Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động Môi giới chứng khoán tại Công ty cổ phần chứng khoán VNDirect

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.11 MB, 82 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 20/07/2000, thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức ra đời và
được đánh dấu bằng việc đưa vào vận hành Trung tâm giao dịch chứng khoán
TP.Hồ Chí Minh với phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000. Trong hơn một
thập kỷ qua, mặc dù chịu tác động bởi hai cuộc khủng hoảng tài chính lớn ở khu
vực và thế giới nhưng thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn phát triển mạnh mẽ và
ngày càng khẳng định vai trò của mình đối với nền kinh tế thông qua khả năng huy
động các nguồn vốn trung và dài hạn từ mọi thành phần trong và ngoài nước để
phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Một nền kinh tế hội nhập toàn cầu, các
kênh đầu tư ngày càng hấp dẫn, đặc biệt là sự phát triển của thị trường chứng
khoán, Việt Nam đã và đang trở thành điểm sáng trong khu vực Đông Nam Á, thu
hút được rất nhiều sự quan tâm của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Từ đó, đòi
hỏi thị trường Việt Nam phải phát triển các tổ chức tài chính có vai trò trung gian
nhằm nghiên cứu, tìm kiếm, phân tích, nắm bắt các nhu cầu đầu tư, làm cầu nối
giúp nguồn vốn các nhà đầu tư đến được đúng các đối tượng phù hợp với yêu cầu
của các nhà đầu tư.
Trong suốt hơn 10 năm tồn tại và phát triển, các công ty chứng khoán luôn
đóng một vai trò quan trọng trong thị trường chứng khoán nói riêng và nền kinh tế
Việt Nam nói chung. Hoạt động của các công ty chứng khoán đã giúp cho thị
trường chứng khoán vận hành trơn tru, thông suốt, đồng thời góp phần thúc đẩy sự
bùng nổ của thị trường. Trong số các nghiệp vụ chủ yếu của Công ty chứng khoán,
hoạt động Môi giới chứng khoán thường là hoạt động mạnh nhất, mang lại nhiều lợi
ích cho công ty, và góp phần đem lại sức hấp dẫn, sự phát triển cho thị trường
chứng khoán nói chung. Tuy nhiên, hoạt động môi giới cũng là một hoạt động khá
phức tạp, đòi hỏi phải có sự đầu tư đúng mức và phải am hiểu tường tận về đặc
điểm, chức năng của hoạt động Môi giới chứng khoán.
Xuất phát từ thực tế đó, cùng với khoảng thời gian được thực tập và nghiên
cứu tại phòng Môi giới chứng khoán thuộc Công ty cổ phần chứng khoán
1
VNDirect, em đã chọn đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động Môi giới


chứng khoán tại Công ty cổ phần chứng khoán VNDirect” làm đề tài khóa luận
của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài được thực hiện nhằm mục đích: (i) Hệ thống các vấn đề lý thuyết về
CTCK và hoạt động môi giới chứng khoán của CTCK; (ii) Phân tích thực trạng hoạt
động môi giới chứng khoán của CTCK VNDirect, qua đó tìm ra những điểm mạnh,
điểm yếu, cơ hội và khó khăn ảnh hưởng tới hoạt động môi giới của công ty; (iii)
Đưa ra một số giải pháp, và kiến nghị để phát triển hoạt động môi giới của CTCK
VNDirect.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động Môi giới chứng khoán của Công ty
chứng khoán VNDirect.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là hoạt động Môi giới chứng khoán của Công ty
chứng khoán VNDirect trong giai đoạn từ năm 2007 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Từ mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, đề tài sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp thống kê, phương pháp so sánh đối
chiếu, phương pháp tổng hợp, phân tích…
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, mục lục, danh mục bảng biểu, tài liệu tham khảo, đề tài
có bố cục như sau:
Chương 1: Lý luận chung về hiệu quả hoạt động môi giới chứng khoán của
Công ty chứng khoán
Chương 2: Thực trạng hiệu quả hoạt động môi giới chứng khoán tại Công ty
chứng khoán VNDirect
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới chứng khoán
tại Công ty chứng khoán VNDirect
2
Để có được thành quả trên, em xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Kiều Hữu
Thiện, người đã trực tiếp hướng dẫn em trong suốt thời gian thực hiện đề tài, các

thầy cô giáo trong Khoa Tài chính đã cung cấp cho em những kiến thức bổ ích
trong suốt thời gian học tập. Đồng thời, em cũng xin chân thành cảm ơn các anh chị
phòng Môi giới 2 thuộc Công ty chứng khoán VNDirect đã tạo điều kiện thuận lợi
cho em tiếp xúc với môi trường làm việc thực tế và góp ý để em có thể hoàn thiện
tốt hơn bài Khóa luận của mình.
Do khuôn khổ thời gian có hạn, kiến thức còn nhiều hạn chế nên Khóa luận
của em chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được
sự góp ý của toàn thể các thầy cô giáo và các bạn để khóa luận của em có thể hoàn
thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
3
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
MÔI GIỚI CHỨNG KHOÁN CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1. Khái quát chung về công ty chứng khoán
1.1.1. Khái niệm Công ty chứng khoán
Thị trường chứng khoán được xem là đặc trưng cơ bản, là biểu tượng của
nền kinh tế hiện đại. Với những chức năng cơ bản như: huy động vốn đầu tư cho
nền kinh tế, cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng, tạo tính thanh khoản cho
các chứng khoán, đánh giá hoạt động của doanh nghiệp, tạo môi trường giúp Chính
phủ thực hiện các chính sách vĩ mô, mà người ta có thể đo lường và dự tính sự phát
triển kinh tế qua diễn biến trên Thị trường chứng khoán (TTCK). Bởi vậy, hầu hết
mọi nơi trên thế giới, các hình thức đầu tư chứng khoán là một chủ đề được nhiều
người quan tâm. Và cách tiếp cận TTCK dễ dàng nhất là thông qua các công ty
chứng khoán (CTCK). Có thể đưa ra định nghĩa về CTCK theo cách sau:
Công ty chứng khoán là một định chế tài chính trung gian, được thành lập
hợp pháp để thực hiện các hoạt động kinh doanh và dịch vụ chứng khoán gồm: môi
giới chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh
phát hành chứng khoán và một số nghiệp vụ hỗ trợ khác
CTCK có ba loại hình tổ chức cơ bản, đó là: công ty hợp danh, công ty trách

