Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

báo cáo thực tập tam đảo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.58 KB, 56 trang )

BÁO CÁO THỰC TẬP TAM ĐẢO

A. Giới thiệu về chuyến thực tập
- Thời gian diễn ra chuyến thực tập : từ ngày 23/06/2011 đến 30/06/2011, thời gian thực
địa thiên nhiên là 6 ngày từ 24/06 đến 29/06/2011.
- Mục tiêu :
+ Nhằm củng cố và mở rộng kiến thức đã học một cách có hệ thống đồng thời liên hệ
kiến thức trong sách vở với điều kiện môi trường cụ thể.
+ Trang bị kiến thức về phương pháp nghiên cứu Sinh học ngoài thực địa, mang lại
những kinh nghiệm đầu tiên trong nghiên cứu Sinh vật.
+ Góp phần nâng cao tình yêu thiên nhiên, môi trường xung quanh đồng thời tăng thêm
lòng yêu nghề và ý thức vươn lên trong nghề nghiệp.
- Đối tượng nghiên cứu: chuyến đi chủ yếu nghiên cứu các đối tượng của sinh học cơ
bản, bao gồm :
+ Thực vật bậc thấp ( các loài Nấm và Tảo )
+ Thực vật bậc cao
+ Động vật không xương sống ở nước
+ Côn trùng ở cạn
+ Cá, lưỡng cư, bò sát
+ Chim và thú
B. Tổng quan về điều kiện tự nhiên và sinh vật của Vườn quốc gia TĐ
Vườn quốc gia (VQG ) Tam đảo được thành lập ngày 06/03/1996 theo quyết định
136/TTg của thủ tướng chính phủ. Với tổng diện tích 34.995 ha, trong đó phân khu bảo vệ
nghiêm ngặt là 16.442 ha, khu phục hồi sinh thái 7.240 ha, dịch hành chính 1.540 ha, vùng
đệm 15.515 ha. VQG Tam đảo cách Hà Nội khoảng 80km về phía Tây Bắc và cách thành phố
Vĩnh Yên khoảng 20km, nằm trọn trong dãy núi Tam đảo, đây là dãy núi lớn với chiều dài
trên 80km, rộng từ 10-15km chạy theo hướng Tây bắc – Đông Nam thuộc địa phận 3 tỉnh :
Vĩnh phúc (Tam dương và Thị trấn Tam Đảo ), Thái Nguyên ( Đại Từ ), Tuyên Quang ( Sơn
Dương ).
Do có sự khác nhau về đất đai và khí hậu giữa các vùng cộng với sự tác động của con
người đã tạo ra các hoàn cảnh lập địa khác nhau. Đây là nguyên nhân chính tạo ra sự đa dạng


về các hệ sinh thái rừng, các quần xã sinh học và đa dạng về loài của rừng Tam đảo (khoảng
2000 loài thực vật, 840 loài động vật ).
Vườn quốc gia Tam đảo là tài sản hết sức quý giá của Việt Nam.
I. Điều kiện tự nhiên
1. Địa chất.
Tam đảo là một khối núi trẻ (có đỉnh ngọn, sườn rất dốc, và độ chia cắt sâu). Phía Tây
Nam bị ngăn cách bởi một đứt gãy sâu cùng phương. Địa hình bị xâm thực và chia cắt rất
mạnh. Điều này đã tạo nên một địa mạo khá đặc biệt cho Tam Đảo, đó là núi thấp nhưng rất
dốc ( độ dốc trung bình từ 26 – 35
0
). Dãy Tam Đảo kéo dài 80km, chiÒu ngang 10-15km
gồm 20 đỉnh có độ cao trung bình trên 1000m so với mực nước biển, 3 đỉnh cao nhất tạo nên 3
hòn đảo là đỉnh Thạch Bàn (1388m), đỉnh Thiên Thị (1375m) và đỉnh Phú Nghĩa (1400m).
Cũng nằm trong tọa độ địa lý 21
0
02’ – 21
0
04’ vĩ độ Bắc và 105
0
02’ – 105
0
04’ kinh độ Đông,
phía Bắc đồng bằng châu thổ sông Hồng.
Đất ở Tam đảo chủ yếu là đất Feralit đỏ vàng thường thấy ở độ cao từ 100-400m, Feralit
mùn vàng ở độ cao trên 700m và đất Feralit mùn vàng đỏ phân bố trên núi thấp.
Độ cao của khu vực thực nghiệm là 1000 – 1100m so với mặt nước biển.
2. Khí hậu
Khí hậu Tam Đảo là khí hậu ẩm giớ mùa vùng cao. Với tọa độ địa lý như trên, Tam
Đảo nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, nhưng do nằm tương đối cao so với
mực nước biển nên ở đây khí hậu lại có sự đồn quy với khí hậu á nhiệt đới. Đây chính là

nguyên nhân dẫn tới sự xâm nhập của nhiều loài thực vật á nhiệt đới ( ví dụ, cây Thích).
Lượng mưa trung bình khác nhau giữa hai sườn, ở sườn Đông (sườn hứng gió) lớn hơn ở
sườn Tây ( sườn khuất gió). Mưa chủ yếu vào mùa hè (từ tháng 5 đến đầu tháng 9) và mùa
thu ( từ tháng 9 đến đầu tháng 12) trái ngược hẳn với mùa Đông và mùa Xuân ít mưa (vào
mùa Đông lượng mưa chủ yếu là do mưa phùn và sương mù gây ra). Lượng mưa trung bình ở
Tam Đảo là khoảng 2630.3mm, nên nhìn chung độ ẩm trung bình ở đây tương đối cao
( khoảng 87%)
Tam Đảo thường xuyên có sương mù, đặc biệt là các tháng có thời tiết se lạnh. Nhiệt độ
ở đây biến đổi theo độ cao, ở vùng đỉnh nhiệt độ trung bình là 18
0
C, còn ở vùng thấp nhiệt độ
trung bình khoảng 22.9-23.7
0
C.
3. Thủy văn
Tam Đảo có mạng lưới sông suối dạng chân rết nằm dọc theo hai bên sườn núi với hai
hệ thống sông Phó Đáy nằm ở phía Tây và sông Công nằm ở phía Đông. Suối có cấu trúc hẹp
lòng, nhiều ghềnh thác, độ dốc rất lớn và khả năng điều tiết nước kém. Chế độ thủy văn ở
Tam Đảo được chia thành hai mùa là mùa lũ kéo dài từ tháng 4 đến tháng 10, lũ tập trung
nhanh và rút đi cũng rất nhanh và mùa cạn kéo dài từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau.
II. Sự đa dạng hệ sinh vật
1. Hệ thực vật
Hệ thực vật ở Tam Đảo khá phong phú và phân bố trên nhiều sinh cảnh khác nhau từ
trảng cỏ, cây bụi đến các loài cây gỗ trên núi đất, núi đá. Theo GS.TSKH Nguyễn Nghĩa Thìn
( Khoa Sinh học – Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học QG Hà Nội) thì VQG Tam Đảo có
khoảng 2000 loài thực vật. Đến nay, tổng số liệu điều tra của Viện sinh thái và Tài nguyên
Sinh vật ( Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc Gia); Đại học Khoa học Tự
nhiên – Đại học Quốc Gia Hà Nội ; Đại học Lâm nghiệp; Viện điều tra quy hoạch rừng và một
số cơ quan tổ chức khác cho thấy đã thống kê được 904 loài cây có ích ở Tam Đảo thuộc 478
chi, 213 họ thuộc 3 ngành Dương xỉ, Hạt trần và Hạt kín.

