, cách mạng khoa học kỷ thuật, cách mạng
về tư tưởng văn hóa, trong đó cách mạng khoa
học kỹ thuật là then chốt; Đẩy mạnh CNH
XHCN là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ
quá độ lên CNXH, chú trọng phát triển CN
nặng hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp
và công nghiệp nhẹ; xây dựng kinh tế trung
ương với kinh tế địa phương trong cơ cấu nền
kinh tế thống nhất; kết hợp kinh tế đối nội,
kinh tế đối ngoại dựa trên cơ sở hợp tác cùng
có lợi; kết hợp xây dựng và phát triển kinh tế
với bảo vệ an ninh, quốc phòng. Tất cả nội
dung đường lối trên nhằm xóa bỏ chế độ
người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn lạc
hậu, xác lập quyền làm chủ của nhân dân lao
động, củng cố an ninh quốc phòng, đẩy mạnh
phát triển kinh tế nhằm xây dựng nước Việt
Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, góp phần
cùng nhân dân thế giới đấu tranh vì hòa bình
độc lập dân tộc dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, ĐH IV đã phát họa
những nét lớn về CNXH Việt Nam với mô
hình bốn “cái mới”. Mô hình này về cơ bản
giống mô hình XHCN củ Liên Xô và Trung
Quốc, được thực thi trong phe XHCN những
năm 1950 – 1970. Trong đó nhấn mạnh tính
thuần khiết lý tưởng của CNXH ngay trong
thời kỳ quá độ. Từ nhận thức đó chúng ta đã

nôn nóng cải tạo XHCN các thành phần kinh
tế, nôn nóng xóa bỏ kinh tế thị trường, nóng
vội phát triển CN nặng trong những năm
1976 – 1986 đưa đất nước rơi vào tình trạng
khủng hoảng nghiêm trọng.
Trước tình hình đó, Đảng ta đã
sớm nhận thức và có những chỉ đạo kịp thời.
Đó là Nghị quyết TW 6 khóa IV (8/1979)
đánh dấu sự biến đổi sâu sắc về chất trong tư
duy của Đảng ta, đánh dấu bước mở đầu cho
quá trình tìm con đường mới đi lên CNXH ở
Việt Nam. Lần đầu tiên Đảng đã thừa nhận
những khó khăn nghiêm trọng về KT-XH của
đất nước : Đời sống nhân dân khó khăn, kinh
tế không tăng trưởng, lạm phát phi mã, nhân
dân mất niềm tin ở Đảng, chính quyền từ đó
đưa ra những quyết sách mới là đẩy mạnh phát
triển hàng tiêu dùng, xuất khẩu, công nghiệp
địa phương, đặc biệt là thừa nhận việc tồn tại
nhiều thành phần kinh tế là khách quan, quan
tâm đến yếu tố thị trường, sản xuất hàng hóa.
Đồng thời giải quyết đúng đắn các mối quan
hệ lợi ích, đặc biệt quan tâm lợi ích chính
đáng của người lao động Trên cơ sở đó,
Chính phủ đã có Quyết định 279/CP cho phép
các xí nghiệp, đơn vị kinh doanh, khai thác
các mặt hàng không do nhà nước quản lý tạo
điều kiện mở đường cho sản xuất kinh doanh,
giải quyết việc làm, tăng thu nhập, tạo nhiều
sản phẩm cho xã hội.

Đến năm 1981 chỉ thị 100 của
Ban Bí thư về khoán sản phẩm đến nhóm
người lao động, đây thực sự là một bước đột
phá, tạo động lực mạnh mẽ cho sản xuất phát
triển. Tiếp đến Chính phủ có quyết định 25-
26/CP (tháng 01/1981) cho phép các công ty,
các xí nghiệp lập hai kế hoạch: kế hoạch của
nhà nước hoạt động theo cơ chế bao cấp, kế
hoạch của xí nghiệp hoạt động theo cơ chế thị
trường. Đây được xem là bước chuyển chuyển
mình tìm hướng đi thích hợp để chuyển từ cơ
chế bao cấp sang cơ chế thị trường.
Những nhân tố mới nêu trên tạo
điều kiện để Đảng tiếp tục nhận thức con
đường lên CNXH ở Việt Nam
Đại hội V (1982) của Đảng một
mặt khẳng định tiếp tục phương hướng, mục
tiêu do đại hội IV đề ra. Mặt khác căn cứ vào
tình hình thực tiễn của đất nước, đại hội có
những bổ sung và cụ thể hóa một số nội dung
quan trọng trong đường lối cơ bản : Một là
khẳng định thời kỳ quá độ là thời kỳ tương đối
dài là quá trình đấu tranh xóa bỏ những trì trệ,
hậu quả chiến tranh, sản xuất hàng hóa tìm
con đường hay mô hình đi lên CNXH phù hợp
với điều kiện cụ thể thể của Việt Nam, do đó
những vấp váp, những sai lầm là không tránh
khỏi. Tuy nhiên, thời kỳ quá độ được Đảng ta
xác định dài nhưng không trừu tượng, mà phải
trải qua nhiều chặn đường, nhiều giai đọan ta

đang ở chặn đường đầu tiên của thời kỳ quá
độ. Đây là bước phát triển về chất trong tư duy
nhận thức của Đảng ta trong định lượng nhiệm
vụ chiến lược. Hai là, khi đặt lên hàng đầu
nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải
đồng thời thực hiện nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc
xã hội chủ nghĩa. Đây là hai nhiệm vụ có mối
quan hệ mật thiết và đảm bảo cho nhau trong
quá trình phát triển và ổn định đất nước.
Về đường lối kinh tế, đại hội V
đã cụ thể hóa nội dung công nghiệp hóa của
chặng đường trước mắt của thời kỳ quá độ:
Tập trung sức phát triển nông nghiệp, coi nông
nghiệp là mặt trận hàng đầu, đồng thời đẩy
mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, tiếp tục xây
dựng một số ngành công nghiệp nặng quan
trọng; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng
tiêu dùng, công nghiệp nặng trong một cơ cấu
kinh tế hợp lý nhằm tạo ra lực lượng sản
xuất mới, chuẩn bị tiền đề và lực lượng cho
việc đẩy mạnh CNH trong chặng đường tiếp
theo.
Trong quá trình chi đạo thực
hiện Nghị quyết Đại hội V, Đảng và Nhà nước
đã đưa ra nhiều quyết định rất quan trọng, giải
quyết những vấn đề cấp bách về lưu thông,
phân phối, về quản lý kinh tế đặc biệt tổng
điều chỉnh giá tiền lương năm 1985.
Như vậy, Đại hội V của Đảng
đã dựa trên thực tiển đất nước, đã có bước

phát triển trong việc tìm tòi con đường quá độ
lên CNXH, bước đầu đã xây dựng được cơ sở
vật chất kỹ thuật cho CNXH, dđã đánh bại hai
cuộc chiến tranh xâm lược ở biên giới Tây
Nam và phía bắc. Tuy nhiên trong tư duy lý
luận vẫn còn lạc hậu giáo điều chưa nắm vững
và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp của
QHSX với trình độ của LLSX; chính sách lớn
ở tầm vĩ mô còn nhiều khiếm khuyết mà theo
nhận định của Đại hội VI là “những sai lầm
nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính
sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ
chức thực hiện”. Bên cạnh đó, thiên tai và hai
cuộc chiến tranh biến giới phía bắc và Tây
Nam làm cho tình hình kinh tế – xã hội của
đất nước rơi vào khủng hỏang trầm trọng, đặt
ra vấn đề bức xúc đòi hỏi phải đổi mới tòan
diện để tồn tại.
Tóm lại, có thể nói giai đọan
1975-1985 là một chặn đường đầy thử thách.
Bên cạnh những thắng lợi giành được, chúng
ta đã mắc một số khuyết điểm và sai lầm.
Cách mạng nước ta có những nhân tố thuận
lợi mới nhưng cũng đang đứng trước nhiều
khó khó khăn gay gắt nhưng cốt lõi là mô hình
kinh tế mới về cơ bản đã hình thành.
Giai đoạn 2 :
Đại hội VI (12-1986) của Đảng
là đại hội đổi mới toàn diện, Đại hội dựa trên
cơ sở phân tích sâu sắc cụ thể tình hình quốc

tế và trong nước và tổng kết quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội từ 1975 đến 1985 bằng
việc nhìn thẳng và nói đúng sự thật. Đảng ta
đã rút ra bốn bài học lớn về lãnh đạo cách
mạng xã hội chủ nghĩa:
Một là, trong tòan bộ họat động
của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy
dân làm gốc” xây dựng và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân lao động.
Hai là, Đảng phải luôn luôn
xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động
theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức
và hành động theo quy luật là điều kiện bảo
đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.
Ba là, phải biết kết hợp với sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều
kiện mới.
Bốn là, phải xây dựng Đảng
ngang tầm nhiệm vụ chính trị của Đảng cầm
quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách
mạng XHCN.
ĐH VI đã xác định nhiệm vụ
bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm
còn lại của chặn đường đầu tiên là ổn định mọi
mặt tình hình kinh tế – xã hội, tiếp tục xây
dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy
mạnh CNH XHCN trong chặn đường tiếp
theo.
Khẳng định là ĐH đổi mới tòan
diện, nhận thức mới của Đảng đã thể hiện

xuyên suốt trong tòan bộ Nghị quyết. Đó là:
Nguyên tắc tiến hành đổi mới
là đổi mới toàn diện, sâu sắc bắt đầu từ đổi
mới tư duy, đặc biệt là tư duy về kinh tế, đổi
mới công tác tổ chức và cán bộ. Tập trung
phát triển kinh tế, cải cách chính trị thực hiện
từng bước nhằm bảo đảm giữ vững trật tự an
ninh, an toàn xã hội phục vụ phát triển kinh tế.
Tư tưởng chỉ đạo cốt lỏi của
ĐH VI là giải phóng mọi năng lực sản xuất
hiện có, khai thác mọi tiềm năng của đất nước
và sử dụng hiệu quả sự giúp đở của quốc tế,
phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với xây
dựng và cũng cố quan hệ sản xuất XHCN.
Trong tổ chức thực hiện Nghị
quyết đại hội VI của Đảng. Đảng và Nhà nước
vừa tập trung đề ra các chính sách mới, vừa
giải quyết những vấn đề kinh tế cấp bách đặc
biệt là Nghị quyết 10 năm 1988 của Bộ chính
trị về hoàn thiện cơ chế khoán, trong đó lần
đầu tiên hộ gia đình được xem là đơn vị kinh
tế. Nghị quyết Trung ương 6 khóa 6 năm 1989
đã đề ra những quan điểm và phương hướng
chỉ đạo công cuộc đổi mới với những nguyên
tắc cơ bản về đổi mới như sau:
Một là, đổi mới không phải là
thay đổi mục tiêu XHCN mà làm cho mục tiêu
ấy thực hiện tốt hơn bằng quan niệm đúng
đắn, hình thức, biện pháp và bước đi thích
hợp.

Hai là, Đổi mới không phải là
xa rời Chủ nghĩa Mác –Lênin mà là vận dụng
sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lênin và khắc phục
những quan niệm không đúng về học thuyết
đó.
Ba là, Đổi mới tổ chức và
phương thức họat động của hệ thống chính trị
phải nhằm tăng cường chứ không phải là làm
suy yếu sức mạnh và hiệu lực của chuyên
chính vô sản.
Bốn là, Xây dựng nền dân chủ
XHCN vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự
nghiệp xây dựng CNXH, song dân chủ phải có
lãnh đạo, lãnh đạo phải trên cơ sở dân chủ,
dân chủ với nhân dân nhưng phải chuyên
chính với kẻ địch.
Năm là, kết hợp Chủ nghĩa yêu
nước với chủ nghĩa quốc tế XHCN, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại.
Qua thực tiễn 5 năm đổi mới kể
từ sau đại hội VI, đại hội VII năm 1991 của
Đảng đã có điều kiện xem xét, khẳng định rõ
hơn những vấn đề đã được đặt ra từ đại hội VI
tiếp tục bổ sung và hoàn thiện nhận thức. Đại
hội VII khẳng định quyết tâm không gì lay
chuyển nổi của Đảng và nhân dân Việt Nam
kiên trì định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá
trình đổi mới.
Đại hội VII đã thông qua
“Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ

quá độ lên chủ nghĩa xã hội”. Cương lĩnh vạch
rõ: Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa; Cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ cùng xu hướng quốc tế
nền kinh tế thế giới là thời cơ để các nước phát
triển có thể phát triển nhanh hơn. Do đó, phải
coi trọng sự nghiệp giáo dục, đào tạo nguồn
nhân lực và phát triển khoa học công nghệ là
quốc sách hàng đầu; trong quá trình xây dựng
CNXH phải phát huy ý chí tự lực tự cường,
đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại.
Đồng thời Cương lĩnh cũng đã xác định mô
hình chủ nghĩa xã hội gồm 6 đặc trưng cơ bản
là: Xây dựng chế độ làm chủ tập thể của nhân
dân lao động; kinh tế phát triển cao dựa trên
lực lượng sản xuất hiện đại với chế độ công
hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu; xây
dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp
bức bóc lột, bất công, làm theo năng lực và
hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện;
các dân tộc sống trong quốc gia Việt Nam
bình đẳng, đoàn kết giúp đỡ nhau tiến bộ.
Thực hiện chính sách làm bạn với nhân dân
tất cả các nước trên thế giới. Mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội là dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, văn minh.
Để đạt được mục tiêu trên đảng

chủ trương phát triển kinh tế, cải cách xã hội
đẩy lùi 4 nguy cơ: Tụt hậu xa hơn nữa về kinh
tế so với các nước trong khu vực. Chệch
hướng xã hội chủ nghĩa. Tệ tham nhũng, quan
liêu, lãng phí. Nguy cơ diễn biến hòa bình.
Cương lĩnh cũng đã nêu 7 biện
pháp chiến lược để xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam: Xây dựng nhà nước xã hội chủ
nghĩa của dân do dân và vì dân và quản lý
mọi mặt của xã hội một cách hữu hiệu dựa
trên cơ sở luật pháp; Phát triển lực lượng sản
xuất, thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước thông qua cách mạng khoa học công
nghệ; Xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất;
Đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa trên
lĩnh vực tư tưởng văn hóa làm cho thế giới
quan Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở
thành nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho
mọi hành động; Thực hiện chiến lược đại
đoàn kết dân tộc và chính sách đối ngoại hòa
bình hữu nghị hợp tác với tất cả các nước;
Tiến hành đồng thời hai chiến lược cách
mạng: xây dựng thành công và bảo vệ vững
chắc tổ quốc xã hội chủ nghĩa; Xây dựng
Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ
chức nhằm nâng cao sức chiến đấu và năng
lực lãnh đạo của Đảng ngang tầm với nhiệm
vụ trong giai đoạn mới.
Sau 10 năm đổi mới, Đại hội

VIII của Đảng (6-1986) đã tổng kết, đánh giá
thành công cũng như thất bại và rút ra những
bài học kinh nghiệm. Điểm nổi bật là Đại hội
VIII đã khẳng định một số nhận thức về xây
dựng cơ chế quản lý mới: Sản xuất hàng hóa
không đối lập với CNXH, tồn tại khách quan,
cần thiết cho công cuộc XD CNXH; Trong
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước
ta, thị trường theo định hướng XHCN là thể
thống nhất với nhiều lực lượng tham gia sản
xuất và lưu thông. Trong đó, kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo, thị trường vừa là căn cứ,
vừa là đối tượng của kế họach, kế họach chủ
yếu mang tính định hướng còn thị trường trực
tiếp hướng dẫn, lựa chọn lĩnh vực họat động,
tổ chức sản xuất và kinh doanh. Do vậy, cơ
chế thị trường phải có sự điều tiết ủa Nhà
nước, vì thế cần nâng cao quản lý vĩ mô của
Nhà nước, đồng thời xác lập đầy đủ chế độ tự
chủ của các đơn vị sản xuất kinh doanh.
Trên cơ sở đó, Đại hội VIII đã
xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam
đến năm 2020: “tiếp tục nắm vững hai nhiệm
vụ chiến lược xây dựng CNXH và bảo vệ tổ
quốc, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước từ nay
đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp”.
Đến Đại hội IX (4-2001) nhận
thức con đường đi lên CNXH được Đảng ta bổ
sung và hoàn thiện:

Thứ nhất, về mục tiêu lý tưởng
của Đảng “Độc lập dân tộc gắn liền CNXH” là
nguyên tắc, là sự chỉ đạo xuyên suốt tòan bộ
đường lối cách mạng nước ta.
Thứ hai, về thời kỳ quá độ báo
cáo chính trị đã chỉ ra con đường đi lên của
nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ
qua chế độ TBCN tức là bỏ qua việc xác lập vị
trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng XHCN nhưng tiếp thu kế thừa
những thành tựu của nhân lạoi đặc biệt là khoa
học & công nghệ.
Thứ ba, Về mô hình kinh tế
tổng quát vẫn xác định “kinh tế thị trường
định hướng XHCN” có bổ sung thêm thành
phần kinh tế thứ 6 có vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ tư, về đấu tranh gia cấp là
động lực phát triển đất nước. Trong đó động
lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đòan
kết tòan dân dựa trên cơ sở liên minh giữa giai
cấp CN, ND và trí thức do Đảng lãnh đạo.
Thứ năm, về nền tảng tư tưởng:
Đại hội đã làm rõ khái niệm và nội dung cơ
bản của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đại hội X (2006): cùng với
việc kiểm điểm 5 năm thực hiện nghị
quyết đại hội IX, Đảng đã đánh giá qua 20
năm đổi mới đã đạt được những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử “Đất nước
đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, có

sự thay đổi cơ bản và toàn diện ” Đồng
thời làm rõ thêm về CNXH và con đường
ngày càng sáng tỏ và hình thành những
nét cơ bản, những thành tựu đó chứng tỏ
đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng
đắn, sáng tạo, phù hợp thực tiễn Việt
Nam. Từ việc tổng kết 20 năm đổi mới,
Đảng và nhà nước ta càng tích luỹ thêm
nhiều kinh nghiệm trong lãnh đạo quản lý.
Bài học đó là:
- Một là: trong quá trình đổi
mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và CNXH trên nền tảng CN Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đối mới
không phải từ bỏ mục tiêu CNXH mà làm
cho CNXH được nhận thức đúng đắn hơn
và được xây dựng có hiệu quả hơn.
- Hai là: đổi mới toàn diện,
đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình
thức và cách làm phù hợp. Phải đổi mới
từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực
tiễn; từ kinh tế, chính trị, đối ngoại đến tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Ba là: Đổi mới phải vì lợi
ích của nhân dân, dựa vào nhân dân,
phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của
nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy
bén với cái mới. Các mạng là sự nghiệp
của nhân dân, vì nhân dân và do nhân
dân.

- Bốn là: phát huy cao độ nội
lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại trong điều kiện mới. Phát huy nội
lực, xem nó là nhân tố quyết định đối với
sự phát triển, đồng thời coi trọng huy
động các nguồn ngoại lực.
- Năm là: nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,
không ngừng đổi mới hệ thống chính trị,
xây dựng và từng bước hoàn thiện nền
dân chủ XHCN, đảm bảo quyền lực thuộc
về nhân dân. Xây dựng Đảng trong sạch
vững mạnh là khâu then chốt, là nhân tố
quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi
mới.
Đại hội XI (2011) đã đưa ra
nhiệm vụ đổi mới mô hình tăng trưởng và
cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh CNH-
HĐH, phát triển nhanh, bền vững cho 5
năm tới là:
- Đổi mới mô hình tăng
trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, nâng
cao chất lượng, hiệu quả, phát triển kinh
tế nhanh, bền vững;
- Phát triển công nghiệp và
xây dựng theo hướng hiện đại, tiêp tục
tạo nền tảng cho nước công nghiệp và
nâng cao khả năng độc lập, tự chủ của
nền kinh tế;

- Phát triển nông – lâm –
ngư nghiệp toàn diện theo hướng CNH-
HĐH gắn với giải quyết tốt vấn đề nông
dân, nông thôn;
- Phát triển các ngành dịch
vụ, nhất là dịch vụ tài chính, ngân hàng,
thương mại, du lịch và các dịch vụ có giá
trị gia tăng cao;
- Tập trung xây dựng, tạo
bước đột phá về hệ thống kết cấu hạ tầng
kinh tế đáp ứng yêu cầu phát triển của đất
nước;
- Phát triển kinh tế-xã hội hài
hòa giữa các vùng, đô thị và nông thôn
Đại hội XI còn đưa ra những
nhiệm vụ, giải pháp để hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa giai đoạn 2011-2015, cụ thể như
sau:
- Giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường;
- Phát triển các hình thức sở
hữu, các thành phần kinh tế , các loại
hình doanh nghiệp;
- Phát triển đồng bộ các yếu
tố thị trường và các loại thị trường;
- Nâng cao vai trò lãnh đạo
của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của
nhà nước đối với nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN.

Tóm lại, từ những bài học
của cách mạng Việt Nam trong mấy chục
năm qua, nhất là những kinh nghiệm thu
được trong những năm đổi mới, chúng ta
có cơ sở khoa học để tin tưởng rằng: Với
chủ nghĩa yêu nước, truyền thống quý
báu của dân tộc ta, với tinh thần chủ động
sáng tạo, ý chí tự lực tự cường của nhân
dân ta, lại có sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng cách mạng kiên cường, với sự giúp
đỡ và hợp tác của bạn bè quốc tế, nhân
dân ta có đủ khả năng xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta,
góp phần vào cuộc đấu tranh chung của
nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân
tộc và tiến bộ xã hội
5-
2
Qua thực tiễn cách mạng
Việt Nam từ năm 1975 đến nay và qua
tổng kết lý luận thực tiễn 20 năm đổi mới,
chúng ta càng thấy rõ giá trị định hướng
và chỉ đạo to lớn của cương lĩnh xây
dựng đất nước (1991), đồng thời cũng
thấy rõ thêm về những vấn đế mới đặt ra
cần giải đáp. Con đường đi lên CNXH là 1
quá trình khó khăn, phức tạp, do đó đảng
ta cần có sự lựa chọn, bước đi, cách làm
phù hợp, quán triệt sâu sắc bài học kinh
nghiệm ./.