nhiệm hữu hạn (TNHH), công ty cổ phần (CTCP). Xuất phát từ đặc điểm và quy
định theo pháp luật của từng loại hình tổ chức, mà các loại hình CTCP và công ty
TNHH có nhiều ưu điểm hơn so với công ty hợp danh.
Ví dụ rõ nhất là khả năng huy động vốn. Theo Luật Doanh nghiệp số
60/2005/QH11 ban hành ngày 29/11/2005: Điều 130, đối với loại hình công ty
hợp danh, “công ty hợp danh không được phép phát hành bất kỳ loại chứng khoán
nào”. Trong khi đó, Điều 38, đối với loại hình công ty TNHH, “công ty TNHH
không được quyền phát hành cổ phần”; và Điều 77, đối với loại hình CTCP, “công
ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn”. Do có
4
những ưu điểm đó, mà hiện nay chủ yếu các CTCK được tổ chức dưới hai hình thức
là công ty TNHH và CTCP.
1.1.2. Vai trò của Công ty chứng khoán
Các CTCK là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói
chung và của thị trường chứng khoán nói riêng. Thông qua CTCK mà chứng khoán
được lưu thông từ nhà phát hành tới các nhà đầu tư và có tính thanh khoản, qua đó,
một lượng vốn khổng lồ được đưa vào đầu tư từ việc tập hợp những nguồn vốn lẻ
tẻ, nhàn rỗi trong công chúng.
1.1.2.1. Vai trò làm cầu nối giữa cung – cầu chứng khoán
CTCK là một định chế tài chính trung gian tham gia hầu hết vào quá trình
luân chuyển của chứng khoán: từ khâu phát hành trên thị trường sơ cấp đến khâu
giao dịch mua bán trên thị trường thứ cấp.
 Trên thị trường sơ cấp: CTCK có vai trò huy động vốn
CTCK là cầu nối giữa nhà phát hành và nhà đầu tư, giúp các tổ chức phát
hành huy động vốn một cách nhanh chóng thông qua nghiệp vụ bão lãnh phát hành.
Một doanh nghiệp khi thực hiện huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán,
thường họ không tự bán chứng khoán của mình mà thông qua một tổ chức chuyên
nghiệp tư vấn và giúp họ phát hành chứng khoán. Đó là tổ chức trung gian tài chính
như ngân hàng, công ty chứng khoán…
CTCK với nghiệp vụ chuyên môn kinh nghiệm và bộ máy tổ chức thích hợp,

họ thực hiện tốt vai trò trung gian môi giới mua bán, phát hành chứng khoán, tư vấn
đầu tư và thực hiện một số dịch vụ khác cho cả nhà đầu tư và nhà phát hành. Với
nghiệp vụ này, CTCK thực hiện vai trò làm cầu nối và kênh dẫn vốn từ nơi thừa đến
nơi thiếu.
 Trên thị trường thứ cấp: CTCK có vai trò tạo thanh khoản cho chứng khoán
CTCK là cầu nối giữa nhà đầu tư, là trung gian chuyển các khoản đầu tư
thành tiền và ngược lại. CTCK với nghiệp vụ môi giới, tư vấn đầu tư đảm nhận tốt
vai trò chuyển đổi này, giúp cho các nhà đầu tư giảm thiểu thiệt hại về giá trị khoản
đầu tư của mình, qua đó, tăng thanh khoản cho chứng khoán.
5
1.1.2.2. Vai trò cung cấp dịch vụ cho Thị trường chứng khoán
CTCK với các chức năng và nghiệp vụ của mình cung cấp các dịch vụ cần
thiết góp phần cho TTCK hoạt động ổn định, cụ thể:
 Thực hiện tư vấn đầu tư, góp phần giảm chi phí giao dịch cho nhà đầu tư
TTCK cũng tương tự như tất cả các thị trường khác, để tiến hành giao dịch,
người mua – người bán cần phải có cơ hội gặp nhau, thẩm định chất lượng hàng hóa
và thỏa thuận giá cả. Tuy nhiên, TTCK với những đặc trưng riêng của nó như người
mua, người bán có thể ở rất xa nhau, hàng hóa là “vô hình”, do đó để hai bên gặp
nhau thẩm định chất lượng, xác định giá cả thì phải mất khá nhiều thời gian, công
sức, tiền bạc cho một giao dịch để phục vụ cho việc thu thập, phân tích, xử lý thông
tin… CTCK với lợi thế chuyên môn hóa, trình độ, kinh nghiệm nghề nghiệp sẽ thực
hiện tốt vai trò tư vấn đầu tư, tìm kiếm đối tác và làm trung gian mua bán chứng
khoán, giúp các nhà đầu tư giảm được chi phí trong từng giao dịch
 Cung cấp cơ chế xác định giá cho các khoản đầu tư
CTCK thông qua Sở giao dịch và thị trường OTC cung cấp một cơ chế xác
định giá nhằm giúp các nhà đầu tư đánh giá đúng thực tế và chính xác các khoản
đầu tư của mình.
- Trên thị trường sơ cấp: khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng
khoán, các CTCK thực hiện vai trò tạo cơ chế giá chứng khoán thông qua việc xác
định và tư vấn cho các tổ chức phát hành mức giá phát hành hợp lý.

- Trên thị trường sơ cấp: tất cả các lệnh mua bán thông qua các CTCK được
tập trung tại thị trường giao dịch và trên cơ sở đó, giá chứng khoán được xác định
theo quy luật cung – cầu.
Ngoài ra, CTCK cũng cung cấp nhiều dịch vụ khác để hỗ trợ cho giao dịch
chứng khoán.
Tóm lại, CTCK là một tổ chức chuyên nghiệp trên TTCK, giữ vai trò quan
trọng và cần thiết đối với các nhà đầu tư, các nhà phát hành, với các cơ quan quản
lý thị trường và đối với TTCK nói chung. Những vai trò này được thể hiện thông
qua các nghiệp vụ hoạt động của CTCK.
6
1.1.3. Các nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của CTCK
Theo Điều 60 – Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11 ban hành ngày
12/07/2006, CTCK được thực hiện một, một số hoặc toàn bộ các nghiệp vụ kinh
doanh chính sau:
1.1.3.1. Nghiệp vụ Môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua – bán
chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Theo đó, CTCK đại diện cho
khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại Sở giao dịch chứng
khoán (SGDCK) và thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối
với kết quả giao dịch của mình.
Thông qua hoạt động môi giới, CTCK sẽ chuyển đến khách hàng các sản
phẩm, dịch vụ tư vấn đầu tư và kết nối giữa nhà đầu tư bán chứng khoán với nhà
đầu tư mua chứng khoán. Và trong những trường hợp nhất định, hoạt động môi giới
sẽ trở thành người bạn, người chia sẻ những lo âu, căng thẳng và đưa ra những lời
động viên kịp thời cho nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư có những quyết định tỉnh táo.
1.1.3.2. Nghiệp vụ Tự doanh chứng khoán
“Tự doanh là việc CTCK tự tiến hành các giao dịch mua, bán chứng khoán
cho chính mình”
1
. CTCK thực hiện nghiệp vụ tự doanh nhằm mục đích thu lợi

