Học viện hành chính
khoa sau đại học
*****
Tiểu luận môn
Hnh chính phát triển và chính phủ điện tử
Tên đề tài:
Thách thức đối với nền hành chính công
của các nớc hiện nay là gì?
Hà Nội, tháng 03 năm 2010
LI NểI U
Nh chỳng ta bit, trong hn na th k tn ti v phỏt trin, Nh nc Vit
Nam ó ban hnh mt khi lng rt ln cỏc vn bn quy phm phỏp lut iu
hnh v qun lý xó hi, qun lý Nh nc. Qun lý Nh nc bng phỏp lut l mt
nguyờn tc rt quan trng ca Hin phỏp Vit Nam - o lut c bn ca Nh nc
v ó c thc thi trong thc t. Nguyờn tc ny ũi hi phi cú mt h thng phỏp
luật hoàn chỉnh, đồng thời mỗi cơ quan, tổ chức và công dân phải nghiêm chỉnh
chấp hành pháp luật, không có ngoại lệ. Để chấp hành pháp luật thì mọi công dân,
cán bộ phải hiểu biết pháp luật để thực hiện. Nhưng trong thực tế thì không ai có thể
nắm vững được tất cả hệ thống pháp luật để thực hiện, cho dù công tác tuyên truyền
và phổ biến pháp luật có tiến hành tốt đến đâu. Vì vậy, công tác thẩm định văn bản
trước khi ban hành là điều hết sức quan trọng và cần thiết để văn bản đó đi vào thực
tế hiệu quả, mọi người dễ tiếp cận, dễ hiểu và thực hiện nghiêm túc.
Hơn thế nữa, cuộc sống xã hội luôn luôn phát triển, nhiều văn bản pháp luật
đã ban hành không đáp ứng kịp thời tình hình xã hội, nhiều lĩnh vực chưa được pháp
luật điều chỉnh. Nhất là khi nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu
sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà
nước thì việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật và công tác thẩm định trở nên
cần thiết và cấp bách.
Đây là một đề tài còn khá mới mẻ, ít tài liệu tham khảo nên bài viết chỉ đề
cập đến những vấn đề cơ bản và chung nhất, không thể đi sâu và phân tích kỹ càng
được. Nhưng qua bài viết này đã ít nhiều nêu bật được tầm quan trọng của công tác
thẩm định văn bản quy phạm pháp luật trong quản lý Nhà nước, quản lý xã hội.
MỤC LỤC
Lời nói đầu
Phần 1: Khái quát về công tác thẩm định văn bản QPPL
1. Khái niệm thẩm định văn bản QPPL
2. Vai trò của công tác thẩm định văn bản QPPL
3. Cơ quan thẩm định văn bản QPPL
4. Đối tượng, phạm vi nội dung thẩm định văn bản QPPL
2
Phần 2: Tổ chức và quy trình thẩm định văn bản QPPL
1. Hồ sơ thẩm định
2. Tiếp nhận hồ sơ thẩm định
3. Phân công thẩm định
4. Tổ chức thẩm định
5. Tổ chức thẩm định trong trường hợp thành lập Hội đồng thẩm định
6. Chuẩn bị báo cáo thẩm định và nội dung báo cáo thẩm định
7. Ký, gửi báo cáo thẩm định và lưu trữ hồ sơ thẩm định
8. Ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ công tác thẩm định
9. Kinh phí hỗ trợ thẩm dịnh và chế độ chi tiêu tài chính
Kết luận
Phần I
KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH
VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
1. Khái niệm:
Thẩm định văn bản quy phạm pháp luật là một hoạt động thuộc quy trình
soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan có thẩm quyền tiến
hành nhằm nhận xét, đánh giá về đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản, về tính
3
hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất và đồng bộ của văn bản trong hệ thống pháp
luật hiện hành. Thẩm định văn bản cũng đưa ra những nhận xét về chất lượng của
văn bản thông qua việc đánh giá về nội dung và kỹ thuật soạn thảo văn bản. Đồng
thời, cơ quan tiến hành thẩm định văn bản quy phạm pháp luật cũng đưa ra những ý
kiến và đề xuất biện pháp giải quyết đối với những vấn đề còn có ý kiến khác nhau
giữa các cơ quan có liên quan trong quá trình soạn thảo văn bản để cơ quan có thẩm
quyền xem xét, quyết định.
2. Vai trò của công tác thẩm định:
Công tác thẩm định là một khâu không thể thiếu được của quy trình soạn thảo
và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Mục đích của thẩm định văn bản là "thẩm
tra" và "giám định" những vấn đề cơ bản, quan trọng trực tiếp liên quan đến chất
lượng và kỹ thuật của văn bản được thẩm định. Hoạt động thẩm định là khâu cuối
cùng trước khi cơ quan, người có thẩm quyền chính thức xem xét, ban hành văn bản
(đối với văn bản nghị định, nghị quyết của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Thủ
tướng Chính phủ và quyết định, thông tư, chỉ thị của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang Bộ) hoặc trước khi Chính phủ xem xét, thông qua để trình Quốc hội (đối với
văn bản luật, nghị quyết của Quốc hội) hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội (đối với
văn bản pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội) xem xét, ban hành.
3. Cơ quan thẩm định văn bản quy phạm pháp luật:
Đối với các văn bản luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của
Uỷ ban thường vụ Quốc hội do các Bộ, cơ quan ngang Bộ được phân công chủ trì
soạn thảo, nghị quyết, nghị định của Chính phủ thì các văn bản đó được gửi đến Bộ
Tư pháp để tiến hành thẩm định khi trình Chính phủ xem xét văn bản đó.
Đối với các văn bản luật, pháp lệnh do cơ quan khác, các tổ chức, đại biểu
Quốc hội trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thì Văn phòng Chính phủ gửi
đến Bộ Tư pháp để thẩm định trước khi tổng hợp, hoàn chỉnh ý kiến trình Thủ tướng
Chính phủ xem xét văn bản tham gia ý kiến của Chính phủ về văn bản luật, pháp
lệnh nói trên.
Đối với các văn bản thông tư, quyết định, chỉ thị của các Bộ, cơ quan ngang
Bộ thì trước khi trình ký ban hành, văn bản đó phải được tổ chức pháp chế của Bộ,
ngành đó thẩm định.