Vấn đề 8 : Phân tích bài học kinh
nghiệm, bài học xây dựng khối đại đoàn kết
dân tộc qua các giai đoạn từ 1930 đến nay.
Liên hệ Nghị quyết Trung Ương 7 Khoá IX
Ngay khi Đảng Cộng Sản Việt Nam ra
đời, chủ trương đoàn kết toàn dân trong Mặt
trận dân tộc thống nhất là một chính sách lớn
của Đảng ta trong suốt quá trình lãnh đạo cách
mạng Việt Nam. Sức mạnh đoàn kết đã được
phát huy trong đấu tranh giành độc lập dân tộc
và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Đảng ta và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định : Đại đoàn
kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất là một
trong những nhân tố quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam.
Nhìn lại lịch sử Việt Nam, ngay từ thời
xa xưa, các nhà lãnh đạo triều đại Lý, Trần,
Lê… cũng đã nhìn thấy sức mạnh của dân, để
chủ trương dựa vào dân chống ngoại xâm.
Trần Quốc Tuấn đã rút ra bài học: "phải
khoan thư sức dân, làm kế rễ sâu gốc vững, ấy
là thượng sách để giữ nước". Nguyễn Trãi
cũng đã nói: "Đỡ thuyền cũng là dân mà lật
thuyền cũng là dân"… Kế thừa di sản quý báu
của dân tộc, vận dụng di sản đó và kinh
nghiệm của thế giới vào cách mạng Việt Nam,
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định
"dân là gốc của nước", "có dân là có tất cả"
và thực hiện chủ trương: “Đoàn kết, đoàn kết,
đại đoàn kết, Thành công, thành công, đại

thành công". Trong tác phẩm "Đường kách
mệnh", Người cũng đã nhấn mạnh “Kách
mệnh là việc chung của dân chúng, chứ không
phải là việc của một hai người.
Với tư tưởng cối lõi ấy, ngay từ ngày
thành lập, Đảng ta đã coi Mặt trận dân tộc
thống nhất là vấn đề có ý nghĩa chiến lược và
đã phê phán mọi biểu hiện coi nhẹ công tác
mặt trận, hạ thấp vai trò của quần chúng, coi
thường nhân tố dân tộc trong cách mạng.
Để hình thành được mặt trận, tập hợp
được hết thảy các lực lượng cách mạng và tiến
bộ trong mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng ta đã
đề ra những chủ trương, chính sách thích hợp
nhằm đoàn kết toàn dân, phấn đấu cho một
mục tiêu nhất định xem đó là chương trình
hành động thống nhất của tất cả các giai cấp,
các đảng phái, các lực lượng tham gia Mặt
trận dân tộc thống nhất. Thể hiện tính chất
quần chúng rộng rãi trong công tác mặt trận và
căn cứ vào từng thời kỳ, Đảng ta đã linh hoạt
trong việc chỉ ra cách thức đấu tranh, lựa chọn
hình thức đấu tranh và tên gọi Mặt trận cho
phù hợp với hoàn cảnh cụ thể và mục tiêu,
nhiệm vụ từng thời kỳ cách mạng như: Mặt
trận dân chủ, Mặt trận Việt Minh, Mặt trận
Liên Việt, Mặt trận Tổ quốc, Mặt trận dân tộc
giải phóng miền Nam Việt Nam. v.v Có mặt
trận được tổ chức chặt chẽ theo hệ thống từ
trung ương đến cơ sở; có mặt trận chỉ mang

tính chất liên hiệp hành động; nhưng tất cả đều
nhằm tập hợp, động viên được hết thảy mọi
người tích cực tham gia vào sự nghiệp chung
giải phóng dân tộc và xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc.
Song song đó, Đảng luôn coi đoàn kết
dân tộc luôn là nguồn sức mạnh của cách
mạng và là một trong những nhân tố quyết
định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Chính vì vậy, Đảng ta đã chủ trương xây dựng
được khối đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên
minh công - nông – trí thức. Đảng đã
Ngay từ khi mới thành lập, trong Cương
lĩnh đầu tiên của Đảng đã chỉ rõ giai cấp vô
sản phải tranh thủ được nhiều bạn đồng minh,
phải tập hợp các lực lượng cách mạng trong
Mặt trận dân tộc thống nhất. Hình thức Mặt
trận dân tộc thống nhất đầu tiên lấy tên là Hội
phản đế đồng minh. Trong chỉ thị lập Mặt
trận, Đảng đã nhấn mạnh: Nếu không tổ chức
được lực lượng thật rộng, thật kín thì cách
mạng cũng khó thành công.
Sau cao trào cách mạng 1930-1931, đế
quốc Pháp khủng bố ác liệt, phong trào cách
mạng tạm thời lắng xuống, Đảng chuyển
hướng tổ chức quần chúng đấu tranh và quần
chúng vẫn hướng về Đảng. Khi điều kiện và
thời cơ thuận lợi xuất hiện, Đảng đã kịp thời
đề ra chủ trương, chính sách đúng nên đã
nhanh chóng tập hợp lực lượng, liên hiệp hành

động với các giai cấp, các tầng lớp yêu nước,
các đảng phái dân chủ, hình thành Mặt trận
dân chủ Đông dương trong thời kỳ 1936-
1939. Vì vậy, Đảng đã phát động được một
cao trào đấu tranh cách mạng đòi cải thiện dân
sinh, dân chủ, cơm áo, hòa bình, chống phản
động thuộc địa, chống chủ nghĩa phát xít,
chống chiến tranh.
Tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới lần
thứ hai bùng nổ, Đảng đặt nhiệm vụ giải
phóng dân tộc lên hàng đầu. Đồng chí Hồ Chí
Minh về nước, cùng Ban Chấp hành Trung
ương Đảng hoàn chỉnh chủ trương chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược. Hội nghị Trung
ương Đảng lần thứ 8 khoá I (tháng 5-1941),
dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đồng chí Hồ
Chí Minh đã chủ trương tạm gác khẩu hiệu
tịch thu ruộng đất của địa chủ, thành lập Mặt
trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là
Mặt trận Việt Minh) để mở rộng khối đoàn
kết dân tộc không chỉ bao gồm giai cấp công –
nông mà còn cả những người Việt Nam yêu
nước, tập trung mũi nhọn đấu tranh vào nhiệm
vụ chống đế quốc, giành độc lập dân tộc. Dưới
ngọn cờ đại đoàn kết của Mặt trận Việt Minh,
nhân dân ta đã dấy lên một cao trào kháng
Nhật cứu nước sôi nổi và đều khắp, nắm vững
thời cơ Đảng đã chỉ đạo Mặt trận khởi nghĩa
từng phần, khởi nghĩa vũ trang dẫn đến tổng
khởi nghĩa đưa Cách mạng Tháng Tám 1945

đến thắng lợi.
Chính quyền cách mạng vừa mới thành
lập, thì quân Pháp núp sau quân đội Anh trở
lại xâm lược nước ta từ phía Nam, còn quân
Tưởng kéo vào phía Bắc. Trước tình thế hiểm
nguy ấy, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
chủ trương mở rộng hơn nữa Mặt trận dân tộc
thống nhất. Tháng 5-1946, Mặt trận Liên
Việt ra đời, khối đại đoàn kết dân tộc được
củng cố, làm hậu thuẫn vững chắc cho chính
quyền cách mạng. Với mục tiêu giai đoạn này
là đặt nhiệm vụ đánh đổ đế quốc hàng đầu,
Đảng đã huy động lực lượng toàn dân tham
gia và áp dụng nhiều biện pháp linh hoạt để
thêm bạn, bớt thù, do đó đã đẩy lùi được mọi
âm mưu thâm độc của thù trong, giặc ngoài.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, miền
Bắc được hoàn toàn giải phóng, ở miền Nam,
đế quốc Mỹ biến miền Nam nước ta thành
thuộc địa kiểu mới và Mỹ trở thành kẻ thù
chính của dân tộc ta. Trong hoàn cảnh mới,
Đảng chủ trương thành lập ở mỗi miền một
mặt trận dân tộc thống nhất nhằm mở rộng và
tǎng cường khối đoàn kết dân tộc để hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
trong cả nước và đưa miền Bắc tiến lên chủ
nghĩa xã hội
Tháng 9-1955, ở miền Bắc, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam ra đời với mục tiêu xây dựng
CNXH. Tháng 12-1960, ở miền Nam, sau cao

trào "đồng khởi", Mặt trận dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam được thành lập với mục
tiêu giải phóng Miền Nam.
Nhân dân ta còn đoàn kết với nhân dân
các dân tộc Lào và Campuchia anh em, hình
thành Mặt trận đoàn kết ba nước, các lực
lượng hoà bình, tiến bộ trên thế giới, kể cả
nhân dân tiến bộ Mỹ, ủng hộ sự nghiệp chống
Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Trong cuộc
kháng chiến Mỹ, cứu nước đã hình thành trên
thực tế ba tầng mặt trận : ở trong nước, trên
bán đảo Đông Dương và trên thế giới, đoàn
kết mọi lực lượng có thể đoàn kết, tranh thủ
mọi lực lượng có thể tranh thủ để lên án và cô
lập đế quốc Mỹ xâm lược.
Sau đại thắng mùa Xuân nǎm 1975,
miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước
thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Nhưng chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản
động vẫn còn âm mưu và hành động phá hoại
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của
nhân dân ta. Đảng ta vẫn chủ trương tiếp tục
coi trọng vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, nơi tập họp đông đảo nhân dân cả nước
ra sức thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa. Nhân dân ta tiếp tục tǎng
cường đoàn kết với nhân dân hai nước Lào và
Campuchia, đoàn kết với các nước xã hội chủ
nghĩa và các nước, các dân tộc tiến bộ trên thế

giới, đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội.
Từ những kết quả xây dựng mặt trận
dân tộc thống nhất qua các giai đoạn trên,
ta có thể rút ra một số kinh nghiệm như sau
:
Một là phải xác định đúng kẻ thù, sắp
xếp đúng bạn đồng minh. Muốn có chính sách
mặt trận đúng đắn, trước hết phải xác định
đúng kẻ thù cụ thể, phải chỉ rõ kẻ thù cần phải
đánh đổ trong từng giai đoạn chiến lược, trong
từng thời kỳ của một giai đoạn. Có như vậy
mới tập trung được toàn bộ lực lượng cách
mạng đánh đổ kẻ thù cũng như mới lợi dụng
được những mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù và
vận dụng sách lược mềm dẻo để cô lập cao độ
kẻ thù nguy hiểm nhất. Đảng ta đã có nhiều
thành công nổi bật trong việc xác định kẻ thù
cụ thể và chính sách mặt trận trong các thời kỳ
cách mạng. Đặc biệt là trong thời kỳ 1945-
1946, công tác mặt trận lúc này hết sức phức
tạp, nhưng phong phú và sáng tạo. Tình hình
lúc bấy giờ thay đổi từng ngày, từng tháng.
Cùng một lúc cách mạng nước ta phải đối phó
với nhiều kẻ thù, nhưng Đảng đã đánh giá
đúng các loại kẻ thù, xác định đúng kẻ thù
chính, để có sách lược và phương pháp đấu
tranh phù hợp : khi thì hòa với Tưởng để
chống Pháp, khi thì tạm thời hoà với Pháp để
đuổi Tưởng nhằm phân hoá, cô lập kẻ thù,

tránh thế bất lợi phải chống với nhiều kẻ thù
cùng một lúc, để tǎng thêm sức mạnh giành
thắng lợi. Trong kháng chiến chống Mỹ, Đảng
ta đã sáng suốt chỉ rõ kẻ thù nguy hiểm nhất
không chỉ của dân tộc ta mà của cả loài người
tiến bộ là đế quốc Mỹ, nên đã hình thành được
ba tầng mặt trận: ở trong nước, ở Đông Dương
và trên thế giới, tạo ra sức mạnh để giành
thắng lợi trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu
nước.
Trong công tác mặt trận, vì trong dân
tộc có nhiều giai cấp, nên Đảng phải đánh giá
đúng thái độ chính trị của các giai cấp và tầng
lớp xã hội khác nhau để sắp xếp đúng đắn vị
trí các lực lượng trong Mặt trận dân tộc thống
nhất: vai trò lãnh đạo, lực lượng nòng cốt, bạn
đồng minh lâu dài và gần gũi, bạn đồng minh
tạm thời, v.v Ngay từ khi thành lập, Đảng ta
đã đánh giá đầy đủ vị trí của giai cấp nông dân
Việt Nam, giai cấp đông đảo nhất, chiếm 95%
số dân, là bạn đồng minh cách mạng và trung
thành nhất của giai cấp công nhân Việt Nam.
Hai giai cấp công nhân và nông dân và tầng
lớp trí thức có liên minh chặt chẽ mới phát
huy đầy đủ sức mạnh, thực hiện triệt để nhiệm
vụ giải phóng dân tộc và giai cấp, trong đó
giai cấp công nhân phải đóng vai trò lãnh đạo
của giai cấp công nhân. Bên cạnh đó, Đảng ra
sức tập hợp đông đảo lực lượng về phía cách
mạng trên cơ sở đánh giá cao truyền thống yêu

nước của mọi tầng lớp nhân dân. Đảng đã lôi
cuốn giai cấp tư sản dân tộc, một bộ phận hoặc
từng cá nhân xuất thân từ giai cấp phong kiến
địa chủ có tinh thần yêu nước tham gia cách
mạng giải phóng dân tộc. Trong giai đoạn
cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng hết sức chú
ý phân tích thái độ chính trị của các giai cấp,
các tầng lớp, nhất là các tầng lớp trên để tranh
thủ mọi khả nǎng có thể tranh thủ nhằm tǎng
cường mặt trận dân tộc rộng rãi để chống đế
quốc và tay sai. Trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa, Đảng ta tiếp tục lắng nghe, tìm hiểu
quan điểm, tư tưởng và thái độ chính trị của
các giai cấp, các tầng lớp để kịp thời đề ra
những chủ trương chính sách đúng đắn, những
hình thức tổ chức sát hợp để tập hợp lực lượng
đông đảo, nhằm củng cố khối đoàn kết dân
tộc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.
Hai là giải quyết đúng đắn các mối
quan hệ trong nội bộ mặt trận. Để tránh tả và
hữu khuynh trong việc thực hiện chính sách
đoàn kết dân tộc, Đảng ta đã giải quyết đúng
đắn các mối quan hệ trong nội bộ mặt trận.
- Đối với mối quan hệ giữa dân tộc và
giai cấp, mặt trận là tổ chức tập hợp lực lượng
dân tộc bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp được
tập hợp, đoàn kết trên cơ sở chương trình hành
động chung. Vì vậy, cương lĩnh chung của mặt
trận thể hiện đúng mối quan hệ giữa lợi ích

chung toàn dân tộc với lợi ích riêng từng giai
cấp. Nếu vượt ra khỏi giới hạn mục tiêu đó là
phạm sai lầm tả khuynh. Trái lại, không đấu
tranh để thực hiện những mục tiêu chung đã
xác định là phạm sai lầm hữu khuynh. Trong
thời kỳ 1936-1939, Đảng nêu ra mục tiêu đấu
tranh đòi cải thiện dân sinh, dân chủ, chống
chủ nghĩa phátxít, chống chiến tranh; trong
thời kỳ 1939-1945 là đấu tranh chống Nhật,
Pháp, giành độc lập dân tộc; trong thời kỳ
chống Mỹ, cứu nước đã có lúc Đảng nêu ra
mục tiêu trước mắt tranh đấu cho miền Nam
Việt Nam, hoà bình, trung lập, v.v .
- Đối với mối quan hệ giữa liên minh
công nông và mặt trận, đây là mối quan hệ lớn
nhất trong công tác mặt trận. Chỉ nhấn mạnh
liên minh công nông mà không chú ý tranh thủ
các giai cấp, tầng lớp khác là hẹp hòi, tả
khuynh. Ngược lại, chỉ chú ý vận động các
giai cấp, tầng lớp khác mà không chú ý củng
cố liên minh công nông là phạm sai lầm hữu
khuynh. Đảng ta đã giải quyết đúng đắn mối
quan hệ trên bằng việc thường xuyên nắm
vững mục tiêu lâu dài và mục tiêu chủ yếu
trong từng thời kỳ cách mạng, phân tích được
mâu thuẫn chủ yếu để vạch rõ kẻ thù trực tiếp,
nguy hiểm nhất. Khi cần tập trung lực lượng
để giải quyết những nhiệm vụ cấp bách nhất
của cách mạng, Đảng đã giải quyết đúng mức
quyền lợi của công nông và của các giai cấp,

các tầng lớp tham gia mặt trận.
- Đối với mối quan hệ giữa tranh thủ
tầng lớp trên (tiểu tư sản, địa chủ ) đi đôi với
phát động quần chúng cơ bản. Đảng chủ
trương “có thể và cần phải” tranh thủ tầng lớp
trên, nhất là những cá nhân có uy tín trong
quần chúng, đó là điều cần thiết và có lợi cho
việc phát động quần chúng cơ bản. Nhưng
phong trào vững chắc phải là phong trào cách
mạng của quần chúng cơ bản. Chỉ khi nào
phong trào đó mạnh mới bảo đảm tranh thủ
được tầng lớp trên. Vận động các dân tộc ít
người là một trong những công tác quan trọng
bậc nhất của mặt trận, của chính quyền cách
mạng. Để đoàn kết đồng bào theo các tôn
giáo, Đảng đưa ra chính sách tự do tín ngưỡng
và giáo dục quần chúng, nâng cao trình độ
giác ngộ chính trị của giáo dân, làm cho họ
phân biệt rõ địch - ta, ra sức đẩy mạnh sản
xuất, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần.
Đối với tầng lớp trên trong tôn giáo, Đảng chủ
trương đoàn kết với họ trên tinh thần yêu nước
chân chính và giúp đỡ họ hiểu biết đường lối,
chính sách của cách mạng, vận động họ cùng
với đồng bào theo các tôn giáo làm những việc
có ích cho Tổ quốc, chống lại mọi âm mưu
chia rẽ dân tộc và phá hoại của kẻ thù. Trong
việc xây dựng mặt trận, Đảng giải quyết đúng
đắn mối quan hệ giữa đoàn kết và đấu tranh.
Đoàn kết một chiều, thiếu đấu tranh trong thực

tế dẫn đến phá vỡ khối đoàn kết, thủ tiêu mặt
trận. Đấu tranh vượt quá cương lĩnh là phạm
sai lầm tả khuynh, trái lại, thiếu đấu tranh để
thực hiện cương lĩnh là hữu khuynh, dẫn đến
mất đoàn kết.
Ba là nâng cao sự lãnh đạo của Đảng
trong mặt trận. Đây là vấn đề có tính nguyên
tắc nhằm giữ vững đường lối chính trị, mục
tiêu, nhiệm vụ cách mạng của Đảng, chống
mọi khuynh hướng hạ thấp vai trò của Đảng,
đòi chia quyền lãnh đạo trong mặt trận, xa rời
phương hướng, mục tiêu chiến lược của cách
mạng. Để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng
trong mặt trận, phải luôn luôn tránh hai
khuynh hướng lệch lạc là: cô độc, hẹp hòi, coi
nhẹ tranh thủ các lực lượng có thể tranh thủ;
hoặc đoàn kết một chiều, đoàn kết mà không
đấu tranh đúng mức với những tư tưởng và
việc làm sai trái của các thành viên trong mặt
trận. Về phần mình, Đảng không ngừng phấn
đấu nâng cao nǎng lực lãnh đạo bằng sự hoàn
thiện đường lối chiến lược, đổi mới chủ
trương, sách lược cho phù hợp với tình hình,
nhiệm vụ và cải tiến phong cách, phương thức
làm việc trong mặt trận, chống tác phong quan
liêu, mệnh lệnh, thiếu kiên trì giáo dục, thuyết
phục.
Tóm lại, bài học thành công của Đảng ta
về xây dựng khối đoàn kết thống nhất dân tộc
thông qua hình thức tổ chức các mặt trận là

vấn đề có ý nghĩa chiến lược, xuyên suốt quá
trình cách mạng nước ta từ trước đến nay, tạo
nên một sức mạnh không gì có thể phá vỡ nổi.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, vai trò của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần phải tiếp tục
được coi trọng và ngày càng mở rộng để tập
hợp mọi thành phần, lực lượng của đất nước,
tạo thành sức mạnh tổng hợp làm nên sự
nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng
và vǎn minh tiến lên chủ nghĩa xã hội
Vấn đề 9 : Phân tích cao trào
cách mạng chống đế quốc, chống phong
kiến giai đoạn 1930-1945
Trong thế kỷ XIX, khi thực dân
Pháp xâm lược nước ta, lực lượng chính của
dân tộc là nông dân đã bị mòn mỏi sau các
cuộc chiến tranh Nam Bắc Triều, rồi Trịnh
Nguyễn phân tranh; triều đình nhà Nguyễn lại
thối nát, đầu hàng, nên đế quốc Pháp đã đặt
được ách thống trị lên đầu lên cổ nhân dân
Việt Nam. Nhiều cuộc khởi nghĩa của nhân
dân ta đã nổ ra rất mãnh liệt, song đều thất bại
vì không có đường lối đúng. Đảng Cộng Sản
Việt Nam ra đời năm 1930 đánh dấu bước
chuyển biến quyết định của cách mạng Việt
Nam, mở đường thắng lợi cho cách mạng giải
phóng dân tộc Việt Nam. Bắt đầu từ đó một
đường lối, chiến lược cách mạng rõ ràng, đúng
đắn được xác định và đưa hoạt động cách
mạng của nhân dân VN đi đến thành công, đặc

biệt là trong cao trào cách mạng chống đế
quốc Pháp và phong kiến 1930-1945.
Ngay sau khi ra đời, trong
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, tiếp
đó là Luận cương chính trị, Đảng đã xác định
đường lối cách mạng Việt Nam là phải trải
qua hai giai đoạn: trước hết là cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân, sau đó tiến lên chủ
nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển của
chế độ tư bản chủ nghĩa, mục đích cuối cùng
của Đảng là thực hiện chủ nghĩa cộng sản ở
nước ta. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng luôn luôn nắm vững ngọn cờ độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì vậy đã giải
quyết đúng đắn hàng loạt vấn đề lớn của cách
mạng Việt Nam và đã giành được những thắng
lợi vĩ đại.
Cương lĩnh chính trị (tháng
2/1930) và Luận cương chính trị (tháng
10/1930) đều khẳng định : dưới thời Pháp
thuộc, xã hội Việt Nam có hai mâu thuẫn cơ
bản: mâu thuẫn giữa dân tộc ta với chủ nghĩa
đế quốc và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ
yếu là nông dân, với giai cấp địa chủ phong
kiến. Cụ thể hơn, Đảng nhận định nước ta là
nước nông nghiệp, nông dân chiếm hơn 90%
số dân, chủ nghĩa đế quốc dựa vào chế độ
phong kiến để bóc lột nhân dân, chủ yếu là
bóc lột nông dân. Nguyện vọng tha thiết và
trực tiếp của nông dân là dân tộc độc lập,