Có 8 loại rừng và thực bì khác nhau, trong đó :
- Rừng thường xanh, mưa ẩm nhiệt đới : Kiểu rừng này bao phủ phần lớn dãy núi Tam
Đảo và phân bố ở độ cao dưới 800m, với nhiều tầng tán và những loại cây có giá trị kinh tế
như : Chò chỉ ( Shorea chinensis), Giổi (Michelia SP), Re ( Cinamomum Ital ), Trường mật
( Pavviesia annamensis )…
- Rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp : Kiểu rừng này phân bố từ độ cao
800m trở lên và trong quần thể thực vật của kiểu rừng này không có các loài thuộc họ Dầu
( Dipterocarpaceae ). Thực vật ở đây gồm các loài trong họ Re (Lauraceae), họ Dẻ (Fagaceae),
họ Mộc lan (Magroliaceae), họ Sau Sau (Hamamelidocene)…Từ độ cao 1000m trở lên xuất
hiện một số ngành hạt trần như Thông nàng (Dacrycarpus imbrricatus), Pơ mu (Fokieria
hodginssi), Thông tre (Podocarpus neriifolicy), Kim giao (Nageia fleuryi)…Dưới tán kiểu
rừng này thường có các loài như Vầu đắng, sặt gai, các loài cây bụi thuộc họ Cà phê
(Rubiaceae), Đơn nem (Myrsiraceae), họ Thầu dầu (Euphobiaceae)…
- Rừng lùn trên đỉnh núi là kiểu phụ đặc thù của rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt
đới núi thấp mà thực vật chủ yếu là các loài cây thuộc họ Đỗ quyên (Ercaceae), họ Re
(Lauraceae), họ Dẻ (Fagaceae), họ Hồi (Illiciaceae)….Kiểu rừng này xuất hiện ở các đỉnh núi
cao khoảng 1000m trở lên.
- Rừng tre nứa không có nhiều chỉ khoảng 884ha và thường phân bố ở độc cao trên
800m, có các loài tiêu biểu là Vầu, sặt gai ở độ cao 500m.
- Rừng phục hồi sau khai thác ; trước khi thành lập VQG Tam Đảo rừng ở đây chỉ được
bảo vệ ở độ cao 400m trở lên, dưới 400m là rừng kinh tế, nên rừng ở đây một phần đã bị khai
thác và sử dụng làm nương rẫy. Ngày nay diện tích rừng này được bảo vệ phục hồi rừng với
các loài cây Dung (Symplocos SP) , Màng tang (Litsea cubeba) , Dền (Xylopia vielana), Ba
soi (Macarauga denticulata)…
- Rừng trồng đã có từ thời Pháp thuộc, loài cây chủ yếu của thời kì này là Thông đuôi
ngựa (Pinus Massoniana), Lim xanh (Erythropholenm fordii). Sau này được trồng thêm các
loài Bạch đàn, keo, thông Caribee và một số cây bản địa có nguồn gốc từ Tam Đảo.
- Trảng cây bụi thường xuất hiện ở nơi đất chưa có rừng, khô hạn, nhiều ánh sáng, điển
hình là Thẩu tấu (Aporosa dioica), Thổ mật (Bridelia tomentosa), Thao kén….
- Trảng cỏ được hình thành trên các loại rừng đã bị khai thác, đất bị thoái hóa mạnh và

được phân chia làm hai loại hình Trảng cỏ cao, có chiều cao khoảng 2m và mọc thành từng
bụi như Lách Saccharum spontaneum, cỏ chít (Thysamolema maxima), cỏ lào (Chromolaena
odorata)…Trảng cỏ thấp, gồm các loài cỏ thấp dưới 2m, mọc thành thảm cỏ dày đặc hoặc rải
rác , điển hình là cỏ tranh (Imperata cylindrica), cỏ đắng (Paspalum scrobiculatum)…
2. Hệ động vật
Tổng hợp các kết quả điều tra, đã thống kê được 840 loài động vật, trong đó:
Bảng 1 : Số lượng các loài động vật không xương sống trên cạn
và có xương sống ở VQG Tam Đảo
Lớp Số bộ Số họ Số giống Số loài
Thú
Chim
Bò sát
Lưỡng cư
Côn trùng
Tổng số
8
16
3
3
8
38
25
50
14
7
48
144
48
140
46

11
271
516
64
239
75
28
434
840
Vườn quốc gia Tam Đảo là khu vực có tính đa dạng sinh học cao, là kho dự trữ các
nguồn gen động thực vật quý hiếm của nước ta. Do đó đây là nơi đáp ứng rất nhiều điều kiện
tốt cho chuyến thực tập lần này.

C. BÁO CÁO THỰC TẬP TỪNG NGÀY
Bài 1 : CÔN TRÙNG Ở CẠN
Ngày 24 tháng 06 năm 2011
I. Giới thiệu chung:
-Côn trùng ở cạn là một nhóm động vật phổ biến và gần gũi với con người. nghiên
cứu về côn trùng ở cạn là một lĩnh vực nghiên cứu có tính lịch sử và ý nghĩa thực tế lớn.
-Mục đích của việc nghiên cứu:
+Thấy được tính đa dạng phong phú của động vật không xương sống nói chung và lớp
côn trùng nói riêng, đặc biệt là nhóm côn trùng ở cạn trong các sinh cảnh khác nhau.
+Giúp sinh viên biết cách điều tra, thu thập, xử lý và bảo quản mẫu ngoài tự nhiên.
+Nhận dạng một số họ côn trùng phổ biến ở Tam Đảo
+Thấy được vai trò của con người trong việc bảo vệ tính đa dạng của sinh vật nói
chung và côn trùng nói riêng.
II. Điều kiện tự nhiên của khu vực nghiên cứu
Điều tra được tiến hành xung quanh thị trấn Tam Đảo thuộc VQG Tam Đảo.
1. Thời gian tiến hành
Ngày 24 tháng 06 năm 2011 từ 9h – 11h30 và từ 14h – 15h30.