Đối với các văn bản nghị quyết liên tịch, thông tư liên tịch thì trước khi các
cơ quan, tổ chức chính trị - xã hội có liên quan ký ban hành, các tổ chức pháp chế
của từng cơ quan, tổ chức chính trị - xã hội đó phải tiến hành thẩm định về mặt pháp
lý.
Trong trường hợp các văn bản luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị
quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, nghị quyết, nghị định của Chính phủ được
4
phân công cho Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo, thì Bộ trưởng Bộ Tư pháp phải thành
lập Hội đồng thẩm định bao gồm các chuyên gia về luật pháp và các nhà chuyên
môn để tiến hành thẩm định văn bản nói trên.
4. Đối tượng, phạm vi nội dung thẩm định:
4.1. Những hình thức văn bản quy phạm pháp luật phải qua thủ tục thẩm
định
Những hình thức văn bản quy phạm pháp luật phải qua thủ tục thẩm định bao
gồm các văn bản luật, văn bản nghị quyết của Quốc hội, văn bản pháp lệnh, văn bản
nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, các văn bản nghị quyết, nghị định của
Chính phủ. Các hình thức văn bản quy phạm pháp luật này do Bộ Tư pháp tiến hành
thẩm định.
Quyết định, chỉ thị, thông tư do các Bộ, cơ quan ngang Bộ soạn thảo và ban
hành, nghị quyết liên tịch, thông tư liên tịch do các cơ quan nhà nước, tổ chức chính
trị - xã hội phối hợp ban hành phải qua thẩm định về mặt pháp lý của tổ chức pháp
chế của các cơ quan, tổ chức đó.
4.2. Phạm vi nội dung thẩm định
Phạm vi nội dung thẩm định đối với văn bản quy phạm pháp luật chủ yếu liên
quan đến các khía cạnh pháp lý của văn bản. Việc xác định đúng nội dung phạm vi
thẩm định có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ
thống pháp luật, bảo đảm tính khả thi của văn bản, qua đó góp phần bảo đảm hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước và xã hội bằng pháp luật.
4.2.1. Về sự cần thiết ban hành văn bản: Xác định xem văn bản đã thật sự
cần thiết ban hành hay chưa là vấn đề đầu tiên phải thẩm định bởi nó ảnh hưởng đến
sự tồn tại của văn bản. Những tiêu chí được dùng để đánh giá sự cần thiết này là:
- Yêu cầu quản lý nhà nước: công tác quản lý nhà nước đã thật sự đòi hỏi
phải có văn bản để đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả quản lý chưa. Ví dụ, cần thiết
ban hành Nghị định của Chính phủ quy định tổ chức và hoạt động của Thanh tra
chuyên ngành du lịch để đáp ứng yêu cầu thanh tra, kiểm tra và xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực du lịch.
- Yêu cầu đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực hoặc đối
với vấn đề mà văn bản đó điều chỉnh.
- Cũng có khi, văn bản cần được ban hành để quy định chi tiết thi hành hoặc
hướng dẫn thi hành những văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên đã ban hành. Ví
dụ, Chính phủ ban hành nghị định để quy định chi tiết thi hành luật hoặc Bộ trưởng
ban hành thông tư để hướng dẫn thi hành nghị định của Chính phủ. Văn bản thẩm
5
định phải thể hiện sự tán thành hoặc không tán thành về việc soạn thảo, ban hành
văn bản tại thời điểm đó với lý do hợp pháp và hợp lý. Dưới đây là một ví dụ:
4.2.2. Về đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản
Xem xét đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản nghĩa là xác định văn
bản điều chỉnh đối với đối tượng nào? Phạm vi điều chỉnh của văn bản giới hạn ở
những quan hệ xã hội nào? Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng vì nó ảnh hưởng
đến chất lượng của văn bản.
Tiêu chí để xem xét đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản có phù hợp
với văn bản hay không cần dựa trên các yếu tố sau đây:
- Vấn đề, lĩnh vực mà văn bản điều chỉnh;
- Hình thức văn bản được soạn thảo.
Trên cơ sở cân nhắc, đánh giá về sự rộng, hẹp, về tính đa dạng hay phức tạp
của vấn đề, lĩnh vực mà văn bản điều chỉnh để kết luận đối tượng, phạm vi điều
chỉnh của văn bản đã hợp lý chưa.
4.2.3. Về sự phù hợp với đường lối, chủ trương chính sách của Đảng
Đây là một trong những nội dung quan trọng nhất của báo cáo thẩm định bởi
nó bảo đảm cho hoạt động thể chế hoá đường lối của Đảng được đúng hướng và
đúng với tinh thần các chủ trương chính sách của Đảng. Tiêu chí để đánh giá văn
bản có phù hợp với đường lối, chủ trương chính sách của Đảng hay không cần căn
cứ vào các văn kiện của Đảng (ví dụ Văn kiện Đại hội Đảng, Nghị quyết của Ban
chấp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết, Chỉ thị, Thông báo ý kiến kết luận của Bộ
Chính trị, Ban Bí thư, bài phát biểu của các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng,
v.v.), tập trung vào những nội dung mà văn kiện đề cập có liên quan trực tiếp đến
vấn đề mà văn bản điều chỉnh. Từ đó có sự đối chiếu, so sánh để kết luận nội dung
văn bản có phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng hay không.
4.2.4. Về tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của văn bản trong hệ
thống pháp luật
Để thẩm định về tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ của nội
dung văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thông pháp luật hiện hành cần xem xét,
kiểm tra xem nội dung của văn bản được thẩm định có bảo đảm các yêu cầu sau hay
không:
Một là, đối chiếu xem xét các quy định thuộc nội dung văn bản cần thẩm định
có phù hợp với các quy định của Hiến pháp hiện hành hay không. Trong trường hợp
Hiến pháp không có quy định trực tiếp về vấn đề mà văn bản quy định thì cần xem
xét, cân nhắc xem nội dung Văn bản có phù hợp với tinh thần của Hiến pháp hay
không. Ví dụ, khi thẩm định Văn bản Nghị định quy định về trình tự, thủ tục và chế
6
độ cai nghịên bắt buộc đối với người nghiện ma tuý thì cần khẳng định nội dung cuả
văn bản phù hợp với Điều 61 Hiến pháp năm 1992 là "Nhà nước quy định chế độ bắt
buộc cai nghiện và chữa các bệnh xã hội nguy hiểm".
