Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

SOẠN BÀI ÔN THI MÔN TRIẾT LỚP CAO CẤP CHÍNH TRỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.61 KB, 39 trang )

SOẠN BÀI ÔN THI MÔN TRIẾT LỚP CAO CẤP CHÍNH TRỊ
1. PHẦN MỞ BÀI VÀ KẾT BÀI CÁC Đ/C TỰ NGHIÊN CỨU ĐỂ HOÀN THIỆN
(VÀ VÍ DỤ NẾU CÓ).
2. CÁC Đ/C HOÀN THIỆN VÀ TỰ IN TÀI LIỆU ĐỂ VÀO LÀM BÀI THI.
1. Trong "Bút ký triết học", V.I. Lê nin viết: "Phát triển là một cuộc đấu tranh
giữa các mặt đối lập" (V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, M.1978, t. 29, tr. 379).
Đồng chí hãy giải thích luận điểm trên và nêu ý nghĩa của vấn đề này trong
quá trình hội nhập quốc tế đối với nước ta hiện nay./.
Bài làm
- Mở bài
Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và phổ biến, là một khái niệm để chỉ
sự liên hệ và tác động lẫn nhau của các mặt đối lập. Mặt đối lập là những bộ phận, những
yếu tố, những thuộc tính có đặc điểm, hoặccó khuynh hướng vận động ngược chiều nhau
tồn tại trong cùng 1 sự vật hay hệ thống sự vật, tác động qua lại với nhau tạo nên sự vận
động và biến đổi của sự vật. Ví dụ: điện tích âm và điện tích dương trong 1 nguyên tử;
đồng hoá và dị hoá trong 1 cơ thể động vật; chân lý và sai lầm trong nhận thức.
Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn
biện chứng. Mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong tự
nhiên, xã hội và tư duy. Mâu thuẫn biện chứng trong tư duy là phản ánh mâu thuẫn trong
hiện thực và là nguồn gốc phát triển của nhận thức.
Mâu thuẫn có tính khách quan và phổ biến, nên mâu thuẫn có tính đa dạng và
phức tạp. Mâu thuẫn trong mỗi sự vật và trong các lĩnh vực khác nhau cũng khác nhau.
Trong mỗi sự vật, hiện tượng không phải chỉ có một mâu thuẫn, mà có nhiều mâu
thuẫn. Mỗi mâu thuẫn và mỗi mặt của mâu thuẫn lại có đặc điểm, có vai trò tác động
khác nhau đối với sự vận động và phát triển của sự vật.
Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó, hai mặt đối lập vừa thống nhất, vừa đấu
tranh với nhau. Mâu thuẫn là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Sự thống nhất của các
mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, không tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn
tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia để làm tiền đề. Sự thống nhất của các
mặt đối lập là sự liên hệ, quy định, ràng buộc lẫn nhau của các mặt đối lập, mặt này lấy
mặt kia làm tiền đề tồn tại cho mình.


Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự xung đột, bài trừ và phủ định lẫn nhau của
các mặt đối lập. Các mặt đối lập không chỉ thống nhất, mà còn luôn luôn “đấu tranh”
với nhau. Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và
phủ định lẫn nhau. Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập hết sức phong phú, đa
1
dạng, tùy thuộc vào tính chất, vào mối quan hệ qua lại giữa các mặt đối lập và tùy điều
kiện cụ thể diễn ra cuộc đấu tranh giữa chúng.
Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển. Phát triển là một sự
đấu tranh giữa các mặt đối lập. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hai xu
hướng tác động khác nhau của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Như vậy, mâu
thuẫn biện chứng bao hàm cả “sự thống nhất” lẫn “đấu tranh” của các mặt đối lập. Sự
thống nhất gắn liền với sự vận động và phát triển. Điều đó có nghĩa là: “Sự thống nhất
( ) của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh
của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là
tuyệt đối”.
Quá trình hình thành và phát triển của một mâu thuẫn là: Lúc đầu mới xuất hiện,
mâu thuẫn thể hiện ở sự khác biệt; sau đó phát triển lên thành hai mặt đối lập; khi hai
mặt đối lập của mâu thuẫn xung đột với nhau gay gắt và có điều kiện thì giữa chúng có
sự chuyển hóa - mâu thuẫn được giải quyết. Mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới được
hình thành và lại một quá trình mới làm cho sự vật không ngừng vận động và phát
triển. Nhờ đó mà thể thống nhất cũ được thay thế bằng thể thống nhất mới; sự vật cũ
mất đi sự vật mới ra đời thay thế. Chẳng hạn, bất kỳ một sinh vật nào cũng chỉ có thể
tồn tại và phát triển được khi có sự tác động qua lại giữa đồng hóa và dị hóa. Sự tiến
hóa của các giống loài không thể có được, nếu không có sự tác động qua lại giữa di
truyền và biến dị.
Tư tưởng, nhận thức của con người không thể phát triển, nếu không
có sự cọ sát thường xuyên với thực tiễn, không có sự tranh luận để làm rõ đúng sai
Tuy nhiên, không có thống nhất của các mặt đối lập thì cũng không có đấu tranh
giữa chúng. Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là không thể tách rời nhau
trong mâu thuẫn biện chứng. Sự vận động và phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất

giữa tính ổn định và tính thay đổi. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập quy
định tính ổn định và tính thay đổi của sự vật.
Do đó, mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển.
Nếu mâu thuẫn không được giải quyết (các mặt đối lập không chuyển hóa), thì
không có sự phát triển. Chuyển hóa của các mặt đối lập là tất yếu, là kết quả của sự đấu
tranh giữa các mặt đối lập. Do sự đa dạng của thế giới, nên các hình thức chuyển hóa
cũng rất đa dạng: có thể hai mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau và cũng có thể chuyển
hóa lên hình thức cao hơn.
Sự vận động và phát triển của sự vật thể hiện trong sự thống nhất biện chứng
giữa hai mặt: thống nhất của các mặt đối lập và đấu tranh của hai mặt đối lập, trong đó:
thống nhất của các mặt đối lập là tạm thời, tương đối; còn đấu tranh của các mặt đối lập
là tuyệt đối. Tính tuyệt đối của đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vận động và
2
phát triển của sự vật là sự tự thân và diễn ra liên tục. Tính tương đối của thống nhất
giữa các mặt đối lập làm cho thế giới vật chất phân hóa thành các bộ phận, các sự vật
đa dạng, phức tạp, gián đoạn. Tuy nhiên, trên thực tế có sự đồng nhất một cách sai lầm
đấu tranh với va chạm, đụng độ, rối loạn, mất ổn định, bè phái mất đoàn kết, nên người
ta ác cảm, không có cảm tình với đấu tranh. V. I. Lênin khẳng định: “Không thể đồng
nhất sự đấu tranh với các hiện tượng bè phái mất đoàn kết, vì các hiện tượng này không
tạo ra sự phát triển”. Tóm lại, mọi sự vật và hiện tượng trong thế giới khách quan đều là
thể thống nhất của các mặt đối lập, chính sự đấu tranh của các mặt đối lập và sự chuyển
hóa giữa chúng là nguồn gốc, động lực của sự phát triển.
Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có ý nghĩa
phương pháp luận quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Mâu thuẫn là
khách quan, là nguồn gốc, động lực của sự phát triển, nên muốn nhận thức đúng bản
chất sự vật và tìm ra phương hướng và giải pháp đúng cho hoạt động thực tiễn phải đi
sâu nghiên cứu phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật. Muốn phát hiện ra mâu thuẫn và tìm
ra những mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập đó.
Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng
mâu thuẫn, xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ lẫn nhau của các mâu thuẫn; phải xem

xét quá trình phát sinh, phát triển và vị trí của từng mặt đối lập, mối quan hệ tác động
qua lại giữa chúng, điều kiện chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng. Đồng thời, cũng phải
xem xét các mâu thuẫn cụ thể với vai trò, vị trí và mối quan hệ của nó. Chỉ có như thế
mới có thể hiểu đúng mâu thuẫn của sự vật, hiểu đúng xu hướng vận động, phát triển
và điều kiện để giải quyết mâu thuẫn.
Mâu thuẫn là phổ biến, đa dạng, do đó trong nhận thức và hoạt động thực tiễn,
phải có phương pháp phân tích mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn một cách cụ thể.
Việc giải quyết mâu thuẫn chỉ bằng con đường đấu tranh giữa các mặt đối lập và với
những điều kiện chín muồi. Để thúc đẩy sự phát triển, phải tìm hiểu mọi cách để giải
quyết mâu thuẫn, không được điều hòa mâu thuẫn. Việc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn
phải phù hợp với trình độ phát triển của mâu thuẫn. Phải tìm ra phương thức, phương tiện
và lực lượng để giải quyết mâu thuẫn. Hoạt động thực tiễn nhằm biến đổi sự vật là quá
trình giải quyết mâu thuẫn của nó. Muốn vậy, phải xác định đúng trạng thái chín muồi của
mâu thuẫn. Mâu thuẫn chỉ được giải quyết chỉ được giải quyết khi điều kiện đã chín muồi.
Cho nên, chúng ta không được giải quyết mâu thuẫn một cách vội vàng khi chưa có đủ
điều kiện; cũng như không thể giải quyết mâu thuẫn diễn ra một cách tự phát, phải có khả
năng giải quyết mâu thuẫn và tổ chức thực tiễn để giải quyết mâu thuẫn một cách thực tế.
Mẫu thuẫn được giải quyết bằng con đường đấu tranh (dưới hình thức cụ thể rất khác
nhau). Mâu thuẫn khác nhau phải có phương pháp giải quyết khác nhau. Điều đó tùy
thuộc vào bản chức của mâu thuẫn, vào những điều kiện cụ thể. Phải có biện pháp giải
quyết thích hợp với từng mâu thuẫn. Phải tìm ra các hình thức giải quyết mâu thuẫn một
3
cách linh hoạt, vừa phù hợp với từng loại mâu thuẫn, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể.
Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có ý nghĩa vô cùng
quan trọng đối với việc thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay.
Ý nghĩa của vấn đề trên trong quá trình hội nhập quốc tế đối với nước ta hiện
nay thể hiện ở những nội dung sau đây:
Đại hội XI của Đảng (2011) đánh dấu bước phát triển mới trong chủ trương hội
nhập quốc tế với sự khẳng định Chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”.
Theo đó, Đảng ta xác định, quá trình hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu

tranh và cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo,
khôn khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối tượng,
vấn đề, trường hợp, thời điểm cụ thể. Cần kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập quốc tế
với yêu cầu giữ vững an ninh, quốc phòng, nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất
nước.
Bởi vì, quá trình hội nhập quốc tế ở VIỆT NAM trước hết là đáp ứng lợi ích phát
triển của đất nước; mặt khác thông qua đó phát huy vai trò của nước ta trong quá trình
hợp tác và phát triển khu vực và thế giới, đóng góp vào cuộc đấu tranh chung của nhân
dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Để hội nhập quốc tế
một cách hiệu quả, Đảng ta xác định rõ nguyên tắc cơ bản và bao trùm là bảo đảm giữ
vững độc lập, tự chủ và định hướng XHCN, bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia, giữ gìn
bản sắc văn hoá dân tộc. Trong phát triển quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế, Đảng ta
nêu rõ 4 nguyên tắc cụ thể: Một là, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Hai là, không dùng vũ lực hoặc đe doạ
dùng vũ lực. Ba là, giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hoà
bình. Bốn là, tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Giải quyết mâu thuẫn trong việc sử dụng và phát huy các nguồn lực
Thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, nước ta hiện có một đội ngũ nhân lực khá dồi
chiếm 57,3% người, vấn đề lao động việc làm đã từng bước được giải quyết theo hướng
tuân theo quy luật khách quan của kinh tế hàng hóa và thị trường lao động, góp phần đưa
nền kinh tế nước ta phát triển đạt đưọc những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Tuy
nhiên, số người trong độ tuổi lao động đông không có nghĩa là thị trường lao động Việt
Nam đáp ứng đủ nhu cầu lao động cho các doanh nghiệp. Bởi số lao động có tay nghề, có
chất lượng của nước ta đang còn rất hạn chế. Sự chênh lệch về chất lượng nguồn lao động
ở khu vực nông thôn và thành thị là quá lớn, ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển kinh
tế chung của cả nước. Trong khi đó, lượng lao động từ nông thôn đến thành thị tìm việc
làm là rất lớn. Nhưng mục đích chính của những lao động này lên thành phố không phải
để học nghề, học việc mà tham gia vào các công việc mang tính chất thời vụ, buôn bán
hoặc làm những công việc không đòi hỏi kinh nghiệm, tay nghề. Nguồn lao động dồi dào,
4

tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta trong những năm gần đây liên tục tăng, nhưng các doanh
nghiệp vẫn trong tình trạng thiếu lao động.
Hiện trạng tài nguyên thiên nhiên ở nước ta đang diễn ra theo chiều hướng tiêu cực.
Nguồn tài nguyên thiên nhiên của chúng ta hiện nay đang bị thu hẹp cả về số lượng và
chất lượng. Nguyên nhân chính dẫn tới thực trạng hiện này đó chính là do hoạt động khai
thác một các bừa bãi, cùng với việc sử dụng tài nguyên lãng phí, và do công tác quản lý
yếu kém của các cấp chính quyền địa phương.
Cụ thể như là tài nguyên rừng đang bị thu hẹp theo từng ngày, diện tích rừng tự
nhiên che phủ giảm dần do khai thác trái phép, đất rừng bị chuyển qua đất nông công
nghiệp, các loài sinh vật quý hiếm thì đứng trước nguy cơ tuyệt chủng rất cao. Tình trạng
ô nhiễm nguồn nước là vấn đề nghiêm trọng nhất đối với tài nguyên nước của chúng ta
và theo dự báo đến năm 2025, 2/3 người trên thế giới có thể sẽ phải sống trong những
vùng thiếu nước trầm trọng. Tài nguyên khoáng sản đa dạng, phong phú nhưng đang dần
cạn kiệt sau việc khai thác quá mức và sử dụng lãng phí. Tài nguyên đất thì cũng đang
gặp rất nhiều khó khăn như đất nông nghiệp đang bị chuyển dần qua đất phục vụ cho
công nghiệp và dịch vụ, đất bị nhiễm mặn, bị sa mạc hóa ngày một tăng.
Giải quyết mâu thuẫn trong việc phát triển kinh tế thị trường với định hướng XHCN
Trong nền kinh tế toàn cầu hoá, các yếu tố như nguồn vốn, công nghệ sản xuất
tiên tiến và khoa học quản lý hiện đại có sự lưu chuyển tự do nhanh chóng, cho nên các
nước đều có khả năng tiếp cận, sử dụng với mức độ khác nhau. Cùng với dòng chảy
khổng lồ về vốn, hàng loạt các hoạt động chuyển giao công nghệ sản xuất và khoa học
quản lý tiên tiến được thực hiện, góp phần hữu hiệu vào sự lan toả rộng rãi của các làn
sóng tăng trưởng hiện đại. Việc Việt Nam gia nhập các định chế, tổ chức kinh tế, tài
chính khu vực cũng như toàn cầu, nhất là WTO tạo cơ hội tiếp cận thị trường hàng hoá
và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các
ngành dịch vụ mà các nước mở cửa theo quy định. Nước ta có điều kiện mở rộng thị
trường xuất khẩu, từng bước mở rộng kinh doanh dịch vụ ra ngoài biên giới quốc gia. Với
một nền kinh tế có độ mở lớn, kim ngạch xuất khẩu luôn chiếm trên 60% GDP thì điều
này càng có ý nghĩa quan trọng, là yếu tố bảo đảm tăng trưởng của nước ta.
Ngoài những mâu thuẫn trên, đất nước chúng ta còn phải đối mặt với nhiều thách

thức, khó khăn như:
Trước hết, thách thức lớn nhất và dễ nhận thấy nhất xuất phát từ chỗ nước ta là một
nước đang phát triển có trình độ kinh tế thấp, quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém và bất
cập, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé, sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch
vụ nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung còn nhiều hạn chế, hệ thống chính sách
kinh tế, thương mại chưa hoàn chỉnh Cho nên, nước ta sẽ gặp khó khăn lớn trong cạnh
tranh cả ở trong nước cả trên trường quốc tế, cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều
đối thủ hơn, trên bình diện sâu hơn, rộng hơn.
Thứ hai, trong quá trình hội nhập quốc tế, cũng như các nước đang phát triển khác,
nước ta phải chịu sự ràng buộc của các quy tắc kinh tế, thương mại, tài chính - tiền tệ, đầu
tư chủ yếu do các nước phát triển áp đặt; phải chịu sức ép cạnh tranh bất bình đẳng và
5
sự điều tiết vĩ mô bất hợp lý của các nước phát triển hàng đầu. Dựa vào sức mạnh kinh tế
và mức đóng góp vốn khống chế ở các thiết chế tài chính, tiền tệ và thương mại quốc tế,
các nước này đặt ra các “luật chơi” cho phần còn lại của thế giới khi tham gia IMF, WB,
WTO Tự do hoá thương mại và tự do hoá kinh tế, đáng lẽ phải là cái đích cần vươn tới,
thì bị họ xác định như xuất phát điểm, như điều kiện tiên quyết đối với các nước đang
phát triển trong tiến trình hội nhập quốc tế. Trên thực tế, đây là hoạt động lũng đoạn của
tư bản độc quyền quốc tế. Trong hoàn cảnh này, sự cạnh tranh kinh tế quốc tế và sự điều
tiết vĩ mô nền kinh tế thế giới vẫn tiếp tục trở nên bất bình đẳng và bất hợp lý mà dĩ nhiên
phần bất lợi lớn thuộc về tuyệt đại đa số các nước đang phát triển trong đó có nước ta.
Thứ ba, trên lĩnh vực xã hội, quá trình hội nhập quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá đặt
ra một thách thức nan giải đối với nước ta trong việc thực hiện chủ trương tăng trưởng
kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Sở dĩ vậy là
vì lợi ích của toàn cầu hoá được phân phối một cách không đồng đều, những nước có nền
kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. Trong phạm vi mỗi quốc gia cũng vậy, một
bộ phận dân cư được hưởng lợi ích ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu
hoá; nguy cơ thất nghiệp và sự phân hoá giàu nghèo sẽ tăng lên mạnh mẽ. Sức ép toàn
diện khi nước ta thực hiện các cam kết với WTO sẽ đè nặng lên khu vực nông nghiệp là
nơi có tới gần 70% dân số và lực lượng lao động xã hội, đồng thời chúng ta còn sự hạn

chế lớn về sức cạnh tranh của hàng hóa, về sự chưa phù hợp của nhiều chính sách Trong
tình hình như đã nêu, cơ cấu xã hội có thể biến động phức tạp và khó lường, làm cho sự
phân tầng, phân hoá xã hội cũng trở thành yếu tố tiêu cực đối với bản thân sự phát triển
của đất nước.
Thứ tư, quá trình hội nhập quốc tế đặt ra những vấn đề mới về bảo vệ an ninh quốc
gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Trên lĩnh vực an ninh
quốc gia, các nguy cơ đe doạ an ninh ngày càng phức tạp hơn, bên cạnh các hiểm hoạ
mang tính truyền thống, đã xuất hiện các nguy cơ phi truyền thống (an ninh môi trường,
dịch bệnh, khủng bố ); cục diện an ninh luôn thay đổi; công cụ, biện pháp, hình thức, cơ
chế bảo đảm an ninh cũng cần phải đổi mới thường xuyên. Vấn đề gắn an ninh, quốc
phòng với kinh tế và an ninh, quốc phòng với đối ngoại trở thành nhiệm vụ vừa cơ bản
vừa cấp bách hiện nay của nước ta. Hội nhập quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá, tính
tuỳ thuộc giữa các nước sẽ tăng lên. Sự biến động trên thị trường, cũng như tình hình
chính chính trị khu vực và thế giới sẽ tác động mạnh đến thị trường và đời sống chính trị
trong nước. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải có chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn, có năng
lực dự báo và phân tích tình hình quốc tế, đồng thời cơ chế quản lý phải tạo cơ sở để nền
kinh tế có khả năng phản ứng tích cực, hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực trước những biến
động trên thị trường thế giới, giữ vững an ninh kinh tế và ổn định chính trị- xã hội.
Trên lĩnh vực văn hoá, quá trình hội nhập quốc tế đặt nước ta trước nguy cơ bị các
giá trị ngoại lai (trong đó có lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền), nhất là các giá trị
văn hoá phương Tây xâm nhập ồ ạt, làm tổn hại bản sắc văn hoá dân tộc. Chưa bao giờ
văn hoá nhân loại lại đứng trước một nghịch lý phức tạp như trong kỷ nguyên toàn cầu
hoá hiện nay: vừa có khả năng giao lưu rộng mở, vừa có nguy cơ bị nghèo văn hoá rất
nghiêm trọng.
6
Thứ năm, trên lĩnh vực chính trị, tiến trình hội nhập quốc tế ở nước ta cũng đang đối
diện trước thách thức của một số nguy cơ đe doạ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia,
toàn vẹn lãnh thổ, sự lựa chọn định hướng chính trị, vai trò của nhà nước Đã xuất hiện
những mưu đồ lấy sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước để hạ thấp chủ quyền quốc gia;
lấy một thị trường không biên giới để phủ nhận tính bất khả xâm phạm của toàn vẹn lãnh

