QUẢN TRỊ VẬN CHUYỂN TRONG
CHUỔI CUNG ỨNG
1. Tổng quan về quản trị vận chuyển:
a) Xu thế chung về sự phát triển của vận chuyển trong nền kinh tế hiện nay:
Ngày nay, dưới hơi thở gấp gáp của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là quá trình toàn
cầu hóa mạnh của nền thương mại thế giới. Hàng hóa không còn được tiêu thụ chính tại
nơi sản xuất ra nó, mà nó còn được tiêu thụ ở xa hoặc ở xa nơi sản xuất. Ví dụ như cà phê,
lúa gạo Việt Nam được tiêu thụ rộng rãi ở Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Phi… hoặc các nước
Châu Á: Philippines, Indonesia… Ngay trong lãnh thổ của một quốc gia thì hàng hóa cũng
được tiêu thụ khắp các vùng miền thông qua các đầu mối phân phối. Để làm được điều đó,
phải gắn liền với hoạt động vận chuyển, một hoạt động nhằm thay đổi vị trí (không gian)
của hàng hóa từ nơi này đến nơi khác bắng sức người hoặc các phương tiện vận tải.
Với sự phát triển vượt bậc của kinh tế Việt Nam cũng như của toàn thế giới. Dòng
chảy của nguyên vật liệu, bán thành phẩm và thành phẩm sẽ nhanh hơn và nhiều hơn. Song
song với nó quá trình chuyên môn hóa vẫn không ngừng tiến bộ, đã và sẽ xuất hiện nhiều
hơn doanh nghiệp, tổ chức chỉ chuyên môn về vận chuyển. Cũng dưới góc nhìn từ bên thứ
ba (third party logistics) chúng tôi thực hiện bài viết này.
b) Đặc điểm của hoạt động vận chuyển hàng hóa:
Chúng ta đều biết, sản phẩm dịch vụ không thể hình dung hay sờ, nắm được như các
sản phẩm vật chất khác. Mà có những đặc điểm riêng của nó như tính vô hình, tính không
đồng nhất (đối với các khách hàng khác nhau), tính không tách rời (sản xuất và tiêu dùng
đồng thời), tính dễ hỏng (không thể lưu trữ được), mà vận chuyển hàng hóa là một sản
phẩm như vậy. Chính vì những lý do đó, khi người ta (khách hàng) chọn mua sản phẩm thì
họ sẽ căn cứ chủ yếu vào minh chứng vật chất công ty cung cấp (chất lượng phương tiện,
bến bãi…). Độ tịn cậy đối với khách hàng khác và kinh nghiệm chính bản thân họ. Để từ
đó khách hàng sẽ có một sự kì vọng về sản phẩm mà họ sắp mua: nhận hàng có đúng địa
điểm, đúng thời gian, đúng với số lượng và chất lượng trước khi qua quá trình vận chuyển
hay không.
Cũng như bao sản phẩm dịch vu khác, dịch vụ vận chuyển không thể lưu kho được.
Trong khi nhu cầu vận chuyển lại dao động rất lớn. Trong thời kì cao điểm (các mùa mua
sắm) thì các đơn vị vận tải phải có nhiều phương tiện hơn gấp bội để đảm bảo phục vụ.
Ngược lại, khi vắng khách vẫn phải tốn các chi phí cơ bản và khấu hao tài sản, duy tu bảo
dưỡng phương tiện, chi phí quản lý… Bên cạnh đó, có những yếu tố doanh nghiệp không
thể kiểm soát được như điều kiện thời tiết, giao thông… cũng tác động không nhỏ đến chất
lựơng dịch vụ. Đòi hỏi doanh nghiệp phải hiểu rõ và đưa ra những giải pháp hợp lý để khai
thác tối đa nguồn lực mà doanh nghiệp sở hữu.
c) Vai trò quan trọng của vận chuyển trong chuỗi cung ứng:
Trong khi thực hiện bài viết này, chúng tôi có một cuộc thăm dò nhỏ đối với trên 100
người thuộc các doanh nghiệp sản xuất và phân phối hàng hóa, vật tư. Câu hỏi mà chúng
tôi đặt ra là: “Logistics là gì?”. Có đến 90% số người được hỏi trả lời logistics là vận
chuyển, trong khi đó chỉ có 3% trả lời đúng ý nghĩa của từ này. Đối với những ai từng
nghiên cứu hoặc đã đọc qua các tài liệu logistics đây quả thực là sự nhầm lẫn khó tin.