Hai là, cần kiểm tra, xem xét nội dung của văn bản có bảo đảm tính thống
nhất, đồng bộ với các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn hoặc
ngang bằng có liên quan đến văn bản cần thẩm định hay không. Ví dụ, khi thẩm
định Văn bản Nghị định của Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt động của Thanh
tra chuyên ngành giao thông vận tải thì cần kiểm tra, xem xét nội dung của Văn bản
có phù hợp với quy định của Pháp lệnh Thanh tra ngày 1/4/1990; Nghị định số
224/HĐBT ngày 30/6/1990 về tổ chức của hệ thống thanh tra nhà nước và biện pháp
bảo đảm hoạt động thanh tra; Nghị định số 191/HĐBT ngày 18/6/1991 của Hội đồng
bộ trưởng ban hành Quy chế thanh tra viên và sử dụng cộng tác viên thanh tra; Luật
khiếu nại, tố cáo ngày 1/12/1998, Luật Giao thông đường bộ ngày 29/6/2001, v.v.
Bảo đảm tính thống nhất của nội dung văn bản quy phạm pháp luật với hệ
thống pháp luật hiện hành là bảo đảm sự phù hợp của các quy định hiện hành với
quy định trong văn bản, không có tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn giữa nội dung
của Văn bản với các quy định hiện hành. Các quy định của văn bản và các quy định
trong các văn bản hiện hành có liên quan tạo thành một thể thống nhất. Điều đó cũng
có nghĩa bảo đảm tính pháp chế trong hoạt động xây dựng pháp luật.
Bảo đảm tính đồng bộ của nội dung văn bản với hệ thống pháp luật hiện hành
nghĩa là các quy định của văn bản và các quy định hiện hành có sự ăn khớp nhịp nhàng
và phù hợp với nhau, không xẩy ra tình trạng mặc dù giữa các quy định này không mâu
thuẫn, chồng chéo nhưng có sự vênh váo, không ăn khớp giữa các quy định.
4.2.5. Về tính khả thi của văn bản
Tính khả thi của văn bản quy phạm pháp luật được thẩm định có thể kết luận
qua việc xem xét các khía cạnh sau đây của văn bản:
Một là, nội dung các quy định của văn bản phải bảo đảm tính cụ thể, chi tiết
để tổ chức thực hiện hoặc áp dụng được trong thực tiễn;
Hai là, sự phù hợp của nội dung văn bản với điều kiện kinh tế xã hội hiện tại,
nghĩa là nội dung các quy định có thể thực hiện được trong điều kiện đời sống sinh
hoạt và ý thức xã hội mà quy phạm pháp luật đó được áp dụng. Ví dụ, quy định xử
phạt vi phạm hành chính đối với người đi xe đạp vi phạm quy định về trật tự, an
toàn giao thông với mức phạt tiền là 10.000 đồng đối với hành vi đi xe đạp trên hè
phố, trong vườn hoa hoặc trong công viên (Điều 8 khoản 1 điểm a Nghị định số
39/NĐ-CP ngày 13/7/2001) là phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội hiện tại.
Một ví dụ khác: Nghị định số /NĐ-CP ngày /12/2001 của Chính phủ sửa
đổi, bổ sung Nghị định số 01/CP ngày 03/6/1996 về xử phạt vi phạm hành chính
7
trong lĩnh vực thương mại đã bổ sung hành vi " buôn bán hàng hoá có nhãn rách
nát, không còn nguyên vẹn hoặc nhãn mờ không đọc được nội dung " hoặc " buôn
bán hàng hoá trình bầy không đúng quy định về kích thước, vị trí, cách ghi, ngôn
ngữ ". Những vi phạm này khá phổ biến trong thực tiễn mà thực tế những người vi
phạm lại hoàn toàn chưa ý thức được đó là hành vi vi phạm pháp luật nên việc xử
phạt khó thực hiện đưọc trong thực tế.
Ba là, sự phù hợp của các quy định trong văn bản với ý thức pháp luật của đối
tượng áp dụng văn bản;
Bốn là, phù hợp với khả năng tổ chức thực hiện các quy định thuộc nội dung
văn bản của các cơ quan có trách nhiệm thực thi các quy định đó;
Năm là, việc kế thừa kinh nghiệm thực thi các quy định của pháp luật về
những vấn đề có liên quan đến nội dung điều chỉnh của văn bản.
4.2.6. Về kỹ thuật soạn thảo và ngôn ngữ pháp lý
Đây là một trong những nội dung thẩm định cần được tiến hành cẩn thận, cụ
thể, chi tiết, bảo đảm cho việc nghiên cứu tiếp thu chỉnh lý của các cơ quan hữu
quan sau này được chính xác, thoả đáng, góp phần nâng cao chất lượng văn bản
được thẩm định.
Để đánh giá kỹ thuật soạn thảo của một văn bản quy phạm pháp luật có bảo
đảm phù hợp với nội dung văn bản điều chỉnh và yêu cầu theo quy định hay không
cần căn cứ vào quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Các quy
định tại Điều 5, Điều 9, Điều 27 quy định cụ thể một số nội dung trực tiếp liên quan
đến kỹ thuật soạn thảo và ngôn ngữ pháp lý sử dụng trong văn bản quy phạm pháp
luật.
Bên cạnh đó, kinh nghiệm thực tiễn của việc xây dựng văn bản quy phạm
pháp luật cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá về kỹ thuật soạn thảo và
ngôn ngữ pháp lý sử dụng trong văn bản. Ví dụ, thông thường, cách hành văn khi
diễn đạt nội dung các quy phạm trong các điều, khoản của các văn bản luật, pháp
lệnh bao giờ cũng ngắn gọn, cô đọng, dứt khoát, trong khi đó, đối với các loại văn
bản như nghị quyết của Chính phủ, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ thì cách hành
văn ít mang tính mệnh lệnh mà có thêm tính chất diễn giải, hướng dẫn trong đó.