nhuận cho chính công ty thông qua hành vi mua, bán chứng khoán với khách hàng;
hoặc đôi khi nhằm mục đích can thiệp điều tiết giá trên thị trường. Chứng khoán tự
doanh có thể là chứng khoán niêm yết hoặc chưa niêm yết trên TTCK. Ngoài ra
công ty chứng khoán có thể tự doanh chứng khoán lô lẻ của khách hàng sau đó tập
hợp lại thành lô chẵn để giao dịch trên TTCK.
Khác với nghiệp vụ môi giới, trong hoạt động tự doanh, CTCK kinh doanh
bằng chính nguồn vốn của công ty. Vì vậy, CTCK đòi hỏi phải có nguồn vốn rất lớn
và đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn, khả năng phân tích và đưa ra các
quyết định đầu tư hợp lý, đặc biệt trong trường hợp đóng vai trò là các nhà tạo lập
thị trường.
1
Theo Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11 ban hành ngày 12/07/2006, Điều 6
7
Nghiệp vụ tự doanh hoạt động song hành với nghiệp vụ môi giới, vừa phục
vụ lệnh giao dịch cho khách hàng đồng thời cũng phục vụ cho chính mình, vì vậy
trong quá trình hoạt động có thể dẫn đến xung đột lợi ích giữa thực hiện giao dịch
cho khách hàng và cho bản thân công ty. Do đó, không chỉ luật pháp của các nước
trên thế giới, mà tại Việt Nam, luật pháp cũng yêu cầu phải có sự tách biệt rõ ràng
giữa hai nghiệp vụ này.
Hiện nay, hoạt động tự doanh được xem là một trong những hoạt động quan
trọng nhất của CTCK tại Việt Nam trong việc nâng cao lợi nhuận cho công ty.
1.1.3.3. Nghiệp vụ Bảo lãnh phát hành chứng khoán
Theo Điều 6 - Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11 thì “Bảo lãnh phát
hành chứng khoán là việc tổ chức bảo lãnh phát hành cam kết với tổ chức phát
hành (TCPH) thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, nhận mua một
phần hay toàn bộ chứng khoán của TCPH để bán lại hoặc mua một số chứng khoán
còn lại chưa được phân phối hết của TCPH hoặc hỗ trợ TCPH trong việc phân
phối chứng khoán ra công chúng”.
Như vậy, hoạt động bảo lãnh bao gồm:
- Nghiên cứu và tư vấn cho TCPH về các thủ tục và phương pháp phát hành,

cơ cấu giá…
- Thỏa thuận với các nhà bảo lãnh khác trong việc tiếp thị, phân phối và chào
bán chứng khoán.
- Quản lý phân phối và thanh toán chứng khoán.
- Thực hiện các công việc hỗ trợ cho thị trường và dịch vụ sau khi phát hành.
- Đại lý phân phối chứng khoán
1.1.3.4. Nghiệp vụ tư vấn tài chính và đầu tư chứng khoán
Theo Điều 3 – Nghị định 144/2003/NĐ-CP về Chứng khoán và thị
trường chứng khoán ban hành ngày 28/11/2003 có định nghĩa: “Tư vấn tài chính
và đầu tư chứng khoán là dịch vụ mà công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ
cung cấp cho khách hàng trong lĩnh vực đầu tư chứng khoán, tái cơ cấu tài chính,
8
chia, tách, sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp và hỗ trợ doanh nghiệp trong việc
phát hành và niêm yết chứng khoán”.
Theo Luật Chứng khoán năm 2006 người ta phân biệt nghiệp vụ tư vấn đầu
tư chứng khoán với nghiệp vụ tư vấn tài chính. Tại Điều 6 – Luật Chứng khoán số
70/2006/QH11 ban hành ngày 12/07/2006, nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán
được định nghĩa là “việc công ty chứng khoán cung cấp cho nhà đầu tư kết quả
phân tích, công bố báo cáo phân tích và khuyến nghị liên quan đến chứng khoán”.
Nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán chỉ được xét cấp phép cho CTCK. Ngoài ra,
CTCK được quyền cung cấp dịch vụ tư vấn tài chính và dịch vụ tài chính khác, bao
gồm tư vấn tái cơ cấu tài chính doanh nghiệp, thâu tóm, sáp nhập doanh nghiệp, tư
vấn quản trị công ty cổ phần; tư vấn chào bán, niêm yết chứng khoán; tư vấn cổ
phần hóa, xác định giá trị doanh nghiệp; tư vấn tài chính khác phù hợp với quy định
pháp luật.
1.1.3.5. Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư
Tại Điều 6 - Luật Chứng khoán 2006 có định nghĩa “Quản lý danh mục
đầu tư chứng khoán là việc công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán thực hiện quản
lý theo uỷ thác của từng nhà đầu tư trong mua, bán, nắm giữ chứng khoán”.
Nghiệp vụ này được thực hiện khi một số nhà đầu tư tổ chức hoặc cá nhân

muốn tham gia TTCK nhưng họ không có đủ điều kiện về thời gian hoặc kiến thức
chuyên môn để quyết định đầu tư, vì vậy họ uỷ thác cho CTCK đầu tư kèm theo
thỏa thuận lãi lỗ. Người uỷ thác đầu tư thường không can dự vào việc đầu tư của
CTCK và trả một khoản phí cho CTCK theo thỏa thuận.
Các CTCK khi thực hiện nghiệp vụ này, ngoài việc được hưởng phí quản lý,
họ còn có thể nhận được những khoản tiền phí nhất định khi mang lại lợi nhuận cao
cho nhà đầu tư.
Khi thực hiện quản lý danh mục đầu tư, CTCK phải quản lý tiền và chứng
khoán cho từng khách hàng uỷ thác và sử dụng tiền trong tài khoản theo đúng các
điều kiện quy định trong hợp đồng đã ký kết. Hợp đồng phải xác định rõ mức độ uỷ
quyền của khách hàng và phải chịu mọi rủi ro của hoạt động đầu tư. Và để đảm bảo
9
quyền lợi của khách hàng, định kỳ, CTCK phải gửi báo cáo giá trị các khoản đầu tư
theo giá thị trường tại thời điểm báo cáo cho khách hàng.
1.1.3.6. Các nghiệp vụ hỗ trợ khác
Nhìn chung, các nghiệp vụ hỗ trợ giao dịch nhằm mục đích tạo thuận lợi cho
nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư không bỏ lỡ các cơ hội đầu tư, nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn. Bao gồm:
- Hoạt động tín dụng (giao dịch mua bán chịu): Khi khách hàng có ý định mua
bán chứng khoán nhưng không có đủ tiền để thanh toán, CTCK sẽ mua bán chứng
khoán qua thị trường giao dịch mua bán chịu. Đứng trên quan điểm của khách hàng
thì đây là một giao dịch kỳ hạn, bao gồm: cấp tín dụng dạng tiền mặt khi khách
hàng mua chịu và dạng chứng khoán khi khách hàng bán chịu.
- Quỹ quản lý trái phiếu: sản phẩm của quỹ quản lý là trái phiếu công ty có
đảm bảo, trái phiếu giao dịch…
- Giao dịch trái phiếu theo hợp đồng chuộc lại trái phiếu: hợp đồng chuộc lại
trái phiếu từ vòng đầu tư tại một thời điểm trong tương lai sẽ được hai bên ký kết tại
thời điểm giao dịch hiện tại.
1.2. Hoạt động Môi giới chứng khoán (MGCK)
1.2.1. Tính tất yếu khách quan hình thành nghề môi giới chứng khoán