thổ quốc gia; lấy các thiết chế quốc tế làm mô hình siêu nhà nước đứng trên các nhà nước
quốc gia, áp đặt các giá trị dân chủ và nhân quyền phương Tây trong quan hệ quốc tế, đưa
ra thuyết "nhân quyền cao hơn chủ quyền" Hội nhập quốc tế đối với nước ta rõ ràng
không thể tách rời cuộc đấu tranh chống "diễn biến hoà bình" của các thế lực chống đối
trên nhiều lĩnh vực.
Có thể nói, hội nhập quốc tế ở nước ta là một quá trình với cơ hội và thách thức đan
xen tồn tại dưới dạng tiềm năng và có thể chuyển hoá lẫn nhau. Cơ hội và thách thức chỉ
trở thành hiện thực trong những điều kiện cụ thể, mà ở đó vai trò của nhân tố chủ quan có
tính quyết định rất lớn, trước hết đó là hiệu quả hoạt động lãnh đạo của Đảng, sự điều
hành quản lý của Nhà nước và tinh thần tự lực tự cường, đoàn kết của toàn dân tộc. Thực
tế đã chứng tỏ việc kiên định nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác
và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc
tế với chủ trương chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế là sự lựa chọn đúng đắn, tất
yếu đối với nước ta trong bối cảnh toàn cầu hoá sôi động hiện nay. Những thành tựu quan
trọng giành được trong quá trình hội nhập quốc tế, trước hết là hội nhập kinh tế quốc tế là
cơ sở để đất nước ta vững bước trên đường hội nhập và phát triển, sớm ra khỏi tình trạng
kém phát triển, công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công, hướng tới mục tiêu chiến
lược dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Tình hình thế giới đang chuyển biến hết sức nhanh chóng, phức tạp, quá trình toàn
cầu hoá và hội nhập quốc tế tạo ra cả những cơ hội và thách thức mới đối với nước ta. Các
thế lực chống đối ra sức thông qua hoạt động đối ngoại để can thiệp vào công việc nội bộ
của ta. Trước tình hình và nhiệm vụ đối ngoại của giai đoạn mới, cần tiếp tục đổi mới,
nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm, chất lượng và hiệu quả công tác của mỗi cơ
quan, tổ chức và mỗi người dân.
Thứ nhất, chủ động mở rộng quan hệ hữu nghị hợp tác với nhân dân các nước, coi
trọng phát triển quan hệ có chiều sâu với nhân dân các nước láng giềng và các nước có vị
trí quan trọng trong chính sách đối ngoại của ta; củng cố quan hệ với bạn bè truyền thống,
tăng cường quan hệ với các lực lượng yêu chuộng hoà bình và tiến bộ trên thế giới; đồng
thời, mở rộng quan hệ với các tổ chức, cá nhân và nhân sĩ nước ngoài, tranh thủ tình cảm
và sự ủng hộ của họ đối với Việt Nam, phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của

từng đối tác.
Thứ hai, mở rộng quan hệ hợp tác về kinh tế, văn hoá, giáo dục, khoa học - công
nghệ, bảo vệ môi trường… Chủ động làm tốt công tác vận động các nguồn lực và nâng
cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức quốc tế, các TCPCPNN, phù hợp với quy định của
pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế, bảo đảm kết hợp hài hoà giữa lợi ích của tổ chức
và lợi ích quốc gia, dân tộc.
7
Thứ ba, chủ động và nâng cao chất lượng công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại,
làm cho bạn bè quốc tế và nhân dân thế giới ngày càng hiểu đúng và đầy đủ hơn về đất
nước và con người Việt Nam, về đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và công cuộc
đổi mới của nước ta. Đồng thời góp phần nâng cao hiểu biết và nhận thức của các tầng lớp
nhân dân ta về chính sách đối ngoại của Việt Nam, về tình hình thế giới và các vấn đề
toàn cầu.
Thứ tư, phát huy vai trò của Việt Nam tại các diễn đàn quốc tế, các phong trào nhân
dân thế giới, nhằm góp phần tích cực vào việc giải quyết các vấn đề toàn cầu vào cuộc
đấu tranh chung vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội, phù hợp với khả
năng, điều kiện và lợi ích của nước ta.
Thứ năm, tăng cường công tác nghiên cứu, tổng kết, dự báo, tham mưu kịp thời cho
lãnh đạo Đảng, Nhà nước về công tác đối ngoại, góp phần đề xuất xây dựng chủ trương,
chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực này.
Thứ sáu, kiện toàn củng cố và phát triển bộ máy, đội ngũ cán bộ, lực lượng làm công
tác đối ngoại ở các tổ chức, cơ quan đảng, nhà nước, các đoàn thể nhân dân các cấp; rà
soát, bố trí, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách có bản lĩnh chính trị vững
vàng, nắm vững nghiệp vụ đối ngoại, giỏi ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu của công tác đối
ngoại trong giai đoạn mới; tạo điều kiện về kinh phí, cơ sở vật chất và cơ chế đảm bảo
cho các hoạt động đối ngoại.
Thứ bảy, đổi mới công tác chỉ đạo hoạt động đối ngoại; thực hiện phân cấp phân
công quản lý; hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các cơ quan đảng, Nhà nước với Mặt trận
Tổ quốc, các đoàn thể, các tổ chức nhân dân, cá nhân tham gia các hoạt động đối ngoại
nhân dân; tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân

dân về hoạt động đối ngoại; đẩy mạnh việc hướng dẫn, kiểm tra hoạt động đối ngoại.
Thứ tám, làm tốt công tác vận động cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài hướng
về Tổ quốc, tích cực tham gia đóng góp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển quan hệ
hữu nghị, hợp tác giữa nước ta với các nước.
- Kết bài

8
2. V.I.Lênin viết: “Người nào bắt tay vào những vấn đề riêng trước khi giải
quyết các vấn đề chung, thì kẻ đó, trên mỗi bước đi, sẽ không sao tránh khỏi “vấp
phải” những vấn đề chung đó một cách không tự giác. Mà mù quáng vấp phải
những vấn đề đó trong từng trường hợp riêng, thì có nghĩa là đưa chính sách của
mình đến chỗ những sự dao động tồi tệ nhất và mất hẳn tính nguyên tắc” (V.I.Lênin:
Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, M. 1979, T.15, tr.437).
Trên cơ sở lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa phạm trù cái riêng và
phạm trù cái chung, đồng chí hãy giải thích luận điểm nêu trên và liên hệ với thực tế
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay./.
BÀI LÀM
- Mở bài
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ 1 sự vật, 1 hiện tượng, 1 quá trình hay 1
hệ thống sự vật cụ thể tồn như một chỉnh thể.
Ví dụ:
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, đặc điểm, thuộc tính lặp lại
trong nhiều sự vật, hiện tượng, quá trình hay nhóm các sự vật, hiện tượng.
Ví dụ:
Cái đơn nhất không chỉ là tiêu chuẩn để phân biệt sự khác nhau giữa các cái riêng,
mà còn là tiêu chuẩn để phân biệt nó với cái chung, cái phổ biến.
Cái chung chỉ những mặt, những đặc điểm, những thuộc tính, những mối quan hệ
giống nhau được lặp lại ở trong nhiều sự vật, hiện tượng, quá trình hay nhóm các sự vật
hiện tượng. Cái chung là cái sâu sắc hơn cái riêng bởi vì cái chung là cái bản chất, cái tất
yếu, cái qui luật. Ví dụ: bất cứ một dạng vật chất cụ thể nào cũng có những thuộc tính