Nội dung thẩm định, đánh giá về kỹ thuật soạn thảo văn bản quy phạm pháp
luật bao gồm việc nhận xét, đánh giá về kỹ thuật sắp xếp, bố cục phần, chương, mục,
điều, khoản, điểm của văn bản; đánh giá về kỹ thuật diễn đạt nội dung các quy
phạm trong văn bản, việc chuyển tải đầy đủ và toàn diện chính sách pháp lý, chủ
trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về vấn đề mà văn bản điều chỉnh. Bên
cạnh đó, một nội dung đánh giá không thể thiếu là ngôn ngữ mà văn bản sử dụng để
chuyển tải nội dung các quy phạm đã bảo đảm tính "chính xác, phổ thông, cách diễn
8
đạt phải đơn giản, dễ hiểu" như Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đòi hỏi
hay chưa. Thêm nữa, văn bản có sử dụng thuật ngữ chuyên môn hay không. Nếu văn
bản có sử dụng thuật ngữ chuyên môn mà những thuật ngữ này cần xác định rõ về
nội dung thì văn bản đã có định nghĩa trong văn bản như Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật quy định hay chưa
4.2.7. Về những vấn đề còn có ý kiến khác nhau và phương án xử lý (nếu có)
Đây là một nội dung quan trọng của báo cáo thẩm định văn bản quy phạm
pháp luật. Đối với văn bản luật, pháp lệnh trình Chính phủ xem xét, thông qua để
trình Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành theo thẩm quyền và đối
với văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ thì được coi là ý kiến khác nhau nếu vấn đề thuộc nội dung văn
bản mà trong quá trình soạn thảo hoặc lấy ý kiến các Bộ, ngành hữu quan có ý kiến
không thống nhất. Mặc dù cơ quan chủ trì soạn thảo đã tổ chức trao đổi, tham khảo
ý kiến hoặc trực tiếp làm việc với đại diện các cơ quan hữu quan về các vấn đề còn
có ý kiến khác nhau đó nhưng vẫn không đi đến thống nhất. Bởi vậy, trong Tờ trình
Chính phủ cũng như hồ sơ gửi Bộ Tư pháp thẩm định, thì những vấn đề đó được coi
là những vấn đề còn có ý kiến khác nhau.
Trường hợp văn bản luật, pháp lệnh Chính phủ đã thông qua và chính thức
trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc Quốc hội ban hành theo thẩm quyền thì trong
Tờ trình, Chính phủ cũng có thể nêu những vấn đề thuộc nội dung văn bản luật,
pháp lệnh mà trong quá trình soạn thảo Chính phủ thấy còn có nhiều ý kiến chưa
thống nhất, cần xin ý kiến của Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc Quốc hội. ở đây,
chúng tôi chỉ đề cập trường hợp văn bản quy phạm pháp luật trình Chính phủ và gửi
Bộ Tư pháp thẩm định mà trong Tờ trình Chính phủ có đề cập đến những vấn đề
thuộc nội dung văn bản còn có ý kiến khác nhau. Đối với những vấn đề còn có ý
kiến khác nhau nêu trong Tờ trình thì cơ quan thẩm định phải xem xét, cân nhắc và
phát biểu quan điểm của mình về những vấn đề đang còn có ý kiến khác nhau đó
trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành, các quan điểm, lập luận của cơ
quan soạn thảo và của các bên có ý kiến khác, đồng thời cơ quan thẩm định cũng
nêu rõ quan điểm riêng của mình cùng với phương án giải quyết đối với những vấn
đề khác nhau đó.
Phần II
TỔ CHỨC VÀ QUY TRÌNH THẨM ĐỊNH
VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
1. Hồ sơ thẩm định:
9
1.1. Hồ sơ dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do các Bộ, cơ quan ngang Bộ
chủ trì soạn thảo gửi đến Bộ Tư pháp để thẩm định bao gồm:
a) Công văn yêu cầu thẩm định;
b) Tờ trình Chính phủ về văn bản do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang
Bộ ký và đóng dấu;
c) Văn bản cuối cùng được cơ quan chủ trì soạn thảo quyết định trình Chính
phủ xem xét;
d) Bản tập hợp ý kiến của các Bộ, ngành về văn bản đó;
đ) Bản thuyết trình chi tiết về văn bản và văn bản hướng dẫn thi hành (nếu
có).
Số lượng tài liệu nói tại các điểm b, c, d và đ trên đây là 10 bộ.
1.2. Hồ sơ dự thảo quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ do các Bộ, cơ
quan ngang Bộ chủ trì soạn thảo gửi đến Bộ Tư pháp để xin ý kiến bao gồm Công
văn, Tờ trình, Văn bản và bản tập hợp ý kiến như đã nêu tại các điểm a, b, c và d
mục 2.1.1. Số lượng tài liệu gửi Bộ Tư pháp là 5 bộ.
1.3. Hồ sơ thẩm định đối với văn bản luật, pháp lệnh do cơ quan khác, tổ
chức, đại biểu Quốc hội soạn thảo và được Văn phòng Chính phủ gửi Bộ Tư pháp để
thẩm định bao gồm Công văn yêu cầu thẩm định, văn bản luật, văn bản pháp lệnh,
Tờ trình và tài liệu có liên quan (nếu có).
2. Tiếp nhận hồ sơ
Văn phòng Bộ Tư pháp có trách nhiệm tiếp nhận và kiểm tra tính hợp lệ của
hồ sơ thẩm định. Khi nhận được hồ sơ gửi đến, bộ phận Văn thư của Văn phòng
phải ghi rõ số đăng ký, ngày nhận vào hồ sơ và Sổ theo dõi Công văn đến và chuyển
cho bộ phận Tổng hợp để kiểm tra tính hợp lệ, vào "Sổ theo dõi hồ sơ thẩm định" và
lập Phiếu chỉ đạo thẩm định, tham gia ý kiến trình Lãnh đạo Bộ cùng hồ sơ để phân
công thẩm định. Thời gian từ khi tiếp nhận hồ sơ đến khi trình Lãnh đạo Bộ không
được quá 4 giờ làm việc.