TTCK phát triển với các sản phẩm tài chính đa dạng, phong phú, đây là
những sản phẩm đặc biệt, không thể chỉ thẩm định chất lượng qua giác quan của
người đầu tư. Chất lượng của sản phẩm chịu ảnh hưởng của cả yếu tố vĩ mô – xu
hướng phát triển kinh tế trong và ngoài nước và yếu tố vi mô – đặc điểm riêng của
ngành và điều kiện cụ thể của từng Công ty tham gia TTCK. Vì vậy, việc đánh giá,
lựa chọn các sản phẩm tài chính, thời điểm mua, bán, kết hợp chúng thành danh
mục để theo đuổi chiến lược riêng là rất khó khăn, cần bỏ nhiều thời gian, công sức
và cần có hiểu biết nghiệp vụ và kinh nghiệm trên thương trường. Đó là chưa kể đến
việc sử dụng các thủ tục giao dịch, theo dõi tài khoản, sử dụng tài khoản, lệnh giao
dịch thích hợp cho từng thời điểm… Chính vì vậy, đòi hỏi phải có hoạt động môi
giới chứng khoán để giúp đỡ nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để nhà đầu tư tham
10
gia giao dịch trên TTCK, tiết kiệm được thời gian, công sức, tiền bạc, nâng cao hiệu
quả đầu tư; góp phần hoàn thiện và phát triển thị trường.
Mặt khác, TTCK là thể chế tài chính bậc cao của nền kinh tế thị trường. Một
trong những đặc trưng cơ bản là hoạt động theo nguyên tắc trung gian. Theo nguyên
tắc này, các giao dịch trên thị trường bắt buộc phải thực hiện qua các CTCK. Vì thế,
hoạt động môi giới chứng khoán được ra đời nhằm tìm kiếm, thu thập thông tin của
các nhà đầu tư; tạo môi trường bảo vệ, giúp đỡ nhà đầu tư lựa chọn sản phẩm đáp
ứng nhu cầu đa dạng, phù hợp với năng lực tài chính, mục tiêu tài chính, thời hạn
đầu tư và khả năng chấp nhận rủi ro của từng nhà đầu tư; thực hiện, hỗ trợ giao dịch
cho các nhà đầu tư khi tham gia thị trường. Qua đó, giúp cơ quan quản lý thị trường
kiểm soát, quản lý giao dịch, xử lý vi phạm, tạo điều kiện để TTCK hoạt động liên
tục, công bằng, công khai.
1.2.2. Khái niệm hoạt động môi giới chứng khoán của công ty chứng khoán
Hoạt động MGCK là một trong những hạt nhân của TTCK, đặc biệt TTCK
tập trung là dựa vào các hoạt động giao dịch được cấp phép giữa những người trung
gian làm nghề MGCK.
Theo Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11 ban hành ngày 12/07/2006:
“Môi giới chứng khoán là việc CTCK làm trung gian thực hiện mua, bán chứng

khoán cho khách hàng”.
Hoặc có thể định nghĩa cụ thể hơn, “Môi giới chứng khoán là một hoạt động
kinh doanh chứng khoán trong đó một CTCK đại diện cho khách hàng tiến hành
giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán hay thị trường
OTC mà chính khách hàng đó phải chịu trách nhiệm đối với kết quả kinh tế của
việc giao dịch đó”.
2
Để thực hiện nghiệp vụ môi giới, công ty chứng khoán phải mở tài khoản
giao dịch chứng khoán và tiền cho từng khách hàng trên cơ sở hợp đồng ký kết giữa
khách hàng và công ty. Khi quá trình mua bán được hoàn tất, chứng khoán và tiền
được chuyển dịch qua lại giữa các tài khoản của khách hàng. Khách hàng đưa ra
2
TS. Đào Lê Minh, Giáo trình những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán, UBCKNN,
trang 260
11
yêu cầu và quyết định, đồng thời chịu trách nhiệm đối với quyết định của mình, còn
CTCK chỉ đứng ra thực hiện dưới sự ủy quyền của khách hàng và thu phí giao dịch.
Do vậy, cũng có thể nói: hoạt động môi giới là hoạt động cơ bản và quan trọng nhất
của CTCK, là hoạt động mua bán hộ cho người khác thông qua việc thu phí giao
dịch.
1.2.3. Các hình thức Môi giới chứng khoán
Tùy theo quy định của mỗi quốc gia, cách thức hoạt động của từng Sở giao
dịch chứng khoán mà người ta có thể phân chia thành nhiều loại nhà môi giới khác
nhau như sau:
1.2.3.1. Phân loại theo loại dịch vụ cung cấp
Theo tiêu chí dịch vụ cung cấp, có thể phân loại môi giới thành Môi giới
toàn phần (Full – service) và Môi giới giảm giá (Discount – service).
3
Môi giới toàn phần (Full – service)
Là hình thức môi giới có thể cung cấp đầy đủ các dịch vụ có liên quan đến

chứng khoán cho khách hàng như: đại diện cho khách hàng để thương lượng mua
hoặc bán chứng khoán; thay mặt khách hàng giải quyết mọi vấn đề liên quan đến
chứng khoán của khách hàng; cung cấp một hệ thống dịch vụ hoàn hảo từ việc đưa
ra những kết quả nghiên cứu, phân tích, cho lời khuyên, đến việc theo dõi tài khoản
và kịp thời đưa ra những khuyến nghị cần thiết cho khách hàng. Tóm lại, với tư
cách là một cố vấn tài chính, nhà môi giới toàn phần có thể phục vụ nhà đầu tư với
nhiều ý tưởng tốt và sản phẩm tốt, giúp nhà đầu tư giải quyết các vấn đề của mình.
Môi giới giảm giá (Discount – service)
Là hình thức môi giới chỉ cung cấp một số ít dịch vụ, tùy theo sự ủy nhiệm
của khách hàng. Hoạt động chủ yếu của họ là giúp khách hàng thực hiện lệnh mua
và bán chứng khoán. Nhân viên môi giới giảm giá thích hợp với những nhà đầu tư
tự mình đưa ra các quyết định mua bán mà không muốn lời khuyên hay kết quả
nghiên cứu đầu tư của nhân viên môi giới. Tuy nhiên, với loại hình này, nhà đầu tư
3
TS. Trần Thị Thái Hà (2000), Một số vấn đề về hình thành và phát triển nghề Môi giới chứng khoán,
UBCKNN, trang 35.
12
dễ gặp rủi ro hơn so với loại hình môi giới toàn phần, nhưng phí hoa hồng môi giới
sẽ giảm giá thấp hơn phí môi giới toàn phần.
1.2.3.2. Phân loại theo hoạt động của nhà môi giới chứng khoán
Theo hoạt động của nhà môi giới, ta có thể phân loại thành bốn loại MGCK
như sau:
4
Nhà môi giới được ủy nhiệm hay thừa hành (Commission House Broker –
hay môi giới thông thường, môi giới giao dịch)
Hình thức môi giới này chỉ bao gồm các hoạt động mua, bán chứng khoán
hộ cho khách hàng và thu phí giao dịch với các nghiệp vụ mua bán chứng khoán
thông qua các thiết bị máy móc nhằm thiết lập sự tương tác giữa người mua – người
bán và giúp cho quá trình thực hiện giao dịch được hoàn tất. Các sản phẩm tài chính
chính thức nhằm cung cấp cho khách hàng đều được xuất phát và thông qua các