2. Điều kiện tự nhiên của khu vực nghiên cứu
- Địa hình: núi xen kẽ đồi, nhiều suối chảy dốc, độ cao khoảng 1100m so với mực
nước biển.
- Sinh cảnh : sự đa dạng của côn trùng phụ thuộc vào loại hình thảm thực vật. Thảm
thực vật được phân loại dựa vào tác động của con người. Ở VQG Tam Đảo có nhiều loại hình
thảm thực vật khác nhau:
+ Rừng nguyên sinh : sự tác động của con người rất ít, hoàn toàn không có tác động
của con người. Nói chung, rừng được coi là rừng nguyên sinh thì hầu như không có mà chủ
yếu là rừng già, với đặc điểm :
•Trữ lượng gỗ lớn
•Có sự phân tầng thảm thực vật, do vậy khu hệ côn trùng phong phú vào loại bậc nhất.
•Rừng trồng : Thảm thực vật được phân loại nên côn trùng khá đơn điệu
•Khu vực quanh nhà dân : đây là khu vực chịu tác động của con người nhiều nhất. Thảm
thực vật tự nhiên không nhiều , chủ yếu là cây hòa thảo và cây phục vụ cho con người. Khu hệ
côn trùng nghèo nàn nhất.
- Thời tiết : trời mưa, nhiều mây và sương mù, gió to, độ ẩm cao, không thuận lợi cho
hoạt động thu mẫu côn trùng.
3. Hoạt động của dân cư trong khu vực nghiên cứu
- Ảnh hưởng đến thảm thực vật, thành phần đất trong khu vực nghèo nàn, diện tích bị
suy giảm : chủ yếu là hoạt động du lịch, khai thác rừng, xây dựng khách sạn, canh tác con
người làm cho thảm thực vật đơn điệu, loài côn trùng suy giảm.
- Đối với khu hệ côn trùng sự tác động này có thể theo một trong hai hướng : bảo vệ
hoặc khai thác.
- Ở khu vực điều tra, sự tác động của con người chủ yếu là hoạt động khai thác, sự
khai thác này chủ yếu phụ thuộc vào thu thập của người dân, có diễn ra hoạt động buôn bán
côn trùng.
III. Phương pháp điều tra và thu thập, bảo quản mẫu .
1. Phương pháp điều tra : định lượng hoặc định tính
- Điều tra định lượng là xác định mức độ phong phú của côn trùng ở khu vực điều tra và
so sánh với các vùng khác.

- Trong khuôn khổ bài thực tập này, chỉ sử dụng phương pháp điều tra định tính,tức là
xác định được những loài côn trùng có mặt ở khu vực điều tra.
+ Tùy những nhóm động vật khác nhau ta thiết lập những tuyến điều tra khác nhau.
+ Tuyến điều tra phải qua được các khu vực khác nhau, các độ cao khác nhau, như vậy
độ dài tuyến phải hàng chục km. Tuy nhiên, độ dài tuyến điều tra côn trùng thông thường chỉ
khoảng 1-3km, như vậy khó có thể qua các sinh cảnh. Vì vậy, phải đặt nhiều tuyến điều tra
khác nhau.
+Tuyến điều tra là nhưng con đường xung quanh thị trấn Tam Đảo đường lên Cổng trời.
2. Phương pháp thu thập mẫu và bảo quản mẫu ngoài tự nhiên
-Để thu được mẫu côn trùng, sử dụng các dụng cụ : vợt, panh gắp côn trùng sau đó dùng
lọ độc và túi bướm để bảo quản mẫu tạm thời.
-Vợt:
+Dùng để bắt côn trùng bay.
+Cấu tạo : gồm một vòng kim loại tròn đường kính khoảng 40cm, có lưới chóp bao
quanh, vòng được nối với một cán vó chiều dài khác nhau tùy mục đích thu loài.
-Panh : dùng để gắp những côn trùng không bay.
-Lọ độc : lọ độc là lọ thủy tinh có kích thước 5×10cm, miệng rộng có nút bằng gỗ hay
bằng bần, bên trong lọ độc cho bông đã tẩm chloroform. Lọ được bỏ tỏng một túi vải có quai
đeo để tiện cho việc đi thực địa. Sau khi bắt được côn trùng ( trừ bướm, bọ que), bỏ vào lọ độc
giết chết côn trùng, sau đó sẽ mang về phòng thí nghiệm.
-Túi bướm : được làm bằng giấy báo, dùng để đựng bướm, sau khi cho bướm vào túi
bướm cần ghi etiket đầy đủ thông tin ( thời gian thu mẫu, địa điểm thu mẫu, ngày thu mẫu).
-Sổ nhật kí thực tập, bút chì.
3. Kết quả định loại sau khi thu mẫu.
Các mẫu côn trùng thu được thuộc các bộ và họ sau:
3.1.Bộ Cleoptera ( Bộ cánh cứng)
- Đặc điểm :
+Có cánh kitin hóa mạnh, không dùng để bay mà có tác dụng bảo vệ và điều khiển khi
bay.
+Phần phụ miệng kiểu nghiền

+Biến thái hoàn toàn
-Mẫu thu được thuộc các họ :
+ 1 Họ Cerambycidae ( Họ Xén tóc ) : Râu dài hơn thân, khi di chuyển thường phát
tiếng kêu ken két.
+ 1 Họ Coccinellidae ( Họ Bọ dừa ): Trên thân thường có các chấm, số lượng, màu sắc
và khoảng cách các chấm là đặc điểm phân biệt các loài trong họ, cơ thể nửa bán cầu, ăn
động vật.
+ 1 Họ Cicindelidae ( Họ Mắt trố ) : Có hai mắt lồi lớn, đầu lớn hơn đốt ngực trước,
là họ ăn thịt.
+ 3 Họ Chrysomelidae ( Họ Bọ ăn lá ) : râu không bao giờ dài quá cơ thể.
+ 2 Họ Curculionidae ( Họ Câu cấu ) : Đầu kéo dài thành vòi.
+ 3 Họ Scarabacidae ( Họ Bọ hung ): Râu gấp khúc, cánh không phủ hết bụng.
+ 5 Họ Meloidae ( Họ Thầy tu ) : Cánh phủ thân màu đen, đầu đỏ.
+ 3 Họ Cánh cam : Cánh không bao giờ dài hết bụng.
3.2. Bộ Hemiptera ( Bộ Cánh nửa, Bộ Cánh khác hay Bộ Bọ xít )
- Đặc điểm : Cánh trước có nửa gốc dày cứng còn nửa ngọn mỏng.
- Mẫu thu được thuộc các họ :
+ Họ Pentatomidae ( Bọ xít 5 cạnh )
+ Họ Coreidae
+ Họ Reduviidae
+ Họ Leptocoridae ( Bọ xít dài )
3.3. Bộ Hymenoptera (Cánh màng)
-Đặc điểm : cánh dạng màng trong suốt.
- Mẫu thu được thuộc các họ:
+Họ Focmicidae ( Họ Kiến )
+Họ Cyclopidae ( Họ Ong bắp cày )
+Họ Vespidae ( Họ Ong bò vẽ )
+Họ Apidae ( Họ Ong mật )
3.4.Bộ Homoptera ( Bộ Cánh giống)
- Đặc điểm : Phần phụ miệng kiểu chích hút, gốc môi phình to, khi đậu cánh xếp hình