Trong trường hợp qua kiểm tra phát hiện hồ sơ thiếu một trong các tài liệu bắt
buộc nói tại mục 2.1 trên đây, thì Chánh Văn phòng Bộ thừa lệnh Bộ trưởng ký công
văn đề nghị cơ quan có Công văn yêu cầu thẩm định, tham gia ý kiến bổ sung hồ sơ.
Về nguyên tắc, Văn phòng Bộ không trình Lãnh đạo Bộ xem xét phân công thẩm
định khi hồ sơ chưa được bổ sung đầy đủ tài liệu theo quy định.
3. Phân công thẩm định
Việc phân công đơn vị thuộc Bộ Tư pháp thẩm định văn bản được thực hiện
theo nguyên tắc đơn vị quản lý, phụ trách lĩnh vực nào thì chủ trì thẩm định văn bản
10
có nội dung liên quan đến lĩnh vực đó. Trong trường hợp văn bản có nội dung liên
quan đến nhiều lĩnh vực thì một đơn vị chủ trì thẩm định và các đơn vị khác có liên
quan phối hợp thẩm định.
Lãnh đạo Bộ Tư pháp phân công thẩm định trong thời hạn chậm nhất là 8 giờ
làm việc, kể từ khi nhận được hồ sơ thẩm định do Văn phòng trình. Sau khi Lãnh
đạo Bộ phân công, thư ký của Bộ trưởng hoặc chuyên viên giúp việc của Thứ trưởng
phải chuyển lại hồ sơ và Phiếu chỉ đạo thẩm định cho Văn phòng Bộ để ghi vào Sổ
theo dõi và gửi hồ sơ cùng với Phiếu chỉ đạo thẩm định cho các đơn vị được phân
công thẩm định. Thời gian từ khi Lãnh đạo Bộ phân công đến khi đơn vị được phân
công thẩm định nhận hồ sơ không được quá 4 giờ làm việc.
Khi nhận hồ sơ, đại diện đơn vị được phân công thẩm định ký nhận vào Sổ
theo dõi của Văn phòng. Trong trường hợp đơn vị được giao chủ trì thẩm định thấy
sự phân công thẩm định chưa phù hợp hoặc cần có sự phối hợp thẩm định thì thủ
trưởng đơn vị đề đạt ý kiến để Lãnh đạo Bộ điều chỉnh lại việc phân công thẩm
định.
Trong trường hợp cần thiết, thủ trưởng đơn vị được phân công chủ trì thẩm
định báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ về việc mời các luật gia, các nhà
khoa học và các chuyên gia am hiểu các vấn đề chuyên môn thuộc nội dung văn bản
tham gia thẩm định.
4. Tổ chức thẩm định
4.1. Nghiên cứu văn bản
Sau khi nhận được hồ sơ thẩm định do Văn phòng Bộ chuyển, thủ trưởng đơn
vị được phân công chủ trì thẩm định có trách nhiệm phân công một cán bộ lãnh đạo
đơn vị và nhóm chuyên viên nghiên cứu, chuẩn bị thẩm định, trong đó một chuyên
viên đã trực tiếp tham gia soạn thảo văn bản được cử làm Báo cáo viên.
Đối với văn bản còn có nội dung chưa rõ ràng hoặc có nhiều vấn đề còn có ý
kiến khác nhau, thì thủ trưởng đơn vị được phân công chủ trì thẩm định chủ động
liên hệ với cơ quan chủ trì soạn thảo để yêu cầu thuyết trình về văn bản hoặc cung
cấp thêm thông tin và tài liệu có liên quan đến văn bản; trong trường hợp cần thiết,
thủ trưởng đơn vị được phân công chủ trì thẩm định đề nghị Lãnh đạo Bộ tổ chức
cuộc họp liên tịch với sự tham gia của đại diện cơ quan chủ trì soạn thảo và đại diện
các cơ quan, tổ chức hữu quan khác để thảo luận, trao đổi ý kiến về những vấn đề
lớn còn có ý kiến khác nhau trước khi làm báo cáo thẩm định.
Thủ trưởng đơn vị được phân công phối hợp thẩm định có trách nhiệm tổ
chức việc nghiên cứu văn bản trong đơn vị mình và gửi ý kiến tham gia bằng văn
bản cho đơn vị chủ trì thẩm định trong thời hạn chậm nhất là 5 ngày, kể từ khi nhận
được hồ sơ thẩm định; đối với văn bản luật, pháp lệnh nói tại điểm 2.1.3. thì thời hạn
11
gửi ý kiến chậm nhất là 3 ngày, kể từ khi nhận được hồ sơ thẩm định; đối với văn
bản nói tại điểm 2.1.2. thì thời hạn gửi ý kiến chậm nhất là 2 ngày, kể từ khi nhận
được hồ sơ (xem các Phụ lục 12, 13, 14).
4.2. Cuộc họp thẩm định
Đối với các văn bản nói tại điểm 2.1.1. và điểm 2.1.3., Lãnh đạo đơn vị được
phân công chủ trì thẩm định tổ chức cuộc họp thẩm định với sự tham gia của các
chuyên viên được phân công nghiên cứu chuẩn bị thẩm định. Tuỳ theo tính chất của
văn bản đang được thẩm định, lãnh đạo đơn vị có thể triệu tập các chuyên viên khác
thuộc nhóm nghiên cứu hoặc toàn thể đơn vị để tham gia cuộc họp thẩm định.
Trong trường hợp có nhiều đơn vị được phân công thẩm định hoặc có các luật
gia, nhà khoa học, chuyên gia tham gia thẩm định thì đơn vị chủ trì thẩm định có thể
mời đại diện của các đơn vị phối hợp thẩm định, các luật gia, nhà khoa học và
chuyên gia tham gia cuộc họp.
Cuộc họp thẩm định được tiến hành theo trình tự:
a) Lãnh đạo đơn vị chủ trì thẩm định tuyên bố lý do cuộc họp;
b) Báo cáo viên cung cấp những thông tin liên quan tới văn bản, phát biểu ý
kiến của mình về những vấn đề thuộc nội dung thẩm định;
c) Các thành viên tham dự cuộc họp thảo luận và phát biểu ý kiến, tập trung
vào những vấn đề thuộc nội dung thẩm định;
d) Lãnh đạo đơn vị chủ trì thẩm định kết luận.