người cày có ruộng. Từ đó chỉ ra con đường
cách mạng VN là “tư sản dân quyền CM và
thổ địa CM để đi tới XH cộng sản”; bằng bạo
lực cách mạng đánh đuổi đế quốc Pháp và xóa
bỏ chế độ phong kiến VN, tiến đến cách mạng
XHCN bỏ qua phát triển TBCN.
Tuy nhiên, việc giải quyết mối
quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và
nhiệm vụ chống phong kiến để có thể phát huy
cao độ yếu tố dân tộc là vấn đề phức tạp, Đảng
ta đã phải mất một thời gian tương đối dài mới
đạt được sự nhất trí cao. Luận cương chính trị
có hạn chế là chưa vạch ra được mâu thuẫn
chủ yếu của xã hội thuộc địa nửa phong kiến;
đặt nhiệm vụ chống phong kiến lên hàng đầu,
chống đế quốc là hàng thứ yếu, cho việc phân
loại địa chủ là một sai lầm. Ngược lại với
chính cương vắn tắt cho rằng: Mâu thuẩn giữa
dân tộc và đế quốc là mâu thuẩn cơ bản của xã
hội nhưng đồng thời là mâu thuẩn chủ yếu của
xã hội, thì phải giải quyết nó trước hết; từ đó
Đảng phải đặt nhiệm vụ chống đế quốc - giải
phóng dân tộc lên hàng đầu, với khẩu hiệu "Tổ
quốc trên hết" để phát huy cao độ sức mạnh
dân tộc nhưng không coi nhẹ những nhiệm vụ
dân chủ; chống phong kiến được rải ra từng
bước, chia ra 3 loại địa chủ: tiểu địa chủ, trung
địa chủ và đại địa chủ để có sách lược phù hợp
với từng đối tượng, nhằm lôi kéo tranh thủ tập
hợp lực lượng CM. Hai nhiệm vụ chiến lược

trên phải được tiến hành khǎng khít với nhau,
không được tách rời. Đó là tư tưởng đúng đắn
về chỉ đạo chiến lược, sách lược của Đảng ta.
Đảng lãnh đạo phong trào đấu
tranh dân tộc, dân chủ tạo nên cao trào CM
1930-1931, xây dựng lực lượng ctrị với nòng
cốt là công – nông… với đỉnh cao là phong
trào Xô viết - Nghệ tĩnh, đây là cuộc tổng diễn
tập đầu tiên của CM VN dưới sự lãnh đạo của
Đảng, đem lại cho Đảng một số kinh nghiệm
về xác định mục tiêu đấu tranh, lựa chọn
phương pháp CM phù hợp với giai đoạn CM
và về tập hợp lực lượng CM.
Từ giữa năm 1935, Đảng tập
trung củng cố và phát triển Đảng trong các xí
nghiệp, hầm mỏ và nông thôn…; đẩy mạnh
công tác vận động, thu phục quần chúng và
mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống
chiến tranh.
Suốt giai đoạn thực hiện phong
trào vận động dân chủ (1936 - 1939), vận
dụng nghị quyết của quốc tế cộng sản vào
đông dương, hai nhiệm vụ chống đế quốc và
phong kiến của CM VN là không hề thay đổi.
Tháng 7/1936, CM VN chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược; đề ra nghị quyết đấu tranh chống
phát xít và bọn phản động nội địa, đòi tự do,
dân chủ, cơm áo, hòa bình. Thành lập Mặt trận
nhân dân phản đế rộng rãi bao gồm các giai
cấp, các đảng phái, các đoàn thể chính trị, tôn

giáo và dân tộc. Chuyển hướng hình thức tổ
chức từ bí mật, bất hợp pháp là chủ yếu
chuyển sang đấu tranh công khai, hợp pháp và
nửa hợp pháp là chủ yếu như: hội cày, hội cấy,
hội đá banh…để đấu tranh. Cao trào CM dân
chủ phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi Đảng phải
tiếp tục bổ sung chủ trương và biện pháp để
chỉ đạo phong trào, tháng 3-1938, TW họp
quyết định tổ chức thực hiện Mặt trận thống
nhất dân chủ và coi đó là nhiệm vụ trọng tâm
của Đảng trong giai đoạn hiện tại. Thời gian
này, Đảng còn sử dụng báo chí công khai làm
vũ khí đấu tranh CM; xuất bản nhiều sách giới
thiệu về đấu tranh giai cấp, về CNXH, CNCS.
Cao trào dân chủ 1936-1939 là
thắng lợi to lớn, đánh dấu bước phát triển mới
của phong trào CM VN. Qua phong trào,
Đảng và các lực lượng CM VN trưởng thành
nhanh chóng. Cao trào 36-39 là cuộc tổng diễn
tập lần thứ 2 cho tổng khởi nghĩa sau này. Để
lại cho Đảng ta nhiều bài học kinh nghiệm quý
giá về: xác định kẻ thù và mục tiêu đấu tranh
trước mắt; tập hợp lực lượng rộng rãi trên cơ
sở động viên sự tham gia của mọi tầng lớp
XH; để lãnh đạo được mặt trận, Đảng phải
vững mạnh về chính trị và tổ chức, phải xây
dựng khối liên minh công – nông làm nòng
cốt; phải biết sử dụng linh hoạt nhiều hình
thức đấu tranh.
Giai đoạn 1939 – 1945 trước

những biến động to lớn của tình hình thế giới
và trong nước, Đảng quyết định chuyển hướng
chỉ đạo chiến lược, tiếp tục hoàn chỉnh mối
quan hệ 2 nhiệm vụ chống đế quốc và phong
kiến. Thể hiện qua Nghị quyết TW 6
(11/1939); NQ TW 7 (11/1940); NQ TW 8
(5/1941). Các nghị quyết đều khẳng định
những nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến
của CM nước ta là không thay đổi, nhưng mục
tiêu trước mắt là đánh đổ đế quốc và tay sai,
làm cho nước nhà hoàn toàn độc lập; tạm gác
khẩu hiệu CM ruộng đất, thay vào đó là khẩu
hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc và tai sai
chia cho dân cày.
Lợi dụng Pháp thua Đức trong
chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật vào chiếm
nước ta, buộc Pháp thỏa hiệp với Nhật cùng
cai trị VN. Nhân dân ta chịu một cổ hai tròng.
Xu hướng đấu tranh vũ trang phát triển mạnh
trong nhân dân, mở đầu là cuộc khởi nghĩa
Bắc Sơn, tiếp theo là khởi nghĩa Nam Kỳ
(11/1940), khởi nghĩa Đô Lương (1/1941) đã
thức tỉnh nhân dân cả nước vùng lên tranh
đấu.
Hội nghị lần thứ tám BCH TW
(5/1941), Đảng chủ trương thành lập Mặt trận
VN độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh),
đánh đuổi đế quốc Pháp - Nhật, thành lập
Chính phủ nhân dân của nước VN dân chủ
cộng hòa. Trên cơ sở lực lượng chính trị được

xây dựng, Đảng chỉ đạo tổ chức lực lượng vũ
trang CM gồm Hội cứu quốc quân, Đội VN
tuyên truyền giải phóng quân; thành lập các
khu căn cứ địa CM; xác định khởi nghĩa từng
phần tiến đến tổng khởi nghĩa, xác định kẽ thù
của CM là Phát Xít Nhật và thực dân Pháp.
Đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động
trên mặt trận văn hóa tư tưởng, xây dựng
Đảng…chờ đợi thời cơ tổng khởi nghĩa giành
chính quyền.
Đêm 9-3-1945, Nhật đảo chính
Pháp ở Đông Dương; cũng đêm đó BTV TW
Đảng họp tại Đình Bảng (Bắc Ninh) quyết
định và Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành
động của chúng ta”; chỉ rõ phát xít Nhật giờ
đây là kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương
và nêu các khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít
Nhật”, “Thành lập chính quyền CM của nhân
dân” để chống lại chính phủ bù nhìn tay sai
của Nhật, phát động cao trào kháng Nhật, làm
tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa.
Giữa tháng 8-1945, tình thế
trực tiếp CM đã xuất hiện, khi chính phủ Nhật
đầu hàng Liên Xô và quân đồng minh vô điều
kiện, quân đội Nhật ở Đông Dương bị tê liệt
hoàn toàn. Cơ hội ngàn năm cho dân tộc ta
vùng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền
đã tới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân
ta tiến hành cuộc cách mạng tháng Tám thành
công. Và ngày 2/9/1945 tại Quảng Trường Ba

Đình Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã đọc bảng
Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa- mở đầu một kỷ nguyên
mới - kỷ nguyên độc lập tự do, dân chủ nhân
dân, tiến lên CNXH cho dân tộc VN.
Thắng lợi của cuộc tổng khởi
nghĩa tháng Tám năm 1945 là kết quả của quá
trình đấu tranh lâu dài, gian khổ của nhân dân
ta; là bước nhảy vọt vĩ đại đánh dấu sự biến
đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử tiến hóa của
dân tộc Việt Nam, từng cống hiến to lớn về lý
luận và thực tiễn đối với CM thế giới, đặt biệt
là CM giải phóng dân tộc. Nói lên sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng và tinh thần quật khởi
mạnh mẽ của toàn dân.
Nhưng với dã tâm đế quốc,
thực dân pháp đã không từ mọi thủ đoạn, đã
quay lại tái xâm lược nước ta một lần nữa.
Nhưng với bản lĩnh chính trị của Đảng cầm
quyền đã trãi qua thử thách trong thực tiễn đấu
tranh trên mọi lĩnh vực để giải phóng dân tộc,
một lần nữa Đảng ta lãnh đạo nhân dân đi vào
đấu tranh ở giai đoạn mới với hình thức, tính
chất và quy mô ác liệt hơn.
Chủ tịch HCM ra “Lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến”. Đảng ta khẳng định
đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp
của ta là: toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa
vào sức mình là chính; tuy lâu dài, gian khổ
nhưng nhất định thắng lợi.

Đại hội Đảng lần thứ II
(2/1951), Đảng đổi tên là Đảng lao động Việt
Nam (được tách ra từ ĐCS Đông Dương) và
ra hoạt động công khai. Đảng đã xác định đối
tượng của CM Việt Nam lúc là chủ nghĩa đế
quốc xâm lược cụ thể là thực dân Pháp can
thiệp Mỹ, phong kiến phản động làm tay sai
cho đế quốc là đối tượng thứ 2 của CM. Vạch
ra 3 nhiệm vụ cơ bản của CM Việt Nam là
đánh đuổi đế quốc giành độc lập dân tộc; xóa
bỏ di tích phong kiến, làm cho người cày có
ruộng phát triển chế độ dân chủ nhân dân; xây
dựng cơ sở vật chất CNXH. Nhiệm vụ chính
vẫn là hoàn thành giải phóng dân tộc. Động
lực của cuộc kháng chiến CM dân tộc dân chủ
nhân dân là giai cấp công nhân, nông dân, tiểu
tư sản thành thị, tiểu tư sản tri thức và tư sản
dân tộc. Ngoài ra còn có những nhân sĩ yêu
nước và tiến bộ. Người lãnh đạo CM là giai
cấp công nhân thông qua đội tiền phong của
giai cấp công nhân là Đảng Lao Động Việt
Nam.
Song, đồng thời Đảng chỉ đạo
thực khẩu hiệu “Người cày có ruộng”, tiến
hành cải cách ruộng đất ở vùng tự do và phát
động quần chúng triệt để giảm tô ở các vùng
địch chiếm đóng. Các hội nghị TW 1 (tháng
3/1951), TW 2 (10/51), TW 3 (4/52), TW 4
(tháng 1/1953) và đặc biệt là hội nghị TW 5
(tháng 11/191953) đều trực tiếp chỉ đạo thực

hiện những nhiệm vụ trên.
Quá trình thực hiện CM ruộng
đất diễn ra đồng thời với cuộc tiến công chiến
lược Đông – Xuân 1953 – 1954 và chiến dịch
Điện Biên Phủ, quân dân ta đã đánh bại hoàn
toàn mọi cố giắng quân sự của Pháp ở VN.
Hiệp định Giơnevơ được ký kết (tháng
7/1954), hòa bình lập lại ở Miền Bắc.
Phản ánh đúng tư tưởng chiến
lược về tính không tách rời của hai nhiệm vụ
chống đế quốc và phong kiến, phản ánh nhận
thức của Đảng muốn giữ quyền lãnh đạo dân
tộc phải thực hiện những yêu cầu dân chủ đối
với nông dân, Đại hội toàn quốc lần thứ II của
Đảng (2-1951) đã định rõ "nhiệm vụ giải
phóng dân tộc bao gồm nhiệm vụ phản phong
kiến", và thay khái niệm "cách mạng tư sản
dân quyền" bằng khái niệm "cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân". Nhận thức của Đảng
đã rõ ràng. Tuy nhiên, trong việc tổ chức thực
hiện, Đảng đã phạm sai lầm hữu khuynh, có
lúc quá chú trọng tranh thủ tầng lớp trên, coi
nhẹ phát triển lực lượng công nhân, và sai lầm
tả khuynh trong cải cách ruộng đất.
Từ những thành công cũng như
sai lầm nghiêm trọng dù là tạm thời, Đảng đã
rút ra bài học quan trọng về mối quan hệ giữa
chiến lược và sự chỉ đạo chiến lược. Đó là:
"nắm vững và giương cao ngọn cờ dân tộc và
dân chủ với hai khẩu hiệu chiến lược "dân tộc

độc lập" và "người cày có ruộng", Đảng ta đã
lôi cuốn được đông đảo nông dân đi theo giai
cấp công nhân, động viên được các tầng lớp
nhân dân khác cùng với công, nông bước lên
trận tuyến cách mạng chống đế quốc và phong
kiến. Trong quá trình cách mạng, những
nhiệm vụ chiến lược đó đã được cụ thể hoá
bằng những mục tiêu thích hợp với từng thời
kỳ, dựa trên sự phân tích những mối quan hệ
giai cấp cụ thể và khả nǎng phân hoá hàng ngũ
kẻ thù đế quốc và phong kiến, nhằm tập trung
ngọn lửa cách mạng vào kẻ thù nguy hại nhất
trong từng lúc một. Song, dù ở bất cứ thời kỳ
nào, những mục tiêu và nhiệm vụ chính trị cụ
thể do Đảng đề ra, về cơ bản đều bao hàm cả
hai nội dung dân tộc và dân chủ, về cơ bản
đều gắn liền hai nhiệm vụ chống đế quốc và
chống phong kiến". Như vậy về mối quan hệ
giữa hai nhiệm vụ chiến lược, Đảng đã nhận
thức đầy đủ hơn, diễn đạt rõ ràng hơn, có tính
lý luận sâu sắc và bảo đảm cho Đảng tránh
mắc sai lầm tả hữu khuynh trong việc lãnh đạo
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền
Nam trong thời kỳ chống đế quốc Mỹ.
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt,
đúng đắn của Đảng, cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược và can thiệp của Mỹ
đã kết thúc thắng lợi, đã đi vài lịch sử dân tộc
như một chiến công hiển hách. Với thắng lợi
của kháng chiến chống Pháp, nhiệm vụ của

cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ mà Đảng ta
đã vạch ra trong cương lĩnh chính trị đầu tiên
đã căn bản hoàn thành trên một nửa nước, mở
đường cho miền Bắc bước lên thời kỳ quá độ
lên CNXH, xây dựng hậu phương vững mạnh
để nhân dân tiếp tục đấu tranh hoàn thành CM
dân tộc, đưa chủ trương cả nước, giải phóng
miền nam, thực hiện thống nhất đất nước đi
lên xây dựng CNXH, đem lại cuộc sống tự do,
ấm no, hạnh phúc cho người dân./.
Van đề 10 : Đảng lãnh đạo cuộc đấu
tranh bảo vệ chính quyền non trẻ 1945-1946.
- Bối cảnh lịch sử: nêu được
những thuận lợi, khó khăn ở trên thế giới và
trong nước tác động đến cách mạng Việt
Nam.
- Trình bày nội dung của bản
chỉ thị kháng chiến kiến quốc ngày
25/11/1945 của Thường vụ trung ương, những
biện pháp về chính trị, kinh tế, văn hóa, quân
sự, ngoại giao để giữ vững chính quyền.
- Sách lược lợi dụng mâu thuẫn
trong hàng ngũ kẻ thù-
- Bài học kinh nghiệm rút ra:
Xây dựng chính quyền của dân,
do dân, vì dân.
Biết dựa vào dân, chăm lo lợi
ích của nhân dân.
Biết xác định chính xác kẻ thù
nguy hiểm để tập trung ngọn lửa đấu tranh

vào chúng.
Thắng lợi của cách mạng
Tháng Tám mở ra trong lịch sử Việt Nam một
bước ngoặt lớn, đem lại cho cách mạng Việt
Nam thế và lực mới, song cách mạng nước ta
lại đứng trước những thử thách hết sức nghiêm
trọng, phải đương đầu ngay với nguy cơ đe
dọa sự tồn tại của mình.
Bối cảnh đất nước ta sau cách
mạng Tháng 8/1945 có những thuận lợi và khó
khăn:
Về khó khăn:
Nền kinh tế vốn đã nghèo nàn
lạc hậu lại bị Pháp, Nhật tranh nhau vơ vét, bị
chiến tranh và thiên tai tàn phá nặng nề làm
cho xơ xác, kiệt quệ. Nạn đói đầu năm 1945
do Pháp, Nhật gây ra làm 2 triệu người chết
chưa được khắc phục, thì tháng 8/1945 lại xảy
ra lụt lớn, sau đó thì bị hạn kéo dài. Sản xuất
nông nghiệp bị đình đốn, hàng vạn công nhân
không có việc làm, hàng hóa khan hiếm, giá
cả tăng vọt. Tài chính cạn kiệt, ngân sách
trống rỗng, Ngân hàng Đông dương còn nằm
trong tay tư bản Pháp. Quân Tưởng tung tiền
Quan kim mất giá ra thị trường gây rối loạn
nền tài chính, kinh tế của ta. Nền kinh tế
thương mại của chính quyền mới trong tình
trạng nguy ngập, không còn khả năng thanh
toán thu chi.
Về mặt xã hội, dưới chính sách

ngu dân của Pháp, 95% dân số mù chữ, giáo
dục không phát triển, văn hóa đồi trụy, tệ nạn
xã hội phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh đó Chính
phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chưa được
thế giới công nhận và đặt quan hệ ngoại giao
với ta. Chính quyền non trẻ chưa được lực
lượng tiến bộ trên thế giới giúp đỡ.
Nhưng nghiêm trọng hơn cả
vẫn là nạn ngoại xâm và nội phản. Với tính
chất chống đế quốc triệt để, với vị trí tiên
phong trong phong trào chống chủ nghĩa thực
dân tại một địa bàn chiến lược quan trọng,
cách mạng Việt Nam trở thành một đối tượng
chống phá quyết liệt của các thế lực đế quốc
và phản động quốc tế. Bọn chúng cố dàn xếp
những mâu thuẫn về quyền lợi hòng chĩa mũi
nhọn tiêu diệt cách mạng Việt Nam, xóa bỏ
nền độc lập và chính quyền cách mạng mà
nhân dân ta vừa giành được và thiết lập nên,
ngăn chặn làn sóng cách mạng sang các nước
Đông Nam Á. Vì vậy, chỉ trong vòng 20 ngày
sau cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám những
đội quân của các nước đồng minh đã dồn dập
kéo đến. 20 vạn quân Tưởng đã ồ ạt tràn qua
biên giới tiến vào Miền Bắc cho đến vĩ tuyến
16. Đằng sau quân Tưởng là đế quốc Mỹ đang
âm mưu gạt Pháp ra khỏi Đông Dương. Cũng
với danh nghĩa đồng minh, phía Nam vĩ tuyến
16, quân Anh kéo vào tiếp tay cho Pháp quay
lại xâm lược Đông Dương, phối hợp với hành