chung như tính khách quan, vận động, không gian, thời gian, phản ánh … Như vậy, cái
chung bao giờ cũng được đặt trong cái riêng, cái chung là cái chung của những cái riêng,
không thể có cái chung nằm ngoài cái riêng, độc lập với cái riêng. Điều đó cho thấy cái
chung chỉ là một mặt, một thuộc tính hay quan hệ nào đó của sự vật, nó tồn tại với tính
cách là thực thể độc lập trong nhiều sự vật hiện tượng.
Cái chung có thể phân thành cái phổ biến và cái đặc thù. Cái phổ biến là cái chung
của tất cả các sự vật hiện tượng trong một lĩnh vực mà chúng ta nghiên cứu. Cái đặc thù là
một phạm trù dùng để chỉ cái chung của một nhóm sự vật hiện tượng trong một lĩnh vực
mà chúng ta nghiên cứu.
Trong những hoàn cảnh khác nhau, cái chung có thể chuyển hoá thành cái đơn nhất
và ngược lại. Ví dụ: trước Đại hội Đảng VI thì kinh tế thị trường, khoán sản phẩm chỉ là
cái đơn nhất, còn cái chung là cơ chế bao cấp; nhưng từ sau Đại hội Đảng VI thì kinh tế
9
thị trường lại dần trở thành cái chung, còn kinh tế tập trung bao cấp thành cái đơn nhất,
chỉ còn tồn tại trong một số ngành như an ninh quốc phòng
Cái chung còn phân thành cái chung cơ bản và cái chung không cơ bản. Cái chung cơ
bản là cái chung thuộc về bản chất của sự vật. Cái chung không cơ bản là cái chung nằm
ngoài bản chất sự vật. Cái chung cơ bản chi phối sự vận động và phát triển của sự vật hiện
tượng, còn cái chung không cơ bản ít nhiều ảnh hưởng đến sự vận động và phát triển của
sự vật hiện tượng, đối với con người cái chung cơ bản thường là cái chung về lợi ích, đặc
biệt là lợi ích vật chất; những cái chung không cơ bản thuộc về hình thức bên ngoài như
màu da, mẫu tóc,…
Quan hệ biện chứng giữa cái riêng, cái chung và cái đơn nhất:
Thứ nhất: Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng: "Cái chung chỉ tồn tại trong cái
riêng, thông qua cái riêng". Điều đó có nghĩa là: "Cái chung" thực sự tồn tại, nhưng chỉ
tồn tại trong "cái riêng" chứ không tồn tại biệt lập, lơ lửng ở đâu đó bên cạnh cái riêng.
Thứ hai "Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung". Điều đó có
nghĩa là "cái riêng" tồn tại độc lập, nhưng sự tồn tại độc lập đó không có nghĩa là cái
riêng" hòan toàn cô lập với cái khác. Ngược lại, bất cứ cái riêng nào bao giỡ cũng tồn tại
trong một môi trường hoàn cảnh nhất định, tương tác với môi trường và hoàn cảnh ấy, đều

tham gia vào các mối liên hệ qua lại hết sức đa dạng với các sự vật hiện tượng khác xung
quanh.
Thứ ba: mối liên hệ giữa cái riêng và cái chung còn thể hiện ở chỗ: cái chung là bộ
phận của cái riêng, còn cái riêng không gia nhập hết vào cái chung. điều đó có nghĩa là:
bên cạnh cái chung, bất cứ cái riêng nào cũng còn chứa đựng những cái đơn nhất, những
cái chỉ vốn có ở nó và không được lặp lại ở bất cứ vật nào khác.
Thứ tư: trong những điều kiện nhất định, "cái đơn nhất" có thể biến thành "cái
chung" và ngược lại "cái chung" có thể biến thành "cái đơn nhất". Điều đó có nghĩa là:
những cái mới nhất định sẽ phát triển mạnh lên, ngày càng trở nên hòan thiện, tiến tới
hoàn toàn chiến thắng cái cũ và trở thành "cái chung". Ngược lại, cái cũ mất dần và từ chỗ
là "cái chung" trở thành "cái đơn nhất".
Liên hệ luận điểm trên với thực tế quá trình CNH, HĐH của nước ta hiện nay
Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng nên chỉ có thể tìm cái
chung trong cái riêng chứ không thể ngoài cái riêng. Để phát hiện cái chung, cần xuất
phát từ những cái riêng, từ những sự vật, hiện tượng, qúa trình riêng lể cụ thể chứ không
thể xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người.
Nghiên cứu, học tập mô hình công nghiệp hóa của các nước thành công đi trước vận
dụng vào Việt Nam.
Nghiên cứu đặc điểm, sự phong phú, đa dạng của từng địa phương, ngành để chọn
điểm đột phá trong quá trình công nghiệp hóa.
10
Bất cứ cái chung nào cũng tồn tại dưới dạng đã bị cải tiến, do đó, một kết luận được
rút ra từ sự khái quát khi áp dụng vào từng trường hợp riêng phải được cá biệt hóa, không
được áp dụng một cách máy móc, nguyên xi cái chung; tuyệt đối hóa cái chung sẽ rơi vào
sai lầm theo hưởng tả khuynh, giáo điều. Ngược lại xem thường cái chung, chỉ chú ý đến
cái đơn nhất, tuyệt đối hóa cái đơn nhất thì sẽ rơi vào sai lầm của những người hữu
khuynh, xét lại.
Không áp dụng nguyên si mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của các quốc gia
khác, địa phương khác vào quốc gia, địa phương mình khi chưa có sự nghiên cứu kỹ
lưỡng và cải biên phù hợp. Song cần tránh tuyệt đối hóa những đặc điểm riêng của địa

phương mà phớt lờ xu hướng chung.
Cái riêng thống nhất chặt chẽ với cái chung, nên khi giải quyết những vấn đề riêng
không thể lảng tránh việc giải quyết những vấn đề chung - những vấn đề lý luận liên qua
đến những vấn đề riêng đó, nếu không muốn rơi vào tình trạng mò mẫm, tùy tiện, kinh
nghiệm chủ nghĩa. Lênin dặn: "Người nào bắt tay vào giải quyết các vấn đề riêng trước
khi giải quyết các vấn đề chung thì trên mỗi bước đi sẽ không sao tránh khỏi những vấp
váp, những vấn đề chung một cách không tự giác. Mà mù quáng vấp phải những vấn đề
đó trong từng trường hợp riêng thì có nghĩa là đưa chính sách của mình đến chỗ vô
nguyên tắc".
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải vì lợi ích chung, đi vào những lĩnh vực, những
ngành đột phá, có thế mạnh, có khả năng kéo theo sự phát triển của các lĩnh vực kinh tế,
xã hội khác…
Áp dụng các mô hình cần nghiên cứu kỹ, không áp đặt kinh nghiệm chủ quan, có thể
dẫn tới bệnh kinh nghiệm…
Vì trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định cái đơn nhất
có thể trở thành cái chung và ngược lại nên trong hoạt động thực tiễn cần tạo điều kiện
thuận lợi cho cái đơn nhất biến thành cái chung, nếu cái đơn nhất ấy có lợi; ngược lại,
biến cái chung thành cái đơn nhất nếu sự tồn tại của cái chung không còn là điều ta mong
muốn.
Tạo điều kiện phát huy cái mới, phát huy sáng tạo trong các hoạt động
Mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng có ý nghĩa hết sức to lớn trong hoạt
động của con người. Theo Lênin, trong cuộc sống con người “bị rối lên” bởi cái riêng và
cái chung; và “người nào bắt tay vào những vấn đề riêng trước khi giải quyết các vấn đề
chung thì kẻ đó trên mỗi bước đi sẽ không sao tránh khỏi “vấp phải” những vấn đề chung
đó một cách không tự giác mà mù quáng vấp phải những vấn đề chung đó trong từng
trường hợp riêng thì có nghĩa là đưa chính sách của mình đến chỗ những sự dao động tồi
tệ nhất và mất hẳn tính nguyên tắc.
Vì sao như vậy?
11
Mặc dù, cái chung là một bộ phận của cái riêng, nằm trong cái riêng và không bao

quát hết cái riêng hay chỉ bao quát gần đúng những cái riêng. Tuy nhiên, cái chung căn
bản lại sâu sắc hơn cái riêng, chi phối cái riêng. Vì vậy, việc nhận thức cái chung là nhu
cầu thiết yếu của con người. Nắm được cái chung con người có thể nắm được bản chất
của sự vật, có thể tìm ra quy luật vận động của chúng, từ đó hình thành những phương
pháp để nhận thức và cải tạo thế giới bên ngoài. Nhưng vì cái chung nằm trong cái riêng
nên muốn nhận thức cái chung phải nắm được cái riêng, cái cụ thể, phải nghiên cứu phân
tích cái riêng một cách khách quan, tránh quan liêu xa rời thực tế.
Kế thừa có chọn lọc những kiến thức văn minh nhân loại, những kinh nghiệm rút ra
từ lịch sử tiến hành CNH-HĐH và thực tiễn ở Việt Nam. Hội nghị ban chấp hành TW lần
thứ bảy khóa VI và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng sản Việt Nam đă
xác định ''CNH-HĐH là quá t‰nh chuyển đổi cơ bản toàn diện các hoạt động sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ và quản lí kinh tế xă hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính
sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương
pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và sự tiến bộ khoa học công
nghệ nhằm tạo ra năng suất lao động XH cao.
Công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường
có sự điều tiết của nhà nước. Trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, mở cửa
nền kinh tế và phát triển quan hệ quốc tế là tất yếu, tuy nhiên công nghiệp hóa phải nhằm
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Mục tiêu lâu dài của CNH, HĐH ở nước ta là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội dựa trên một nền khoa học và công nghệ tiên tiến, tạo ra lực lượng
sản xuất mới với quan hệ sản xuất ngày càng tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, đảm bảo quốc
phòng, an ninh, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đại hội Đảng lần thứ X khẳng định: "sớm đưa nước ta khỏi tình trạng kém phát
triển đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng
để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm
2020".
ĐH XI xác định: những nội dung cụ thể của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
nước ta trong những năm trước mắt là đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông

thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân; Phát triển nhanh
hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ; Phát triển kinh tế vùng; Phát triển kinh tế biển.
Công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước là nhiệm vụ trung tâm trong suốt
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa, là sự nghiệp
của toàn dân, nhưng phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản và sự quản lý của
Nhà nước xã hội chủ nghĩa, thì sự nghiệp đó mới có thể hoàn thành tốt đẹp được.
- Kết bài
12
3. Trên cơ sở lý luận về mâu thuẫn của triết học mácxít và thực tiễn quá trình
đổi mới ở Việt Nam, đồng chí hãy nêu và phân tích một số mâu thuẫn biện chứng
đang tồn tại trong xã hội ta hiện nay và chỉ ra phương hướng để giải quyết./.
BÀI LÀM
- Mở bài
Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và biến đổi nên muốn nhận thức và cải tạo
sự vật thì điều quan trọng là phải nắm được những mâu thuẫn biện chứng của nó. Đối với
nước ta xét cả điều kiện trong nước và quốc tế, khác quan và chủ quan thì mâu thuẫn cơ
bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa XH đó là “mâu thuẫn giữa 1 bên là xu hướng tự
phát TBCN của cơ cấu KT nhiều thành phần có sự tác động của các thế lực thù địch trong
và ngoài nước với 1 bên là xu hướng XHCN đang hình thành và thể hiện từng bước trong
quá trình đi lên từ 1 cơ sở KTXH còn ở trình độ thấp”. Bên cạnh đó còn có vô số mâu
thuẫn biện chứng cùng tồn tại là động lực cho sự phát triển của đất nước, cũng như quá
trình đi lên CNXH ở nước ta.
Để làm sáng tỏ vấn đề này bằng lý luận triết học mácxít chúng ta cùng nhau tìm hiểu
các khái niệm: “mặt đối lập”. “sự thống nhất” và “đấu tranh của các mặt đối lập” cùng
mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong các mặt đối lập.
Mặt đối lập là những mặt, những thuộc tính, những yếu tố có xu hướng biến đổi trái
ngược nhau trong cùng một sự vật hay hệ thống sự vật. Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào
cũng được tạo thành từ nhiều bộ phận với những thuộc tính khác nhau. Trong số các yếu
tố, thuộc tính cấu thành sự vật đó không chỉ có sự khác nhau mà còn có những mặt đối lập
nhau. Chẳng hạn, trong nguyên tử không chỉ có hạt mang điện tích dương mà còn có hạt