mái nhà.
- Mẫu thu được thuộc các họ :
Phần phụ miệng kiểu chích hút. Khác với bọ xít ở chỗ gốc môi phình to thành dạng cái
bơm.
+Họ Cercopidae
+Họ Flatidae ( Ve sầu mỏng )
3.5.Bộ Orthoptera ( Bộ Cánh thẳng hay Bộ Cào cào, Bộ Châu chấu )
- Đặc điểm : đùi phát triển, khi đậu cánh xếp hình mái nhà hoặc xếp thẳng hàng trên
lưng.
- Mẫu thu được thuộc các họ :
+ Họ Tettigonidae (Họ muồm muỗm): râu dài hơn thân.
+ Họ Acridiidae : râu ngắn hơn thân.
+ Họ Tetrigidae : cánh kéo dài qua lưng.
+ Họ Tettigonidae
3.6.Bộ Phasmoptera ( Bộ Bọ que )
- Mẫu thu được thuộc hai họ :
+Họ Bacillidae ( Bọ que không cánh)
+Họ Bacteriidae ( Bọ que có cánh )
3.7.Bộ Odonata ( Bộ chuồn chuồn )
-Mẫu thu được các họ
+Họ Libellulidae ( Họ chuồn chuồn ớt)
+Họ Lestidae ( Họ chuồn chuồn kim)
3.8.Bộ Manthoptera ( Bộ Bọ ngựa)
-Mẫu thu được gồm các họ :
+Chỉ có 1 họ : Mantidae
3.9.Bộ Dermaptera ( Bộ Đuôi kìm hay Bộ Cánh da)
-Mẫu thu được chỉ có 1 họ : Dermaptidae
3.10. Bộ Lepidoptera ( Bộ Cánh vảy hay Bộ Bướm)
- Đặc điểm :
+Trên cánh có phủ các vảy có màu sắc khác nhau

+Bướm ngày có râu hình dùi trống hay hình chùy, còn râu của bướm đêm có
hình sợi hoặc hình lông chim.
-Trong nội dung bài thực tập chỉ chỉ thu được mẫu và định loại bướm ngày. Mẫu
thu được gồm các họ:
+ Họ Danaidae : đốm trên cánh màu trắng hoặc trong suốt.
+Họ Pieridae ( Họ Bướm cải ): Màu trắng hoặc vàng.
+ Họ Nymphalidae ( Họ Bướm đất): Là họ phổ biến nhất ở Việt Nam, thu
được nhiều mẫu nhất.
+Họ Lycaenidae ( Họ Bướm cỏ )
+Họ Papilionidae ( Họ Bướm phượng )
+Họ Satyridae ( Bướm mắt rắn )
+Họ Amathussiidae
-Vành cánh nhẵn, kích thước lớn.
I. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
- Đoàn thực tập đã thu được nhiều mẫu cả về số lượng loài và số lượng cá thể, kết hợp
với phân tích các tài liệu và các nghiên cứu liên quan, từ đó cho thấy sự đa dạng và phong phú
của nhóm côn trùng ở cạn trong tuyến điều tra ở VQG Tam Đảo.
- Do điều kiện thời tiết không được thuận lợi : Ảnh hưởng của cơn bão số 2 tại khu vực
Biển Đông nên thời tiết tại Tam Đảo mưa nhiều, gió lớn, sương mù dày đặc nên côn trùng
hoạt động không nhiều.
- So với các năm trước thì kết quả cũng cho thấy rằng số lượng loài và số lượng cá thể
của các loài cũng giảm mạnh do những hoạt động của con người đã nói ỏ trên làm giảm và
mất môi trường sống thuận lợi của côn trùng. Đồng thời những hoạt động bắt côn trùng quý
hiếm để kinh doanh tại khu vực này cũng đang đe dọa tới những loài quý hiếm. Chúng ta cần
có những biện pháp hạn chế những tình trạng trên để khôi phục lại sự đa dạng và phong phú
của nhóm côn trùng ở cạn nơi đây.


Bài 2: ĐỘNG VẬT KHÔNG XƯƠNG SỐNG Ở NƯỚC


Ngày 25 tháng 06 năm 2011
GVHD : TS. Trần Anh Đức

I. Giới thiệu chung
- Động vật không xương sống ở nước đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái đặc
biệt là trong các thủy vực. Thức ăn của động vật không xương sống ở nước là các thực vật nổi
trong thủy vực, cũng có một số loài ăn thịt, đồng thời chúng là thức ăn cho các loài cá và các
loài động vật khác, do đó động vật không xương sống ở nước là một mắt xích không thể thiếu
trong lưới thức ăn, đồng thời nhóm động vật này cũng góp phần duy trì cân bằng sinh học và
đa dạng sinh học.
- Mục đích của nghiên cứu: để định tính và định lượng các loài thủy sinh vật trong
các thủy vực nước đứng và nước chảy ở Tam Đảo.
II.Điều kiện tự nhiên của khu vực nghiên cứu
Điều tra được tiến hành trên dòng suối
1. Thời gian tiến hành:
Ngày 25 tháng 06 năm 2011 từ 8h – 11h.
2. Điều kiện tự nhiên của khu vực nghiên cứu:
- Vị trí địa lý :Dọc theo đoạn suối trong một nhánh của suối Thác Bạc thuộc VQG
Tam Đảo.
- Địa hình : Suối có độ dốc lớn, nước chảy mạnh, nền đá và sỏi, mức độ chiếu sáng
tốt, xung quanh là các vườn rau Su Su do người dân địa phương trồng.
- Thời tiết : Sáng, trời mưa to, sương mù dày đặc, gió mạnh
- Có hai loại thủy vực chính là thủy vực nước đứng và thủy vực nước chảy. Khi tiến
hành nghiên cứu thủy vực trên Tam Đảo, chủ yếu là các thủy vực nước chảy mà gặp nhiều
nhất là các con suối. Nơi tiến hành thu mẫu chủ yếu là các con suối, phần giữa nguồn : Lòng
suối mở rộng, cấu trúc nền đáy chủ yếu là cát, đá sỏi, đá cuội…Vận tốc nước chảy giảm hơn ở
đầu nguồn, độ sâu của suối tăng lên, hàm lượng oxy hòa tan giảm, các chất hữu cơ ở đầu
nguồn dồn xuống cung cấp thức ăn cho động vật, hai bên bờ có các loại cây trồng hay các loại
thực vật thủy sinh.
3. Hoạt động khai thác của con người :