động này là hàng vạn tàn quân Nhật. Ngày
23/9/1945, được quân Anh và quân Nhật làm
bình phong, Pháp nổ súng xâm lược Sài Gòn,
mở đầu xâm lược Việt Nam lần thứ hai.
Ơ trong nước, dựa vào thế lực
của đế quốc, nhiều đảng phái phản động như
Việt Nam quốc dân đảng do Vũ Hồng Khanh,
Việt Nam cách mạng đồng minh hội (Việt
Cách) do Nguyễn Hải Thần, chúng ráo riết
ngang nhiên cướp bóc dọa nạt nhân dân, đẩy
mạnh tuyên truyền xuyên tạc cộng sản để chia
rẽ quần chúng nhân dân với chính quyền cách
mạng. Bên cạnh đó thì có bọn phản động tôn
giáo như Hòa hảo, Cao đài, bọn Bình xuyên
phát triển mạnh ở phía Nam tìm cách tranh
giành chính quyền. Phía Bắc bọn phản cách
mạng đội lớp thiên chúa giáo chống phá cách
mạng rất mạnh.
Nước ta chưa nhận được sự
giúp đỡ của Liên Xô và các lực lượng tiến bộ
trên thế giới.
Song, cách mạng nước ta
cũng có mặt thuận lợi đó là:
Nhân tố phát huy sức mạnh
tổng hợp có ba dòng thác cách mạng là cách
mạng xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản
công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân
tộc.
Đảng ta có đánh giá thuận lợi
mang tính chất lâu dài vững chắc là có đảng

cầm quyền trên cả nước thống nhất về chính
trị, tư tưởng và tổ chức. Hệ thống chính quyền
các cấp được nhân dân ủng hộ, khối đại đoàn
kết dân tộc được củng cố, đang phát huy.
Xuất phát từ những thuận lợi và
khó khăn của tình hình trong nước sau cuộc
cách mạng tháng Tám năm 1945. Cách mạng
nước ta nằm trong vòng vây của chủ nghĩa đế
quốc. Chưa bao giờ đất nước ta lại có nhiều kẻ
thù hung bạo và xảo quyệt như vậy.Tổ quốc
lâm nguy, vận mệnh dân tộc như “ngàn cân
treo sợi tóc”. Tình hình đó đòi hỏi đảng và
chính quyền cách mạng phải có đường lối
chiến lược và sách lược đúng đắn mới có thể
bảo vệ và phát triển thành quả cách mạng
trong những năm 1945-1946.
Ngay sau khi tuyên bố độc lập.
Ban thường vụ Trung ương đảng, Chính phủ
lâm thời và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra
những phương hướng và biện pháp đầu tiên
nhằm đem lại quyền tự do cho nhân dân và đối
phó với âm mưu của kẻ thù. Hai nhiệm vụ cấp
bách nhất được đề ra lúc đó là cứu đói ở Miền
Bắc và kháng chiến ở Miền Nam.
Ngày 25/11/1945 Trung ương
Đảng ra chỉ thị “kháng chiến kiến quốc”
Xác định nhiệm vụ chiến lược
lúc này vẫn là cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc vì trên thực tế cuộc cách mạng ấy vẫn đang
tiếp diễn, nó chưa hoàn thành vì nước ta chưa

hoàn toàn độc lập…, chính quyền cách mạng
cùng toàn dân phải kiên quyết hoàn thành
nhiệm vụ thiêng liêng ấy. Khẩu hiệu đấu tranh
vẫn là “dân tộc trên hết”, “tổ quốc trên hết”.
Đảng xác định kẻ thù chính của ta lúc này là
thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn
lửa đấu tranh vào chúng.
Nhiệm vụ trước mắt là củng cố
chính quyền, chống thực dân Pháp, bài trừ nội
phản, cải thiện đời sống nhân dân.
Nhiệm vụ trung tâm bao trùm
lúc này là bảo vệ và củng cố chính quyền cách
mạng. Đó là nhiệm vụ hết sức khó khăn và
nặng nề. Muốn làm được điều đó, phải đồng
thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là
quyết tâm kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược và ra sức xây dựng chế độ mới.
Để thực hiện hai nhiệm vụ đó,
Đảng còn vạch ra các biện pháp đó là:
Một, về chính trị: để giữ vững
củng cố chính quyền cách mạng, đảng xúc tiến
việc bầu cử, thành lập Chính phủ, soạn thảo
hiến pháp và tiến hành bầu cử hội đồng nhân
dân các cấp, kiện toàn bộ máy chính quyền từ
trung ương đến cơ sở. Mở rộng Mặt trận dân
tộc thống nhất nhằm thu hút cả tầng lớp tư sản
và địa chủ yêu nước tiến bộ, hội liên hiệp quốc
dân Việt Nam tức mặt trận liên Việt ra đời.
Đảng tuyên bố tự giải tán tháng 11/1945 mà
thực chất là rút vào hoạt động bí mật. Đây là

sách lược để bảo toàn lực lượng.
Hai, về kinh tế, tài chính:
trước mắt đảng tổ chức lạc quyên cứu đói,
biện pháp cơ bản và lâu dài là tăng gia sản
xuất. Phát động phong trào thi đua sản xuất
với khẩu hiệu “tấc đất tấc vàng”; khôi phục
các nhà máy, hầm mỏ, mở rộng hợp tác xã, lập
ngân hàng quốc gia, phát hành giấy bạc. Nhờ
đó nạn đói được đẩy lùi, sản xuất được khôi
phục nhanh và phát triển.
6-4
6-6
Phát động nhân dân tự nguyện
đóng góp tiền của hưởng ứng “tuần lễ vàng”,
xây dựng “quỹ độc lập” ngân hàng nhà nước
tăng lên hàng chục triệu đồng với hàng trăm
kg vàng, nền tài chính độc lập được từng bước
xây dựng.
Ba, về quốc phòng, an ninh:
chính quyền cách mạng nhanh chóng xóa bỏ
bộ máy cai trị của chính quyền cũ, giải tán các
đảng phái phản động, kiên quyết trừng trị bọn
phản quốc, giáo dục nhân dân tăng cường
cảnh giác, bảo vệ chính quyền cách mạng.
Đảng coi trọng và phát triển các công cụ bạo
lực cách mạng. Cuối năm 1946, quân đội
thường trực đã lên đến 8 vạn người. Việc quân
sự hóa toàn dân được thực hiện rộng khắp.
Bốn, về văn hóa xã hội: Đảng
vận động toàn dân xây dựng nền văn hóa mới,

xóa bỏ mọi tệ nạn, văn hóa nô dịch, thực hiện
nền giáo dục mới, phát triển “bình dân học
vụ” để diệt “giặc dốt”. Chỉ trong một năm cả
nước đã có 2,5 triệu người biết đọc, biết viết.
Năm, về ngoại giao: Để thoát
khỏi vòng vây đế quốc, tránh tình thế đối đầu
với nhiều kẻ thù cùng một lúc, Đảng và chủ
tịch Hồ Chí Minh đã thi hành những sách lược
ngoại giao khôn khéo, mềm dẻo nhằm ngăn
chặn chiến tranh, kéo dài thời gian hòa hoãn
để xây dựng lực lượng cách mạng.
Thực hiện sách lược hòa hoãn
hai giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất từ tháng
9/1945 đến tháng 3/1946. Đây là giai đoạn
tạm thời hòa hoãn với Tưởng trên Miền Bắc
để tập trung chống Pháp ở Miền Nam.
Đảng ta xác định rõ thực dân
Pháp là kẻ thù chính, trước mắt và nguy hiểm
hơn cả, cần phải tập trung chĩa mũi nhọn đấu
tranh vào chúng, vì chúng đã và đàng trắng
trợn vũ trang xâm lược Nam bộ. Vì thế đảng
chủ trương hòa hoãn, nhân nhượng ở Miền
Bắc để tập trung sức chống Pháp ở Miền Nam.
Nội dung nhân nhượng chủ yếu là: ta cung cấp
lương thực cho quân đội Tưởng và tay sai của
chúng; mở rộng 70 ghế trong Quốc Hội cho
bọn Việt Quốc, Việt Cách không phải qua bầu
cử và đưa một số đại diện của các đảng này
vào Chính phủ liên hiệp lâm thời; các lực

lượng vũ trang được lệnh tránh các xung đột
với quân Tưởng, không để mắc vào cạm bẫy
khiêu khích kiếm cơ hội lật đổ chính quyền
cách mạng của chúng.
Tuy có nhân nhượng với
Tưởng ở một số mặt, nhưng ta vẫn đảm bảo
nguyên tắc giữ vững thành quả cách mạng và
đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với chính
quyền, nhà nước. Dù thực hiện Chính phủ liên
hiệp, nhưng bản chất cách mạng của chính
quyền vẫn được giữ vững và chỉ liên hiệp ở
cấp trung ương. Trong khi hòa hoãn với
Tưởng, ta vẫn không ngừng cảnh giác, khi cần
thiết thì kiên quyết trấn áp bọn phản động để
giữ vững chính quyền cách mạng. Nhờ đó
Miền Bắc được ổn định và củng cố tập trung
sức người, sức của cho Miền Nam chống xâm
lược. Trải qua nửa năm đấu tranh gay go với
sách lược ngoại giao sáng suốt, ta đã làm thất
bại một bước ý định âm mưu của Tưởng và
tay sai, giữ vững và củng cố chính quyền cách
mạng.
Giai đoạn thứ hai từ tháng
3/1946 đến tháng 12/1946, đây là giai đoạn
tạm thời hòa hoãn với thực dân Pháp để đẩy
nhanh quân Tưởng về nước.
Ngày 28/2/1946, Tưởng và
Pháp đã ký hiệp ước thỏa thuận để quân Pháp
vào Miền Bắc thay thế quân Tưởng “canh giữ
tù binh Nhật” và giữ trật tự” theo “hiệp ước

quốc tế”. Hiệp ước Hoa-Pháp thực chất là sự
mua bán chính trị giữa các thế lực đế quốc
nhằm hợp pháp hóa hành động xâm lược của
Pháp ở Đông dương. Điều đó đặt cho cách
mạng nước ta trước “sự đã rồi”, chỉ có hai con
đường hoặc cầm súng đánh Pháp, ta sẽ cùng
lúc đối đầu với kẻ thù, hoặc tạm thời hòa hoãn
với Pháp ta sẽ tránh được tình thế bất lợi phải
chiến đấu với nhiều kẻ thù. Đảng ta chọn con
đường thứ hai “hòa để tiến”.
Thực hiện chủ trương đó, chủ
tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt
Nam ký với đại diện Chính phủ Pháp bản hiệp
định sơ bộ ngày 6/3/1946. Với hiệp định này,
về pháp lý Pháp đã phải công nhận nước ta là
một nước tự do có Chính phủ, nghị viện, quân
đội và tài chính riêng. Việc quân Pháp vào
Miền Bắc cũng được qui định rõ về địa điểm,
thời gian và số lượng.
Trong bối cảnh lịch sử lúc đó,
ký hiệp định sơ bộ là một chủ trương đúng
đắn, sáng tạo,một mẫu mực tuyệt vời của sách
lược Lêninnit về lợi dụng mâu thuẫn trong
hàng ngũ kẻ thù và về nhân nhượng có nguyên
tắc. Thực tế cách mạng đối với cả nước, hiệp
định sơ bộ tạo điều kiện hòa hoãn để nhân dân
ta củng cố thành quả cách mạng đã giành
được, chuẩn bị điều kiện đưa sự nghiệp kháng
chiến kiến quốc tiến lên bước phát triển mới.
Ký hiệp định sơ bộ là tạo thêm cơ sở pháp lý

buộc Tưởng phải rút nhanh khỏi Miền Bắc.
Đối với Miền Nam, trước tình thế cuộc kháng
chiến đang đứng trước những thử thách gay
gắt, hiệp định sơ bộ tạo điều kiện cho lực
lượng kháng chiến trở lại bám trụ thôn xã, tạo
sức mạnh để cùng cả nước bước vào cuộc
kháng chiến toàn quốc với tư cách và sức
mạnh mới.
Ngày 14/9/1946 ta ký tạm ước
với Chính phủ Pháp, đây là một nhân nhượng
cuối cùng của ta đối với Pháp. Chúng ta không
nhân nhượng được nữa và cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp bắt đầu.
Như vậy, với những sách lược
ngoại giao tài tình, sáng suốt, lúc thì nhân
nhượng với Tưởng để đánh Pháp, khi thì tạm
thời bắt tay với Pháp để đuổi quân Tưởng vè
nước, cách mạng Việt Nam đã bảo vệ được
độc lập dân tộc và thành quả cách mạng trong
điều kiện vô cùng khó khăn. Điều đó thể hiện
năng lực lãnh đạo của đảng cộng sản Việt
Nam và chủ tịch Hồ Chí Minh là rất sáng suốt,
nhạy cảm về chính trị, đánh giá đúng âm mưu,
hành động, thế lực của kẻ thù để có đối sách
thích hợp. Đảng cũng luôn giữ vững nguyên
tắc chiến lược là bảo vệ chủ quyền và độc lập
thống nhất tổ quốc, giữ vững chính quyền và
thành quả cách mạng. Nắm vững nguyên tắc
nhưng lại mềm dẻo về sách lược, linh hoạt về
hình thức đấu tranh, luôn đề cao chính nghĩa

và tỏ rõ thiện chí của mình, đặc biệt luôn tỉnh
táo về chính trị, sẵn sàng đối phó với tình
huống xấu nhất.
Từ những thành công của Đảng
trong việc xây dựng, bảo vệ chính quyền giai
đoạn 1945-1946, có thể rút ra một số kinh
nghiệm trong quá trình xây dựng nhà nước
ta giai đoạn hiện nay như sau :
Một là, phải gắn bó mật thiết
với nhân dân, dựa hẳn vào dân, vì lợi ích của
nhân dân, đó là nguồn gốc sức mạnh của
chính quyền trong các giai đoạn cách mạng.
Là chính quyền nhân dân, chính quyền với
nhân dân "phải kết thành một khối", chính
quyền phải gắn bó với dân, dựa vào sức mạnh
của nhân dân và phải trở thành công cụ làm
chủ thật sự của nhân dân. Quyền làm chủ của
dân, những yêu cầu dân chủ cơ bản phải được
thể chế hoá bằng hiến pháp và hệ thống pháp
luật, quy chế, quy tắc trong đời sống xã hội,
được ghi nhận và thực hiện qua các chính sách
kinh tế, xã hội. Hệ thống pháp luật và chính
sách kết tinh ý chí, nguyện vọng và lợi ích của
nhân dân, nó càng đúng đắn và hoàn chỉnh bao
nhiêu, càng thể hiện quyền làm chủ của nhân
dân bấy nhiêu. Đó cũng là thước đo trình độ
của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của nước ta
hiện nay. Xây dựng và củng cố chính quyền
thực sự của dân, do dân và vì dân là một quá
trình đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, giữa ý

thức và nǎng lực làm chủ của nhân dân với
thói quen an phận của người bị trị dưới chế độ
cũ cùng lề thói hủ lậu của kẻ có chức quyền.
Quá trình đó đòi hỏi phải có nhận thức và
quan điểm đúng đắn, phải đổi mới, hoàn thiện
cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, phương thức
hoạt động và cả sự lựa chọn con người vào bộ
máy chính quyền sao cho thể hiện đúng bản
chất của chính quyền nhân dân
Hai là, phải thường xuyên
củng cố bộ máy nhà nước trong sạch, vững
mạnh, chống nguy cơ quan liêu hoá, bảo đảm
khả nǎng tự bảo vệ. Sức mạnh của nhà nước
biểu hiện trước hết ở sự trong sạch, vững
mạnh trong bộ máy của nó, ở nǎng lực tổ
chức, quản lý mọi hoạt động kinh tế - xã hội
theo pháp luật. Vì vậy, tǎng cường sức mạnh
của nhà nước là tǎng cường bộ máy nhà nước
sao cho gọn nhẹ, hiệu quả vững mạnh. Hoạt
động của các cơ quan quyền lực đã đi vào thực
chất, khắc phục chủ nghĩa hình thức, mang lại
hiệu quả thiết thực. Quốc hội đã từng bước
làm được chức nǎng của cơ quan quyền lực
cao nhất của nhà nước. Chính phủ và các cấp
chính quyền với chức nǎng hành pháp, quản
lý, điều hành theo cơ chế quản lý mới và nắm
chắc công cụ pháp luật. Các cơ quan bảo vệ
luật pháp đã phát huy vai trò độc lập của
mình. Chính sự chuyển động tích cực và đúng
hướng đó đã làm cho bộ máy có hiệu lực hơn

và sức mạnh của Nhà nước được tǎng cường.
Ba là không ngừng chǎm lo xây dựng,
củng cố cơ sở kinh tế và cơ sở xã hội là sự
bảo đảm cho chính quyền nhân dân vững
mạnh . Cơ sở kinh tế, xã hội quyết định sức
mạnh của nhà nước, ngược lại nhà nước có vai
trò quan trọng, thậm chí là nhân tố quyết định
làm cho cơ sở kinh tế và xã hội ngày càng lớn
mạnh. Vì vậy, phát triển kinh tế, xã hội là một
trong những chính sách hàng đầu của Nhà
nước ta trong mọi giai đoạn cách mạng, đặc
biệt là trong giai đoạn hiện nay. Điều đó
không chỉ nhằm củng cố sức mạnh của Nhà
nước, mà còn là mục tiêu của chủ nghĩa xã
hội.
Bốn là phải có sách lược mềm
dẻo, khôn khéo, lợi dụng mâu thuẩn trong
hàng ngũ địch, cô lập cao độ kẻ thù chính,
trung lập những người có thể trung lập, tranh
thủ những người có thể tranh thủ, nhằm làm
suy yếu vị trí và thế lực của chúng, làm tăng
thêm sức mạnh và tạo điều kiện đưa cách
mạng tiến lên
Năm là sự lãnh đạo của Đảng
là nhân tố quyết định bản chất, sức mạnh và
sự tồn tại của chính quyền nhân dân . Giữ
vững và nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước không chỉ có ý nghĩa quyết
định sự sống còn của chính quyền cách mạng,
mà còn là sự tồn tại của bản thân Đảng và chế

độ xã hội chủ nghĩa. Để đảm đương được vai
trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức, phải thường xuyên tự
đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ
trí tuệ, nǎng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền
thống đoàn kết thống nhất trong Đảng, bảo
đảm đầy đủ dân chủ và kỷ luật trong sinh hoạt
Đảng.
Tóm lại, qua phân tích những
điều đã nêu trên đã cho chúng ta thấy được
tình hình đất nước sau cuộc cách mạng tháng
Tám năm 1945. Cách mạng Việt Nam phải
đương đầu với những khó khăn và thử thách
để bảo vệ chính quyền non trẻ, tình thế cách
mạng ở trạng thái “nghìn cân treo sợi tóc”.
Nhưng với sự lãnh đạo của đảng và chủ tịch
Hồ Chí Minh đã thực hiện được nhiều nhiệm
vụ lớn: kháng chiến chống xâm lược, giữ vững
độc lập, trấn áp các thế lực phản động, củng
cố chính quyền, xây dựng chế độ mới, phát
triển kinh tế, văn hóa đã từng bước ổn định
đời sống nhân dân, củng cố độc lập dân tộc.
Những chủ trương, biện pháp đúng đắn đó đã
khơi dậy sức mạnh to lớn của dân tộc, do đó
chẳng những bảo vệ được chính quyền, mà
còn đưa cách mạng tiếp tục bước vững chắc
giành thế chủ động ngay từ đầu cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược./.
Vấn đề 11 : P/T đường
lối nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc

và CNXH của đảng ta trong giai
đoạn 54-75 khi cả nước tiến hành
đồng thời 2 chiến lươc cách mạng:
cách mạng XHCN miền bắc và
CMDTDCND ở miền nam
Trong BCCT của BCHTW
Đảng tại ĐH ĐB toàn quốc lần thứ IV
đã nêu: "Giương cao ngọn cờ độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đường lối
đó, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch
sử cách mạng Việt Nam từ khi có đảng,
là ngọn bách chiến bách thắng của cách
mạng Việt Nam.Với đường lối cơ bản
ấy , Đảng đã giải quyết đúng một loạt
các v/đề về c/lược và s/lược trong
c/mạng d/tộc d/chủ cũng như trong
c/mạng XHCN “
Đường lối kết hợp độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội của đảng là
sản phẩm của sự kết hợp sáng tạo giữa
CN Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
với thực tế cách mạng Việt Nam. Thực
chất của vấn đề giương cao 2 ngọn cờ
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
chính là quan niệm và cách giải quyết
mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với
giai cấp, gắn cách mạng giải phóng với
xu thế thời đại của Đảng CSVN. Vấn đề
dân tộc bao giời cũng mang tính giai
cấp và được giải quyết theo quan điểm

của từng giai cấp.
Từ thế kỷ 16, 17, 18 khi
giai cấp tư sản là giai cấp tiên tiến đại
diện cho phương thức sản xuất mới thì
dân tộc gắn liền với giai cấp tư sản.
Giương cao ngọn cờ dân tộc chống chế
độ phong kiến lỗi thời, tạo lập thị
trường thống nhất dân tộc, thqực hiện
d/chủ cho nhân dân nên đã tập hợp
được sức mạnh toàn dân đập tan c/độ
p/kiến. Thắng lợi của g/cấp tư sản lúc
đó chính là t/lợi CNDT tư sản, của
CNTB.
Nhưng từ cuối thế kỹ 19 sang
đầu thế kỹ 20, CNTB chuyển sang
CNĐQ. Hấu hết các dân tộc đều bị nô
dịch và phụ thuộc vào giai cấp tư sảnvà
nó không còn là g/cấp tiên tiến mà trở
thành g/cấp phản động ngăn cản sự phát
triển của dòng chảy lịch sử.
Năm 1917 lịch sử nhân loại có
chuyển biến vĩ đại nhất của lịch sử loài
người - đó là thắng lợi cuộc cách mạng
tháng 10 nga, mở đầu thời đại mới quá
độ từ CNTB sang CNXH trên phạm vi
toàn thế giới. Giai cấp công nhân đại
diện cho phương thức sản xuất mới
XHCN đã thực sự trở thành giai cấp
tiên tiến có khả năng giải quyết đúng
đắng các vấn đề dân tộc , kết hợp đúng

đắn lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc
trong thới đại mới. Đây là thời đại cho
phép thực hiện bước quá độ lịch sử từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
bao gồm cả khả năng bỏ qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa. Và như vậy
có thể vượt qua những hạn chế trong
việc giải quyết vấn đề độc lập dân tộc
của lập trường phong kiền hay tư sản nó
thể hiện :
Độc lập dân tộc thực sự phải
đảm bảo cho dân tộc có quyển tự quyết
và độc lập dân tộc đòi hỏi phải xóa bỏ
áp bức bóc lột và nô dịch dân tộc. Như
vậy chỉ có cuộc cách mạng do giai cấp
công nhân lãnh đạo mới gắn liền giải
phóng dân tộc với giải phóng giai cấp
vì mục đích của cuộc cách mạng vô sản
là chế độ công hữu về TLSX nhờ đó
xóa bỏ tận gốc tình trạng người bóc lột
người. Và quyền lợi của giai cấp công
nhân thống nhất với quyền lợi của nhân
dân lao động, của dân tộc và của xã hội.
giải phóng giai cấp công nhân gắn liền
với giải phóng xã hội. Độc lập dân tộc
gắn liền với xây dựng quốc gia dân tộc
theo mục tiêu lý tưởng của chủ nghĩa xã
hội. Nền độc lập thực sự của dân tộc sẽ
tìm thấy sự bền vững trên con đường
phát triển của chủ nghĩa xã hội.