Nhưng nó cũng chỉ ra rằng vận chuyển giữ vai trò hết sức quan trọng trong chuỗi cung
ứng.
Trước hết về đáp ứng nhu cầu của khách hàng, quản trị vận chuyển sẽ giúp cho chiến
lược marketing của doanh nghiệp thành công trong việc phân phối đủ rộng và đủ sâu để
đáp ứng một cách hoàn hảo nhu cầu của thị trường.
Thứ hai, vận chuyển sẽ đáp ứng yêu cầu về mặt thời gian. Có thể nói yêu cầu này là
cần thiết trong nền kinh tế hiện nay. Vì sao nó lại như vậy? Thật khó có thể giải thích được
nếu bạn không đặt mình vào các tình huống để suy ngẫm.
- Nếu bạn là nhà phân phối, có thể là một siêu thị bạn sẽ nghĩ gì nếu hàng hóa trong
kho của bạn không có để bán cho khách hàng trong ngày hôm nay, nhưng lại đầy ắp vào
ngày hôm sau.
- Công nhân và máy móc của bạn phải trả lương hoặc khấu hao hằng ngày đang phải
đợi nguyên vật liệu do vận chuyển chậm trễ để tiến hành sản xuất.
Chính vì lý do đó, quản trị vận chuyển được xem là huyết mạch của chuỗi cung ứng.
Vì sao ư? đơn giản nó tác động trực tiếp đến dịch vụ khách hàng tốt hay không tốt, quản trị
dự trữ thừa hay thiếu, hoạt động hỗ trợ khách hàng như nhà kho có hoạt động hiệu quả hay
không.
2. Quản trị vận chuyển cần thiết phải có sự nhất quán giữa các bên tham gia.
Vì sao phải như vậy? Để giải thích được rõ hơn vấn đề này chúng tôi xin được chia
các thành phần tham gia trong quá trình vận chuyển hàng hóa thành hai nhân tố chính :
nhân tố bên trong (người gửi hàng, người nhận hàng, đơn vị vận tải). Nhân tố bên ngoài
(chính phủ và công chúng). Để có thể dễ dàng hình dung hơn thì có thể sơ lược các thành
phần tham gia cụ thể như sau:
- Người gửi hàng (shipper): là người yêu cầu vận chuyển hàng hóa đến địa điểm nhất
định trong khoảng thời gian cho phép.
- Người nhận hàng (consiqie: còn gọi là khách hàng) là người yêu cầu được chuyển
hàng hóa đến đúng địa điểm, đúng thòi gian, đúng số lượng và chất lượng đã thỏa thuận
với bên người gửi.
- Đơn vị vận tải (carrier) : là chủ sở hữu và vận hành các phương tiện vận tải.
- Chính phủ: thường là người đầu tư và quản lý hạ tầng hệ thống giao thông cho con
đường vận chuyển.
- Công chúng: là thành phần rất quan tâm đến hoạt động vận chuyển hàng hóa nói
riêng và giao thông vận tải nói chung.
a) Nhân tố bên trong (lợi ích cục bộ) :
Sự phát triển của phân công lao động cũng như nguồn lực của doanh nghiệp là có
hạn, doanh nghiệp không thể ‘ôm đồm’ cả sản xuất và phân phối cho khách hàng nên
doanh nghiệp vận tải đóng vai trò như một mắc xích giữa doanh nghiệp sản xuất và khách
hàng của họ. Để hoạt động được diễn ra thuận lợi thì cần có những chứng từ mang tính
pháp lý như vận đơn (còn gọi là hợp đồng) và hóa đơn.