Chủ yếu là các hoạt động du lịch, hoạt động đánh bắt và khai thác của người dân thị trấn.
III.Phương pháp thu mẫu và các dụng cụ thu mẫu
1. Phương pháp thu mẫu: Có thể chia ra làm hai loại là : Phương pháp định tính và
Phương pháp định lượng.
- Để thu thập vật mẫu sinh vật nổi, người ta có thể dùng nhiều phương pháp và thiết
bị : lưới vớt, bình lắng, bơm hút, Ba-lo-mút, màng lọc…
- Phương pháp phổ biến hơn cả là dùng lưới vớt, được sử dụng cho cả nghiên cứu
định tính và định lượng. Lưới vớt sinh vật nổi về cơ bản theo kiểu lưới Hensen và Apstein
phát minh từ thế kỉ trước nhưng đến hiện nay đã được cải tiến đi rất nhiều. Điều quan trọng
của lưới vợt là kích thước và loại vải lưới được dùng. Mỗi loại vải lưới có lỗ mắt lưới với
kích thước nhất định, được dùng để thu thập một loại sinh vật nổi nhất định tùy theo kích
thước cơ thể chung của chúng, ví dụ : để thu thập sinh vật nổi nhỏ ( trùng bánh xe, động vật
nguyên sinh, tảo đơn bào ) người ta dùng vải lưới từ 64-77, sinh vật nổi cỡ trung bình vớt
bằng vải lưới số 43-55; sinh vật nổi bằng vải lưới số 15 – 22.
- Đối với các loại lưới định lượng (lưới kiểu Junday, Nansen, Apstein), kích thước
miệng lưới cần phải tính toán sẵn để có thể suy ra lượng nước đã chảy qua lưới trong thời
gian vớt. Nhiều khi người ta còn mắc các máy đặc biệt vào miệng lưới để đo tốc độ nước chảy
qua lưới.
- Để vớt sinh vật nổi ở các tầng nước khác nhau, ở dây kéo lưới còn được mắc thêm
một bộ khóa riêng để có thể chủ động đóng lưới lại khi lưới đã đi ra ngoài tầng nước nghiên
cứu. Để định lượng sinh vật nổi ở bề mặt nước, người ta có thể múc trực tiếp đem lọc qua
lưới, còn ở tầng nước sâu, người ta lấy nước bằng Ba-tơ-mút rồi lọc qua lưới.
- Để thu thập mẫu sinh vật đáy, người ta dùng các loại vớt : vợt cào, lưới vét đáy và
các loại gàu đáy định lượng.
- Vợt cào và lưới vớt đáy có nhiều kiểu khác nhau, thường dùng để thu thập vật mẫu
định tính ở ven bờ hay đáy thủy vực. Vật mẫu được vớt lên cùng với các vật khác(bùn, rác,
đá…) được rửa qua rây lọc với kích thước mắt rây rất khác nhau, tùy theo yêu cầu nghiên cứu
để chọn lựa vật mẫu cần thiết. Để định lượng sinh vật đáy, người ta dùng các loại gàu đáy
định lượng. Gàu đáy định lượng có nhiều loại nhưng đều hoạt động theo nguyên tắc chung là :
ngoạm lấy một khối chất đáy chứa một thể tích nhất định của nền đáy. Số lượng sinh vật đáy

có trong khối chất đáy đó sẽ là cơ sở để tính toán số lượng sinh vật đáy có trong thủy vực.
- Đối với các nhóm sinh vật khác nhau như sinh vật màng nước, sinh vật sống quanh
các cây thủy sinh thường dùng các loại vợt cào để thu nhặt.
- Tất cả các loại vật mẫu đã thu thập được sau khi đã cho vào các lọ đựng cần nhớ
phải ghi nhãn etiket và định hình bằng formalin 5-10% hoặc bằng cồn 90
0
trở lên.
- Song song với việc thu thập vật mẫu sinh vật, ta còn phải thu thập các dẫn liệu về
điều kiện thủy, lý, hóa học của thủy vực, pH được đo bằng máy đo pH hay bằng giấy đo, độ
sâu của thủy vực, độ trong của thủy vực đo bằng đĩa Sechi, nhiệt độ nước và không khí đo
bằng nhiệt kế, lấy mẫu nước để phân tích các chỉ tiêu hóa học của nước.
IV.Phương pháp phân tích mẫu vật
Vật mẫu sau khi thu thập sẽ được phân tích định tính và định lượng.
2. Phân tích định tính : Vật mẫu sẽ được xác định thành phần loài ( sử dụng các
khóa định loại ), thành phần sinh trưởng, sinh dục dựa theo các tài liệu phân loại học với các
nguyên tắc và phương pháp phân loại học thích hợp đối với từng nhóm sinh vật.
2. Phân tích định lượng : nhằm tìm hiểu đặc tính số lượng của khu hệ thủy sinh vật
trong thủy vực cần nghiên cứu. Phương pháp thường được dùng là : tính số lượng cá thể hay
khối lượng ( tươi, khô hay định hình ) của nhóm sinh vật nghiên cứu trong một đơn vị diện
tích (m2 hay ha) đối với sinh vật đáy hay thể tích đối với sinh vật nổi, rồi từ đó suy ra số
lượng thủy sinh vật trong toàn khu vực. Có khi người ta cần tính số lượng bằng đơn vị năng
lượng calo.
- Trong trường hợp phân tích sơ bộ, người ta thường dùng các khái niệm như độ gặp hay
tần số gặp. Căn cứ vào độ gặp hay tần số gặp người ta có thể xác định loài ưu thế, loài thứ yếu
trong thủy vực.
- Để xác định khối lượng của sinh vật ( sinh vật nổi, sinh vật đáy) người ta có thể dùng
nhiều phương pháp. Đối với sinh vật nổi thường dùng phương pháp đếm số cá thể hay tế bào
bằng phòng đếm rồi tính ra khối lượng dựa vào bảng tính trọng lượng chuẩn đã có sẵn ( trọng
lượng một cá thể ở một kích thước nhất định). Đối với các sinh vật đáy thường dùng phương
pháp cân trực tiếp.