Vào những năm 20 của thế kỹ
20 việt nam cũng chịu sự tác động của
xu thế đó. dưới ách thống trị của chủ
nghĩa thực dân pháp cấu kết với giai
cấp địa chũ phong kiến việt nam, nhân
dân việt nam điêu đứng trong cảnh mất
nước, bị xóa tên trên bản đồ thế giới, bị
áp bức về chính trị, bóc lột về kinh tế,
đầu độc về văn hóa, quyền sống và mội
quyền con người bị chà đạp thô bạo.
Khat vọng giải phóng ngày càng thúc
dục bao người yêu nước việt nam tìm
kiếm con đường cứu nước. Tất cả các
con đường của sỹ phu yêu nuớc bị đàn
áp, thất bại vì chưa có đường lối cứu
nước đúng đắn và những biện pháp
hành động thích hợp.
Nguyễn ái quốc đã đến với Chủ
nghĩa Mac-Lênin và tìm ra con đường
cứu nước cho dân tộc. Người khẳng
định : muốn cứu nước và giải phóng
dân tộc không có con đường nào khác
ngoài con đường cách mạng vô sản và
“Chỉ có giãi phóng giai cấp vô sản thì
mới giải phóng được dân tộc cả 2 cuộc
giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp
của chủ nghĩa cộng sản và của cách
mạng thế giới”.
Tư tưởng về con đường giải
phóng dân tộc của nguyễn ái quốc phản

ách chính xác chân lý của thời đại :
Ngày nay vấn đề dân tộc chỉ được giải
quyết đúng đắn theo lập trường của giai
cấp công nhân. Công cuộc giải phóng
dân tộc phải gắn bó với đấu tranh giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải
phóng con người, độc lập dân tộc phải
gắn liến với CNXH .
Quá trình của cách mạng Việt
Nam đã chứng minh độc lập dân tộc là
mục tiêu của cách mạng giải phóng dân
tộc, là tiền đề và điều kiện để xây dựng
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là
đảm bảo chắc chắn và bền vững nhất
cho nền độc lập dân tộc.
Giai đoạn cách mạng 54 – 75 đã
thể hiện rõ nét điều khẳng định trên.
Từ sau tháng 7/1954, đặc điểm
lớn nhất của nước ta tạm thời chia làm
2 miền với 2 chế độ chính trị xã hội đối
lập. Sự kết hợp ngọn cờ độc lập dân tộc
với CNXH lúc này được thực hiện 1
cách độc đáo chưa có tiền lệ lịch sử.
Thành công rực rỡ của Đảng ta thời kỳ
này là đã nhận thức sâu sắc và thực hiện
sáng tạo thành công sự kết hợp chặt chẽ
2 cuộc cách mạng ở 2 miền đất nước
hướng tới thực hiện mục tiêu chung của
cách mạng cả nước.
Tiếp tục thực hiện cương lĩnh

chính trị đầu tiên của Đảng : phát triển
tư tưởng của nhiều HNTW trước đó
nhất là NQTW 15 khóa 2, ĐH 3 tháng
9/1960 đã quyết định :
Thứ nhất tiến hành đồng thời 2
chiến lược cách mạng, miền Bắc thực
hiện chiến lược cách mạng Xã hội chủ
nghĩa, miền Nam thực hiện chiến lược
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Thứ hai vị trí chiến lược cách
mạng của từng miền được xây dựng :
miền Bắc xã hội chủ nghĩ giữ vai trò
quyết định nhất cho sự nghiệp cách
mạng cả nước và sự nghiệp đấu tranh
nhằm thực hiện thống nhất nước nhà.
Miền Nam giữ vai trò quyết định trực
tiếp trong cuộc đánh đuổi ĐQ mỹ và tay
sai giải phóng miền Nam.
Thứ 3 : 2 chiến lược với nhiệm
vụ cụ thể khác nhau được tiến hành
cùng 1 thời gian dưới sự lãng đạo thống
nhất của Đảng có tác dụng hỗ trợ lẫn
nhau cùng phát triển. Miền Bắc vừa xây
dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội vừa
làm hậu thuẫn chi viện cho cách mạng
dân tộc dân chủ miền Nam. Miền Nam
vừa trực tiếp đấu tranh để giải phóng
vừa góp phần bảo vệ miền Bắc. Cả 2
cuộc cách mạng cùng góp phần thực
hiện nhiệm vụ chung của cả nước là

hoàn thành độc lập thống nhất đất nước.
Chủ trương trên của Đảng là sự
kế thừa phát triển sáng tạo luận điểm
cách mạng không ngừng của Lênin.
Chống lại các quan điểm không đúng là
tập trung sức xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc, thi đua kinh tế với miền
Nam. trên cơ sở trường kỳ mai phục
hoặc chờ miền Nam hoàn toàn giải
phóng rồi cả nước tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Trên thực tế có tiến lên chủ nghĩa
xã hội, miền Bắc mới tăng cường được
lực lượng vững mạnh mọi mặt và đủ
sức làm tròn nhiệm vụ hậu phương lớn
đáp ứng yêu cầu của cách mạng miền
Nam. Gắn bó chặt chẽ với cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc ở miền nam
mới phát triển mạnh cả thế và lực đã
hội tụ và phát huy được sức mạnh tổng
hợp của cả 2 miền, của toàn dân và thời
đại. Tư thực tiễn 21 năm chống Mỹ cứu
nước mới thấy rõ kết luận cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam
có tác dụng quyết định trực tiếp đối với
việc đánh đổ đế quốc Mỹ và bè lũ tay
sai là đúng.
Đảng ta luôn chủ động phát triển
thực lực cách mạng miền Nam từ lực
lượng tại chỗ kết hợp với sự giúp đỡ

tăng cường của cả nước, lúc này độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội gắn bó
khắng khít với nhau trong từng miền và
trên cả nước. Chủ nghĩa xã hội không
chỉ là lý tưởng, là phương hướng phát
triển và động lực tinh thành mà trở
thành sức mạnh vật chất của cách
mạng, là mục tiêu trực tiếp của miền
bắc : đường lối nắm vững và giương
cao 2 ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội của Đảng trong giai đoạn
độc đáo này đã làm nên chiến thắng lịch
sử vĩ đại là giải phóng hoàn toàn miền
Nam thống nhất tổ quốc.
Kết quả thực hiện từng chiến
lược : 21 năm xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miển bắc đã :
- Xác lập được quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa xóa bỏ về căn bản chế
độ người bóc lột người.
- Xây dựng được cơ sở vật chất
ban đầu cho chủ nghĩa xã hội.
- Đã phát triển nhanh có chất
lượng và hiệu quả sự nghiệp giáo dục
đào tạo, phát triển văn hoá y tế.
- Tạo dựng được xã hội lành
mạnh trật tự kỷ cương bình đẳng nghĩa
tình.
- Đã ổn định và đảm bảo đời
sống chomọi tầng lớp nhân dân bằng

phân phối theo lao động và chính sách
thời chiến.
- Miền Bắc đã hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ hậu phương lớn cho chiến
trường miền Nam và cả 3 nước Đông
dương trong khi phải chiến đấu chống
lại 2 cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ
leo thang ra Miền Bắc
Ở Miền Nam, trải qua 21 năm
chiến đấu thực hiện nhiệm vụ độc lập
dân tộc, nhân dân ta đã đánh thắng cuộc
chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa
thực dân mới, với qui mô lớn nhất, dài
ngày nhất, át liệt nhất và dã man nhất từ
sau chiến tranh thế giới thứ 2.
Trong cuộc chiến tranh cách
mạng lâu dài đó, nhân dân ta đã lần
lược đánh bại những chiến lượt khác
nhau của tổng thống Mỹ như”chiến
tranh đơn phương “, “chiến tranh cục
bộ”, “chiến tranh đặc biệt” và “VNam
hóa chiến tranh”. Tổng cộng Mỹ đã đưa
vào việt nam 80 vạn quân, ném xuống
Vnam 7 triệu 850ngàn tấn bơm và tiêu
tốn 352tỷUSD. Nhưng nhân ta đã toàn
thắng.
Với chiến 30/04/75 của Vnam là
thất bại lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ.
Báo cáo chính trị của BCHTW
tại ĐHĐBTQ lần thứ 4 đã nêu:”vận

dụng sánh tạo CN Máclênin vào hoàn
cảnh cụ thể nước ta sau khi đế quốc Mỹ
thay chân pháp đặt ách thống trị ở miền
nam đảng ta đã vạch ra đường lối tiến
hành đồng thời cách mạng DTDC nhân
dân ở Mnam và CM XHCN ở miền bắc.
Dương cao cùng một lúc 2 ngọn cờ độc
lập dân tộc và CNXH. Vì giải phóng
miền nam phải bảo vệ và xây dựng
miền bắc và để bảo vệ và xây dựng
miền bắc phải đánh thắng giặc Mỹ ở
miền nam. hai nhiệm vụ đó được kết
hợp chặc chẽ với nhau trên phạm vi
chiến lược nhằm 1 mục tiêu chung là
hoàn thành CMDTDC nhân dân trong
cả nước, thực hiện thống nhất nước
nhà”.
Vị trí từng chiến lược:
“hai nhiệm vụ chiến lược CM
được tiến hành đồng thời và kết hợp
chặc chẽ với nhau: CMDTDC nhân dân
ở miền nam và CMXHCN ở miền bắc
trong đó CMDTDC nhân dân có tác
dụng quyết định trực tiếp đối với việc
đánh đỗ ách thống trị của đế quốc mỹ
và tai sai còn cách mạng XHCN ở miền
bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với
sự phát triển toàn bộ cách mạng nước
ta đối với sự nghiệp thống nhất nước
nhà./.

Vấn đề 12 : Phân tích bối
cảnh lịch sử của chỉ thị toàn quốc kháng
chiến (22.12.1946) và kết quả của chủ
trương ấy.
I. Phân tích bối cảnh lịch sử :
Từ tháng 9/1945 đến 12/1946, vượt qua
muôn vàn thử thách sóng gió do thù trong giặc
ngoài gây ra, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta
giữ vững được chính quyền cách mạng, chuẩn
bị lực lượng về mọi mặt cho cuộc kháng chiến
toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược,
điều mà Đảng đã biết chắc là không thể nào
tránh khỏi.
Mặc dù đã cùng ta kí Hiệp định sơ bộ
6/3/1946 và tạm ước 14/9/1946, song với bản
chất ngoan cố và phản động của chủ nghĩa đế
quốc, bọn thực dân Pháp đã ráo riết thực hiện
âm mưu đặt lại nền thống trị trên toàn bộ đất
nước ta. Trước tình hình đó, Đảng ta thấy rõ
“Nhất định không sớm thì muộn Pháp sẽ đánh
mình và mình cũng nhất định phải đánh
Pháp”. Đầu 11/1946, Hồ Chí Minh ra chỉ thị
“Công việc khẩn cấp bây giờ” người nêu lên
kháng chiến phải đi đôi với kiến quốc, vạch ra
những công việc về quân sự , chính trị, kinh
tế…. Người nhấn mạnh cần phải hiểu và làm
cho dân hiểu cuộc kháng chiến của ta rất gay
go, gian khổ, phải kháng chiến lâu dài để
chống lại chiến tranh “chớp nhoáng” của
địch. Muốn kháng chiến lâu dài và thắng lợi

phải có quyết tâm “Cố gắng sức qua khỏi mùa
lạnh lẽo, thì ta sẽ gặp mùa xuân”…
Đúng như nhận định của Đảng, thực dân
Pháp hoàn toàn bội ước cố ý gây cuộc chiến
tranh xâm lược toàn bộ nước ta, Đảng phải
lãnh đạo nhân dân cả nước đứng lên kháng
chiến trong một bối cảnh một là khoanh tay,
cúi đầu trở lại làm nô lệ; hai là đấu tranh đến
cùng để giữ lấy độc lập và tự do.
A- Thuận lợi :
 Trong nước :
Trước ngày kháng chiến toàn quốc nổ ra,
Đảng ta đã có những chủ trương quan trọng
kịp thời chỉ đạo kháng chiến ở miền Nam và
chuẩn bị cho cả nước kháng chiến.
* Nội dung chỉ thị “Kháng chiến toàn
quốc” (25 tháng 11 năm 1945)
* Nghị quyết hội nghị quân sự toàn quốc
của Đảng (19/10/1946) và văn kiện “Công
việc khẩn cấp bây giờ” đã đặt nền móng cho
đường lối kháng chiến của Đảng ta.
- Từ tháng 2 năm 1946, Đảng và Nhà nước ta
đã kiên trì đấu tranh với Pháp, liên tiếp nhân
nhượng Pháp những quyền lợi quan trọng để
bày tỏ thiện chí hòa bình của nhân dân Việt
Nam, đồng thời tạo điều kiện chuẩn bị cho
cuộc kháng chiến mà ta biết khó có thể tránh
khỏi.
- Tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến
cùng những thành quả đạt được từ sau khi

giành chính quyền đến ngày kháng chiến toàn
quốc đã tạo nên những thuận lợi mới, căn bản
có thể phát huy lâu dài, bảo đảm thắng lợi cho
nhân dân ta trong cuộc kháng chiến. Như : tổ
chức tổng tuyển cử, bầu Quốc hội
(06/01/1946), ban hành hiến pháp Nhà nước
(11/1946)… đã tạo tính hợp hiến, hợp pháp
của chính phủ Hồ Chí Minh. tích cực xây
dựng lực lượng vũ trang bao gồm : Quân đội
và Công an nhân dân. Thành lập Hội liên hiệp
quốc dân Việt Nam (5/1946) thu hút sức mạnh
của khối đại đoàn kết dân tộc. Phát động
“tuần lễ vàng”, xây dựng “quỹ độc lập”, diệt
giặc đói, khai hoang phục hóa, phát triển sản
xuất, thực hành tiết kiệm, phát hành tiền tệ…
đã ngăn chặn được nạn đói, cải thiện đời sống
nhân dân. Tổ chức phong trào bình dân học
vụ, kêu gọi “chống nạn thất học”, xây dựng
nếp sống văn hóa mới cho xã hội, xóa bỏ các
hủ tục…
 Thế giới :
- Cuộc kháng chiến của nhân dân ta diễn ra
khi chủ nghĩa tư bản thế giới, đặc biệt là nước
Pháp bị suy yếu nghiêm trọng sau chiến tranh
thế giới thứ hai, lệ thuộc vào Mỹ trên nhiều
Phương diện.
- Hệ thống XHCN đang hình thành, phong
trào giải phóng dân tộc phát triển rất mạnh
mẽ… đã cổ vũ tạo nhiều điều kiện thuận lợi để
nhân dân ta góp phần quan trọng cùng nhân

dân các nước thuộc địa đánh thắng chủ nghĩa
thực dân (Liên Xô và các nước Đông Âu).
B- Khó khăn :
 Trong nước :
- Đối tượng của ta là quân đội nhà nghề của
thực dân Pháp, có trình độ tác chiến phương
pháp chiến tranh hiện đại, được sự hậu thuẫn
bởi một nền sản xuất TBCN phát triển. Thực
dân Pháp lại có kinh nghiệm trong chiến tranh
xâm lược và thống trị ở Việt Nam gần một thế
kỉ, đã từng xây dựng ở Việt Nam những cơ sở
kinh tế, xã hội, chính trị nhất là làm cơ sở cho
chiến tranh và chính sách thống trị thuộc địa.
Tính đến thời điểm 12/1946 quân đội Pháp đã
có gần 10 vạn người đóng tại những vị trí
trọng yếu trên khắp Việt Nam, trong khi đó
lực lượng vũ trang của ta chỉ có trên 8 vạn
người với trang bị còn thô sơ, lại chưa được
huấn luyện kĩ càng…
- Nền kinh tế của nước ta lúc đó còn rất lạc
hậu và kém phát triển chưa thể đáp ứng đủ và
kịp thời cho nhu cầu của cuộc chiến tranh quy
mô to lớn hiện đại.
 Thế giới :
- Hành động đánh chiến Việt Nam của thực
dân Pháp lần này xuất phát từ chiến lược phản
kích toàn cầu của chủ nghĩa đế quốc sau chiến
tranh thế giới lần thứ II để chống lại chủ nghĩa
cộng sản và phong trào giải phóng dân tộc.
Chính vì vậy, các nước đế quốc tiêu biểu đặc

biệt là Mĩ đã ủng hộ và tạo nhiều điều kiện
cho cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp ở
Việt Nam, và thông qua đó nhằm từng bước
chi phối, gây ảnh hưởng trong khu vực.
- Chủ nghĩa đế quốc bao vây nước ta từ bốn
phía, trong khi đó chúng ta chưa có điều kiện
liên lạc, trao đổi kinh nghiệm và nhận sự giúp
đỡ trực tiếp từ các nước anh em.
Từ bối cảnh trên, cuộc kháng chiến toàn
quốc bùng nổ trong điều kiện so sánh lực
lượng không có lợi cho nhân dân ta. Nhưng
Đảng và nhân dân ta vẫn dám đánh và quyết
thắng thực dân Pháp xâm lược, vì độc lập dân
tộc, vì sự tồn vong của đất nước. Để phát huy
thuận lợi, khắc phục khó khăn, chiến thắng
thực dân Pháp đòi hỏi Đảng, Chính phủ phải
kịp thời đề ra đường lối kháng chiến đúng đắn,
phù hợp vì nó sẽ đóng vai trò quyết định, vạch
đường đi đến thắng lợi.
II. Diễn biến tình hình
Với dã tâm thôn tính nước ta một lần
nữa, thực dân Pháp chẳng những không đình
chỉ chiến sự ở miền Nam mà còn gây ra nhiều
vụ khiêu khích, lấn chiếm và sau khi đưa quân
đội vào miền Bắc, lại được thêm viện binh
chúng trắng trợn đánh chiếm Hải Phòng, Lạng
Sơn (20/11/1946). Tiếp đó, từ ngày 07 đến
15/12/1946, Pháp tấn công ta ở Tiên Yên,
Đình Lập tăng quân trái phép ở Hải Dương,
Đà Nẵng, Hà Nội …. Đặc biệt nghiêm trọng là

18/12/1946, ở Thủ đô Hà Nội sau khi liên tiếp
gây ra vụ thảm sát ở phố Hàng Bún đánh
chiếm trụ sở Bộ tài chính, Bộ giao thông công
chánh, thực dân Pháp gởi tối hậu thư cho
Chính phủ ta đòi tước vũ khí tự vệ, đòi để cho
chúng giữ trật tự ở Hà Nội. Với lực lượng gần
10 vạn quân được trang bị vũ khí hiện đại,
đang đứng trấn ở nhiều vị trí chiến lược trên
đất nước ta, bọn thực dân Pháp quyết lấn
chiếm toàn bộ nước ta một lần nữa, buộc
chúng ta phải đầu hàng chúng.
A. Chủ trương của Đảng : Ta không thể
nhân nhượng với thực dân Pháp được nữa và
thực chất mọi khả năng duy trì hòa hoãn với
thực dân Pháp không còn nữa, chúng ta càng
nhân nhượng, chúng càng lấn tới và vì nhân
nhượng nữa thì mất nước hóa thành nô lệ,
Nhân dân Việt Nam chỉ còn một con đường
duy nhất là đứng lên cầm vũ khí đánh thực dân
Pháp bảo vệ tổ quốc, giữ vững độc lập chủ
quyền và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của mình.
18/12/1946, Ban thường vụ Trung ương
Đảng đã họp hội nghị triển khai khẩn cấp tại
làng Vạn Phúc (Hà Đông) dưới sự chủ tọa của
Hồ Chí Minh trên cơ sở đánh giá một cách
khoa học ý đồ chiến lược của thực dân Pháp
và so sánh lực lượng giữa ta và địch, Hội Nghị
quyết định phát động cuộc kháng chiến trên
quy mô cả nước và vạch ra những vấn đề cơ
bản về đường lối kháng chiến.