nhân viên môi giới thông thường. Đây có thể nói là lực lượng chủ đạo của hoạt
động môi giới, và là hình ảnh đại diện cho CTCK làm việc với khách hàng.
Nhân viên môi giới thông thường là thành viên của CTCK, làm việc và
hưởng lương của CTCK. Với các đặc điểm nghề nghiệp làm việc ở một môi trường
bậc cao đòi hỏi những nhân viên môi giới thông thường phải trang bị cho mình
những kỹ năng và đạo đức nghề nghiệp vững vàng, đồng thời phải quan tâm đến
việc thiết lập mối quan hệ bền chặt với khách hàng. Phương châm hành động của
nhà môi giới là “lấy lợi ích của khách hàng là lợi ích của công ty”. Đây sẽ là những
chuẩn mực cơ bản của một nhân viên MGCK.
Biểu đồ 1.1: Hoạt động môi giới thông thường
4
GS. Lê Văn Tư (2004), Thị trường chứng khoán, NXB Thống kê, trang 177.
13
(Nguồn: GS. Lê Văn Tư (2004), Thị trường chứng khoán, NXB Thống kê)
Nhà môi giới độc lập (hay môi giới 2 đôla - $2 dollar broker)
Nhà môi giới 2 đôla là thành viên của Sở giao dịch chứng khoán, nhưng là
một nhà môi giới độc lập, không thuộc về một công ty nào. Nhà môi giới 2 đôla có
thể sở hữu hoặc thuê chỗ cho mình, thực hiện các lệnh giao dịch cho bất kỳ công ty
thành viên nào của Sở giao dịch muốn thuê mình. Trong trường hợp một nhà môi
giới của một CTCK không có khả năng thực hiện các lệnh giao dịch của mình, hoặc
vắng mặt trong phòng giao dịch, người này có thể chuyển một số lệnh cho nhà môi
giới độc lập. CTCK sẽ trả cho nhà môi giới độc lập một khoản phí trên các dịch vụ
của anh ta. Trước đây, khoản phí trả cho nhà môi giới độc lập là 2 đôla cho 100 cổ
phiếu mua bán hộ CTCK (điều này nói lên nguồn gốc của tên Môi giới 2 đôla). Tuy
nhiên, hiện nay, khoản phí của các nhà môi giới độc lập thường lớn hơn 2 đôla.
Nhà giao dịch chứng khoán có đăng ký (Registered Floor Trader)
Đó là những người mua chỗ trên Sở giao dịch chứng khoán chỉ nhằm mục
đích mua bán chứng khoán cho chính bản thân họ mà không thuộc về bất cứ công ty
14
nào. Tuy nhiên, do sự gia tăng nguyên tắc và quy định nên hoạt động của họ bị hạn

chế nhiều. Ngày nay, các nhà giao dịch chứng khoán này hoặc hỗ trợ cho các nhà
môi giới chuyên môn với tư cách là những nhà tạo lập thị trường hoặc hoạt động
như nhà môi giới 2 đôla.
Người giao dịch có đăng ký thực hiện lệnh mua bán với tài khoản của chính
họ và tự gánh chịu mọi rủi ro. Họ ít khi thực hiện lệnh của khách hàng, nhưng nếu
nhận lệnh của khách hàng thì phải ưu tiên cho khách hàng trước.
Nhà môi giới chứng khoán chuyên môn (Specialist)
Mỗi chứng khoán niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán chỉ được mua bán
trên một vị trí nhất định trong phòng giao dịch, được gọi là “quầy”. Trong mỗi
quầy, có một số nhà môi giới được gọi là những nhà môi giới chuyên môn. Họ chịu
trách nhiệm mua bán một loại chứng khoán nhất định, đã được Hội đồng quản trị
của Sở giao dịch chứng khoán phân công. Những người tụ tập quanh các vị trí giao
dịch của chuyên gia được gọi là nhóm giao dịch (trading crowd).
Nhà môi giới chuyên môn thực hiện hai chức năng chủ yếu là thực hiện các
lệnh giao dịch và tạo thị trường.
Thông thường, nhà môi giới chuyên môn thực hiện các lệnh giao dịch theo
giá hạn mức. Khi đó, họ đóng vai trò là nhà môi giới chứng khoán và nhận được
khoản phí môi giới thông thường, hoặc tiền hoa hồng trên các dịch vụ mà họ cung
cấp.
Một chức năng khác mà nhà môi giới chuyên môn thực hiện là hỗ trợ việc
duy trì một thị trường ổn định đối với loại cổ phiếu mà anh ta được phân công bằng
cách mua bán cổ phiếu với tư cách một nhà giao dịch để thu hẹp chênh lệch giữa giá
mua và giá bán.
Hiện nay, ở Việt Nam, chỉ tồn tại một loại hình môi giới là môi giới thông
thường. Các nhà môi giới này trực thuộc CTCK và phải đáp ứng một số tiêu chuẩn
nhất định. Theo Điều 79 - Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11 ban hành ngày
12/07/2006, người môi giới trên TTCK Việt Nam phải có giấy phép hành nghề do
Chủ tịch Ủy ban chứng khoán Nhà nước cấp: “Chứng chỉ hành nghề kinh doanh
15
chứng khoán được cấp cho các cá nhân khi đáp ứng các điều kiện: có năng lực

hành vi dân sự đầy đủ; có trình độ đại học; có trình độ chuyên môn về chứng khoán
và thị trường chứng khoán; đạt yêu cầu trong kỳ thi sát hạch do Ủy ban chứng
khoán Nhà nước tổ chức”. Người hành nghề môi giới chứng khoán cũng phải đáp
ứng các tiêu chuẩn của một nhân viên hành nghề chứng khoán nói chung. Đó là
không được: “Đồng thời làm việc cho tổ chức khác có quan hệ sở hữu với CTCK,
công ty quản lý quỹ nơi mình đang làm việc; đồng thời làm việc cho CTCK, công ty
quản lý quỹ khác; đồng thời làm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của một tổ chức
chào bán chứng khoán ra công chúng hoặc tổ chức niêm yết”
5
. Chứng chỉ hành
nghề không có thời hạn và chỉ có giá trị khi người có chứng chỉ hành nghề làm việc
tại một CTCK hay công ty quản lý quỹ.
1.2.4. Vai trò của hoạt động môi giới tại Công ty chứng khoán
Trong một nền kinh tế phát triển, các hoạt động môi giới có vai trò rất lớn.
Với chức năng làm trung gian trong các giao dịch mua bán chứng khoán giữa người
mua (nhà đầu tư) với người bán (nhà phát hành hay nhà đầu tư khác), hoạt động
môi giới giữ vai trò quyết định trên TTCK, cụ thể như sau:
1.2.4.1. Môi giới chứng khoán đại diện cho CTCK cũng như cho khách hàng
Khi khách hàng muốn tìm hiểu về hoạt động của TTCK, tiếp xúc và giao
dịch trên TTCK, khách hàng phải thông qua tổ chức trung gian của TTCK là
CTCK. Tại CTCK, các nhân viên môi giới có thể giúp khách hàng đưa ra các quyết
định đầu tư qua các hoạt động tư vấn, giải thích, giới thiệu cụ thể hơn cho khách
hàng. Do vậy, việc đánh giá ban đầu của nhà đầu tư đối với hoạt động của một
CTCK sẽ thông qua việc xem xét hoạt động của bộ phận môi giới. Nói cách khác,
hoạt động môi giới chính là bộ mặt của CTCK. Môi giới chính là đại diện cho Công
ty khi tiếp xúc với khách hàng. Và môi giới cũng chính là đại diện cho khách hàng
trong việc giao dịch mua, bán chứng khoán sau khi đã thực hiện việc tư vấn cho
khách hàng.
1.2.4.2. Môi giới chứng khoán giúp giảm chi phí giao dịch
5