V.Kết quả
Đã phân loại và xác định được thành phần loài của nhóm động vật không xương
sống ở nước tại khu vực gần suối Thác Bạc – Tam Đảo bao gồm các bộ cùng rất nhiều họ như
sau :
1. Bộ Decapoda
- Đặc điểm : Họ Potamidae (cua núi): giáp đầu ngực (mai) phẳng, không có 3 cạnh như
cua nhà. Có mang nhiều ấu trùng sán lá phổi.
2. Bộ Odonata
- Chủ yếu bắt được ấu trùng chuồn chuồn.
- Đặc điểm : Ấu trùng chuồn chuồn có mặt nạ che mặt là hàm dưới biến đổi
thành. Được chia làm hai bộ chính là ấu trùng chuồn chuồn ngô và ấu trùng chuồn chuồn kim
phân biệt với nhau bởi các đặc điểm các gai đuôi ( các lá mang – cơ quan hô hấp nhỏ ở ấu
trùng chuồn chuồn ngô và lớn ở ấu trùng chuồn chuồn kim.
Ấu trùng chuồn chuồn ngô;
+ Họ Aeshmidae cuối bụng không có lá mang, mặt nạ dẹt, trung bình; râu
có các đốt và không có lông, sống ở cạn và dưới nước.
+ Họ Macromiidae : không có lá mang đuôi, mặt nạ dạng thìa, nhưng thùy
bên không có răng; đầu có gai, hướng về phía trước, chân rất dài.
Ấu trùng chuồn chuồn kim:
+ Họ Calopterigidae ; râu đốt nhưng đốt ngực rất dài
Họ Amphipterygidae ; cả chiều dài mang đuôi đều phồng.
3.Bộ Hemiptera
- Đặc điểm : phần phụ miệng có dạng chích, hút.
Họ Notonectidae ( bọ xít nước ) : có vòi dài, phân đốt,râu ẩn, chân sau dẹp
và không có vuốt, vòi miệng dạng chích, hút,ăn cá, bọ gậy. Bơi ngửa trong nước với cặp
chân cuối dài ra và có lông làm chức năng như mái chèo. Đời sống biến thái không hoàn toàn
( Trứng - Ấu trùng – Dạng trưởng thành ) trong đó dạng ấu trùng và dạng trưởng thành gần
giống nhau chỉ phân biệt với nhau ở đặc điểm thiếu trùng có mầm cánh ngắn và dạng trưởng
thành có khả năng bay. Đã được ứng dụng trong diệt côn trùng.
Họ Gerridae ( gọng vó râu dài, sống trên mặt nước, chân dài hơn cơ thể. Đôi

chân thứ hai dài gấp 1,5 lần tổng chiều dài của thân và đầu, đốt đùi chân sau vượt quá cuối
bụng. Có khả năng đi được trên nước do ở đốt ngón chân cuối cùng có rất nhiều lông nhỏ. Ở
VN có khoảng 80 loài.
4. Bộ Ephmeroptera
+ Họ Ecdyonuridae : Cơ thể dẹp trên – dưới, đầu dạng bán nguyệt. Chân trước có
đốt đùi rộng chìa ra vuông góc với phần ngực. Mang ở dạng phiến có búi tơ mỏng ở gốc chân.
Phổ biến ở suối nước chảy.
+ Họ Bactidae : Râu dài gấp 2-3 lần chiều rộng đầu, phần bụng có 2 hoặc 3 đuôi phát
triển.
5.Bộ Trichoptera
- Đặc điểm : là bộ nhiều loài nhất trong nước. Chia thành hai nhóm: nhóm sống tự do
(ở nơi nước chảy) và nhóm có tổ.
+ Họ Hydropsychidae : Ấu trùng lớn hơn và phần bụng có mang.
6. Bộ Diptera
+ Họ Chironomidae : cơ thể nhỏ, thon, dài, có những sợi lông nhỏ, màu đỏ, ăn mùn
bã hữu cơ, là sinh vật chỉ thị nước bẩn, có tác dụng làm sạch môi trường. Trong những năm
trước họ này có số lượng rất ít ở Tam Đảo nhưng hiện nay số lượng họ này càng ngày càng
nhiều hơn.
+ Họ Simuliidae :
II. Kết luận và kiến nghị
Do thời gian nghiên cứu còn hạn chế, điều kiện thời tiết không cho phép (mưa to, trời
nhiều sương mù, gió mạnh, nhiệt độ không cao), kĩ thuật sử dụng các phương pháp nghiên
cứu và thu mẫu chưa tốt nên mẫu thu được không nhiều nên chỉ có thể định loại được một số
lớp.
Có thể thấy rằng, khu vực khảo sát có mức độ đa dạng tương đối cao. Trong đó, nhóm
côn trùng ở nước chiếm số lượng cá thể, số lượng loài cao nhất. Thành phần nhóm động vật
không xương sống ở nước tại Tam Đảo rất đa dạng cả về thành phần loài và số lượng cá thể
của loài trong đó phổ biến nhất là bộ Odonata, bộ Trichoptera, và bộ Diptera.
Ở mỗi khu vực sinh cảnh lại có thành phần nhóm động vật không xương sống khác
nhau như chia ra khu vực nước đứng, khu vực nước chảy, khu vực núi cao… thể hiện sự thích

nghi lâu dài và đa dạng giữa nhóm động vật không xương sống và điều kiện sinh cảnh.
Tuy nhiên những năm gần đây các nhóm động vật không xương sống ở nước tại Tam
Đảo cũng bị suy giảm do sự tác động bởi hoạt động của con người.



BÀI 3 : THỰC VẬT BẬC CAO
Ngày 26 tháng 06 năm 2011
GVHD : Ths. Nguyễn Thị Kim Thanh
CN. Hồ Thị Tuyết Sương

I. Giới thiệu chung

- Thực vật bậc cao là nhóm thực vật chiếm ưu thế trong giới thực vật, đóng vai trò
quan trọng trong hệ sinh thái do nhiều đặc điểm thích nghi mang tính nổi trội của chúng.
Chúng đóng vai trò qua trọng trong quá trình hình thành lớp thảm thực vật trên trái đất, tham
gia đắc lực vào chu trình tuần hoàn vật chất và đồng thời có vai trò quan trọng trong nền kinh
tế quốc dân, quyết định sự tồn tại và phát triển của thế giới động vật nhất là con người. Do đó,
nghiên cứu về thực vật bậc cao nói riêng và thực vật nói chung giúp con người có những
hoạch định cụ thể và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thực vật phục vụ phát triển bền vững.
- Mục đích, yêu cầu:
+ Củng cố lại kiến thức đã học về thực vật bậc cao, nâng thêm hiểu biết về thực vật bậc
cao gắn với thực tế.
+ Học cách nhận biết loài trong tự nhiên, phân biệt các họ, các ngành.
II. Điều tra tự nhiên của khu vực nghiên cứu

Điều tra được tiến hành xung quanh thị trấn Tam Đảo, theo lộ trình tăng dần
chiều cao, lên gần tới tháp truyền hình.
1. Thời gian tiến hành
Ngày 26 tháng 06 năm 2011 từ 8h30 - 11h30.