Đêm 19/12/1946, Ban thường vụ TW
Đảng đã quyết định phát động cuộc kháng
chiến trên quy mô cả nước, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
Sáng 20/12/1946 lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến của Hồ Chủ Tịch qua làn sóng điện
được truyền đi khắp nơi, lời kêu gọi đó chính
là tiếng gọi của non sông đất nước, thấu động
những niềm sâu xa và cao đẹp nhất trong lòng
mỗi người dân Việt Nam, khơi dậy mạnh mẽ
lòng tự hào dân tộc, truyền thống anh hùng bất
khuất, làm cho cả nước sôi sục đứng lên, bình
tĩnh chiến đấu bằng mọi thứ vũ khí có trong
tay, với một ý chí cảm tử cho tổ quốc quyết
sinh, với một thái độ chính trị dứt khoát và
kiên định vì độc lập tự do của tổ quốc. Lời kêu
gọi đó là một cương lĩnh kháng chiến, khái
quát ở trình độ cao, chứa đụng những tư
tưởng, quan điểm và đường lối chiến tranh
nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của
Đảng ta.
Ngày 22/12/1946, Ban thường vụ Trung
ương Đảng ra chỉ thị toàn dân kháng chiến,
bản chỉ thị nêu một cách khái quát những nội
dung cơ bản đường lối của cuộc trường kì
kháng chiến của Đảng như :
- Về tính chất và mục tiêu của cuộc kháng
chiến : nhân dân Việt Nam xác định cuộc
chiến tranh chính nghĩa chống chiến tranh phi
nghĩa xâm lược của thực dân Pháp; chiến

tranh chống Pháp là sự tiếp tục của cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc nhằm bảo vệ độc lập
dân tộc, giành ruộng đất cho người cày và xây
dựng cơ sở đi lên CNXH.
- Về xác định phương châm kháng chiến :
kháng chiến toàn dân, kháng chiến toàn diện,
kháng chiến trên tinh thần tự lực cánh sinh,
kháng chiến lâu dài và trải qua ba giai đoạn :
cầm cự, phòng ngự và tổng phản công. Đảng
ta xác định kháng chiến nhất định thắng lợi.
Về mối quan hệ giữa dân tộc và dân chủ trong
giai đoạn này, tác phẩm : Kháng chiến nhất
định thắng lợi của Trường Chinh đã nêu rõ
quan điểm của Đảng là : cuộc kháng chiến
chỉ hoàn thành nhiệm vụ giải phóng đất nước,
củng cố và mở rộng chế độ Cộng hòa dân chủ.
Nó không tịch thu ruộng đất của địa chủ
phong kiến chia cho dân cày, chỉ tịch thu
ruộng đất và các hạng tài sản khác của Việt
gian phản động để bổ sung ngân quỹ kháng
chiến hay ủng hộ các gia đình chiến sĩ hi
sinh.
B. Nhận xét và đánh giá : Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ hai của Đảng (từ 11 đến
19/2/1951) đã khẳng định sự đúng đắn của
đường lối kháng chiến được nêu trong các văn
kiện trước đây, đồng thời tiếp tục bổ sung, cụ
thể hóa cho phù hợp trong giai đoạn còn lại
của cuộc kháng chiến. Như vậy đường lối của
Đảng về kháng chiến được hình thành ngay từ

đầu cuộc kháng chiến và tiếp tục được hoàn
thiện cụ thể hóa trong một quá trình liên tục,
bám sát và đáp ứng kịp thời cuộc kháng chiến
của toàn dân ta.
Cuộc kháng chiến của chúng ta chỉ có thắng
lợi với điều kiện căn bản là : Đường lối chính
trị và quân sự đúng, đoàn kết chặt chẽ toàn
dân, hậu phương được củng cố, quân và dân ta
chiến đấu anh dũng, chỉ huy của ta có tài.
 Đường lối : Đảng chỉ rõ đối tượng của cuộc
kháng chiến là bọn thực dân Pháp phản động
đang dùng vũ lực cướp nước ta, đây là một
cuộc chiến tranh cách mạng của dân tộc, là
chiến tranh chính nghĩa, tiến bộ vì tự do độc
lập, vì dân chủ và hòa bình chống lại cuộc đấu
tranh phi nghĩa xâm lược của bọn thực dân
phản động. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta
là sự tiếp tục triển khai sự nghiệp của cuộc
cách mạng tháng tám, CMDTDCND bằng
nhiều hình thức chiến tranh cách mạng, nhằm
hoàn thành nhiệm vụ cách mạng giải phóng
dân tộc, giành ruộng đất cho người cày và xây
dựng cơ sở đi lên CNXH. Ở đây Đảng đã giải
quyết thành công mối quan hệ giữa chiến tranh
và cách mạng, kháng chiến chống Pháp về
hình thức là sự đối đầu quân sự giữa cách
mạng và phản cách mạng nhưng nội dung bên
trong thực chất là giải quyết những mâu thuẫn
cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt
Nam lúc này. Đảng chỉ rõ nhiệm vụ trước mắt,

cấp bách là đánh đuổi thực dân Pháp xâm
lược giành độc lập và thống nhất cho đất nước,
đồng thời trong quá trình kháng chiến phải
thực hành cải cách dân chủ, giải quyết từng
bước vấn đề ruộng đất để bồi dưỡng sức dân.
Cuộc kháng chiến này là một cuộc kháng
chiến nhân dân với phương châm “kháng
chiến toàn dân, kháng chiến toàn diện, kháng
chiến tự lực cánh sinh (dựa vào sức mình)
kháng chiến lâu dài”, với đường lối này Đảng
ta chủ trương “kháng chiến nhất định thắng
lợi”.
 Kết quả của chủ trương “toàn dân kháng
chiến”, “toàn diện kháng chiến”
- Thực dân Pháp xâm lược nước ta thì toàn
dân ta phải nhất tề đứng lên chống giặc. Đảng
ta đánh giá cao vai trò của quần chúng nhân
dân trong chiến tranh cách mạng, tin tưởng
vững chắc khả năng vô tận, sức mạnh vô địch
của nhân dân, với chiến lược toàn dân kháng
chiến, ta đã tạo nên nguồn sức mạnh to lớn đối
trọng với bộ phận phản động xâm lược Pháp,
toàn dân kháng chiến, phát huy sức mạnh tổng
hợp của cả dân tộc, ta có thể kháng chiến khắp
nơi, mọi lúc, “mỗi người dân là một chiến sĩ”,
“mỗi phố là một mặt trận”, “mỗi làng là một
pháo đài”, toàn dân kháng chiến là nội dung
trọng yếu và xuyên suốt toàn bộ quá trình
kháng chiến.
- Chiến tranh là một cuộc đọ sức toàn diện

giữa hai bên tham chiến “toàn dân kháng
chiến” đi liền với “kháng chiến toàn diện”,
nhờ kháng chiến toàn diện mới phát huy cao
nhất sức mạnh toàn dân đánh bại chiến tranh
tổng lực của kẻ thù. Đảng ta lãnh đạo tổ chức
cuộc chiến tranh toàn dân đánh giặc trên mọi
mặt trận, mọi phương diện, quân sự, chính trị,
văn hóa, kinh tế, tư tưởng, ngoại giao ….
Về chính trị : Ta tiếp tục củng cố phát triển
chính quyền dân chủ nhân dân ở vùng tự do, ta
đã mở rộng được mặt trận đoàn kết dân tộc
chống Pháp xâm lược bằng việc duy trì Mặt
trận Việt minh và xây dựng thêm Mặt trận
Liên Việt đã thu hút được mọi lực lượng đoàn
kết chống Pháp. Chúng ta tuyên truyền tính
chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến diễn ra
ngay tại trên đất nước mình trước sự phi nghĩa
của kẻ thù xâm lược từ xa đến nhằm cô lập và
hạn chế được tối đa những hoạt động của bọn
Việt gian.
 Về kinh tế :
- Trong hoàn cảnh cuộc kháng chiến bùng nổ
ta bị kẻ thù bao vây bốn phía chưa nhận được
sự giúp đỡ trực tiếp của nhân dân các nước
anh em, nên ngay từ đầu Đảng đã xác định
đường lối kháng chiến là “phải tự lực cánh
sinh”, Đảng chủ trương “phải tự ta giúp ta rồi
người mới giúp ta”. Dựa vào sức mình là dựa
vào sức lực của toàn dân, vào sự lãnh đạo của
Đảng, vào các điều kiện nhân hòa, địa lợi

thiên thời của đất nước, “tự lực cánh sinh”
không có nghĩa là không đồng thời ra sức
tranh thủ ủng hộ, giúp đỡ quốc tế để nhanh
chóng chiến thắng kẻ thù.
- Ta xây dựng nền kinh tế tự cung tự cấp ở
vùng tự do với mục tiêu đảm bảo ổn định đời
sống nhân dân lao động để nuôi binh đánh
Pháp, phối hợp với hoạt động gia tăng sản
xuất là thực hiện sách lược “tiêu thổ kháng
chiến”. Còn ở vùng địch tạm chiếm ta đã đưa
lực lượng tấn công đánh phá kho tàng, bến
bãi, cầu cống của địch để tiêu diệt lực lượng
vật chất của chúng, đồng thời thực hiện chiến
lược “làm chảy máu” nền kinh tế của chúng
như thu gom như yếu phẩm, mua thuốc điều
trị bệnh, mua vũ khí , đạn dược trang bị cho ta

 Về văn hóa tư tưởng : tuyên truyền vận
động nhân dân ta đấu tranh xóa bỏ những tàn
dư phong kiến lạc hậu, tư tưởng thực dân, ra
sức xây dựng nền văn hóa mới, nền văn hóa
khoa học đại chúng. Trên mặt trận này, nhân
dân ta cũng giành được những thành tựu quan
trọng, nhất là sau Hội nghị văn hóa toàn quốc
(7/1948) và chủ trương bổ túc văn hóa cho cán
bộ, phong trào xóa nạn mù chữ tiếp tục phát
triển mạnh, động viên mọi lực lượng văn hóa,
văn học nghệ thuật bám sát nhu cầu kháng
chiến, lấy đối tượng là quần chúng công,
nông, binh…

 Về quân sự : Được xem là mặt trận có vị trí
quan trọng nhất, quyết định sự thành bại của
hai bên, trên cơ sở đường lối kháng chiến toàn
dân, toàn diện và tương quan lực lượng giữa ta
và địch, đồng thời nắm chắc qui luật chuyển
hóa của tương quan đó, Đảng ta khẳng định
phương châm chiến lược của chúng ta là đánh
lâu dài, qui luật chiến tranh xâm lược buộc
địch phải đánh nhanh, thắng nhanh. Ta chủ
trương đánh lâu dài làm cho những chỗ yếu cơ
bản của chúng bộc lộ rõ, chỗ mạnh của chúng
ngày càng hạn chế, chỗ yếu của ta dần dần
được khắc phục, chỗ mạnh của ta ngày một
phát huy, từng bước chuyển hóa lực lượng có
lợi cho ta, không có lợi cho địch. Đó là quá
trình vừa đánh, vừa xây dựng lực lượng,
nhưng không có nghĩa là đánh kéo dài mà
Đảng ta chủ động dẫn dắt cuộc kháng chiến
qua 3 giai đoạn :
- Giai đoạn 1 (từ 9/1945 đến cuối 1947)
Ta chủ động tiến hành cuộc kháng chiến cục
bộ ở miền Nam và sau đó phát động cuộc
kháng chiến trong cả nước, đánh bại kế hoạch
“đánh nhanh, thắng nhanh” của giặc Pháp,
đỉnh cao của giai đoạn này là ta đã đánh bại
cuộc hành quân thu đông 1947 của thực dân
Pháp.
- Giai đoạn 2 (từ 1948 đến cuối 1950)
- Hoạt động quân sự của ta tập trung 2 vấn đề
lớn. Một là : thúc đẩy hoạt động chiến tranh

du kích ở vùng địch tạm chiếm kết hợp với
một vài chiến dịch nhỏ, đánh bại chiến lược
“dùng người Việt đánh người Việt”, “Lấy
chiến tranh, nuôi chiến tranh”. Hai là : vào
năm 1950 ta chủ động mở chiến dịch biên giới
giải phóng các tỉnh Biên giới Việt Trung nối
hành lang chiến khu Việt Bắc của ta với các
nước xã hội chủ nghĩa (lúc này Trung Hoa lục
địa đã được giải phóng vào tháng 10/1946).
- Chiến dịch biên giới thắng lợi, kết thúc giai
đoạn 2; các nước Liên Xô, Trung Quốc …
công nhận Việt Nam và tích cực viện trợ cho
ta.
- Giai đoạn 3 (từ 1951 đến 7/1954)
Ta chủ động mở nhiều chiến dịch ở vùng đồng
bằng Bắc bộ, sau đó là chiến dịch Đông Xuân
1953 - 1954, đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên
Phủ đã đánh bại mọi cố gắng quân sự cao
nhất của quân đội Pháp ở Đông Dương, buộc
Pháp phải kí Hiệp định Giơne vơ cam kết tôn
trọng nền độc lập, chủ quyền thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam …
III. Đánh giá và kết luận :
A- Đánh giá
Những thành tựu kể trên là thể hiện sinh
động của đường lối triển khai trong thực tiễn,
đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện,
lâu dài và tự lực cánh sinh” do Đảng đề ra
ngay từ đầu cuộc kháng chiến, là sự vận dụng
sáng tạo đường lối chiến tranh cách mạng của

chủ nghĩa Mác LêNin vào hoàn cảnh lịch sử
cụ thể của đất nước, đồng thời là sự kế thừa
khoa học truyền thống đấu tranh giải phóng
dân tộc Việt Nam trong lich sử, là một bộ
phận trong đường lối cách mạng, đường lối
kháng chiến sớm được vạch ra đúng đắn, khoa
học là vấn đề đầu tiên có ý nghĩa quyết định
của cuộc kháng chiến.
B- Kết luận
Phân tích bối cảnh lịch sử của chỉ thị
toàn quốc kháng chiến và kết quả của chủ
trương ấy cho thấy trên cơ sở nhận thức rõ bản
chất và âm mưu của kẻ thù, nên trong thời kì
đấu tranh hòa bình với Pháp, Đảng vẫn luôn
quan tâm tăng cường công tác chuẩn bị kháng
chiến, ta chủ động bước vào kháng chiến
chống Pháp là sự lựa chọn sáng suốt, thể hiện
ý chí quyết tâm, tư tưởng cách mạng tiến
công, ý thức tự chủ của Đảng ta và nhân dân ta
trong cuộc kháng chiến ngay sau mệnh lệnh
kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh được
ban hành đã mang lại nhiều ý nghĩa và bài học
sâu sắc.
Đảng và nhân dân ta đã biết mở đầu
đúng lúc cuộc kháng chiến toàn quốc chống
thực dân Pháp, quân và dân ta không những ít
tiêu hao, mà còn làm tiêu diệt được một bộ
phận sinh lực địch. Điều quan trọng là đã cầm
chân địch, tạo thời cơ chiến lược chuyển đất
nước sang chiến tranh, xây dựng, bảo tồn và

củng cố được lực lượng, đẩy lùi âm mưu chiến
tranh đánh nhanh thắng nhanh của địch,
chuyển đất nước vào thời chiến mới và bước
đầu xác lập thế trận chiến tranh nhân dân tạo
tiền đề quan trọng để nhân dân ta đánh bại âm
mưu mới của địch./.
Vấn đề 13 : Phân tích quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam từ 1954 - 1968. Qua đó
rút ra nhận xét.
I. Bối cảnh lịch sử
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Mĩ trở thành
cường quốc số một trên thế giới. Mĩ có âm
mưu làm bá chủ thế giới, để thực hiện âm mưu
này, Mĩ luôn luôn thực hiện chiến lược toàn
cầu, xâm lược Việt Nam nhằm đạt 3 mục tiêu
chủ yếu sau :
1)- Tiêu diệt phong trào cách mạng, thôn tính
miền Nam, biến miền Nam thành thuộc địa
kiểu mới của chúng.
2)- Biến miền Nam Việt Nam thành một
phòng tuyến ngăn chặn sự phát triển của
CNXH xuống vùng này.
3)- Xây dựng miền Nam Việt Nam thành một
căn cứ quân sự, làm bàn đạp tiến công miền
Bắc và hệ thống XHCN từ phía Đông - Nam
Á.
Qúa trình Đảng chỉ đạo cuộc cách mạng miền
Nam là quá trình phân tích âm mưu, thủ đoạn
của kẻ thù, so sánh lực lượng giữa ta và địch
để đề ra chủ trương, biện pháp thích hợp đánh

bại chúng. Là quá trình biết giành thắng lợi
từng bước, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.
Quá trình đó diễn ra qua nhiều thời kì kế tiếp
theo.
II. Đảng lãnh đạo các giai đoạn kháng chiến
chống Mĩ cứu nước
* Giai đoạn (Từ năm 1954 đến năm
1960) :
Là giai đoạn Đảng lãnh đạo nhân dân
miền Nam đánh bại chiến lược tố cộng, diệt
cộng của Mĩ Diệm. Những hoạt động của địch
trong thời gian này là : Ngô Đình Diệm dựa
vào sức mạnh của Mĩ gạt Pháp ra khỏi miền
Nam Việt Nam, Diệm hô khẩu hiệu “đã thực,
bài phong”, xây dựng chính thể Việt Nam
cộng hòa hợp hiến, hợp pháp, xây dựng quân
đội hùng mạnh, tiến hành cuộc cách mạng
điền địa lần nhất mà thực chất là tước đoạt lại
những ruộng đất cách mạng đã chia cho nông
dân trả về cho địa chủ, khôi phục giai cấp địa
chủ, giai cấp tư sản phát triển thành chỗ dựa
giai cấp cho Việt Nam cộng hòa, lập đảng cần
lao nhân vị và các tổ chức quần chúng thuộc
đảng này để làm chỗ dựa. Tiến hành chính
sách tố cộng, diệt cộng kết hợp với việc không
chịu thi hành Hiệp định Giơnever chia cắt lâu
dài hai miền Nam, Bắc, những hoạt động của
địch trong thời gian này đã gây cho ta nhiều
tổn thất lớn.
Trong thời kì này, chủ trương đấu tranh

của Đảng ta là : chuyển hình thức, phương
pháp và tổ chức đấu tranh của CMMN yừ đấu
tranh vũ trang sang đấu tranh chính trị là chủ
yếu, thực hiện thế giữ gìn lực lượng rồi
chuyển dần sanh thế tiến công, đánh bại
“Chiến tranh đơn phương” của đế quốc Mĩ.
* Thời kì một (từ 7/1954 đến 7/1956) :
Đảng ta chủ trương chuyển CMMN từ đấu
tranh bạo lực vũ trang kháng chiến chống
Pháp sang đấu tranh chính trị là chủ yếu để
củng cố hòa bình, đòi tổng tuyển cử thống
nhất đất nước, chống khủng bố và giữ gìn, bảo
toàn lực lượng.
* Thời kì hai (từ 7/1956 đến cuối 1958) :
đấu tranh chính trị là chính, xây dựng, củng cố
và phát triển lực lượng vũ trang, lập các chiến
khu, đấu tranh vũ trang ở mức độ thích hợp để
bảo vệ cách mạng, chuẩn bị chuyển lên giai
đoạn mới. Xác định mối quan hệ chiến lược
giữa hai miền và khẳng định cách mạng miền
Nam phải phát triển trên cơ sở là một căn cứ
vững mạnh của hậu phương miền Bắc; hai là
xác định nhân dân miền Nam không có con
đường nào khác ngoài con đường cách mạng.
* Thời kì ba (từ 1/1959 đến
1960) : nổi dậy khởi nghĩa vũ trang đồng loạt
bằng cả lực lượng chính trị và vũ trang, kết
hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang,
đánh đổ chính quyền địch ở cơ sở, giành
quyền làm chủ, hình thành vùng giải phóng

rộng lớn, lập mặt trận dân tộc giải phóng miền
Nam Việt Nam. CMMN phát triển nhảy vọt,
chuyển hẳn từ thế giữ gìn lực lượng sang thế
tiến công, đồng thời chấm dứt thời kì tạm ổn
định của địch, cuộc “Chiến tranh đơn phương”
của địch bị thất bại.
Đặc biệt trong thời kì này, Nghị quyết 15 của
Trung ương Đảng thể hiện sự chỉ đạo đúng
đắn về tình hình, nhiệm vụ của CMMN đã
châm ngòi nổ cho phong trào đồng khởi ở
miền Nam đánh bại chiến lược tố cộng, diệt
cộng của Mĩ - Diệm.
* Giai đoạn (Từ năm 1960 đến năm
1965) : là giai đoạn Đảng lãnh đạo nhân dân
đánh bại chiến tranh đặc biệt của Mĩ. chiến
lược chiến tranh đặc biệt là một hình thức
chiến tranh thực dân mới trong chiến lược toàn
cầu “phản ứng linh hoạt của Mĩ” sử dụng 3
hình thức : Chiến tranh tổng lực, chiến tranh
hạn chế, chiến tranh dưới mức hạn chế. Với
các thủ đoạn của Mĩ - Diệm như : tổ chức dồn
dân, lập ấp chiến lược “tát nước bắt cá” được
coi là quốc sách. Xây dựng quân đội Ngụy
theo hình thức 3 thứ quân : chủ lực, địa
phương quân và tự vệ, phong tỏa chặt chẽ biên
giới trên bộ và trên biển để ngăn chặn miền
Bắc chi viện cho miền Nam…
Đảng ta chủ trương tại Nghị quyết đại
hội Đảng lần thứ III (9/1960) quyết định thành
lập mặt trận giải phóng ở miền nam làm ngọn

cờ chính trị thu hút tất cả các lực lượng yêu
nước tiến bộ ở miền Nam đối lập với chính
quyền Ngô Đình Diệm. Quyết định thành lập
TW cục miền Nam, cơ quan lãnh đạo cao nhất
ở miền Nam thay mặt TW Đảng trực tiếp chỉ
đạo CMMN. Quyết định thành lập quân giải
phóng miền Nam với hai lực lượng : Động
viên lực lượng thanh niên yêu nước tại chỗ và
chi viện quân từ miền Bắc vào Nam.
- Tiếp theo Nghị quyết Bộ chính trị (1/1961)
và Nghị quyết TW lần 9 (12/1963) xác định :
Trọng tâm của CMMN lúc này là chống quốc
sách ấp chiến lược, đấu tranh chống dồn dân
lập ấp, tiếp tục phát triển lực lượng giải phóng
và mở các trận đánh từ cỡ tiểu đoàn lên cấp
trung đoàn, song song với đấu tranh chính trị,
tiến công địch bằng ba mũi giáp công : chính
trị, quân sự, binh vận; đánh địch ở cả ba vùng
chiến lược : rừng núi, đồng bằng và đô thị.
CMMN đi từ khởi nghĩa chuyển lên thành
chiến tranh cách mạng, từng bước đánh bại
“Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ.
* Về quân sự : giành được thắng lợi Ấp
Bắc (cỡ tiểu đoàn), Đồng Xoài, Ba Gia, Bình
Giả điều này chứng tỏ quân Ngụy có khả năng
thua quân giải phóng.
* Về chính trị : ta phát động phong trào
đấu tranh chính trị ở thành phố lớn như phong
trào xuống đường của học sinh, sinh viên,
phong trào đấu tranh của Phật tử … Góp phần

làm khủng hoảng bộ máy cầm quyền của
VNCH, dẫn đến cuộc đảo chính lật đổ Ngô
Đình Diệm, Ngô Đình Nhu vào tháng 11/1963
và tiếp theo có hơn 12 cuộc đảo chính lớn,
nhỏ. Chứng tỏ ngụy quyền Sài Gòn có khả
năng bị sụp đổ, ta đã làm phá sản hoàn toàn kế
hoạch quốc sách ấp chiến lược của địch.
* Giai đoạn (Từ năm 1965 đến năm 1968) :
để cứu vãn tình hình, đế quốc Mĩ đã ngoan cố
và liều lĩnh thực hiện chiến lược “Chiến tranh
cục bộ” ở miền Nam, mở rộng chiến tranh phá
hoại bằng không quân và hải quân ở miền Bắc.
Đảng phát động toàn dân đánh Mĩ, cứu nước,
đánh bại “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mĩ
ở miền Nam.
Mĩ đưa chiến lược “chiến tranh cục bộ”
xuất phát từ : Do tương quan lực lượng ở
chiến trường miền Nam lúc này quân đội
Ngụy đã thua nhưng chưa thua hẳn, quân Giải
phóng đã thắng nhưng chưa thắng hẳn, nên Mĩ
đưa 700.000 quân Mĩ và 700.000 quân ngụy
để tạo cán cân lực lượng nghiêng về phía Mĩ -
Ngụy nhằm áp đảo quân giải phóng thực hiện
chiến lược ”tìm diệt” quân Giải phóng kết hợp
với “bình định” nông thôn và mở rộng ném
bom, bắn phá miền Bắc ngăn chặn không cho
miền Bắc chi viện cho miền Nam.
Từ năm 1965, đế quốc Mĩ đã tiến hành
cuộc “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam; đồng
thời gây ra chiến tranh phá hoại ở miền Bắc.