Báo cáo viên có trách nhiệm ghi biên bản cuộc họp thẩm định. Biên bản phải
ghi đầy đủ các ý kiến phát biểu tại cuộc họp và được lãnh đạo đơn vị chủ trì thẩm
định ký. Trong trường hợp đơn vị phối hợp thẩm định có ý kiến khác với ý kiến của
đơn vị chủ trì thẩm định thì ý kiến đó cũng phải được ghi rõ trong biên bản.
Đối với văn bản nói tại điểm 1.2. thì trong trường hợp cần thiết, thủ trưởng
đơn vị chủ trì tham gia ý kiến có thể tổ chức cuộc họp với đại diện các đơn vị được
phân công phối hợp tham gia ý kiến để thảo luận những vấn đề thuộc nội dung văn
bản.
5. Tổ chức thẩm định trong trường hợp thành lập Hội đồng thẩm định
5.1. Những trường hợp cần thành lập Hội đồng thẩm định
Pháp luật hiện hành không quy định cụ thể các trường hợp cần thành lập Hội
đồng thẩm định để thẩm định văn bản luật, pháp lệnh, văn bản nghị quyết, nghị định.
Đây là vấn đề thuộc quyền quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp "trong trường hợp
cần thiết". Thực tế cho đến nay cũng chưa có văn bản nào được thẩm định theo trình
tự này.
12
Căn cứ vào mục đích của quy định về thành lập Hội đồng thẩm định và trên
cơ sở thực tiễn yêu cầu của công tác thẩm định từ khi Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật có hiệu lực đến nay, có thể thấy trong trường hợp thẩm định các văn
bản sau đây cần xem xét thực hiện theo trình tự thành lập Hội đồng thẩm định:
- Các văn bản luật lớn có tính chất pháp điển hoá, điều chỉnh tổng thể các
quyền và nghĩa vụ cơ bản hiến định của công dân;
- Các văn bản quy định các vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân, có phạm vi điều chỉnh rộng thuộc thẩm quyền quản lý của nhiều
ngành, nhiều lĩnh vực;
- Các văn bản quy định nhiều nội dung mới, phức tạp để triển khai thực hiện
các chủ trương, đường lối quan trọng của Đảng mà các cơ quan có liên quan còn
nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau;
- Các văn bản quy định các vấn đề mới, có tính chất thí điểm do đó có những
nội dung không bảo đảm sự thống nhất của hệ thống pháp luật hiện hành.
5.2. Thành phần, cơ chế hoạt động của Hội đồng thẩm định
Thành phần Hội đồng thẩm định được xác định trong Quyết định của Bộ
trưởng Bộ Tư pháp về việc thành lập Hội đồng, bao gồm Chủ tịch Hội đồng, các
thành viên Hội đồng và Báo cáo viên là một cán bộ cấp Vụ của đơn vị thuộc Bộ Tư
pháp được phân công chủ trì hoặc tham gia soạn thảo văn bản (dưới đây gọi là đơn
vị thường trực Hội đồng thẩm định). Thành phần Hội đồng thẩm định có thể bao
gồm đại diện các cơ quan, tổ chức khác ngoài Bộ Tư pháp, các luật gia, các nhà
khoa học và các chuyên gia am hiểu các vấn đề chuyên môn thuộc nội dung văn bản.
Đối với văn bản do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo thì thành phần Hội đồng thẩm định
phải có đại diện của Văn phòng Chính phủ và đại diện của các Bộ, ngành hữu quan.
Văn phòng Bộ Tư pháp có trách nhiệm sao gửi quyết định thành lập Hội đồng
thẩm định cùng hồ sơ gửi thẩm định tới từng thành viên của Hội đồng.
Hội đồng thẩm định hoạt động theo nguyên tắc các thành viên Hội đồng độc
lập nghiên cứu, Hội đồng thảo luận tập thể về những vấn đề thuộc nội dung thẩm
định và ý kiến thẩm định là ý kiến được đa số thành viên Hội đồng tán thành.
5.3. Cuộc họp Hội đồng thẩm định
Cuộc họp thẩm định văn bản do Chủ tịch Hội đồng thẩm định triệu tập và chủ
toạ. Đại diện cơ quan chủ trì soạn thảo được mời tham dự cuộc họp thẩm định của
Hội đồng thẩm định.
Cuộc họp thẩm định được tiến hành theo trình tự:
a) Chủ tịch Hội đồng thẩm định tuyên bố lý do cuộc họp;
13
b) Báo cáo viên cung cấp những thông tin có liên quan tới văn bản và nêu
những vấn đề còn có ý kiến khác nhau;
c) Thành viên Hội đồng thảo luận, tập trung vào những vấn đề thuộc nội dung
thẩm định;
d) Hội đồng biểu quyết từng loại vấn đề được nêu trong mẫu báo cáo thẩm
định.
Trong trường hợp cần thiết, Chủ tịch Hội đồng thẩm định có thể yêu cầu đại
diện cơ quan chủ trì soạn thảo thuyết trình thêm về các vấn đề thuộc nội dung văn
bản mà các thành viên Hội đồng thẩm định quan tâm.
Báo cáo viên có trách nhiệm ghi biên bản cuộc họp của Hội đồng thẩm định.
Biên bản phải ghi đầy đủ các ý kiến phát biểu tại cuộc họp và được Chủ tịch Hội
đồng thẩm định ký. Những ý kiến được quá nửa tổng số thành viên Hội đồng có mặt
tán thành thì được coi là ý kiến của Hội đồng; những vấn đề chưa được Hội đồng
nhất trí cũng phải được ghi rõ trong biên bản cuộc họp.
6. Chuẩn bị báo cáo thẩm định và nội dung báo cáo thẩm định
6.1. Đối với văn bản nói tại điểm 1.1 và điểm 1.3, trên cơ sở biên bản cuộc
họp thẩm định hoặc biên bản cuộc họp Hội đồng thẩm định, Báo cáo viên có trách
nhiệm chuẩn bị văn bản báo cáo thẩm định, trong đó nêu rõ ý kiến về từng vấn đề
như sự cần thiết ban hành văn bản; đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản; sự
phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng; tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống
nhất, đồng bộ của văn bản trong hệ thống pháp luật hiện hành và tính khả thi của
văn bản; sự phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập;
hình thức, tên gọi, cơ cấu, bố cục của văn bản; kỹ thuật soạn thảo và ngôn ngữ pháp
lý; những vấn đề còn có ý kiến khác nhau và phương án xử lý (nếu có) và những ý
kiến về các nội dung cụ thể khác của văn bản.