mang điện tích âm. Trong cơ thể động vật, bên cạnh yếu tố di truyền lại có những yếu tố
gây biến dị Những mặt đối lập như vậy tồn tại khách quan trong mọi sự vật, hiện tượng,
trên tất cả các các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Các mặt đối lập đó liên hệ với nhau,
tác động qua lại với nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng của sự vật, hiện tượng.
Sự thống nhất của các mặt đối lập: là sự nương tựa vào nhau, quy định lẫn nhau,
mặt đối lập này lấy mặt đối lập kia làm tiền đề cho sự tồn tại của mình. Theo nghĩa rộng
thì sự thống nhất của các mặt đối lập được hiểu là sự cùng tồn tại của hai mặt đối lập. Các
mặt đối lập đòi hỏi có nhau, là tiền đề tồn tại của nhau, nếu không có mặt đối lập này thì
cũng không có mặt đối lập kia. Theo nghĩa hẹp thì sự thống nhất của các mặt đối lập là sự
đồng nhất, phù hợp, tác động ngang nhau của các mặt đối lập. Sự đồng nhất là trạng thái
mà những yếu tố chung, giống nhau của cả hai mặt đối lập giữ vai trò chi phối. Do có sự
đồng nhất đó mà trong quá trình phát triển của mâu thuẫn, đến một lúc nào đó các mặt đối
lập có thể chuyển hóa lẫn nhau.
Sự tác động ngang nhau của các mặt đối lập phản ánh trạng thái vận động của mâu
thuẫn ở một giai đoạn diễn ra sự cân bằng của các mặt đối lập.
13
Sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện không thể thiếu được cho sự tồn tại
của bất kỳ sự vật, hiện tượng nào (VD: điện tích âm và điện tích dương là hai mặt đối lập
tạo thành nguyên tử. Nếu không có sự thống nhất và quy định lẫn nhau giữa hai mặt đối
lập này thì nguyên tử cũng không tồn tại).
Sự đấu tranh của các mặt đối lập: là sự tác động qua lại theo hướng bài trừ, phủ
định lẫn nhau giữa các mặt đó. Ðấu tranh không chỉ là sự xung đột, đụng độ, thủ tiêu lẫn
nhau của các mặt đối lập. Sự đa dạng, phong phú về hình thức đấu tranh của các mặt đối
lập tùy thuộc vào tính chất, đặc điểm, mối quan hệ giữa các mặt đối lập; phụ thuộc vào
lĩnh vực tồn tại cũng như điều kiện trong đó diễn ra cuộc đấu tranh giữa các mặt đó. V. I.
Lênin cho rằng: Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như
sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối.
Mâu thuẫn biện chứng là mối quan hệ, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt
đối lập trong cùng một sự vật, hiện tượng (ví dụ: mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa tư bản là mâu thuẫn biện chứng, vì cùng là những bộ phận của thế giới, cùng chịu

sự tác động, chi phối của các quy luật khách quan, cùng hợp tác để giải quyết những vấn
đề toàn cầu như: biến đổi khí hậu, vấn đề thiên tai, dịch bệnh, sự bùng nổ dân số,…), mặt
khác mâu thuẫn tồn tại trong một thể thống nhất, hai mặt đối lập tác động qua lại, đấu
tranh với nhau, sự đấu tranh ấy là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ, phủ định lẫn
nhau giữa các mặt đó (ví dụ: đấu tranh giữa nô lệ và chủ nô thời kỳ chiếm hữu nô lệ; giữa
nông dân và địa chủ phong kiến thời kỳ phong kiến; giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư
bản thời kỳ tư bản, …). Giữa các mặt đối lập bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau,
đồng nhất với nhau; cho nên, sự thống nhất của những mặt đối lập còn bao hàm sự đồng
nhất của những mặt đó. Do có sự đồng nhất của các mặt đối lập mà trong quá trình diễn ra
mâu thuẫn, đến một lúc nào đó, mặt đối lập này có thể chuyển hóa thành mặt đối lập kia
nếu xét về một vài đặc trưng nào đó. (ví dụ: sự phát triển kinh tế của chủ nghĩa tư bản
nhằm phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản nhưng lại tạo cơ sở vật chất, làm tiền đề cho
sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội).
Triết học Mác – Lê nin khẳng định tính mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động
phát triển, sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là hai xu hướng trái ngược
nhau tạo thành mâu thuẫn, hay nói cách khác, mâu thuẫn biện chứng bao hàm cả sự thống
nhất lẫn sự đấu tranh của các mặt đối lập. Lúc đầu mới xuất hiện, mâu thuẫn chỉ là những
sự khác nhau căn bản nhưng theo khuynh hướng trái ngược nhau, khi xung đột ngày càng
gay gắt thì mâu thuẫn càng sâu sắc, đạt đến đỉnh điểm thì mâu thuẫn giải quyết nhờ đó sự
vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời, các mặt đối lập được triển khai, mâu thuẫn mới của các
mặt đối lập mới, cứ như thế, vận động phát triển không ngừng.
Mâu thuẫn trong tự nhiên, trong xã hội, trong tư duy vô cùng phong phú và đa
dạng, căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lập có mâu thuẫn bên trong, mâu thuẫn bên
14
ngoài; căn cứ vào ý nghĩa sự tồn tại và phát triển có mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn
không cơ bản; căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật
có mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu; căn cứ vào tính chất các lợi ích đối lập chia
các mâu thuẫn xã hội thành mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.
Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập có ý nghĩa
phương pháp luận quan trọng đối với nhận thức và hành động thực tiễn. Mâu thuẫn là

nguồn gốc, là động lực của sự phát triển, cho nên muốn tạo ra sự phát triển phải thường
xuyên phát hiện mâu thuẫn, không được lẩn tránh, che dấu mâu thuẫn; mặt khác, mâu
thuẫn chỉ có thể giải quyết khi đã có đủ điều kiện, nghĩa là mâu thuẫn phải đến mức sâu
sắc, đấu tranh gay gắt đến đỉnh điểm, cho nên không được giải quyết mâu thuẫn khi chưa
có đủ điều kiện cần thiết, hơn nữa có nhiều loại mâu thuẫn nên khi giải quyết phải lựa
chọn những hình thức, biện pháp khác nhau cho phù hợp, không được áp dụng một cách
tùy tiện, máy móc.
Ðảng ta luôn xác định trên phạm vi thế giới đang tồn tại bốn loại mâu thuẫn cơ
bản chi phối sự vận động và phát triển của thời đại, đó là: Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa tư bản; Mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp công nhân trong các
nước tư bản chủ nghĩa; Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc với các dân tộc; Mâu thuẫn
giữa các nước tư bản với các nước tư bản.
Trên cơ sở lý luận về mâu thuẫn của triết học Mácxit và thực tiễn quá trình
đổi mới ở Việt Nam hiện nay có thể thấy 1 số mâu thuẫn biện chứng đang tồn tại
trong xã hội ta hiện nay như sau: Mâu thuẫn tự phát đi lên CNTB và xu hướng tự giác đi
lên XHCN; Mâu thuẫn giữa nền KT độc lập tự chủ với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế;
Mâu thuẫn giàu nghèo; Mâu thuẫn giữa mặt tích cực và tiêu cực của cơ chế thị trường;
Mâu thuẫn giữa sự phát triển KT thành thị và nông thôn, mâu thuẫn giữa miền xuôi và
miền ngược… Cụ thể là:
1/ Mâu thuẫn tự phát đi lên CNTB và xu hướng tự giác đi lên XHCN là mâu thuẫn
giữa một bên là xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần,
có sự tác động của các thế lực phản động trong và ngoài nước với một bên là xu hướng xã
hội chủ nghĩa đang hình thành và thể hiện từng bước trong quá trình đi lên từ một cơ sở
kinh tế - xã hội còn ở trình độ thấp. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta nêu “để thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh theo con
đường xã hội chủ nghĩa, điều quan trọng nhất là phải cải biến căn bản tình trạng kinh tế -
xã hội kém phát triển, chiến thắng những lực lượng cản trở việc thực hiện mục tiêu đó,
trước hết là các thế lực thù địch chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Thực chất đó
chính là mâu thuẫn giữa hai con đường, hai xu hướng phát triển “xu hướng tự phát tư bản
chủ nghĩa và xu hướng tự giác xã hội chủ nghĩa”. Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của

nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
15
Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta
xây dựng là một xã hội: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân
làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản
xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng
đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản
lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới. Đây là một quá trình
cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến
đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm giải quyết mâu thuẫn hai
con đường, hai xu hướng phát triển “xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa và xu hướng tự
giác xã hội chủ nghĩa. Để giải quyết mâu thuẫn này cần thực hiện tốt các vấn đề như đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
2/ Mâu thuẫn giữa nền KT độc lập tự chủ với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế: chúng
ta thực hiện đường lối hội nhập quốc tế, đó là điều cần thiết để phát triển đất nước, đưa
nước ta sớm thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm
2020. Bên cạnh những thuận lợi cơ bản, chúng ta cũng gặp không ít khó khăn thách thức,
trong đó có cả những âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch lợi dụng hội nhập để xâm
hại độc lập dân tộc, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ hòng xóa bỏ chế độ XHCN nước ta.
Thực hiện độc lập tự chủ là “thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa
bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ; là bạn, đối tác tin cậy và
thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một
nước VN XHCN giàu mạnh” Do vậy, quá trình hội nhập của nước ta phải có bước đi, lộ