Âm mưu của Mĩ là 1. Chặn đứng sự phát triển
của CMMN, cứu nguy cho chế độ Sài Gòn,
tìm diệt chủ lực quân Giải phóng, giành lại thế
chủ động trên chiến trường; 2. Bình định lại
miền Nam, củng cố hậu phương của chúng, ổn
định Ngụy quyền, đồng thời phá hoại hậu
phương miền Bắc XHCN, ngăn chặn sự chi
viện của miền Bắc cho miền Nam, làm lung
lay quyết tâm chống Mĩ của dân tộc ta, buộc ta
phải kết thúc chiến tranh theo điều kiện của
Mĩ.
Hội nghị TW Đảng lần thứ 11 (3/1965)
đã đề ra quyết tâm chiến lược đánh Mĩ và
thắng Mĩ, phát động toàn dân tiến hành chống
Mĩ cứu nước.
Đảng ta đã chỉ đạo quân và dân miền
Nam liên tiếp bẽ gãy các cuộc hành quân
“Tìm diệt” và “Bình định” của Mĩ-Ngụy. Sau
trận đọ sức trực tiếp đầu tiên với quân Mĩ ở
Núi Thành (Quảng Nam) 5/1965, Vạn Tường
(Quảng Ngãi) 8/1965 thắng lợi, một cao trào
đánh Mĩ diệt Ngụy đã dấy lên mạnh mẽ khắp
chiến trường miền Nam. Mọi cố gắng điên
cuồng của Mĩ trong cuộc phản công mùa khô
lần thứ nhất (1965-1966) và thứ hai (1966-
1967) d0ều bị thất bại. Mùa mưa 1967 buộc
Mĩ - Ngụy phải chuyển sang chiến lược phòng
ngự. Lúc này 80% đất đai miền Nam thuộc
quyền kiểm soát của Mặt trận dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam. Phong trào đấu

tranh chính trị tiếp tục phát triển quyết liệt ở
hầu hết thành thị.
12/1967, Bộ chính trị đã chủ trương
chuyển cuộc chiến tranh CMMN sang thời kì
mới, tiến lên giành thắng lợi bằng quyết định
tổng công kích - tổng khởi nghĩa, giáng một
đòn quyết liệt vào ý chí xâm lược của đế quốc
Mĩ. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy đã nổ ra
vào dịp tết mậu thân (1968) ở Sài Gòn và 64
thành phố, thị xã, thị trấn khác trên toàn miền
Nam. Cuộc tập kích chiến lược này làm cho
thế chiến lợc của Mĩ bị đảo lộn, ý chí xâm
lược bị lung lay và phải xuống thang chiến
tranh, chấm dứt không điều kiện ném bom
miền Bắc, chấp nhận đàm phán với ta tại Pari.
Đây là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của
CMMN, song về sau ta cũng bị những tổn thất
về địa bàn và lực lượng do có sai lầm trong
đánh giá tình hình, chỉ đạo, xác định mục tiêu
và chỉ đạo thực hiện tổng công kích - tổng
khởi nghĩa.
III. Nhận xét và đánh giá chung
Hội nghị BCH TW Đảng lần thứ 8 (khóa
II tháng 8 năm 1955) đã xác định “đường lối
xây dựng miền Bắc và củng cố, phát triển chế
độ dân chủ nhân dân, tiến dần từng bước vững
chắc lên XHCN” Đảng ta đã dựa trên các cơ
sở lí luận và thực tiễn như sau :
* Về lí luận : Một là đưa miền Bắc tiến
lên là xuất phát từ xu thế thời đại quá độ từ

CNTB lên CNXH được mở đầu từ cách mạng
tháng 10 Nga. Hai là vận dụng sáng tạo lí luận
cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác
Lênin. Ba là đưa miền Bắc lên CNXH từng
bước giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm
của GCCN. Về mặt thực tiễn của cách mạng
đã đặt ra giải quyết mâu thuẩn cơ bản của xã
hội miềm Bắc đó là “ai thắng ai” giữa hai con
đường CNXH và CNTB, đồng thời từ yêu cầu
của CMMN và cách mạng cả nước phù hợp
với nguyện vọng của nhân dân ta, có điều kiện
to lớn do một Đảng CSVN lãnh đạo, chính
quyền dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân
lãnh đạo, có thể chuyển sang làm nhiệm vụ
cách mạng XHCN, có khối đại đoàn kết toàn
dân dựa trên nền tảng liên minh công nông trí
thức, được sự giúp đỡ của các nước XHCN
anh em.
Từ những cơ sở lý luận và thực tiển trên,
Đảng ta quyết định đưa miền Bắc bước vào
thời kỳ quá độ lên CNXH là tất yếu khách
quan. Song miền Bắc xây dựng CNXH trong
một hoàn cảnh đặc biệt, có thuận lợi và khó
khăn : đất nước còn bị tạm chia cắt làm hai
miền, miền Bắc cuộc cách mạng DTDC đã cơ
bản hoàn thành và bước vào thời kỳ quá độ
tiến lên CNXH. Miền Nam tiếp tục làm cuộc
cách mạng DTDC. Do đó Đảng ta cùng một
lúc phải thực hiện hai quy luật cách mạng
XHCN và CMDTDC, và đề ra đường lối cách

mạng XHCN ở miền Bắc có tính đến tác động
cách mạng ở miền Nam. Song ở miền Bắc di
lên CNXH từ một nền nông nghiệp phổ biến là
sản xuất nhỏ, cơ sở vật chất nghèo nàn lạc
hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề và do
hậu quả của chính sách vơ vét của thực dân
Pháp để lại. Về công nghiệp nhỏ bé với trình
độ kỹ thuật lạc hậu, mất cân đối. Về văn hóa
trình độ dân trí thấp, những tập tục phong kiến
vẫn tồn tại và phát triển…
Đứng trước tình hình đó, hội nghị Bộ
chính trị tháng 9/1954 đã chỉ rõ công việc
trước mắt là ổn định đời sống nhân, chống
chính sách cưỡng ép di cư vào Nam của địch,
hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi kinh
tế quốc dân. Trong đó phục hồi và phát triển
nông nghiệp là vấn đề trọng tâm. Đây là một
chủ trương đúng đắn, hơn nữa chỉ có thể khôi
phục kinh tế mà trọng tâm là nông nghiệp mới
có thể tạo tiền đề cho công cuôc cải tạo nông
nghiệp. Việc khôi phục kinh tế nông nghiệp có
liên quan mật thiết với việc giải quyết vấn đề
ruộng đất, thực hiện khẩu hiệu “người cày có
ruộng” đã nêu trong cương lĩnh đầu tiên của
Đảng. Do vậy việc cải cách ruộng đất tiến
hành đồng thời với cuộc khôi phục kinh tế và
là nhiệm vụ cấp thiết của cách mạng. Về chính
sách cải cách ruộng đất ở vùng tự do đánh dấu
sự kết thúc của cách mạng DTDC để chuyển
sang cách mạng XHCN, nhằm tăng cường

củng cố khối liên minh công nông, xóa bỏ
quan hệ sản xuất bóc lột phong kiến, giải
phóng nguồn lực sản xuất nông nghiệp nông
thôn, cũng chính là góp phần khôi phục kinh
tế và ổn định đời sống cho nhân dân. Đảng ta
chủ trương về đường lối : dựa hẳn vào bần cố
nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, liên
hiệp với phú nông, đánh đổ giai cấp địa chủ,
tiêu diệt chế độ phong kiến, từng bước có
phân biệt; về phương châm : trên cơ sở thỏa
mãn nhu cầu về ruộng đất của nông dân cần
chú trọng phân biệt đối đãi với các hạng địa
chủ, chiếu cố địa chủ kháng chiến một cách
đích đáng nhằm thêm bạn bớt thù.
Bên cạnh những thành tựu đạt được,
Đảng ta đã thẳng thắn đánh giá sai lầm nghiêm
trọng kéo dài trong tổ chức, chỉ đạo thực hiện
cải cách ruộng đất, cường điệu tính chất đấu
tranh giai cấp ở nông thôn, dẫn đến mở rộng
quá mức đối tượng đấu tranh, gây ra tình trạng
đánh nhầm vào nội bộ nông dân, nhất là trung
nông lớp trên, phương pháp đấu tranh mang
tính chất trừng trị, nhẹ tính chất giáo dục. Một
số nơi quán triệt đường lối và phương châm
chỉ đạo không đúng, vị phạm nguyên tắc tập
trung dân chủ lãnh đạo, để cho đội cải cách
quá nhiều quyền lực, vai trò cấp ủy Đảng lu
mờ. Nguồn gốc của sai lầm là do không xuất
phát từ thực tiễn nước ta, đánh giá không sát
đúng những diễn biến của nông dân miền Bắc

nhất là chế độ sở hữu ruộng đất. Hội nghị Ban
chấp hành TW Đảng lần thứ 10 (khóa II
9/1956) đã nghiêm khắc kiểm điểm và kiên
quyết sửa chữa sai lầm. Đến cuối năm 1957
công tác sữa sai đã đem lại kết quả tốt, nông
thôn dần dần ổn định, nội bộ Đảng đoàn kết,
lòng tin của quần chúng nhân dân với Đảng
được khôi phục, sản xuất nông nghiệp đẩy
mạnh, khối liên minh công nông được củng
cố.
Tiếp theo công cuộc cải tạo XHCN ở
miền Bắc từ 1958 - 1960, Hội nghị lần thứ 14
của BCH TW Đảng (khóa II 1/1958) xác định
“nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân là
ra sức củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến
dần lên CNXH…”, trọng tâm trước mắt là đầy
mạnh cải tạo XHCN đối với các thành phần
kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và
cải tạo XHCN đối với thành phần kinh tế tư
bản tư doanh, đồng thời phải ra sức phát triển
thành phần kinh tế quốc doanh, lực lượng lãnh
đạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Về cải tạo nông nghiệp Đảng chú trọng dựa
trên 3 nguyên tắc : Tự nguyện, nhận thức đựơc
sự cần thiết tham gia vào hợp tác xã, quản lí
dân chủ, là nơi thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân lao động kết hợp hài hòa các lợi ích
của cá nhân, tập thể và xã hội. Hình thức bước
đi tốc độ của quá trình cải tạo XHCN phải phù
hợp, từ thấp đến cao, tập dượt cho nông dân

và thợ thủ công quen dần với cung cách làm
ăn tập thể, từ dần đổi công, hợp tác xã bậc
thấp đến hợp tác xã bạc cao. Qui mô từ nhỏ
đến lớn, tiến hành cải tạo hòa bình đối với
công thương nghiệp tư bản tư doanh vì : Xuất
phát từ so sánh lực lượng giai cấp tư sản dân
tộc Việt Nam rất nhỏ bé về kinh tế, bạc nhược
về chính trị, giai cấp tư sản dân tộc từng là bạn
đồng minh của gai cấp công nông trong
CMDTDC. Nhằm lôi kéo giai cấp tư sản dân
tộc Việt Nam đi theo cách mạng liên minh
chống đến quốc, cho phép ta sử dụng kinh
nghiệm quản lí trình độ chuyên môn, vốn thị
trường của giai cấp tư sản để khôi phục chủ
trương chính sách của Đảng.
Đến cuối năm 1960 miền Bắc cơ bản đã
hoàn thành cải tạo XHCN, Hội nghị Ban chấp
hành TW Đảng (khóa III) đã ghi nhận “phong
trào hợp tác hóa nông nghiệp đã phát triển
nhanh và lành mạnh, nói chung là tốt”. Bên
cạnh những ưu điểm, phong trào hợp tác hóa
cũng bộc lộ những khuyết điểm và yếu kém :
Các nguyên tắc và phương châm chỉ đạo trong
cải taọ không được tôn trọng triệt để, công tác
quản lí còn nhiều yếu kém, sai sót, một số cán
bộ đảng viên, xã viên vi phạm kỉ luật ….
Tháng 11/1960 đã cải tạo 2.097 cơ sở
thương nghiệp tư bản tư doanh, giải phóng
được hơn 1 vạn lực lượng lao động công nhân
khỏi ách bóc lột của giai cấp tư sản, song cũng

cần nhận thức rằng việc sớm xóa bỏ nền kinh
tế nhiều thành phần và “trong sản xuất kinh
doanh không áp dụng những quy luật của sản
xuất hàng hóa đã tác dụng tiêu cực không ít
đến đời sống kinh tế, hạn chế việc phát triển
LLSX”.
Về cải tạo XHCN đối với thợ thủ công
và những người buôn bán nhỏ, đến cuối năm
1960 có 88% thợ thủ công gia nhập các HTX
tiểu thủ công nghiệp bậc thấp và bậc cao, 45%
người buôn bán nhỏ được tổ chức vào hợp tác
xã mua bán …. Khuyết điểm của cải tạo thự
thủ công và người buôn bán nhỏ là mang tư
tưởng nóng vội, mệnh lệnh, gò ép, không tính
đến yêu cầu xã hội và hiệu quả thực tế, dẫn
đến không ít hợp tác xã làm ăn thua lỗ, tan rã.
Qua công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa
ở miền Bắc rút ra các kết quả và sai lầm như
sau :
- Kết quả đạt được : Trước hết thông
qua cải tạo xã hội chủ nghĩa xóa bỏ quan hệ
sản xuất bóc lột và từng bước hình thành quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Thứ hai làm thay
đổi kết cấu gai cấp trong xã hội, thay đổi quan
hệ giữa con người với nhau theo hướng tiến
bộ. Thứ ba là góp phần hình thành nền văn
hóa mới và con người mới XHCN. Thứ tư là
góp phần xây dựng cơ sở vật chất cho chủ
nghĩa xã hội, động viên được sức của, sức
người cho cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu

nước.
- Những sai lầm : Nhận thức và vận
dụng lí luận của Đảng ta không thừa nhận
CNXH còn tồn tại nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, vận dụng không đúng luật QHSX,
cho rằng QHSX đi trước nhằm chủ động kéo
theo LLSX (coi quan hệ sản xuất qui định lực
lượng sản xuất) dẫn đến QHSX kiềm hãm
LLSX. Trong QHSX đồng nhất sở hữu, đưa
mở rộng sở hữu mà không là rõ được trình độ
LLSX đến đâu, không phát huy được dân chủ
trong quản lí, sản xuất, kinh doanh, không
quan tâm đúng mức lơị ích của người lao động
dẫn đến càng mở rộng QHSX càng triệt tiêu
sức sản xuất xã hội, sai lầm trong chỉ đạo là
nóng vội và chủ quan.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của
Đảng (9/1960) được triệu tập tại Hà Nội, là
“Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất thống
nhất nước nhà. Đại hội đã đề ra nhiệm vụ
chiến lược cho hai miền Nam, Bắc : “Miền
Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ
quyết định nhất đối với toàn bộ tiến trình cách
mạng Việt nam. Miền Nam tiến hành
CMDTDC là trực tiếp đánh đổ đế quốc và tay
sai giải phóng miền Nam bảo vệ miền Bắc
thống nhất nước nhà. Hai nhiệm vụ chiến lược
đó có quan hệ khắng khít với nhau và hỗ trợ
cho nhau phát triển. Đại hội nêu 3 đặc điểm

cần quán triệt trong quá trình cải tạo và xạy
dựng CNXH ở miền Bắc là : nền kinh tế lạc
hậu, sản xuất nhỏ; nước nhà tạm chi làm 2
miền; có sự giúp đỡ của các nước XHCN. Để
triển khai chỉ đạo thực hiện Nghị quyết đại hội
III của Đảng, Ban chấp hành TW Đảng (khóa
III) đã tổ chức nhiều hội nghị chuyên đề về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về sản xuất
nông nghiệp, công nghiệp, về lưu thông phân
phối Đại hội III đã ra kế hoạch phát triển
kinh tế - văn hóa - xã hội từ 1961 đến 1965,
trong kế hoạch này chỉ có được 4 năm hòa
bình để thực hiện (từ ngày 5 tháng 8 năm 1964
đế quốc Mĩ đã huy động không quân, hải quân
đánh phá miền Bắc) nhưng kế hoạch cũng đã
đạt được một số thành tích quan trọng : bộ mặt
xã hội miền Bắc có những thay đổi về đời
sống vật cất, tinh thần, bình quân thu nhập
quốc dân tăng 6,1%, thu nhập đầu người tăng
3,4%
Đồng thời, Đảng cũng đã kịp thời
chuyển hướng chỉ đạo quá trình tiếp tục xây
dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, làm tròn
trách nhiệm hậu phương cùng miền Nam đánh
thắng đế quốc Mĩ xâm lược và tay sai (1965
-1968)
IV. Tóm lại : Việc Đảng ta chủ trương đưa
miền Bắc vào thời kì quá độ lên CNXH đồng
thời với việc tiến hành cuộc đấu tranh giải
phóng miền Nam là sự tìm tòi, sáng tạo đầy

tinh thần dũng cảm, quyết đoán và độc lập suy
nghĩ. thắng lợi xây dựng CNXH ở miền Bắc
đã xoá bỏ căn bản chế độ người bóc lột người,
sản xuất XHCN bước đầu được xác lập, đánh
thắng chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng
không quân và hải quân, làm tròn nhiệm vụ
chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam và giúp
đỡ cách mạng Lào, Campuchia; sự nghiệp
giáo dục, văn hóa, y tế phát trển mạnh mẽ, đời
sống vật chất và văn hóa của nhân dân ngày
càng được cải thiện.
Thành tựu nêu trên tuy còn thấp so với mục
tiêu của CNXH, nhưng trong hòan cảnh lúc đó
thì nó đã đưa lại những biến đổi lớn ở miền
Bắc, đã tỏ rõ tính ưu việt của chế độ XHCN
trước cuộc chiến tranh tàn khốc.
Tuy vậy, nền kinh tế miền Bắc vẫn mang tính
sản xuất nhỏm cơ sở vật chất, kĩ thuật còn
thấp kém. Các ngành công nghiệp then chốt
còn nhỏ bé, chưa đủ sức làm nền tảng cho nền
kinh tế quốc dân. Quan hệ sản xuất mới chưa
được củng cố vững chắc, còn bộc lộ nhiều hạn
chế, nông nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu
về lương thực, thực phẩm cho nhân dân và
nguyên liệu cho công nghiệp. Lao động thủ
công còn chiếm 80% lực lượng lao động xã
hội, năng suất lao động xã hội chưa bảo đảm
được các nhu cầu của nhân dân.
Nguyên nhân trên có nhiều lí do bao gồm cả
yếu tố khách quan và chủ quan :

* Về khách quan : Miền Bắc đi lên xây
dựng CNXH trong điều kiện xuất phát điểm
nền kinh tế yếu kém, do chính sách bóc lột của
thực dân Pháp. Mặt khác chúng ta tiến hành
xây dựng kinh tế trong điều kiện đất nước có
chiến tranh, phải tập trung sức người, sức của
cho giải phóng miền Nam và chống chiến
tranh phá hoại miền Bắc.
* Về chủ quan : Đảng và Nhà nước ta
đã mắc một số sai lầm, khuyết điểm, nghiêm
trọng như chính sách cải cách ruộng đất, là bắt
nguồn từ những nhận thức còn đơn giản, duy
ý, chí chưa nắm đúng qui luật vận động đi lên
CNXH ở một nước vốn là thuộc địa, nền sản
xuất nhỏ mang tính tự cung tự cấp. Nó còn
phản ánh phương pháp tư duy giáo điều, rập
khuôn mô hình xây dựng CNXH của Liên Xô,
chưa xuất phát đầy đủ từ hoàn cảnh điều kiện
cụ thể của thực tiễn đất nước ta.
Những thành công và chưa thành công trên
đều là những bài học và kinh nghiệm quí báu
cho quá trình đổi mới hiện nay vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh
tiến lên CNXH./.
Câu 12 : Phân tích nắm vững ngọn cờ
độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội từ năm
1975 đến nay.
I. Nội dung của bài học kinh nghiệm nắm
vững và giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc
và Chủ nghĩa xã hội

Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và
Chủ nghĩa xã hội (CNXH) là một bài học quan
trọng mà Đảng ta giải quyết đúng đắn, sáng
tạo, phù hợp với những điều kiện lịch sử của
thời đại mới về mối quan hệ : Giữa vấn đề dân
tộc với giai cấp; giữa con đường giải phóng
dân tộc với con đường giải phóng giai cấp
công nhân (GCCN) và những người lao động
bị áp bức bóc lột.
Đường lối đó đã được Đảng ta thực hiện
một cách đúng đắn, sáng tạo qua các thời kì
đấu tranh cách mạng. Trong mấy năm đầu lịch
sử, giữa những người cộng sản Việt Nam có
sự nhất trí cao về đường lối độc lập dân tộc
gắn liền với CNXH, nhưng lại không nhất trí
về sự chỉ đạo chiến lược đặt nhiệm vụ giải
phóng dân tộc lên hàng đầu và nhiệm vụ cách
mạng ruộng đất sẽ được thực hiện từng bước.
Lý do là không tiến hành cách mạng ruộng đất
đồng thời với nhiệm vụ chống đế quốc, do đó
CMVN không vận động và tranh thủ được
đông đảo nông dân và cách mạng sẽ không
thành công.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã
nhận thức được chính đường lối đặt nhiệm vụ
giải phóng dân tộc giành độc lập lên hàng đầu
mới đảm bảo thắng lợi của CMVN. Thời kì
Bác Hồ tìm đường cứu nước và chuẩn bị vận
động thành lập Đảng đã nhận thức được rằng :
- Trong thời đại mới, sự nghiệp cứu nước, giải

phóng dân tộc chỉ có thể gắn liền với cuộc
cách mạng vô sản vai trò lãnh đạo là GCCN.
Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ : Muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản và chỉ có
CNXH và Chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng
được các dân tộc bị áp bức và những người lao
động trên toàn thế giới khỏi ách nô lệ.
- Trong Chính cương vắn tắt, Sách lược
vắn tắt, luận cương chính trị đều xác định :
CMVN trước hết là cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân (CMDTDCND), sau đó là cách
mạng XHCN, bỏ qua giai đoạn phát triển
TBCN. Mục đích cuối cùng là xây dựng Chủ
nghĩa cộng sản ở Việt Nam.
Từ khi có Đảng, đường lối giương cao ngọn
cờ độc lập dân tộc và CNXH là ngọn cờ bách
chiến bách thắng của CMVN. Đường lối kết
hợp độc lập dân tộc và CNXH của Đảng ta là
sản phẩm của sự kết hợp sáng tạo giữa Chủ
nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh
với thực tế CMVN. Thực chất của vấn đề
giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH
chính là quan niệm và cách giải quyết mối
quan hệ giữa vấn đề dân tộc với giai cấp, giữa
cách mạng giải phóng dân tộc với xu thế thời
đại của Đảng CSVN.
- Dân tộc bao giờ cũng gắn liền với một giai
cấp nhất định và bao giờ cũng được giải quyết
theo quan điểm của từng giai cấp. Từ thế kỉ