- Sự chấp nhận luật chơi: ở khía cạnh này chúng tôi không đặt thành vấn đề là có bao
nhiêu điều khoản? Hay hóa đơn như thế nào? Mà điều đáng quan tâm là các bên tham gia
thực hiện các điều khoản như thế nào? Trong thực tế,chi phí của doanh nghiệp cho việc
vận chuyển nguyên vật liệu và sản phẩm của các doanh nghiệp từ vài đến vài chục phần
trăm trong tổng ngân sách hoạt động của một kỳ kinh doanh. Cho nên việc các bên tham
gia thực hiện đúng giao kèo đã cam kết là tiên quyết. Nếu giao kèo bị đổ vỡ không những
làm cho các bên bị thiệt hại về mặt kinh tế, và tệ hơn là lúc các bên vào ‘cuộc chiến’ (khiếu
nại vận tải) đem lại sự phiền toái, ảnh hưởng đến nhân lực và tài lực, thậm chí là tương lai
của các doanh nghiệp.
- Sự linh hoạt trong hợp tác để đạt hiệu quả cao nhất : Theo quan điểm đồng minh
chiến lược, thì các bên tham gia trong một quá trình diễn ra các hoạt động kinh tế phải xem
các đối tác của mình như các đồng minh chiến lược. Chính sự hỗ trợ tích cực từ bên này sẽ
tạo thành lợi thế cạnh tranh không nhỏ cho bên kia. Đối với vận chuyển, cũng theo nhu cầu
không ổn định hàng hóa mà các bên tham gia phải linh hoạt trong việc kí kết các hợp đồng
vận chuyển và các điều khoản trong hợp đồng như :
+ Hợp đồng dài hạn: thời gian hợp đồng từ một năm trở lên áp dụng cho những
mặt hàng có khối lượng lớn, tầng số tương đối đều đặn và ổn định.
+ Hợp đồng ngắn hạn: tương tự như hợp đồng dài hạn nhưng thời hạn hợp đồng là
từng tháng, từng quý.
+ Hợp đồng từng chuyến: áp dụng trong những lô hàng đột xuất không nằm trong
kế hoạch của chủ hàng.
Phần đông số người sẽ lời câu hỏi : mục đích của kinh doanh là lợi nhuận và để tăng
lợi nhuận thì phải quản lý chi phí hoặc là giảm chi phí. Nhưng trong một quá trình
(logistics) thì chi phí của cả quá trình mới là điều quan trọng. Nếu chỉ quản lý chi phí tốt
nhất cho một cá thể mà gây biến động tăng chi phí của cả một tập thể thì quá trình đó
không hiệu quả.
b) Nhân tố bên ngoài (lợi ích tổng thể xã hội) :
Chính phủ : như đã nói ở trên chính phủ là người đầu tư các hạ tầng cơ sở giao thông
như : đường xá, bến cảng...Hằng năm chính phủ phải đầu tư đến vài chục % của GDP cho
các hạng mục này để đầu tư cho cho việc phát triển kinh tế xã hội. Chính vì hoạt động vận
chuyển có ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế quốc dân, môi trường xã hội, môi trường
sinh thái và chất lượng cuộc sống cộng đồng nên song song với việc đầu tư thì nhà nước
cũng can thiệp vào các hoạt động vận chuyển thể hiện dưới nhiều hình thức trực tiếp hay
gián tiếp như : luật và các văn bản dưới luật, chính sách khuyến khích hoặc giới hạn quyền
sở hữu các phương tiện vận tải, giới hạn hoặc mở rộng thị trường, quy định giá, hỗ trợ phát
triển ngành giao thông vận tải...Trên thực tế Việt Nam, nhà nước độc quyền các hình thức
công cộng như đường sắt (Tổng công ty đường sắt), Việt Nam Airline, Tổng công ty
đường sông...tác động không nhỏ đến chất lượng vận chuyển. Ví dụ như thành phố Đà
Nẵng thì ga đường sắt nằm ngay ở trung tâm thành phố sẽ làm cản trở sự phát triển của vận
chuyển nói chung và logistics nói riêng.
Công chúng : chính là người được hưởng lợi nhiều nhất từ các hoạt động vận chuyển.