Trong quá trình chuẩn bị văn bản báo cáo thẩm định, nếu có vấn đề vướng
mắc thì lãnh đạo đơn vị chủ trì thẩm định, đơn vị thường trực Hội đồng thẩm định
phải kịp thời báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ Tư pháp.
Trong thời hạn chậm nhất là 10 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ thẩm định,
đơn vị chủ trì thẩm định, đơn vị thường trực Hội đồng thẩm định có trách nhiệm
hoàn thành văn bản báo cáo thẩm định; đối với văn bản luật, pháp lệnh nói tại điểm
1.3. thì thời hạn hoàn thành văn bản báo cáo thẩm định chậm nhất là 6 ngày, kể từ
khi nhận được hồ sơ thẩm định.
Khi trình văn bản báo cáo thẩm định, thủ trưởng đơn vị chủ trì thẩm định,
đơn vị thường trực Hội đồng thẩm định phải ký "nháy" vào văn bản báo cáo thẩm
định và báo cáo với Lãnh đạo Bộ về ý kiến của các đơn vị phối hợp thẩm định mà
không được tiếp thu, ý kiến của các thành viên thiểu số Hội đồng thẩm định. Trong
14
trường hợp văn bản được thẩm định theo trình tự thành lập Hội đồng thẩm định thì
hồ sơ trình Lãnh đạo Bộ phải bao gồm cả biên bản cuộc họp Hội đồng thẩm định.
2.6.2. Đối với văn bản nói tại điểm 1.2, đơn vị chủ trì tham gia ý kiến có
trách nhiệm chuẩn bị công văn góp ý, trong đó nêu rõ ý kiến về sự cần thiết ban
hành, đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản, tính hợp hiến, hợp pháp, tính
thống nhất, đồng bộ của văn bản trong hệ thống pháp luật, tính khả thi của văn bản
và ý kiến về các nội dung cụ thể của văn bản.
Công văn góp ý được thủ trưởng đơn vị chủ trì tham gia ý kiến ký "nháy" và
trình Lãnh đạo Bộ Tư pháp xem xét trong thời hạn chậm nhất là 4 ngày, kể từ khi
nhận được hồ sơ văn bản.
7. Ký, gửi báo cáo thẩm định và lưu giữ hồ sơ thẩm định
1. Lãnh đạo Bộ Tư pháp xem xét văn bản báo cáo thẩm định và cho ý kiến
chỉ đạo về những vấn đề cần chỉnh lý. Trong trường hợp cần thiết, Lãnh đạo Bộ làm
việc trực tiếp với lãnh đạo, chuyên viên của đơn vị được phân công thẩm định, đơn
vị thường trực Hội đồng thẩm định.
Báo cáo thẩm định được Lãnh đạo Bộ ký trong thời hạn chậm nhất là ba
ngày, kể từ khi đơn vị chủ trì thẩm định trình; đối với văn bản luật, pháp lệnh nói tại
điểm 1.3. thì thời hạn Lãnh đạo Bộ ký báo cáo thẩm định chậm nhất là hai ngày, kể
từ khi đơn vị chủ trì thẩm định trình; báo cáo thẩm định của Hội đồng thẩm định
được Lãnh đạo Bộ ký trong thời hạn chậm nhất là năm ngày, trước ngày Chính phủ
họp.
Đối với công văn góp ý văn bản nói tại điểm 1.2, đơn vị chủ trì tham gia ý
kiến chỉnh lý công văn theo ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ và trình lại để ký trong
thời hạn chậm nhất là 1 ngày, kể từ khi có ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ.
2. Đơn vị chủ trì thẩm định, tham gia ý kiến, đơn vị thường trực Hội đồng
thẩm định có trách nhiệm chuyển bản gốc báo cáo thẩm định, công văn góp ý cho
Văn phòng Bộ Tư pháp để nhân bản và gửi. Chậm nhất là năm ngày, trước ngày bắt
đầu phiên họp Chính phủ xem xét văn bản, báo cáo thẩm định phải được gửi đến
Văn phòng Chính phủ và cơ quan chủ trì soạn thảo.
Báo cáo thẩm định, công văn góp ý cũng phải được gửi Lãnh đạo Bộ để theo
dõi, được lưu tại đơn vị chủ trì thẩm định, tham gia ý kiến, đơn vị thường trực Hội
đồng thẩm định, Văn phòng Bộ và ghi vào Sổ theo dõi hồ sơ thẩm định của Văn
phòng Bộ.
3. Hồ sơ thẩm định, biên bản họp thẩm định, báo cáo thẩm định, công văn
góp ý và các tài liệu có liên quan khác được lưu giữ tại đơn vị chủ trì thẩm định,
tham gia ý kiến, đơn vị thường trực Hội đồng thẩm định. Thủ trưởng các đơn vị nói
15
trên có trách nhiệm tổ chức việc lưu giữ, bảo quản hồ sơ, tài liệu nói trên tại đơn vị
mình, bảo đảm thuận tiện cho công tác nghiên cứu, tra cứu hồ sơ khi cần thiết.
8. Ứ ng dụng công nghệ tin học phục vụ công tác thẩm định văn bản quy
phạm pháp luật
Đối với văn bản quy phạm pháp luật, việc sử dụng công nghệ tin học để thẩm
định là nhiệm vụ của các cán bộ, chuyên viên làm công tác thẩm định. Trước hết, họ
phải lập kế hoạch những tiêu chí cần thẩm định, (xem phần nội dung phạm vi thẩm
định ) kết hợp với ý kiến chỉ đạo của cơ quan thẩm định. Tiếp sau đó, người thẩm
định sử dụng Cơ sở dữ liệu hiện có (gồm Cơ sở dữ liệu điều tra, phân tích chính
sách; Cơ sở dữ liệu các văn bản quy phạm pháp luật hiện có) để tìm kiếm thông tin
trả lời cho các câu hỏi thẩm định. Sau cùng, kết quả được lập thành một Cơ sở dữ
liệu để viết báo cáo.