XVI, XVII, XVIII khi giai cấp tư sản là giai
cấp tiên tiến đại diện cho phương thức sản
xuất mới, dân tộc gắn với giai cấp tư sản thì
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sẽ mang
thắng lợi cho chủ nghĩa tư bản.
Từ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, khi
CNTB chuyển sang Chủ nghĩa đế quốc, tạo
nên trạng thái thống nhất thế giới thông qua sự
xâm chiếm và bóc lột các nước thuộc địa, và
hầu hết các dân tộc đều bị nô dịch, lệ thuộc
vào giai cấp tư sản. Từ đó, giai cấp tư sản
không còn là giai cấp tiên tiến của thời đại và
trở thành giai cấp phản động, ngăn cản dòng
chảy của lịch sử.
CNTB phát triển thì giai cấp vô sản ra
đời, đó chính là GCCN. GCCN đại diện cho
phương thức sản xuất mới, phương thức sản
xuất XHCN đã thực sự trở thành giai cấp tiên
tiến của dân tộc. Giai cấp vô sản (GCVS) ra
đời thành trung tâm của thời đại, lợi ích của
GCVS thống nhất với thời đại và có khả năng
giương cao ngọn cờ dân tộc làm cách mạng vô
sản lật đổ CNTB và xây dựng thành công
CNXH . Từ đó đã phản ánh rõ nét là GCVS
gắn liền CNXH, lấy Chủ nghĩa Mác-Lenin
làm Chủ nghĩa cách mạng, làm lí luận, làm
kim chỉ nam; CNXH lấy chủ nghĩa Mác-Lenin
làm mục tiêu : GCVS gắn liền lợi ích của dân
tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi tìm con

đường cứu nước đã nhận thức rõ : Giải phóng
dân tộc phải đi đôi với giải phóng giai cấp,
giải phóng xã hội, xóa bỏ cơ chế người bóc lột
người, đưa cách mạng tiến lên con đường
CNXH. Người khẳng định : Muốn cứu nước
và giải phóng dân tộc không có con đường nào
khác là con đường CMVS và chỉ có giải
phóng GCVS thì mới giải phóng được dân tộc,
cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự
nghiệp của CNCS và của cách mạng thế giới.
Tư tưởng về con đường giải phóng dân
tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh phản ánh chính
xác chân lí của thời đại : Ngày nay, vấn đề dân
tộc chỉ được giải quyết đúng đắn theo lập
trường của GCCN; công cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc phải gắn bó với cuộc đấu tranh
giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải
phóng con người. Nói cách khác độc lập dân
tộc phải gắn với CNXH. Tư tưởng đúng đắn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Đảng CSVN,
ngay từ khi mới thành lập, tiếp thu và phát
triển thành đường lối giương cao ngọn cờ độc
lập và CNXH và Đảng ta đã lãnh đạo CMVN
đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
II. Thời kì cả nước thực hiện một chiến
lược CMDTDCND (1930-1954)
Trong thời kì này, CMDTDCND là mục
tiêu trực tiếp, còn cách mạng XHCN mới chỉ
là phương hướng, là triển vọng tiến lên của
CMVN. Đặt CMDTDCND trong phương

hướng, triển vọng tiến lên CNXH sẽ quy định
tính triệt để của cuộc cách mạng, vì
CMDTDCND do Đảng ta tiến hành là cách
mạng dân chủ tư sản kiểu mới, thuộc phạm trù
cách mạng vô sản. Đó là điều kiện cơ bản để
thực hiện cách mạng không ngừng từ
CMDTDCND chuyển sang cách mạng
XHCN.
Nắm vững giương cao ngọn cờ độc lập
dân tộc và CNXH ở giai đoạn này thể hiện
giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống
phong kiến. Hai nhiệm vụ này về cơ bản được
tiến hành đồng thời, có quan hệ qua lại tác
động lẫn nhau, nhưng nhiện vụ chống đế quốc
và tay sai luôn được đặt lên hàng đầu, nhiệm
vụ chống phong kiến được thực hiện từng
bước hỗ trợ cho nhiệm vụ chống đế quốc. Các
nhiệm vụ về xây dựng khối liên minh công
nông, mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất…
đều dự trên cơ sở kết hợp giữa hai yếu tố giai
cấp và dân tộc nhằm phát huy cao độ sức
mạnh của toàn dân tộc. Chứng minh là thắng
lợi vĩ đại tổng khởi nghĩa tháng 8/1945 là
thắng lợi của đường lối giương cao ngọn cờ
độc lập dân tộc và CNXH của Đảng.
III. Thời kì cả nước tiến hành đồng thời hai
chiến lược cách mạng (1954-1975)
Trong kháng chiến chống Mĩ xâm lược
(1954-1975) Đảng ta đã chủ trương tiến hành
hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng, là một

hình thái độc đáo, sáng tạo của đường lối
giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH
là : cách mạng XHCN ở miền Bắc có tác dụng
quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn
bộ cách mạng cả nước, đối với sự nghiệp
thống nhất nước nhà. CNXH ở miền Bắc
không còn là định hướng mà đã trở thành hiện
thực; vì nhân dân cả nước đều có nhiệm vụ
chống Mĩ, cứu nước, nên CNXH ở miền Bắc
mang đặc điểm là CNXH thời chiến. Những
thành tựu của việc xây dựng CNXH thời chiến
ở miền Bắc là đã làm tròn nghĩa vụ đối với
tiền tuyến lớn miền Nam và nghĩa vụ quốc tế,
bảo đảm đời sống tối thiểu cho nhân dân để
tiến hành kháng chiến lâu dài. CMDTDCND ở
miền Nam có tác dụng quyết định trực tiếp đối
với sự nghiệp đánh đuổi đế quốc Mĩ giải
phóng miền Nam.
Nhờ kết hợp và giương cao ngọn cờ
ĐLDT và CNXH, xác định đúng vị trí và
nhiệm vụ của cách mạng mỗi miền. Đảng ta
đã phát huy được sức mạnh của độc lập dân
tộc và CNXH ở miền Bắc và miền Nam để
đánh Mĩ và thắng Mĩ, xây dựng và bảo vệ
miền Bắc XHCN, giải phóng miền Nam thống
nhất tổ quốc.
Đường lối chiến lược giương cao ngọn cờ
ĐLDT và CNXH cho phép Đảng ta kết hợp
được sức mạnh của dân tộc ta với sức mạnh
của thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp to

lớn trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền
Bắc và CMDTDC ở miền Nam.
IV. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và
CNXH từ 1975 đến nay : Thời kì cả nước
quá độ lên CNXH
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ,
cứu nước, CMVN chuyển sang thời kì mới,
thời kì cả nước hòa bình, độc lập, thống nhất
và đi lên CNXH. Sau khi hoàn thành cơ bản
CMDTDCND trong phạm vi cả nước, Đảng ta
đã chủ trương đưa cả nước bước vào thời kì
quá độ tiến lên CNXH. Độc lập dân tộc và
CNXH từ đây đã gắn liền với nhau. Sự kết
hợp này, trong giai đoạn hiện nay, đạt tới đỉnh
cao và cho phép phát huy sức mạnh của dân
tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại. Độc lập
dân tộc là điều kiện để nhân dân ta xây dựng
CNXH nhưng CNXH lại củng cố độc lập dân
tộc. CNXH mang lại nội dung thời đại cho độc
lập dân tộc, làm cho độc lập dân tộc đầy đủ và
có hiệu quả nhất. Vì thế, xây dựng CNXH và
bảo vệ tổ quốc XHCN là hai nhiệm vụ chiến
lược của cách mạng XHCN ở nước ta.
 Củng cố nền độc lập dân tộc đã giành
được là một điều bức xúc :
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh, sau nhiều thập kỉ đấu tranh gian
khổ, nhân dân ta đã giành được thắng lợi là :
Độc lập tổ quốc, thống nhất nước nhà. Nhưng
nền độc lập dân tộc chưa được củng cố. Nước

ta còn nghèo đi lên từ nền sản xuất nhỏ, lạc
hậu về kinh tế. Tuy giành được độc lập dân
tộc, nhưng các thế lực thù địch thường xuyên
chống đối ta bằng âm mưu diễn biến hòa
bình, kết hợp việc răn đe bằng quân sự.
Độc lập dân tộc chỉ được củng cố khi các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc
phòng, an ninh phát triển vững mạnh, đủ sức
đẩy lùi những thế lực phản động, chống đối từ
bất cứ hướng nào. Yếu tố dân tộc phải được
giải quyết theo lập trường giai cấp vô sản,
nhưng vẫn được giữ ở vị trí hàng đầu. Tiếp tục
phát huy chủ nghĩa yêu nước, lòng tự hào dân
tộc, tinh thần tự lực tự cường; xây dựng nền
văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân
tộc; phát huy thế mạnh mà đất nước ta vốn có
như : tài nguyên phong phú và đa dạng, nguồn
lao động dồi dào.
Cần phải xem xét đánh giá đúng đặc
điểm tình hình của đất nước để qua đó xây
dựng quan điểm tư tưởng giương cao ngọn cờ
dân tộc phù hợp. Đảng phải đánh giá đúng vai
trò của các thành phần kinh tế và gắn liền với
nó, vị trí các giai cấp trong nền sản xuất xã
hội. Qua một thời gian khá dài, Đảng ta đã
phạm phải sai lầm và trả giá về quan điểm coi
kinh tế TBCN và giai cấp tư sản trong thời kì
quá độ như là sức cản cho LLSX phát triển.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp
- Mĩ, với ngọn cờ độc lập dân tộc, Đảng ta đã

phát động toàn dân tham gia kháng chiến đánh
đuổi ngoại xâm giành độc lập tự chủ cho dân
tộc, thì ngày nay, Đảng ta cũng sẽ huy động
được lực lượng toàn dân thực hiện 2 nhiệm vụ
chiến lược là : xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Ngày nay, độc lập dân tộc vẫn đang là
động lực lớn của cách mạng XHCN trong thời
kì đổi mới xây dựng đất nước ta theo mục
tiêu : Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng
văn minh, vì đó là mục tiêu phù hợp lợi ích
chung, lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp xã
hội và mỗi cá nhân.
 Độc lập dân tộc là điều kiện để tiến lên
CNXH, nhưng CNXH lại có tác động củng
cố độc lập dt:
Độc lập dân tộc và CNXH là mối quan
hệ. Từ khi Đảng ta ra đời cho đến nay, về cơ
bản Đảng đã nhận thức và giải quyết đúng đắn
mối quan hệ đó. Tuy nhiên, có lúc Đảng ta
cũng vi phạm những sai lầm như chưa đánh
giá đúng yếu tố dân tộc và chưa có quan niệm
khoa học về CNXH, vì bản thân CNXH không
phải là khuôn mẫu có sẵn, mà là sự tìm tòi,
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lenin và tư
tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh trong mỗi giai
đoạn cách mạng của nước ta. Từ những sai
lầm, Đảng ta đã tổ chức những cuộc vận động
cải cách, cải tiến quản lí nhằm củng cố mô
hình CNXH cũ kém hiệu quả, phù hợp với
hoàn cảnh thực tế của đất nước. Từ những

định hướng về cải cách quản lí như : cải cách
mô hình hợp tác xã, xóa bỏ cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế hạch
toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa có sự tham
gia quản lí của Nhà nước đã cho những kết
quả khả quan, vì nó phù hợp quy luật vận
động khách quan của mô hình CNXH ở chặng
đường đầu tiên của thời kì quá độ. Xác định
mô hình đúng đắn của CNXH, Đảng ta đã lãnh
đạo CMVN từng bước thoát khỏi khủng hoảng
xã hội, bước bào thời kì công nghiệp hóa -
hiện đại hóa đất nước.
Từ khi mô hình CNXH ở Đông Âu và
Liên Xô sụp đổ, một số ít người dao động,
hoài nghi về mô hình và con đường đi lên
CNXH ở nước ta, muốn đưa đất nước phát
triển theo con đường TBCN. Nhưng dân tộc ta
nhất định không chấp nhận con đường TBCN
hay Chủ nghĩa xã hội dân chủ vì nhân dân ta
đã hi sinh biết bao nhiêu xương máu mới
giành lại được độc lập dân tộc, kiên quyết
không nhấp nhận một mô hình nào khác với
con đường đi lên CNXH mà Đảng ta đã vạch
ra, vì nó sẽ dẫn đến kết cục là mất độc lập
dưới hình thức này hay hình thức khác, nhân
dân ta trở lại cuộc đời bị áp bức, bóc lột.
Ngày nay, tuy hệ thống CNXH không
còn, Việt Nam và một số nước CNXH khác
mất một chỗ dựa quan trọng. Nhưng Đảng ta
đã xác định dù bất cứ ở hoàn cảnh lịch sử nào,

dù gặp nhiều khó khăn trở ngại, con đường
CNXH sẽ mang lại độc lập tự do, cơm no áo
ấm và hạnh phúc cho toàn dân tộc và CNXH
sẽ được xây dựng thành công ở nước ta. Lịch
sử dân tộc ta từng bước đã chứng minh được
điều đó.
Nhìn chung, trong thời gian qua, những
sai lầm của Đảng ta là sai lầm về mô hình
CNXH; mục tiêu và lí tưởng của CNXH vẫn
sáng ngời chân lí. Thực hiện mục tiêu CNXH
là thực hiện mục tiêu : dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng văn minh. Đây chính là
nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân ta;
CNXH là ngọn cờ là động lực mạnh mẽ của
CMVN trong thời kì mới.
 Trong quan hệ giữa nhiệm vụ xây dựng
và bảo vệ, nhiệm vụ xây dựng vẫn phải ở vị
trí ưu tiên :
Đất nước ta hoàn toàn độc lập, thống
nhất, hoàn cảnh quốc tế có nhiều thay đổi.
Cuộc cách mạng Khoa học công nghệ hiện đại
đã và đang cuốn hút tất cả các dân tộc trên
hành tinh vào giai đoạn phát triển của sức sản
xuất; xu hướng đối thoại thay thế dần xu
hướng đối đầu, quan hệ hợp tác đa phương là
điều kiện để các nước hòa nhập nền kinh tế thế
giới. Đặc biệt là các nước đang phát triển tiếp
nhận các thành tựu Khoa học công nghệ tiên
tiến của thế giới để phát triển. Từ trạng thái
hai cực đối lập và xung đột chính trị, thế giới

chuyển sang trạng thái đa cực. Hệ thống
XHCN sau quá trình hình thành phát triển đã
đi vào khủng hoảng trầm trọng, dù lịch sử còn
nhiều biến đổi, con đường đi lên CNXH còn
lắm chông gai, quanh co, trắc trở nhưng nhất
định loài người sẽ tiến tới CNXH, vì nó phù
hợp với sự vận động của quy luật khách quan
của xã hội loài người. Vì vậy, nhiệm vụ đặt ở
vị trí ưu tiên xây dựng CNXH là đúng đắn.
Việt Nam là quốc gia thống nhất, độc
lập, tự chủ phát triển theo định hướng XHCN,
đang hòa mình vào vận hội mới của thế giới
với chủ trương thiết lập quan hệ hợp tác, hữu
nghị với tất cả các nước trên thế giới không
phân biệt chế độ chính trị - xã hội trên nguyên
tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, cùng có lợi
và bình đẳng. Chính sách mở cửa làm bạn với
tất cả bầu bạn năm châu, hợp tác trên mọi lĩnh
vực. Các bước đi hòa nhập vào các hoạt động
hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau với các nước trong
khu vực Đông Nam Á và thế giới đã góp phần
giữ vững thế ổn định và phát triển trong hòa
bình giữa các dân tộc; bạn giúp ta, ta giúp bạn,
cùng phát huy tiềm lực của mỗi nước để phát
triển xã hội đi đến phồn vinh.
Ở trong giai đoạn cách mạng mới, sự kết
hợp giữa độc lập dân tộc và CNXH được thể
hiện trên phương hướng chiến lược của Đảng.
Vì vậy, phương hướng chiến lược đúng đắn là
điều quan trọng, nhằm biến phương hướng

chiến lược trở thành mục tiêu cụ thể, thích hợp
cho mỗi thời kì của cách mạng Việt Nam.
Xác định đúng đắn các chặng đường của
thời kì quá độ, hoạch định chính xác nhiệm
vụ, mục tiêu cho mỗi chặng đường mới bảo
đảm kết hợp chặt chẽ giữa độc lập dân tộc
và CNXH
Sau khi đánh thắng đế quốc Mĩ, hoàn
thành cơ bản cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân chung trong cả nước, cả nước cùng tiến
lên CNXH, nhân dân ta hết sức phấn khởi,
phát huy khí thế chiến thắng bắt tay vào xây
dựng chế độ mới với nhiều chủ quan. Khi bắt
tay vào xây dựng, chúng ta gặp vô vàn khó
khăn do xuất phát điểm của nền kinh tế là từ
một nền sản xuất nhỏ, nghèo nàn, lạc hậu lại
chịu tác động hậu quả nặng nề của tàn dư
chiến tranh để lại, đời sống nhân dân cực khổ
trăm bề.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, trong
kế hoạch 5 năm (1976 -1980) đã vạch mục
tiêu : Cải thiện một bước đời sống vật chất
văn hóa của nhân dân tạo tích lũy cho công
nghiệp hóa XHCN. Ở đây, xét về mặt chủ
quan tư duy lí luận, tư duy kinh tế chưa đổi
mới, lại bỏ đi nhận thức đúng về bước đi ban
đầu. Vì vậy, sau 5 năm gian khổ dày công xây
dựng không đạt mục tiêu đề ra, đời sống nhân
dân ngày càng thêm khó khăn.
Đại hội Đảng lần thứ V xác định đổi mới

từng phần, ổn định đời sống kinh tế - xã hội
nhưng cơ bản chế độ tập trung quan liêu bao
cấp vẫn ngự trị, nền kinh tế vẫn tiếp tục khó
khăn. Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), Đảng ta
đã khẳng định Nhiệm vụ chung của những
năm của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi
mặt tình hình kinh tế - xã hội, xây dựng những
tiền đề cần thiết cho việc công nghiệp hóa
trong chặng đường tiếp theo. Đại hội VI với
đường lối đổi mới toàn diện, và qua 10 năm
(1986-1996), Đảng ta đã giành được nhiều
thành tựu quan trọng về đổi mới tư duy lí luận;
những thay đổi quan trọng về đời sống kinh tế,
sản xuất lương thực, thực phẩm, hàng tiêu
dùng, hàng hóa xuất khẩu, cải thiện đời sống
nhân dân, quốc phòng và an ninh được giữ
vững… Như vậy, lịch sử dân tộc ta đã chỉ rõ,
chỉ xác định đúng đắn các chặng đường trong
thời kì quá độ, xác định đúng mục tiêu, nhiệm
vụ của mỗi chặng đường mới kết hợp thành
công độc lập dân tộc và CNXH.
Đại hội Đảng lần thứ VII và VIII đều
thực hiện tiếp tục tư tưởng đổi mới phù hợp
diễn biến khách quan của tình hình kinh tế xã
hội, chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần có sự tham gia quản lí của Nhà
nước theo định hướng XHCN, xóa bỏ cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện vai trò
tự chủ trong sản xuất của các đơn vị kinh tế
quốc doanh và tư nhân, phát huy dân chủ,

chỉnh đốn, đổi mới Đảng nhằm nâng cao năng
lực và sức chiến đấu của Đảng… nhằm tạo
nên sức mạnh to lớn của dân tộc, vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn
minh.
Công nghiệp hóa -– hiện đại hóa nhằm xây
dựng tổ quốc XHCN vững mạnh
Chúng ta đã xác định cơ bản hoàn thành
những nhiệm vụ của chặng đường đầu và đang
bước vào chặng đường tiếp theo : công nghiệp
hóa - hiện đại hóa. Công nghiệp hóa là nhiệm
vụ trọng tâm của thời kì quá độ, thông qua
thực hiện đường lối công nghiệp hóa CNXH
mới được xây dựng một cách bền vững.
Đất nước ta đi lên CNXH từ nền tảng
nền kinh tế thấp kém, khuynh hướng phát triển
TBCN trong thời kì quá độ lên CNXH không
thể không phát sinh. Chính vì vậy, cuộc đấu
tranh giữa hai con đường diễn ra như một yếu
tố khách quan.
Công cuộc công nghiệp - hiện Đại hóa
thành công sẽ hạn chế cao khuynh hướng độc
lập dân tộc đi vào quỹ đạo TBCN. Với đường
lối công nghiệp hóa - hiện đại hóa đúng đắn,
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta sẽ tiến những
bước quan trọng trên con đường xây dựng
nước ta thành một nước XHCN, thực hiện
được mục tiêu : dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng văn minh.
V. Ý nghĩa, bài học kinh nghiệm

Nắm vững và giương cao ngọn cờ
ĐLDT và CNXH là một bài học kinh nghiệm
lớn, có tính chất bao trùm của Đảng ta vì :
- Từ khi có Đảng đường lối đó là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt toàn bộ lịch sử CMVN. Là ngọn cờ
bách chiến, bách thắng của Đảng ta từ khi ra
đời cho đến nay.
- Với đường lối cơ bản này, Đảng ta đã giải
quyết thắng lợi cơ bản về chiến lược, sách
lược trong cách mạng DTDC cũng như trong
cách mạng XHCN. Là cơ sở cho Đảng ta cụ
thể hóa những đường lối, chủ trương, chính
sách, mục tiêu của CMVN trong mỗi giai
đoạn.
- Cho phép Đảng ta khơi dậy được sức mạnh
của quá khứ, của hiện tại, của tương lai, sức
mạnh của dân tộc ta với sức mạnh của thời
đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn để xây
dựng tổ quốc Việt Nam.
- Là cơ sở khoa học để đánh giá, xem xét qúa
trình lãnh đạo cách mạng của Đảng cũng như
cách mạng thế giới, củng cố lòng tin & xây
dựng trách nhiệm của mình trong việc góp
phần thắng lợi đối với sự lãnh đạo của Đảng
và công cuộc đổi mới đi lên CNXH.
VI. Tóm lại :
Độc lập dân tộc gắn liền CNXH là một
trong những nguyên nhân của mọi thắng lợi vẻ
vang trong quá khứ, sẽ là sợi chỉ đỏ xuyên
suốt, là ngọn cờ bách chiến bách thắng của

Đảng ta, nhất định sẽ giành được mọi thắng
lợi của CMVN trong công cuộc đổi mới đi lên
CNXH.

×