2. Điều kiện tự nhiên của khu vực nghiên cứu
- Vị trí địa lý : Dọc theo đường thị trấn Tam Đảo lên gần tới tháp truyền hình.
- Thời tiết : trời nắng, mát
- Sự đa dạng về thực vật bậc cao ở Tam Đảo
+Ngành Rêu : 44 họ, 86 chi, 197 loài
+Ngành Thông đất : 2 họ, 4 chi, 13 loài.
+Ngành Cỏ tháp bút : 1 họ, 1 chi, 1 loài
+Ngành Dương xỉ : 22 họ, 31 chi, 59 loài
+Ngành Thông : 8 họ, 11 chi, 17 loài.
+ Ngành Ngọc lan : 142 họ, 608 chi, 1149 loài.
- Các họ ưu thế ở Tam Đảo :
+ Họ Phong lan : có số lượng loài lớn nhất ( thống kê được 75 loài)
+Họ Thầu dầu Euphorbiaceae
+Họ Đậu Fabaceae
+Họ Cúc Asteriaceae : 45 loài
+Họ Dâu tằm Moraceae : 40 loài, có chi Apacus chiếm phần lớn (ví dụ như cây Đa, cây
Si…)
+Họ Cà phê Rubiacaceae : 29 loài
+ Họ Dẻ Fagaceae
+ Họ Đỗ quyên Ericaceae
- Các thực vật tập hợp lại thành thảm thực vật. Các thảm thực vật phân bố theo độ
cao.
- Từ chân núi lên có các kiểu thảm như sau:
+ Rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiêt đới với độ cao 400m đến 800m. Đặc trưng : Họ
Thầu dầu nhiều hoặc họ Đậu, họ Dẻ nằm rải rác.
+ Rừng kín thường xanh á nhiêt đới : từ 800m đến 1300m. Có họ Chò, Bầu, Chè, Long
não và một số thực vật khác. Bắt đầu xuất hiện cây hạt trần xen kẽ vào cây hạt kín như Pơ mu,
Kim giao, Bông
+ Rừng sạch ( Tre, nứa): ví dụ rừng Sặt
+Rừng cây lùn : do ở trên núi cao nên chỉ cao 4-5m, chủ yếu là Đỗ quyên. Khí hậu ẩm

quanh năm nên Rêu Phát triển mạnh.
+ Rừng cây bụi : ví dụ Sim , Mua
+ Rừng cỏ : cỏ Tranh, Mần trầu…
+ Rừng trồng : rừng Lim, Bạch Đàn (lá liễu, lá tranh), Keo…
3. Hoạt động khai thác của con người
Có nhiều hoạt động khai thác như sử dụng cây lấy gỗ, sử dụng cây lấy thuốc : 428 loài
được dùng làm thuốc, cây ăn quả : chủ yếu do con người trồng và chăm sóc: trám, dưa,
mít cây lấy sợi : 128 loài, cây lấy tinh dầu, rau quả, cây cảnh
III. Các phương pháp thu mẫu nghiên cứu :

1. Dụng cụ :
- Kéo cắt cây để lấy mẫu cây từ cành cây con
- Dao nhọn để đào rễ hoặc thân ngầm trong trường hợp cây thân cỏ.
- Cặp đựng cây cỏ dây leo.
- Nhãn mẫu cây có sâu một vòng chỉ 10cm để buộc vào mẫu thu được.
- Bút chì, sổ lý lịch cây mẫu.
2. Kĩ thuật thu mẫu
- Lựa chọn mẫu
Các mẫu đặc trưng cho quần xã : phải lấy đầy đủ các cơ quan đặc biệt là cơ quan sinh
sản. Mỗi loại lấy 5-10 mẫu tùy thuộc vào điều kiện cho phép.
- Thu mẫu
Cắt một đoạn mẫu sao cho đặt gọn trong tờ báo gấp tư ( đối với cây to thì cắt ở nhiều
phần khác nhau hoặc cả cây đối với cây nhỏ). Cho vào các túi đựng nilon hoặc tải rứa. Cố
định mẫu ngay trong ngày bằng cồn.
- Ghi Etiket
+ Địa điểm thu mẫu
+ Người thu mẫu, nhóm thu mẫu
+ Số hiệu mẫu
+ Ngày tháng thu mẫu
- Ghi lí lịch mẫu: Ghi tất cả các thông tin về đặc điểm và công dụng của mẫu

vào nhật kí thực tập.

IV. Kết quả
V.Kết luận và kiến nghị
Do quy định của VQG nên không tiến hành thu mẫu và xử lý mẫu mà chỉ tiến hành
định loại tại chỗ. Qua quá trình nghiên cứu thực địa đã thu được 15 họ thuộc các ngành khác
nhau. Tuy nhiên điều đó chưa thể hiện rõ tòn bộ sự đa dạng của hệ thống thực vật do phạm vi
nghiên cứu nằm trong khu vực xung quanh có hoạt động của con người : hoạt động du lịch,
xây khách sạn, làm nhà ở, phá núi làm đường. Do vậy, khu hệ thực vật nơi đây đã bị tàn phá
nhiều, đa dạng loài bị giảm và có nhiều cay trồng khác đã được trồng rộng rãi trong đó, điển
hình là cây su su
Hoạt động buôn bán thuốc và dược liệu quý tại một số khu chợ cũng góp phần làm
suy giảm nguồn tài nguyên thực vật nơi đây. Chúng ta cần có những chính sách phù hợp để
bảo vệ và khôi phục sự phong phú thành phần loài của hệ thực vật bậc cao và cần có biện
pháp để phát triển du lịch sinh thái bền vững cũng như phát huy tiềm năng thiên nhiên giàu
đẹp của Tam Đảo.
BÀI 4 : NẤM VÀ TẢO

Ngày 27 tháng 06 năm 2011
GVHD : TS. Nguyễn Thùy Liên
I. Giới thiệu chung
- Nấm là các cơ thể có nhân thật, không có sắc tố quang hợp, dinh dưỡng kiểu hấp
thụ ( phân giải chất dinh dưỡng từ bên ngoài cơ thể, sau đó chỉ hấp thụ những chất cần thiết),
có sinh sản hữu tính và không có khả năng cố định nito phân tử. Do đó, Nấm là một sinh vật
phân giải quan trọng trong hệ sinh thái, góp phần quan trọng trong vòng tuần hoàn vật chất
trên trái đất.
- Tảo là nhóm thực vật bậc thấp có cấu tạo cơ thể rất đơn giản chưa phân hóa
thành thân, rễ lá có kả năng quang hợp do có chứa sắc tố quang hợp. Hầu hết Tảo có đơi sống
ở nước, rất ít loài sống trên cạn nhưng thường đòi hỏi độ ẩm cao. Tảo tuy có cấu tạo cơ thể
đơn giản, nhỏ bé nhưng cung cấp cho hệ sinh thái một lượng sinh khối rất lớn.