trình thích hợp; phải chủ động hợp tác, khôn khéo trong đối sách, không để bị động; luôn
cảnh giác trước âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch
3/ Mâu thuẫn giàu nghèo: với một nước nông nghiệp như nước ta, thực hiện nền
kinh tế thị trường, việc phân hóa giàu nghèo là điều không thể tránh khỏi. Nền kinh tế
nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần tương ứng với nhiều hình thức sở hữu, vì vậy,
trong quá trình phân phối theo lao động, tất yếu có một số người sẽ có thu nhập lớn do
đóng góp vốn, trình độ tay nghề, trình độ kỹ thuật sản xuất cho nên một người sẽ giàu
lên nhanh chóng, trong khi đó đa số người có thu nhập thấp hơn, dẫn đến khoảng cách
giàu nghèo ngày càng tăng. Để giải quyết mâu thuẫn này, Đảng, Nhà nước cần đề ra và tổ
chức thực hiện tốt các chính sách xã hội như cho vay ưu đãi đối với người nghèo, xóa đói
16
giảm nghèo, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; đẩy mạnh dạy nghề cho người lao động,
huấn luyện họ có tác phong lao động thích nghi với sự phát triển của nền kinh tế nước ta
4/ Mâu thuẫn giữa mặt tích cực và tiêu cực của cơ chế thị trường:
Mặt tích cực: cơ chế thị trường có khả năng tự điều tiết sx xh, tức là tự động phân
bố các nguồn tài nguyên sx vào các khu vực, các ngành Kt mà không có bất cứ sự điều
tiết trung tâm nào. Cơ chế thị trường tự độ kích thích sự phát triển sx, tăng trưởng KT cả
chiều rộng và chiều sâu. Tăng cường chuyên môn hoá sx, trong giai đoạn đầu của sự phát
triển KTTT đã phân hoá những người sx thành những người sx và những người quản lý.
Khi phát triển hơn, nền KTTT tiếp tục phân hoá và chuyên môn hoá các nhà kinh doanh
vào các ngành, các lĩnh vực cụ thể mà họ có ưu thế nhất. người tiêu dùng quyết định việc
sử dụng loại hàng hoá gì, khối lượng bao nhiêu, sx = phương thức nào, được quyết định
bởi sự cạnh tranh giữa những người sx.
Bên cạnh những ưu điểm, nên KTTT cũng chứa đựng rất nhiều khuyết tật và đặc
biệt có những mục tiêu XH mà cơ chế thị trường có hoạt động tốt nhất cũng không thể đạt
được. Mục đích của các doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận, do đó họ có thể lạm dụng
tài nguyên XH, vì vậy XH phải chịu 1 khoản phụ phí do khai thác khó khăn hơn. Có thể
gây ô nhiễm không khí và nguồn nước mà XH phải gánh chịu. Gây ra sự bất bình đẳng
lớn của XH. Sự phân hoá giàu nghèo là khó tránh khỏi và khoảng cách giữa những người
giàu, người nghèo càng tăng. Gây mất cân bằng nền KT. Vấn đề lạm phát, thất nghiệp và

chu kỳ kinh doanh luôn là những căn bệnh kinh niên khó kha91c phục.
Do những mâu thuẫn tích cực và tiêu cực của nền KTTT dẫn đến đòi hỏi phải có
vai trò quan trọng của nhà nước. Nhà nước cần có những chính sách để điều tiết nền KT
cho phù hợp với định hướng XHCN, thực hiện công bằng XH.
5/ Mâu thuẫn giữa sự phát triển KT thành thị và nông thôn, mâu thuẫn giữa miền
xuôi và miền ngược: muốn phát triển toàn diện nông nghiệp, nông thôn, phải giải quyết
được mâu thuẫn chủ yếu hiện nay là khoảng cách giữa thành thị và nông thôn ngày càng
tăng thêm. Muốn giảm khoảng cách này, phải tiến hành đô thị hóa và công nghiệp hóa
nông thôn. Thời gian qua, Nhà nước tập trung vào đô thị hóa và công nghiệp hóa thành
thị, bỏ quên nông thôn, để nông dân tự làm lấy một cách tự phát. Do đó, phải xác định
chiến lược và xây dựng quy hoạch đô thị hóa và công nghiệp hóa nông thôn. Bao gồm
việc xây dựng các thị trấn, thị tứ ở nông thôn, phát triển công nghiệp và dịch vụ nông
thôn, xây dựng thị trường nông thôn, giải quyết việc làm cho lao động dư thừa ở nông
thôn.
- Kết bài
17
4. Trong "Bút ký triết học", V.I. Lê nin viết: "Phát triển là một cuộc đấu tranh
giữa các mặt đối lập. Có điều không thể đồng nhất sự đấu tranh với các hiện tượng
bè phái mất đoàn kết, vì các hiện tượng này không tạo ra sự phát triển" (V.I. Lênin:
Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, M.1978, t. 29, tr. 379).
Đồng chí hãy phân tích cơ sở triết học của luận điểm trên và nêu ý nghĩa của
vấn đề này đối với việc “thực hiện chế độ tự phê bình và phê bình trong Đảng” trong
công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng ta hiện nay ./.
BÀI LÀM
- Mở bài
Quy luật mâu thuẫn (Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập) là 1
trong những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Nó là hạt nhân của phép biện
chứng duy vật, đề cập đến vấn đề quan trọng nhất của phép biện chứng là nguồn gốc của
sự phát triển và là cơ sở để tìm hiểu các quy luật và phạm trù cơ bản khác của phép biện
chứng.

Mặt đối lập là những yếu tố, những thuộc tính, những bộ phận có đặc điểm, hoặc có
khuynh hướng vận động ngược chiều nhau tồn tại trong cùng 1 sự vật hay hệ thống sự vật,
tác động qua lại với nhau tạo nên sự vận động và biến đổi của sự vật.
Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự kết hợp với nhau, nương tựa vào nhau, làm
điều kiện và tiền đề tồn tại cho nhau, không có mặt đối lập này thì không có mặt đối lập
kia; là sự đồng nhất, phù hợp, tác động ngang nhau, chuyển hoá lẫn nhau.
Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động lẫn nhau, sự bài trừ, phủ định lẫn nhau,
sự triển khai của các mặt đối lập. Đấu tranh không chỉ là sự xung đột, đụng độ, thu tiêu
lẫn nhau của các mặt đối lập. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt
đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối (Lênin).
Mâu thuẫn biện chứng là nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Chính sự liên hệ,
tác động, đấu tranh giữa các mặt, thuộc tính, khuynh hướng đối lập nhau đã làm cho sự
vật vận động và biến đổi. Đấu tranh của các mặt đối lập diễn ra từ thấp lên cao, qua nhiều
giai đoạn. Khi đạt đến một giới hạn nhất định sẽ dẫn đến sự chuyển hoá của các mặt đối
lập. Kết quả là sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời và tạo nên 1 sự thống nhất của các mặt
đối lập mới. Tuy nhiên, không có thống nhất của các mặt đối lập thì cũng không có cuộc
đấu tranh giữa chúng và do vậy cũng không có mâu thuẫn nói chung. Sự vận động và phát
triển của sự vật bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính thay đổi. Sự thống
nhất của các mặt đối lập tạo nên tính ổn định tương đối, tạm thời của sự vật. Còn “đấu
tranh” của các mặt đối lập có xu hướng làm mất sự ổn định của sự vật, làm cho nó vận
18
động và biến đổi. Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập quy định tính ổn định và
tính thay đổi sự vật.
Mâu thuẫn tồn tại hết sức đa dạng, phong phú trong cả tự nhiên, XH và tư duy. Tính
phức tạp, muôn vẻ của mâu thuẫn được quy định bởi đặc điểm của các mặt đối lập, bởi
điều kiện mà trong đó mẫu thuẫn được triển khai, bởi trình độ tổ chức của hệ thống mà
trong đó mâu thuẫn đang tồn tại.
Căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lập với một sự vật, người ta phân loại các mâu
thuẫn thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài (VD: mâu thuẫn giai cấp giữa
gia cấp chủ nô và nô lệ là mâu thuận bên trong của XH chiếm hữu nô lệ; mâu thuẫn giữa

CNXH và CNTB là mâu thuẫn bên ngoài). Trong 2 loại mâu thuẫn trên, mâu thuẫn bên
trong có vai trò quyết định trực tiếp đối với quá trình vận động và phát triển của sự vật.
Mâu thuẫn bên ngoài có thể tác động vào mâu thuẫn bên trong theo những hướng khác
nhau tạo thành nhân tố thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển.
Vì vậy, trong công cuộc đổi mới hiện nay, đảng ta xác định việc khai thác hết những
tiềm năng to lớn của đất nước, phát huy nguồn nội lực nội sinh của dân tộc có ý nghĩa
quyết định nhất. Bên cạnh đó, chủ động hội nhập quốc tế, mở rộng quan hệ hợp tác đối
ngoại, tranh thủ những nguồn lực từ bên ngoài cũng giữ vai trò quan trọng không thể xem
thường.
Dựa trên ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, các mâu thuẫn
được chia thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật trong
một giai đoạn nhất định, các mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn
thứ yếu.
Căn cứ vào tính chất của các lợi ích đối lập, người ta chia mâu thuẫn XH thành mâu
thuẫn đối khánh (có lợi ích cơ bản đối lập nhau) và mâu thuẫn không đối kháng (có sự đối
lập về lợi ích không cơ bản, cục bộ, tạm thời). VD: mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn
giữa chủ nô và nô lê, giữa địa chủ và nông dân, tư sản và vô sản. Mâu thuẫn không đối
kháng là mâu thuẫn giữa các tầng lớp nông dân, giữa các bộ phận công nhân với nhau
trong nước.
Có thể thấy mọi sự vật hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng
tạo thành mâu thuẫn. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là động lực bên trong
của sự vận động và phát triển, dẫn tới sự mất đi của cái cũ và sự ra đời của cái mới.
Từ cơ sở triết học của luận điểm trên chúng ta thấy ý nghĩa của vấn đề này đối
với việc “thực hiện chế độ tự phên bình và phê bình trong công tác xây dựng và
chỉnh đốn Đảng ta hiện nay như sau:
19
Để nhận thức đúng đắn bản chất sự vật và tìm ra phương hướng, giải pháp đúng cho
hoạt động thực tiễn, phải đi sâu nghiên cứu phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật thông qua
các mặt đối lập trong sự vật.

Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu
thuẫn, xem xét vai trò vị trí và mối quan hệ lẫn nhau của các mâu thuẫn; phải xem xét quá
trình phát sinh, phát triển và vị trí của từng mặt đối lập, mối quan hệ tác động qua lại giữa
chúng, điều kiện chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng.
Chỉ có như thế mới có thể hiểu đúng mâu thuẫn của sự vật, hiểu đúng xu hướng vận
động, phát triển và điều kiện để giải quyết mâu thuẫn.
Để thúc đẩy sự vật phát triển phải tìm mọi cách để giải quyết mâu thuẫn. Việc giải
quyết mâu thuẫn phải phù hợp với trình độ phát triển của mâu thuẫn. Phải tìm ra phương
thức, phương tiện và lực lượng để giải quyết mâu thuẫn.
Tự phê bình và phê bình là vũ khí sắc bén ngăn chặn suy thoái tư tưởng chính trị,
đạo đức lối sống của cán bộ, đảng viên hiện nay. Tự phê bình và phê bình trong Đảng là
gì?
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tự phê bình là “Thật thà nhận, công khai nhận trước
mặt mọi người những khuyết điểm của mình để tìm cách sửa chữa”. “Tự phê bình là nêu
ra ưu điểm và vạch ra khuyết điểm của mình”.
“Phê bình là nêu ra ưu điểm và vạch ra khuyết điểm của đồng chí mình”.
Tự phê bình và phê bình phải đi đôi với nhau, có vai trò, ý nghĩa hết sức quan trọng
vừa là công cụ quan trọng nhất để xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Đoàn kết trong Đảng là đoàn kết thống nhất từ trong tư duy, nhận thức, lý tưởng đến hành
động cách mạng hàng ngày.
Quán triệt và thực hiện tư tưởng của CT HCM, từ ĐH IV đến ĐH XI của Đảng trong
nghị quyết của mỗi nhiệm kỳ đều nhấn mạnh đến việc thực hiện nghiêm túc và có hiệu
quả tự phê bình và phê bình để không ngừng xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh, đủ
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu trong tình mới. Cùng với những thành tựu đạt được
hết sức quan trọng, Đảng ta cũng thừa nhận vẫn còn không ít những hạn chế, yếu kém,
thậm chí có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm khắc phục,
làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Văn kiện ĐH XI thừa nhận: “Quan liêu,
tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, chưa
được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc XH Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
không ít tổ chức cơ sở đảng còn thấp; công tác quản lý đảng viên chưa chặt chẽ, sinh hoạt

đảng chưa nề nếp, nội dung sinh hoạt nghèo nàn, tự phê bình và phê bình yếu Nhiều
khuyết điểm, sai lầm của đảng viên và tổ chức đảng chậm được phát hiện. Tình trạng
thiếu trách nhiệm, cơ hội, suy thoái đạo đức, lối sống vẫn diễn ra khá phổ biến trong 1 bộ
phận, đảng viên”
20
Biểu hiện cụ thể của vấn đề trên là cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng,
không làm tròn bổ phận, chức trách được giao, không thực hiện đúng các nguyên tắc tổ
chức và sinh hoạt đảng; không trung thực, không thẳng thắn trong tự phê bình và phê
bình, thiếu dân chủ hoặc dân chủ hình thức; sa sút ý chí chiến đấu , thấy đúng không bảo
vệ, thấy sai không đấu tranh, phụ hoạ theo những nhận thức, quan điểm lệc lạc, sai trái.
Tình hình trên có nguyên nhân khách quan nhưng chủ yếu là do những nguyên nhân chủ
quan: cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu, quên đi trách
nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân dân. Việc tổ chức thực hiện các chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước, các nghị quyết, chỉ thị, quy định về xây dựng, chỉnh đốn
Đảng ở một số nơi chưa đến nơi đến chốn; kỷ cương, kỷ luật không nghiêm, nói không đi
đôi với làm, hoặc làm chiếu lệ. Các nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình
ở nhiều nơi còn buông lỏng trong thực hiện, vừa chưa được quy định cụ thể để làm cơ sở
cho công tác kiểm tra, giám sát
Vì vậy, thực hiện tự phê bình và phê bình trong Đảng là khâu mấu chốt nhất, nhưng
cũng có nhiều khó khăn nhất. Nó đòi hỏi mỗi người phải tự phân tích mổ xẻ những ưu,
khuyết điểm của chính bản thân mình; phải nhận xét, đánh giá về người khác. Nếu không
thật tự giác, chân thành, công tâm thì rất dễ chủ quan, thường chỉ thấy ưu điểm, mặt mạnh
của mình nhiều hơn người khác; trong khi chỉ thấy khuyết điểm, mặt yếu của người khác
nhiều hơn mình. Nếu không hết lòng vì sự nghiệp chung, không có dũng khí, không thật
sự cầu thị thì không dám nói hết khuyết điểm của mình và không dám phê bình người
khác, nhất là phê bình cấp trên. Thái độ nể nag, hữu khuynh “im lặng là vàng”, hoặc thái
độ cực đoan, muốn lợi dụng phê bình để đả kích người khác, gây rối nội bộ, đều không
đúng. Tự phê bình và phê bình đòi hỏi mỗi người phải có tinh thần tực giác rất cao, có
tình thương yêu đồng chí thật sự và phải có dũng khí đấu tranh thẳng thắn, chân tình.
Để nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình trong tình hình hiện nay, góp

phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên,
giữ vững kỷ cương, kỷ luật, nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, tạo sự đoàn kết thống
nhất, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo thực hiện thắng lợi sự
nghiệp cách mạng, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp:
Một là, các cấp ủy, tổ chức đảng, nhất là người đứng đầu cần tăng cường tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục cho cán bộ, đảng viên nâng cao nhận thức về tự phê bình và
phê bình bằng nhiều hình thức cụ thể, thiết thực. Thường xuyên tổ chức cho cán bộ, đảng
viên nghiên cứu, quán triệt và vận dụng thực hiện sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về rèn
luyện phẩm chất đạo đức cách mạng của người đảng viên cộng sản, về các nguyên tắc tổ
chức và sinh hoạt đảng, nhận thức đúng về tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển
của Đảng, của từng cán bộ, đảng viên. Thấy rõ mục đích, ý nghĩa, tác dụng của tự phê
bình và phê bình không phải là “bới lông tìm vết, mà là “trị bệnh cứu người”, giúp tổ chức
21
đảng và đảng viên thấy rõ ưu điểm để phát huy, thiếu sót, khuyết điểm để uốn nắn, sửa
chữa, khắc phục; nếu có vi phạm đến mức phải xử lý thì tự giác nhận khuyết điểm, vi
phạm, tự nhận hình thức kỷ luật; tổ chức đảng xem xét, thi hành kỷ luật theo thẩm quyền
hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền quyết định thi hành kỷ luật đối với tổ chức đảng, đảng
viên đúng tính chất, mức độ, tác hại và nguyên nhân của vi phạm. Khắc phục tình trạng nể
nang, né tránh, bao che cho thiếu sót, khuyết điểm, vi phạm của tổ chức và đồng chí mình.
Từ đó, vận dụng vào thực tế sinh hoạt đảng, sinh hoạt cấp ủy, sinh hoạt chi bộ của tổ chức
đảng và đảng viên theo phương châm: lời nói đi đôi với việc làm, tự phê bình từ trên
xuống, từ dưới lên, từ trong ra, từ ngoài vào. Khi thực hiện tự phê bình phải nghiêm túc
và tự giác. Khi phê bình phải chân thành, thẳng thắn, thắm tình đồng chí trên tinh thần
xây dựng, không có dụng ý xấu, không thiên tư, thiên kiến, không chen động cơ cá nhân,
không có sự trả thù, trù dập.
Hai là, nghiên cứu bổ sung, sửa đổi hoàn chỉnh các quy chế, quy định về chế độ
công tác, lề lối làm việc của cấp ủy, tổ chức đảng phải có nội dung tự phê bình và phê
bình và chấp hành nghiêm túc. Sớm ban hành quy chế về chế độ tự phê bình và phê bình,
quy chế dân chủ trong Đảng, quy chế giám sát trong Đảng để các tổ chức đảng và đảng
viên có cơ sở chấp hành nghiêm túc. Ban hành quy chế nhân dân tham gia giám sát tổ

