Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Giới thiệu chung về các hình thức trợ cấp dành cho nguời lao động trên thế giới và so sánh với các hình thức này ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.94 KB, 31 trang )

KINH TẾ HỌC LAO ĐỘNG
NHÓM 6
Đề tài: Gia tăng phúc lợi luôn là mục tiêu của bất cứ quốc gia nào trong quá trình tăng
trưởng bền vững.Để gia tăng phúc lợi xã hội, Việt Nam nên dành cho người lao động
không có việc làm ( do thất nghiệp ,tai nạn lao động ,mất sức lao động,…) những khoản
trợ cấp hoặc bồi thường ngày càng lớn.Hãy đưa ra quan điểm của nhóm mình với nhận
định trên.
Đề cương:
A: Lời mở đầu
B: Nội dung
Phần I: Giới thiệu chung về các hình thức trợ cấp dành cho nguời lao động trên thế giới và
so sánh với các hình thức này ở Việt Nam.
(ở Mỹ, ở Anh,ở Canada,ở Thái Lan,ở Việt Nam).
Phần II: Chứng minh quan điểm của nhóm :Không đồng ý với nhận định của đề tài
1.Cơ sở lí thuyết
2.Chứng minh quan điểm.
a.về phía chính phủ.
b.về phía người lao động.
C:Kết luận
Bài Tiểu Luận
A:LỜI MỞ ĐẦU
“Phúc lợi xã hội” luôn là vấn đề được xã hội cũng như người lao động quan tâm. Vậy phúc
lợi xã hội là gì? Phúc lợi xã hội tác động như thế nào đến người lao động? Một số nước
trên thế giới có những chính sách phúc lợi như thế nào? Và phúc lợi xã hội ở Việt Nam
được biểu hiện ra sao? Để hiểu được những vấn đề trên nhóm 6 chúng tôi đã tìm hiểu về
1
vấn đề này và đưa ra một số quan điểm về nhận định: “ Gia tăng phúc lợi xã hội luôn là
mục tiêu của bất cứ quốc gia nào trong quá trình tăng trưởng bền vững. Để gia tăng phúc
lợi xã hội, Việt nam nên dành cho người lao động không có việc làm (do thất ngiệp, tai nạn
lao động, mất sức lao động…) những khoản trợ cấp hoặc bồi thường ngày càng lớn”.
Vì thời gian và năng lực có hạn bài làm có những hạn chế nào mong cô và các bạn góp ý


và thông cảm.
B.NỘI DUNG
Phần I:giới thiệu chung về các hình thức trợ cấp dành cho người lao động trên thế
giới và so sánh với Việt Nam.
1.giới thiệu chung về các hình thức trợ cấp dành cho người lao động ở một số nước
Ở Mỹ⋇
Phúc lợi xã hội là một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, chế độ phúc lợi xã
hội của Mỹ tương đối hoàn thiện. Chế độ phúc lợi xã hội hiện hành của Mỹ được dần dần
hoàn thiện sau khi thực thi phương án An toàn xã hội (Social Security Act) từ năm 1936.
Phương án An toàn xã hội bao gồm các biện pháp phúc lợi như sau:
Bảo hiểm xã hội Liên bang
Bảo hiểm xã hội Liên bang được thiết lập cho những người có việc làm, bản thân những
người vẫn đang làm việc và đã từng làm việc và người thân trong gia đình cũng có thể
tham gia. Chủ yếu bao gồm tiền về hưu (Retirement Benefits), tiền dưỡng lão (Survivor’s
Benefits), tiền dành cho người tàn tật (Disability Benefits) và tiền phúc lợi y tế (Medicare
Benefits),…
Tiền trợ cấp thất nghiệp ( Unemployment Compensation)
2
Chỉ cần là người xin nghỉ việc thất nghiệp, bất kể là người đó có khoản tiền tiết kiệm hay
không đều được phép đăng ký. Thời gian trợ cấp thông thường là từ 6 ~ 9 tháng, căn cứ
theo tình hình của từng bang mà có thể được kéo dài thời gian trợ cấp.
Tiền trợ cấp công cộng (Public Assistance)
Đây là trợ cấp được dành cho những người có thu nhập thấp hoặc những người khiếm thị,
người già, người tàn tật và những gia đình không có thu nhập. Chính quyền bang sẽ căn cứ
theo điều kiện sinh sống của từng trường hợp để cấp tiền. Người đăng ký phải chấp nhận
điều tra để chứng minh tư cách đăng ký và lĩnh nhận trợ cấp.
Ngoài những chính sách phúc lợi nói trên được bao gồm trong phương án an toàn xã hội,
nước Mỹ còn có rất nhiều phúc lợi xã hội liên quan tới các phương diện của cuộc sống và
công việc, có mấy loại thường gặp sau đây:
Bảo hiểm việc làm