- Với những ý nghĩa như vậy, lĩnh vực nghiên cứu về Tảo và Nấm có vai trò rất
quan trọng trong việc duy trì và phát triển bền vững hệ sinh thái nói chung và trong đời sống
con người nói riêng.
- Mục đích :
+ Củng cố lại kiến thức về Nấm và Tảo đã được học trong phần lý thuyết.
+ Nắm được phương pháp điều tra, xử lý mẫu ngoài thiên nhiên
+ Nhận dạng được một số loài Nấm và Tảo ngoài thiên nhiên
+ Bước dầu biết sử dụng khóa định loại.
- Yêu cầu
+ Nhận dạng được một số tảo, nấm, thấy được mối liên quan giữa sinh vật và môi
trường, trên cơ sở đó phán đoán nơi sống của nhóm sinh vật này ở môi trường tự nhiên
+ Bước đầu biết sử dụng khóa định loại các bậc taxon
+ Qua đợt thực tập, giúp tăng thêm lòng yêu thiên nhiên và thấy được nhóm Nấm và Tảo
là một trong những tài nguyên thiên nhiên của đất nước, do đó cần có ý thức bảo vệ.
II. Thời gian, địa điểm và trang bị dụng cụ thực tập
1. Thời gian : 8h30 - 11h30
2. Địa điểm : + Một đoạn của suối Thác Bạc - VQG Tam Đảo
+ Xung quanh thị trấn Tam Đảo, đi qua đền Mẫu
3. Trang thiết bị, dụng cụ
3.1. Đối với Nấm :
- Túi đựng mẫu, dao nhọn, lưỡi dao cạo, giấy báo, túi polyethylen.
- Giấy và tất đi rừng để chống vắt, etiket có ghi các mục sau :
+ Thời gian thu mẫu (ngày), tên địa phương, tên khoa học (nếu có thể , địa điểm
người thu mẫu và tên người thu mẫu.
+ Sổ ghi chép
+ Bút chì, không dùng bút mực hay bút bi và rất dễ bị mất màu mực khi ta ngâm mẫu
có kèm etiket vào dung dịch cồn.
3.2. Đối với mẫu Tảo :
- Lưới thu mẫu Tảo phù du
- Lọ 100ml để đựng mẫu

- Dao nhọn và cứng để tách được Tảo bám trên đá.
- Dung dịch cồn để cố định và bảo quản mẫu.
- Bút chì và etiket
- Túi nilon để đựng mẫu và các dụng cụ trên.
- Kính hiển vi và các dụng cụ : Lam, lamen, panh, kim mũi mác… để xử lý mẫu thu
được.
III. Một số đặc điểm sinh cảnh sống của Nấm và Tảo
• Savan, rừng núi đá vôi là những nơi có độ ẩm thâp, giá thể nghèo nàn, khu hệ Nấm ở
đây kém phát triển. Vì vậy, ta sẽ chọn một số sinh cảnh sau để nghiên cứu Nấm:
- Sinh cảnh rừng nhiều thuận lợi : độ ẩm cao, ánh sáng khuêchs tán, giá thể phong
phú ( cành cây, cây gỗ bị đổ, thảm lá mục, đất mùn…)
- Sinh cảnh làng bản : các khu đất vườn, đất quanh bờ ao, hàng rào bằng tre, nứa,
đống rơm rạ đã loại mục, đất ven đường…
- Sinh cảnh ngoài đồng : các giá thể ở đây như tre, gỗ, nứa thường ít, độ ẩm thấp,
mặt trời chiếu sáng trực tiếp. Do đó, khu hệ Nấm ở dây nghèo nàn hơn trong làng bản.
• Quan sát ở các thủy vực nước ngọt : tính đa dạng sinh vật ở các thủy vực khác nhau là
rất khác nhau nhưng môi trường sống của các loại Tảo ở mỗi vùng còn đa dạng hơn nhiều vì
chúng có thể sống trên cạn, ở những nơi có độ ẩm cao. Kích thước của các môi trường nước
có Tảo phát triển cũng rất đa dạng, từ một vũng nước nhỏ đến đại dương bao la. Đặc biệt là
các môi trường sống trên cạn có độ ẩm ướt cao, như sân giêngs, nơi có vòi nước, khu vực vệ
sinh công cộng, nơi thường xuyên có nước đổ ra, tường nhà, thân cây, tảng đá nơi ẩm thấp bờ
suối, vách đá gần thác nước hay vùng núi cao thường xuyên có mây mù.
IV. Phương pháp thu mẫu
1.Đối với mẫu Nấm :
Trên đường đi cần chú ý quan sát, thấy mẫu cần thu, phải thu hái ngay. Không
bao giờ nghĩ khi về mới thu. Bởi vì thực tế cho thấy, đường rừng không chỉ có một, do đó, ít
khi về đường cũ. Nếu có về đường cũ thì cũng dễ quên vị trí chính xác cần thu mẫu.
Trên đường đi, nếu chúng ta quan sát thấy những hiện tượng lạ của sinh vật và
môi trường, những đặc điểm dễ mất của Nấm ( như màu sắc ) cần ghi ngay một cách ngắn gọn
vào sổ tay, không được ỷ lại vào trí nhớ.

- Phương pháp thu mẫu Nấm chất thịt : Nên thu mẫu là lúc sáng sớm, dùng dao lấy
cả phần chân nấm ăn vào trong giá thể, tuyệt đối không dùng tay bẻ hoặc cầm cuống rút lên.
Mẫu được để trong giấy báo gói hình loa kèn.
- Nấm chất bì dai, chất gỗ : dùng dao lấy cả phần giá thể gỗ hoặc vỏ gỗ, gói trong
giấy báo.
2. Đối với Tảo
* Tảo phù du : dùng vợt vớt lấy Tảo ( lọc nước nhiều lần), cho vào lọ.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×