chức đảng và đảng viên. Định kỳ cấp ủy, tổ chức đảng tổ chức cho quần chúng tham gia
góp ý kiến cho tổ chức đảng và đảng viên, nhất là người đứng đầu; cán bộ chủ chốt phải
thực sự gương mẫu thực hiện việc tự phê bình trước nhân dân và tiếp thu ý kiến phê bình
của nhân dân đối với mình. Cấp ủy, tổ chức đảng cấp trên tăng cường công tác giám sát,
kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên trong việc chấp hành chế độ tự phê bình và
phê bình trong sinh hoạt đảng, sinh hoạt cấp ủy, sinh hoạt chi bộ để kịp thời phát huy ưu
điểm, uốn nắn, khắc phục thiếu sót, khuyết điểm và xử lý nghiêm minh nếu có vi phạm.
Ba là, các cấp ủy, tổ chức đảng phải thực hiện nghiêm túc các quy định của Đảng
về tự phê bình và phê bình; phải đảm bảo dân chủ trong tự phê bình và phê bình; khắc
phục tình trạng mất dân chủ hoặc áp đặt trong tự phê bình và phê bình, phê bình mang
tính hình thức. Đảng viên phải khắc phục tâm lý tự ti, hoặc sợ bị trả thù, trù dập của người
mình phê bình, nhất là đối với những đồng chí lãnh đạo, cán bộ chủ chốt của cơ quan, đơn
vị, tổ chức. Bản thân phải chủ động tự phê bình, không được giấu giếm thiếu sót, khuyết
điểm, để khuyết điểm trở thành vi phạm. Khi có khuyết điểm, vi phạm phải tự giác nhận
lỗi, tự nhận hình thức kỷ luật và tỏ rõ quyết tâm sửa chữa, khắc phục, phấn đấu vươn lên.
Đối với đồng chí, tổ chức đảng nơi mình sinh hoạt, phải chủ động phê bình, giúp đỡ đồng
chí, tổ chức nhận rõ thiếu sót, khuyết điểm để khắc phục kịp thời, đề nghị đảng viên, tổ
chức đảng giải thích, làm rõ những vấn đề mình yêu cầu. Tổ chức đảng có thẩm quyền
phải kiên quyết xử lý những đảng viên và tổ chức đảng có hành vi trả thù, trù dập người
thẳng thắn đấu tranh, phê bình. Sớm nghiên cứu ban hành quy chế bảo vệ, khuyến khích,
22
động viên, khen thưởng người dũng cảm đấu tranh, phê bình. Kiên quyết xử lý các hành
vi lợi dụng phê bình để bôi nhọ, nói xấu, vu cáo, hạ uy tín của đảng viên, tổ chức đảng.
Bốn là, trong kiểm điểm công tác hằng năm của cấp ủy, tổ chức đảng phải chú
trọng tự phê bình và phê bình. Người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền phải
gương mẫu chấp hành việc tự phê bình và phê bình trước tập thể, có sự giám sát của cấp
ủy, ủy ban kiểm tra cấp trên. Thực hiện nghiêm túc phương châm tự phê bình và phê bình
là “trên trước, dưới sau”, “từ trong ra, từ ngoài vào”, “từ trên xuống, từ dưới lên” để phê
bình và tự phê bình bảo đảm dân chủ, khách quan, trung thực, đầy đủ, rốt ráo và có chất
lượng. Thường xuyên sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm và đề ra biện pháp thực hiện tự

phê bình và phê bình phù hợp với tình hình thực tế, bảo đảm có chất lượng, đem lại hiệu
quả thiết thực. Các cấp ủy, tổ chức đảng cần tăng cường tuyên truyền, nêu gương đảng
viên và tổ chức đảng, quần chúng tích cực đấu tranh phê bình, gương những người dũng
cảm nhận thiếu sót, khuyết điểm, vi phạm để sửa chữa, khắc phục và phấn đấu vươn lên.
Năm là, Nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về
cuộc vận động tự phê bình và phê bình. Tăng cường sự lãnh đạo và chỉ đạo của các cấp ủy
đảng.
Sáu là, Mở rộng dan chủ, công khai, minh bạch, nâng cao trình độ, kiến thức các
mặt cho cán bộ, đảng viên, quần chúng làm cơ sở cho mọi người tham gia tự phê bình và
phê bình, giám sát, góp ý lẫn nhau.
Bảy là, Duy trì tốt nền nếp chế độ tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng. Coi
trọng tự phê bình và phê bình của cấp ủy và cán bộ chủ chốt (gương mẫu TPB và PB
trước)
Tám là, Tổ chức phối, kết hợp chặt chẽ TPB và PB trong Đảng với phê bình của
nhân dân. Phát huy vai trò tích cực của tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội, của nhân dân
và các cơ quan thông tin đại chúng.
Chín là, Phối hợp chặt chẽ TPB và PB với công tác kiểm tra, giám sát, công tác
thanh tra. Qua TPB và PB phát hiện cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng có sai phạm thì phải
kiên quyết xử lý.
Mười là, Đẩy mạnh cuộc vận động nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa
cá nhân. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức, lối sống của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Mười một là, Xây dựng hệ thống pháp quy đủ mạnh nhằm pháp lý hóa, chuẩn hóa
các hoạt động tự phê bình và phê bình.
Mước hai là, Thực hiện đúng quy trình tiến hành tự phê bình và phê bình.
- Kết bài
23
5. Trong bài nói chuyện với anh chị em học viên, cán bộ, công nhân viên Tr-
ường Đại học Nhân dân Việt Nam (khóa 3) ngày 18-1-1958, Bác Hồ viết: "Để cải tạo
xã hội, một mặt phải cải tạo vật chất như tăng gia sản xuất, một mặt phải cải tạo tư
tưởng. Nếu không có tư tưởng xã hội chủ nghĩa thì không làm việc xã hội chủ nghĩa

được" (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2002, tr. 24).
Dựa vào mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, đồng chí hãy giải
thích luận điểm trên và nêu ý nghĩa của vấn đề này trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước./.
BÀI LÀM
- Mở bài
Theo quan niệm duy vật lịch sử, tồn tại xã hội là sinh hoạt vật chất cùng toàn bộ
những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố chính là phương thức sản xuất vật chất, điều kiện
tự nhiên - hoàn cảnh địa lý và điều kiện dân số. Trong các yếu tố đó phương thức sản xuất
là yếu tố cơ bản nhất giữ vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Phương
thức sản xuất còn làm thay đổi ý nghĩa của hoàn cảnh địa lý và điều kiện dân số trong sự
phát triển của xã hội.
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm những quan điểm tư
tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản
ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
Ý thức xã hội và ý thức cá nhân: Ý thức xã hội và ý thức cá nhân đều phản ánh tồn
tại xã hội nhưng giữa chúng lại có sự khác nhau tương đối.
Ý thức xã hội là ý thức của một cộng đồng người, một tập đoàn xã hội, một dân tộc
hay của cả một thời đại xã hội nhất định. Ý thức cá nhân là thế giới tinh thần của mỗi con
người riêng biệt cụ thể, nhưng mỗi người đều sống trong một xã hội nhất định nên ý thức
của mỗi người đều mang những nội dung nhất định của ý thức xã hội. Những điều kiện
sống riêng của cá nhân đã tạo nên sự phong phú đa dạng muôn vẻ của ý thức cá nhân.
Ý thức xã hội và ý thức cá nhân tồn tại trong mối liên hệ biện chứng với nhau, thâm
nhập vào nhau và làm phong phú cho nhau. Ý thức xã hội là cơ sở cho sự phát triển ý thức
cá nhân, mỗi cá nhân lĩnh hội, tiếp thu ý thức xã hội khác nhau và ảnh hưởng đến ý thức
xã hội cũng khác nhau. Ngược lại, sự phát triển của ý thức cá nhân làm điều kiện cho sự
phát triển phong phú, đa dạng của ý thức xã hội.
Tùy theo góc độ xem xét, ý thức xã hội có thể phân chia theo các dạng sau đây:
Ý thức xã hội thông thường: Là những hiểu biết, những quan niệm của cộng đồng

người hình thành một cách trực tiếp trong hoạt động thực tiễn hằng ngày, đáp ứng những
yêu cầu của chủ thể về cuộc sống xã hội hàng ngày.
24
Ý thức xã hội thông thường phản ánh trực tiếp và sinh động mọi mặt của cuộc sống
hằng ngày, nhưng chưa được hệ thống hóa, khái quát hóa thành lý luận.
Ý thức xã hội thông thường dù ở trình độ thấp nhưng không phải là cái tầm thường,
kém giá trị đối với đời sống xã hội, nó có vai trò thường xuyên và phổ biến chi phối hoạt
động của con người. Mặt khác, nó còn là chất liệu để xây dựng các học thuyết khoa học,
lý luận.
Ý thức lý luận: Là những tư tưởng, quan điểm được hệ thống hóa, khái quát hóa và
được trình bày dưới dạng hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật.
Ý thức lý luận phản ánh hiện thực khách quan một cách khái quát, sâu sắc hơn ý thức
xã hội thông thường, phản ánh những mối liên hệ bản chất của các sự vật hiện tượng.
Ý thức lý luận là nhân tố chủ yếu thể hiện tính vượt trước của ý thức xã hội.
Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng: Tâm lý xã hội là bộ phận của ý thức xã hội thông
thường, bao gồm toàn bộ những tình cảm, tâm trạng mong muốn được hình thành một
cách tự phát dưới ảnh hưởng trực tiếp của đời sống hàng ngày.
Tâm lý xã hội hình thành một cách tự phát và phản ánh trực tiếp nên thường chỉ ghi
lại những mặt bề ngoài của tồn tại xã hội, không có khả năng vạch ra đầy đủ, sâu sắc bản
chất các mối quan hệ xã hội của con người.
Tính “lây lan”, tính “tin theo số đông” là những đặc trưng của những yếu tố tâm lý.
Yếu tố xúc cảm tâm lý có ảnh hưởng đến hành động của con người. Do đó, hiểu biết
kịp thời và đúng đắn tâm trạng của quần chúng trong những điều kiện nhất định là yêu
cầu quan trọng của công tác vận động cách mạng, của hoạt động quản lý và lãnh đạo.
Hệ tư tưởng là: Những quan điểm, tư tưởng đã được hệ thống hóa, khái quát hóa
thành lý luận, thành các học thuyết chính trị - xã hội, phản ánh lợi ích của một giai cấp
nhất định.
Hệ tư tưởng mang tính giai cấp sâu sắc, nó chứng minh và bảo vệ cho lợi ích của tập
đoàn xã hội hay một giai cấp nhất định. Hệ tư tưởng của giai cấp thống trị giữ vị trí thống
trị trong đời sống tinh thần của xã hội.

Cần phải phân biệt hệ tư tưởng khoa học và hệ tư tưởng không khoa học. Hệ tư
tưởng khoa học phản ánh chính xác, khách quan các quan hệ vật chất của xã hội và có ảnh
hưởng tích cực đến sự p.triển của xã hội. Hệ tư tưởng không khoa học tuy cũng phản ánh
hiện thực, phản ánh các mối quan hệ vật chất của xã hội nhưng thường phản ánh dưới
hình thức sai lầm hoặc xuyên tạc, do đó có ảnh hưởng tiêu cực đối với sự p.triển của xã
hội.
Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng tuy là hai trình độ, hai phương thức phản ánh khác
nhau, nhưng đều có chung một nguồn gốc là tồn tại xã hội, đều phản ánh tồn tại xã hội.
Tâm lý xã hội có thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây trở ngại cho sự hình thành, sự
25

×