Tuy nhiên trong thực tế thì thành phần này cũng tác động không nhỏ đến hoạt động vận
chuyển.Trên báo Thanh Niên có bài viết dài kỳ phản ánh về ‘ văn hóa giao thông’ ở Việt
Nam. Tình trạng mạnh ai nấy đi đã làm tắc nghẽn giao thông tại các thành phố lớn tác động
không nhỏ đến hoạt động vận chuyển, tồi tệ hơn là có thể làm cho các bên tham gia đỗ vỡ
hợp đồng.
Tóm lại, để cho vận chuyển có chất lượng thì phải có sự đồng bộ của các nhân tố tác
động trực tiếp đến nó.
3) Vì sao phải có sự phối hợp các phương tiện vận tải ?
Để hoàn thành các đơn hàng (hợp đồng) thì các doanh nghiệp thường phối hợp các
phương tiện vận tải để tạo ra một sản phẩm có chất lượng tối ưu nhất.
a) Vận tải đơn phương thức (phối hợp nhiều trọng tải).
Thông thường hoạt động cung ứng hàng hóa ở mỗi vị trí là khác nhau. Ngoài việc bố
trí mạng lưới vận chuyển thì các doanh nghiệp thường phối hợp nhiều trọng tải khác nhau
tùy theo khối lượng hàng hóa và địa bàn vận chuyển. Ví dụ: doanh nghiệp dùng xe rơ-móc
vận chuyển thùng tải (côngterno) đến 30 tấn chỉ để hoàn thành đơn hàng với đối tác là 5
tấn . Điều này thật là phi lý. Ngoài ra còn phụ thuộc vào cơ sở đường xá, hệ thống kênh
rạch để phục vụ cho việc vận chuyển. Cho nên doanh nghiệp thường phối hợp nhiều trọng
tải khác nhau như xe tải (đường bộ) là 1, 2, hoặc 5, 10 tấn...Xà lan, tàu (đường thủy).
Ngoài việc linh hoạt và hiệu quả thì cũng cắt giảm một phần chi phí của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, vận tải đơn phương thức chỉ được sử dụng chủ yếu trong một khoảng cách
hẹp, khối lượng giao dich thường không lớn. Còn đối với những hợp đồng xuyên quốc gia,
qua Châu Âu hay Châu Á chẳng hạn thì xin mời vào phần tiếp theo.
b) Vận chuyển đa phương thức :
Chính những nhược điểm của vận chuyển đơn phương thức, khi vận chuyển trên
nhiều tuyến đường khác nhau thì phải giao dịch với từng người vận chuyển, phải thượng
lượng với nhiều đầu mối vận chuyển khác nhau, sẽ làm cho các chủ hàng mệt mỏi vì phải
đầu tư quá nhiều nhân lực và chi phí mà không hẳn đã thấp hơn. Nếu một doanh nghiệp
cung ứng dịch vụ phối hợp tốt nhất hai loại phương tiện vận tải, sử dụng một chứng từ duy
nhất và chịu hoàn toàn về quá trình vận chuyển hàng hóa sẽ được ưu tiên bởi ưu thế trọn
gói giao dịch và giá cả hợp lý của nó.
Chính vì yếu tố đặc thù của các phương thức vận tải như :
- Đường biển : giá thành rẻ, thời gian vận chuyển dài và bị giới hạn về địa điểm giao
nhận.
- Đường sắt : giá thành rẻ, thời gian trung bình, bị giới hạn về địa điểm giao nhận.
- Đường bộ : nhanh, thuận tiện, chi phí tương đối cao.
- Đường hàng không : nhanh, giá thành cao.
- Đường ống : tương đối hiệu quả nhưng bị giới hạn hàng hóa.
Với bảng xếp hạng đặc điểm các phương thức cụ thể (1 là tốt nhất, nhanh nhất,và rẻ
nhất ; 5 là tối nhất, chậm nhất và đắt nhất)
Các chỉ tiêu
Đường
sắt
Đường
thủy
Đường
bộ
Đường
hàng
không
Đường
ống
1.Tốc độ 3 4 2 1 5
2. Tính liên tục 4 5 2 3 1
3. Độ tin cậy 3 5 2 4 1
4. Năng lực vận chuyển 2 1 3 4 5
5. Tính linh hoạt 2 4 1 3 5
6. Chi phí 3 1 4 5 2
Tổng 17 20 14 20 19