Quốc hội khóa XI (2007), Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11 ban hành ngày 12/07/2006, Điều 81.
16
Khi tham gia vào TTCK, để có một giao dịch thành công, khách hàng cần
có hiểu biết cơ bản về hàng hóa định mua và phải chấp nhận bỏ ra một số chi phí
nhất định. TTCK là thị trường bậc cao với sản phẩm là những công cụ tài chính, do
vậy cần một khoản chi phí khổng lồ để phục vụ cho việc thu thập, xử lý thông tin,
đào tạo kỹ năng phân tích nhằm thẩm định chứng khoán và tiến hành quy trình giao
dịch trên một thị trường đấu giá tập trung. Nhưng với CTCK thì khác, với hoạt động
chuyên nghiệp trên một quy mô vốn lớn, CTCK có thể trang trải được khoản chi phí
này. Thêm vào đó, với vai trò là một tổ chức trung gian chuyên nghiệp trên TTCK,
CTCK là cầu nối để bên mua và bên bán gặp nhau, do đó sẽ làm giảm đáng kể chi
phí tìm kiếm đối tác, chi phí soạn thảo và giám sát thực thi hợp đồng. Nhà đầu tư
còn giảm được phần nào chi phí thu thập, xử lý thông tin; các chi phí liên quan đến
tìm kiếm thông tin sản phẩm và khách hàng; và được giúp đỡ từ những sản phẩm,
dịch vụ của hoạt động môi giới. Qua đây, ta có thể thấy rõ được vai trò của MGCK
qua việc tiết kiệm chi phí giao dịch, xét trên từng giao dịch cụ thể cũng như trên
tổng thể thị trường, nhờ đó nâng cao tính thanh khoản của thị trường.
1.2.4.3. Môi giới chứng khoán hỗ trợ cho việc phát triển sản phẩm và dịch vụ
trên thị trường
Trong quá trình tiếp xúc, làm việc với khách hàng, nhân viên môi giới có thể
hiểu được tường tận thái độ, quan niệm, nhu cầu của những khách hàng về sản
phẩm, dịch vụ của CTCK. Đó chính là những thông tin quý báu dành cho công ty
hay các doanh nghiệp trong quá trình thiết kế và triển khai sản phẩm mới. Có thể
nói, hoạt động môi giới chính là một trong những nguồn cung cấp ý tưởng thiết kế
sản phẩm và dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng. Kết quả của quá trình đó trong
dài hạn sẽ là cải thiện được chất lượng và tính đa dạng của các sản phẩm, dịch vụ,
nhờ đó mà đa dạng hóa được cơ cấu khách hàng, thu hút được ngày càng nhiều
nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để phục vụ cho đầu tư và tăng trưởng.
Có thể nhận thấy kết quả này không chỉ ở hàng hóa đơn lẻ như cổ phiếu, trái
phiếu, hay bất kỳ một công cụ tài chính nào khác mà trong cả ý tưởng về danh mục

đầu tư, về sự phối hợp các sản phẩm nhằm vào những lợi ích nhất định. Chẳng hạn,
17
ngày nay, hàng hóa trái phiếu từ những đặc trưng cơ bản như thời hạn, mệnh giá, lãi
suất cuống phiếu đã được đa dạng hóa kèm theo những đặc tính bổ sung, như trái
phiếu có lãi suất thả nổi, trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông, trái
phiếu kèm theo quyền mua lại hoặc bán lại, trái phiếu có đảm bảo hoặc không có
đảm bảo, tùy theo nhu cầu cụ thể của các bên tham gia vào từng giao dịch.
1.2.4.4. Môi giới chứng khoán góp phần hình thành nền văn hóa đầu tư
Trên TTCK, hoạt động môi giới chứng khoán khi đã thâm nhập sâu rộng vào
cộng đồng doanh nghiệp và nhà đầu tư là yếu tố quan trọng góp phần hình thành
nền văn hóa đầu tư. Nhân viên môi giới tiếp cận và mang theo những sản phẩm tài
chính phù hợp với nhu cầu, yêu cầu của khách hàng thì hoạt động này lâu dần sẽ
hình thành nên thói quen đầu tư vào tài sản tài chính của các khách hàng.
1.2.4.5. Môi giới chứng khoán góp phần tăng chất lượng và hiệu quả của dịch
vụ nhờ cạnh tranh
Một trong những chỉ tiêu để đánh giá chất lượng, năng lực của một CTCK,
người ta thường nghĩ ngay đến hoạt động môi giới của CTCK đó. Số lượng tài
khoản, giá trị giao dịch, doanh thu môi giới, sự phát triển của các sản phẩm, dịch
vụ… sẽ giúp ta xác định được vị thế của CTCK. Vậy nên, áp lực của nhân viên môi
giới là làm thế nào để thu hút được nhiều khách hàng đến với công ty mình, sử dụng
nhiều sản phẩm, dịch vụ của công ty, giữ chân khách hàng lâu dài… và tạo được
niềm tin, tăng cường khối tài sản mà khách hàng ủy thác cho họ quản lý. Chính điều
này sẽ tạo ra sự cạnh tranh giữa các CTCK và giữa các nhân viên môi giới với nhau,
từ đó, góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng và hiệu quả của dịch vụ.
1.2.4.6. Môi giới chứng khoán hình thành những dịch vụ mới trong nền kinh tế,
tạo thêm việc làm và làm phong phú thêm môi trường đầu tư
Hoạt động môi giới luôn phải chủ động tìm kiếm khách hàng và cung cấp
cho họ những dịch vụ tài chính tốt nhất, do đó, thu hút rất nhiều nhân lực. Ví dụ
như công ty Merrill Lynch ở Mỹ có tới 13.000 nhân viên môi giới; các CTCK vừa
và nhỏ của Mỹ có không dưới 1.000 nhân viên môi giới. Nhưng để hoạt động hiệu

quả, nghiệp vụ MGCK cần tới sự hỗ trợ rất nhiều từ các nghiệp vụ khác như phân
18
tích chứng khoán, tư vấn đầu tư, marketing… Chính sự phối hợp giữa các nghiệp vụ
sẽ giúp tạo ra các nghiệp vụ mới như hỗ trợ việc xây dựng cơ sở khách hàng của
người môi giới, dịch vụ nghiên cứu thị trường nhằm phân loại khách hàng thành
từng nhóm theo tiêu chí mà người môi giới đưa ra… Dịch vụ mới, việc làm mới
được tạo ra sẽ giúp môi trường kinh doanh trở nên đa dạng và phong phú hơn.
1.2.5. Rủi ro và quản lý rủi ro trong hoạt động Môi giới chứng khoán
Nhà môi giới chứng khoán chuyên nghiệp, ngoài những kiến thức chuyên
môn, để có thể thực hiện thành công hoạt động môi giới của mình nên biết và hình
dung trước những rủi ro sẽ gặp phải cũng như có những biện pháp để quản lý những
rủi ro đó.
1.2.5.1. Những loại rủi ro trong hoạt động MGCK
Rủi ro về luật pháp
Môi giới là một công việc liên quan đến khách hàng và các tổ chức liên quan
khác như CTCK, Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm lưu ký chứng khoán, Ngân
hàng chỉ định thanh toán… Với một công việc liên quan đến nhiều đối tượng như
vậy đòi hỏi sự chính xác trong tuân thủ luật pháp và các quy định về Chứng khoán
và TTCK; và các luật lệ liên quan khác. Những rủi ro này có thể phát sinh từ những
văn bản như Hợp đồng mua bán chứng khoán, Hồ sơ thanh toán tiền mua bán chứng
khoán, Hồ sơ chuyển giao chứng khoán, các giấy tờ cá nhân của khách hàng…
Chẳng hạn như, một nhà đầu tư đến ký kết hợp đồng mua bán cổ phiếu với
một Công ty chứng khoán A. Trong Hợp đồng lại không ghi rõ thời hạn thanh toán
cụ thể. Hợp đồng đã được ký kết giữa các bên, công ty chứng khoán A đã giao cổ
phiếu cho nhà đầu tư, nhưng nhà đầu tư kia không trả tiền, và viện cớ là hợp đồng
chưa có quy định thời hạn thanh toán rõ ràng, do đó chưa có cơ sở để nhà đầu tư trả
tiền ngay.
Rủi ro về đối tác kinh doanh
Ví dụ: Hai công ty chứng khoán A và B có hoạt động kinh doanh với nhau.
Nhưng trong quá trình hoạt động kinh doanh, tranh chấp giữa hai bên xảy ra. Cả hai