9. Kinh phí hỗ trợ thẩm định và chế độ chi tiêu tài chính phục vụ công
tác thẩm định
9.1. Kinh phí hỗ trợ thẩm định
Theo quy định tại Quy chế quản lý và sử dụng kinh phí hỗ trợ xây dựng văn
bản quy phạm pháp luật ban hành kèm theo Quyết định số 69/2000/QĐ-TTg ngày
19/6/2000 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư số 15/2001/TT-BTC ngày
21/3/2001 của Bộ Tài chính thì kinh phí hỗ trợ thẩm định văn bản quy phạm pháp
luật nằm trong kinh phí hỗ trợ xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật do ngân
sách Nhà nước cấp; được bố trí trong dự toán ngân sách Nhà nước hàng năm và cân
đối vào kế hoạch kinh phí thường xuyên của cơ quan được phân công chủ trì xây
dựng văn bản quy phạm pháp luật, thẩm định, thẩm tra, tổ chức giới thiệu và công
bố văn bản quy phạm pháp luật. Như vậy, khi tiến hành thẩm định những văn bản
dưới đây cơ quan chủ trì thẩm định được hỗ trợ kinh phí thẩm định:
- Văn bản luật, pháp lệnh theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của
Quốc hội;
- Văn bản nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội;
- Văn bản nghị quyết, nghị định của Chính phủ theo Chương trình xây dựng
văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ;
- Văn bản quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ có chứa quy phạm pháp
luật.
9.2. Chế độ chi tiêu tài chính phục vụ công tác thẩm định
16
- Nội dung chi: Kinh phí hỗ trợ xây dựng văn bản quy phạm pháp luật được
sử dụng để chi cho công tác thẩm định, thẩm tra các văn bản quy phạm pháp luật nói
trên.
Việc sử dụng kinh phí hỗ trợ thẩm định văn bản quy phạm pháp luật phải
tuân thủ đầy đủ các chế độ chi tiêu tài chính hiện hành như chế độ công tác phí, hội
nghị phí, làm thêm giờ, chi phí in ấn, văn phòng phẩm.v.v. Ngoài ra, do tính chất
đặc thù trong việc thẩm định văn bản quy phạm pháp luật nên Nhà nước quy định
một số khoản chi hỗ trợ công tác thẩm định văn bản quy phạm pháp luật như sau:
Mức chi: Mức chi cụ thể được tính trên cơ sở các công việc tiến hành trong
quá trình thẩm định văn bản:
1. Chi chuẩn bị báo cáo thẩm định văn bản quy phạm pháp luật:
* Đối với văn bản luật, pháp lệnh:
- Văn bản luật, pháp lệnh mới hoặc văn bản luật, pháp lệnh sửa đổi, bổ sung
(thay thế): mức chi từ 300.000 đ - 700.000 đ/báo cáo thẩm định.
- Văn bản luật, pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều: mức chi từ 200.000 đ
- 300.000 đ/báo cáo thẩm định.
* Đối với văn bản nghị quyết của Quốc hội, nghị quyết, nghị định của Chính phủ:
mức chi từ 200.000 đ - 300.000 đ/ báo cáo thẩm định.
2. Chi hội thảo phục vụ công tác thẩm định văn bản luật, pháp lệnh, nghị
quyết của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, nghị quyết, nghị định của Chính
phủ:
- Chủ trì cuộc họp: 100.000đ/người/buổi;
- Các thành viên tham dự: 50.000 đ/người.buổi.
Các mức chi này là tối đa. Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, tổ chức được giao
chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật căn cứ vào tổng mức kinh phí hỗ trợ
xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, căn cứ theo yêu cầu về nội dung, tính chất
phức tạp của từng văn bản để quyết định các mức chi cụ thể nhưng không vượt quá
mức chi này.
Việc lập dự toán, cấp phát, sử dụng và quyết toán kinh phí thẩm định văn bản
quy phạm pháp luật cũng giống như việc lập dự toán, cấp phát, sử dụng và quyết
toán kinh phí xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Hàng quý, cơ quan, đơn vị được phân công chủ trì xây dựng văn bản quy
phạm pháp luật phải gửi báo cáo về việc sử dụng kinh phí được cấp và tiến độ xây
dựng văn bản quy phạm pháp luật đến Bộ Tài chính để làm căn cứ điều chỉnh hoặc
cấp tiếp kinh phí hỗ trợ xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
17
Bộ Tài chính tiến hành phân bổ và thông báo kịp thời mức kinh phí hỗ trợ
thẩm định văn bản quy phạm pháp luật cho cơ quan thẩm định trong dự toán ngân
sách hàng năm của đơn vị đó và tổ chức kiểm tra việc sử dụng kinh phí thẩm định
văn bản quy phạm pháp luật theo đúng quy định.
KẾT LUẬN
Công tác thẩm định là một khâu không thể thiếu được của quy trình soạn thảo
và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Vì vậy, có thể nói, ý nghĩa quan trọng
hàng đầu của hoạt động thẩm định văn bản pháp luật là ở chỗ nó là đảm bảo khi văn
bản quy phạm pháp luật được ban hành sẽ đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục,
hình thức và nội dung văn bản không trái với quy định của cấp trên, phù hợp với
thực tế của địa phương và có tính khả thi cao, để xây dựng một hệ thống văn bản
pháp luật hoàn thiện, thống nhất, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, phục vụ cho hoạt
18
động quản lý Nhà nước. Vì vậy, công tác thẩm định có tác dụng tạo cơ sở về pháp lý
cho sự đổi mới về chất một số văn bản pháp luật, làm cho các văn bản đó được cải
tiến so với các quy định trước đó, đồng thời tạo ra sự thống nhất, hài hòa giữa các
văn bản sẽ được ban hành với hệ thống pháp luật hiện hành.
Hiện nay, chất lượng và tính thực tiễn của công tác thẩm định văn bản quy
phạm pháp luật ngày càng được nâng cao hơn. Việc thẩm định văn bản đã được thực
hiện theo đúng trình tự, thủ tục được pháp luật quy định.
19