công ty lại không phải là thành viên của Sở giao dịch chứng khoán, nên cơ chế giải
19
quyết tranh chấp theo quy định của Sở giao dịch chứng khoán sẽ không được áp
dụng. Do đó, hai bên sẽ phải nhờ đến toà án với những thủ tục rất rắc rối và phức
tạp.
Quan hệ đối tác kinh doanh được chia thành: nhà môi giới – nhà môi giới và
nhà môi giới – khách hàng cá nhân. Lúc đó, rủi ro về thanh toán giữa 2 nhà môi giới
với nhau sẽ được giảm thiểu nếu họ đều là thành viên của Sở Giao dịch chứng
khoán. Và rủi ro về thanh toán giữa nhà môi giới và khách hàng cũng gần như bị
loại trừ do quy định khách hàng khi muốn đặt lệnh mua bán phải ký quỹ trước
100% tiền hoặc chứng khoán.
Rủi ro thị trường
Rủi ro về thị trường bao gồm: rủi ro về giá cả lên xuống và rủi ro về tính
thanh khoản trong giao dịch của chứng khoán.
Rủi ro về giá cả lên xuống có thể phát sinh khi khách hàng tiến hành mua
chứng khoán và giá chứng khoán đó bị giảm xuống. Đối với khách hàng cá nhân, do
đã có quy định ký quỹ nên không ảnh hưởng tới CTCK, nhưng nếu họ thua lỗ
nhiều, uy tín công ty có thể bị ảnh hưởng.
Rủi ro thanh khoản phát sinh khi khách hàng thế chấp chứng khoán để mua
chứng khoán khác. Khách hàng có thể sẽ không bán được chứng khoán thế chấp
trong thời gian quy định hoặc sẽ không chịu thanh toán tiền cho số chứng khoán đã
mua.
Rủi ro về hoạt động
Rủi ro về hoạt động là những sai sót trong quá trình tác nghiệp hàng ngày
của công ty liên quan đến công việc mua bán chứng khoán như thực hiện lệnh giao
dịch, thanh toán, ký quỹ…
1.2.5.2. Quản lý rủi ro trong hoạt động MGCK
Những nhà môi giới chứng khoán giỏi luôn lường trước những rủi ro, để từ
đó đề ra những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế rủi ro. Chỉ có như vậy họ mới
tránh phải mất những khoản tiền không đáng mất.

20
Những biện pháp cơ bản trong quản lý 4 loại rủi ro trên bao gồm:
- Quy định rõ chính sách và phương pháp giải quyết từng loại rủi ro
- Chỉ định cá nhân hoặc nhóm người có quyền xét duyệt đến phạm vi từng
loại rủi ro
- Quy định rõ qui trình giải quyết, xử lý các công việc liên quan đến rủi ro
- Chỉ định cá nhân theo dõi giám sát hoạt động và thực hiện việc kiểm soát
nội bộ.
Quản lý rủi ro về luật pháp
- Kiểm tra lại tính đúng đắn, hoàn chỉnh của các văn bản trước khi đem ra áp
dụng. Việc này tốt nhất là thông qua một tổ chức tư vấn pháp luật có uy tín.
- Các giấy tờ cá nhân của khách hàng phải được khách hàng xác nhận tính
chính xác và đầy đủ.
- Hồ sơ phải chính xác và cập nhật thường xuyên.
Quản lý rủi ro đối các kinh doanh
- Tiến hành phân cấp, xét duyệt hạn ngạch giao dịch một cách cụ thể.
- Xây dựng quy trình rõ ràng, chặt chẽ cho các bước mở tài khoản giao dịch
như kiểm tra hồ sơ, xin ý kiến cấp có trách nhiệm, đánh giá tình hình tài chính của
khách hàng.
- Theo dõi giám sát việc sử dụng hạn ngạch giao dịch đã được duyệt.
- Hàng năm cần đánh giá và quy định lại hạn ngạch giao dịch.
Quản lý rủi ro thị trường
- Có các quy định phù hợp về tổng số hạn ngạch giao dịch, hạn chế mức thua
lỗ cụ thể.
- Đặt mức an toàn cho mỗi loại cổ phiếu.
- Quy định về phương pháp giám sát, đặt ra các quy định về ngưỡng rủi ro
phải thông báo hoặc qua xét duyệt.
Quản lý rủi ro về hoạt động
21
- Quy định về hệ thống tác nghiệp rõ ràng, trong đó nêu rõ những nghiệp vụ

nào phải tuyệt đối tuân thủ theo các bước đã đề ra.
- Thiết lập quy trình luân chuyển, giải quyết hồ sơ, tài liệu chứng từ một cách
chặt chẽ, nhất là trong khâu thanh toán tiền và nhận chuyển giao chứng khoán.
- Có hệ thống kiểm tra lại tính chính xác của việc truyền lệnh mua bán và hệ
thống phân cấp thẩm quyền rõ ràng, hợp lý.
- Có hệ thống báo cáo tốt.
1.3. Hiệu quả hoạt động Môi giới chứng khoán
1.3.1. Quan niệm về hiệu quả hoạt động Môi giới chứng khoán
Hoạt động MGCK ra đời từ rất sớm, song song với sự ra đời của TTCK.
Hoạt động này ra đời xuất phát từ đòi hỏi khách quan của thị trường và đóng vai trò
quan trọng trong quá trình vận hành của thị trường. Vì vậy, hiệu quả của hoạt động
môi giới chính là yếu tố quyết định đối với sự phát triển của TTCK nói riêng và nền
kinh tế nói chung.
Xét về góc độ khách hàng:
Hoạt động MGCK được đánh giá là có hiệu quả cao khi:
- Thông qua các dịch vụ môi giới mà khách hàng có được cơ hội đầu tư, tìm
kiếm them được lợi nhuận đồng thời cũng phòng ngừa được rủi ro.
- Phí môi giới thấp.
- Thủ tục gọn nhẹ, nhập lệnh nhanh, chính xác.
- Được hưởng một số lợi ích đi kèm như: được vay tiền để đầu tư có đảm bảo
bằng chứng khoán, ứng trước tiền bán chứng khoán…
Xét về góc độ một CTCK:
Một CTCK có hoạt động môi giới hiệu quả khi:
- Làm tăng vị thế và uy tín của công ty ở cả trong và ngoài nước.
- Đem lại doanh thu ổn định và ngày càng tăng cho công ty
22
Để đạt được những hiệu quả trên, CTCK phải cung cấp các sản phẩm, dịch
vụ môi giới thỏa mãn nhu cầu khách hàng, có sức cạnh tranh lớn, song vẫn đảm bảo
tính an toàn, sinh lời và tuân thủ đúng các quy định về chứng khoán và TTCK.
Xét về góc độ nhân viên môi giới:

- Nhân viên môi giới được nhận thù lao xứng đáng và được hưởng những chế
độ đãi ngộ thích hợp.
- Nhân viên môi giới được đánh giá là có kinh nghiệm, có kiến thức, có đạo
đức nghề nghiệp, nhiệt tình và làm việc vì lợi ích của khách hàng.
Tóm lại, hoạt động môi giới đạt hiệu quả cao là khi nó đem lại lợi ích cho
các chủ thể tham gia vào thị trường. Nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới không
chỉ mang lại lợi nhuận lớn cho doanh nghiệp mà còn thúc đẩy kinh tế phát triển.
1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động môi giới của CTCK
Việc đánh giá hiệu quả dịch vụ môi giới của CTCK không chỉ giúp CTCK
tìm ra thế mạnh của mình mà còn giúp họ phát hiện ra những hạn chế cần khắc
phục. Công ty cần đánh giá cả những lợi ích do hoạt động môi giới có thể mang lại
cả trong hiện tại và tương lai. Bên cạnh đó, công ty cũng cần chú trọng tới việc thỏa
mãn lợi ích của khách hàng, đồng thời cũng phải quan tâm tới vai trò của hoạt động
môi giới đối với nền kinh tế. Do đó, những chỉ tiêu dùng để đánh giá chất lượng của
hoạt động môi giới không chỉ gồm những chỉ tiêu xét trên lợi ích mà công ty đạt
được từ hoạt động môi giới mà còn bao gồm cả những chỉ tiêu phản ánh lợi ích mà
hoạt động môi giới đem lại cho khách hàng và nền kinh tế.
Tại Việt Nam hiện nay, chưa có một hệ thống chỉ tiêu thống nhất nào phản
ánh hoàn toàn chính xác hiệu quả hoạt động môi giới. Tuy nhiên, ta có thể dựa vào
một số tiêu chí sau đây để đánh giá hiệu quả hoạt động môi giới của CTCK.
1.3.2.1. Các chỉ tiêu định tính
Các chỉ tiêu định tính được thể hiện ở khả năng hoạt động, tính chuyên nghiệp
của sản phẩm dịch vụ, mức độ tác động của hoạt động MGCK tới các hoạt động
khác.
23
- Khả năng hoạt động: Khả năng hoạt động của dịch vụ môi giới thể hiện ở việc
một CTCK có thể cung cấp các dịch vụ thỏa mãn yêu cầu của bất kỳ đối tượng
khách hàng nào; quy mô khách hàng; tính chuyên nghiệp của nhân viên môi giới,
quy mô không gian sàn giao dịch, cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ phần mềm mà
công ty đang sử dụng…

- Tính chuyên nghiệp của sản phẩm dịch vụ: CTCK cung cấp các sản phẩm trọn
gói, từ việc đưa ra các kết quả nghiên cứu, phân tích, tư vấn cho khách hàng, theo
dõi và kịp thời đưa ra các khuyến nghị cần thiết cho khách hàng…
- Mức độ tác động của hoạt động môi giới tới các hoạt động khác: Khi hoạt động
môi giới hoạt động có hiệu quả cao thì sẽ kéo theo các hoạt động như phân tích, tư
vấn, lưu ký… phát triển và ngược lại. Bởi lẽ, các hoạt động này thực hiện một số
nghiệp vụ bổ trợ cho hoạt động môi giới, giúp cho sản phẩm của môi giới hoàn
thiện hơn.
1.3.2.2. Các chỉ tiêu định lượng
- Sự phát triển các sản phẩm dịch vụ: Sự phát triển của hoạt động MGCK được
phản ánh qua việc hoàn thiện, cung cấp thêm nhiều sản phẩm dịch vụ nhằm mang
đến cho khách hàng những tiện ích tốt nhất, hiệu quả nhất. Thông qua quá trình tiếp
xúc, chăm sóc khách hàng; phân tích nhu cầu thị trường, nắm bắt được các nhu cầu
của khách hàng, CTCK sẽ tạo ra nhiều và ngày càng nhiều hơn nữa các sản phẩm,
tiện ích sao cho phù hợp với từng nhóm khách hàng khác nhau. Hiểu để đáp ứng tốt
hơn các nhu cầu của khách hàng sẽ giúp cho mối quan hệ của khách hàng với công
ty ngày càng trở nên mật thiết hơn, qua đó, giữ chân khách hàng để gắn bó lâu dài
hơn với công ty, và thu hút được thêm nhiều khách hàng mới, từng bước nâng cao
được uy tín và vị thế của công ty trên thị trường.
- Số lượng tài khoản giao dịch: Số lượng tài khoản được mở và giao dịch tại
CTCK là chỉ tiêu phản ánh mức độ thành công trong việc thu hút khách hàng của
nhân viên môi giới. Nó cũng thể hiện được uy tín, vị trí của công ty trên TTCK. Khi
khách hàng đến mở tài khoản tại công ty có nghĩa là họ đã tin tưởng vào chất lượng
cũng như độ tin cậy của công ty đó. Do vậy, nếu như số lượng tài khoản giao dịch
24
mở tại CTCK tăng lên liên tục trong điều kiện thị trường ổn định, chứng tỏ hoạt
động thu hút khách hàng tốt. Không chỉ thế, việc thu hút được một lượng lớn nhà
đầu tư tham gia giao dịch tại công ty còn đóng góp rất nhiều vào doanh thu môi giới
– mục đích chủ yếu của hoạt động môi giới.
Tuy nhiên, số lượng tài khoản không quyết định hoàn toàn đến doanh thu từ

hoạt động môi giới. Do nhiều khách hàng mở tài khoản nhưng không tiến hành giao
dịch mua/bán hoặc có giao dịch nhưng rất ít, chính vì thế không đóng góp được
nhiều vào doanh thu môi giới.
- Giá trị chứng khoán giao dịch: Giá trị chứng khoán giao dịch bao gồm cả giá
trị chứng khoán mua và bán, được tính bằng công thức:
Giá trị chứng khoán giao dịch = Σ(số lượng từng loại chứng khoán mua/bán x
giá giao dịch của từng loại chứng khoán)
Giá trị chứng khoán giao dịch thay đổi qua từng phiên và chịu ảnh hưởng của
nhiều yếu tố như môi trường kinh tế, biến động thị trường, tâm lý của nhà đầu tư,
tình hình hoạt động của công ty. Chỉ tiêu này phản ánh tần suất giao dịch của một
nhà đầu tư và qua đó có thể tính được phí môi giới mà công ty thu được. Giá trị
chứng khoán giao dịch càng lớn thì phí thu được càng cao.
- Doanh thu và lợi nhuận từ hoạt động môi giới: chủ yếu là khoản thu từ phí
môi giới của CTCK. Phí môi giới được tính bằng giá trị chứng khoán giao dịch
nhân với biểu phí môi giới.
Doanh số từ hoạt động môi giới tăng lên qua các năm thể hiện quy mô của
hoạt động môi giới tăng lên. Hoạt động môi giới đang trong giai đoạn phát triển và
việc nâng cao hiệu quả dịch vụ môi giới sẽ góp phần gia tăng doanh thu cho công
ty.
Doanh thu từ hoạt động môi giới được phân tích bằng cả số tuyệt đối và số
tương đối trong mối quan hệ với các doanh thu từ những hoạt động khác trong
CTCK. Chỉ tiêu tương đối cho ta biết khả năng sinh lời của hoạt động môi giới và
được tính bằng công thức sau:
Doanh thu từ hoạt động môi giới
25

×