Tiền bảo hiểm thất nghiệp (Unemployment Insurance)
Tiền bảo hiểm thất nghiệp là 1 loại chế độ bảo hiểm. Hàng tháng trừ một khoản tiền trong
tiền lương của người được bảo hiểm để nộp bảo hiểm, khi nào mà người được bảo hiểm bị
thất nghiệp tức là có thể được nhận tiền bồi thường, tiền được bồi thường bằng một nửa số
tiền lương của người đó.
Tiền bồi thường cho công nhân (Worker’s Compensation Program)
Do chủ sử dụng lao động đóng bảo hiểm cho chính quyền bang hoặc công ty bảo hiểm,
3
công nhân bị tai nạn nghề nghiệp được đăng ký lĩnh tiền. Mức tiền bồi thường cụ thể và
thời gian cụ thể còn phụ thuộc vào khoản tiền mà chủ sử dụng đóng bảo hiểm là bao nhiêu,
đồng thời cũng có thể được báo mức chi phí y tế nhất định. Tiền bồi thường công nhân
được đăng ký cho cả những người không có quốc tịch Mỹ mà không ảnh hưởng tới việc
sau này người đó chuyển đổi thân phận hoặc nhập tịch.
Tiền bảo hiểm tàn tật của bang(State Disability Insurance)
Toàn nước Mỹ chỉ có bang California, New York, New Jersay, Hawai và Puerto Rico có
thiết lập loại bảo hiểm này, thiết lập riêng cho những người vì bệnh tật trong khoảng thời
gian ngắn mà tạm thời không thể làm việc được. Nói cách khác, người được bảo hiểm
trong khoảng thời gian bị bệnh vẫn trong chế độ còn làm việc, sau khi hồi phục lại bắt đầu
làm việc, tiền bảo hiểm sẽ ngừng việc chi trả.
Trợ cấp cuộc sống cho người có thu nhập thấp (Public Service for Low Income
Persons)
Phiếu lương thực (Food Stamp)
Bộ nông nghiệp Liên bang Mỹ giải ngân cho chính quyền các bang phát các phiếu lương
thực, các phiếu lương thực này chỉ có thể đổi các nông phẩm được sản xuất tại Mỹ, không
được đổi lấy tiền mặt, để cứu tế cho các gia đình có thu nhập thấp. Trợ cấp này chỉ dành
cho công dân Mỹ.
Trường học cung cấp bữa ăn giá rẻ hoặc miễn phí (School Lunch Program)
Đây là chương trình thực phẩm dinh dưỡng mang tính toàn quốc được chính phủ thiết lập
4
để đảm bảo cho sức khỏe của học sinh. Những người không có quốc tịch Mỹ cũng có

quyền lợi này.
Chương trình trợ cấp năng lượng trong nhà (Home Energy Assistance Program)
Chương trình này được thiết lập dành cho những gia đình có thu nhập thấp để giảm chi phí
tiền than củi, tiền điện, những người không có quốc tịch Mỹ cũng được hưởng quyền lợi
trong chương trình này. Tiền trợ cấp năng lượng ngoài việc giúp đỡ chi trả tiền than củi,
tiền điện ra, còn có thể thay thế cho tiền sửa các thiết bị có liên quan tới sưởi ấm như lò
sưởi, ống khói,…
Nhà ở công cộng giá rẻ (Public Low Income Housing)
Khoản phúc lợi này có 4 loại hình thức như nhà ở công cộng, nhà ở trợ cấp, trợ cấp tiền
thuê nhà và nhà giá rẻ. Người đăng ký phải tròn 62 tuổi hoặc là người có thu nhập thấp, có
một số trợ cấp nhà ở trong này yêu cầu đồng thời cả hai điều kiện nói trên.
Trợ cấp y tế
Trợ cấp tiền thuốc (Medicaid)
Không giống với bảo hiểm y tế, trợ cấp tiền thuốc là một chương trình bảo hiểm sức khỏe,
được lập ra để cho những gia đình có thu nhập thấp, có thể đồng thời được hưởng bảo hiểm
y tế nhưng chương trình này chỉ dành cho công dân Mỹ.
Chương trình chăm sóc tại nhà (In Home Support Service)
Do chính quyền Liên bang, bang và huyện cùng chịu trách nhiệm, cung cấp dịch vụ chăm
5
sóc tại nhà và dịch vụ không phải là y tế cho người già 65 tuổi trở lên, người khiếm thị
hoặc người tàn tật, khiến cho những người này có thể sống an toàn tại nhà, không cần vào
nhà dưỡng lão hoặc các tổ chức y tế công cộng.
Ở Canada⋇
Canada là một quốc gia rất coi trọng chế độ phúc lợi xã hội, hàng năm đều lập kế hoạch
một khoản tiền dự toán trợ giúp phúc lợi lớn, giáo dục trưởng thành từ khi còn nhỏ, lập gia
đình, lập nghiệp của trung niên cho tới tuổi già, chính phủ đều có chế độ phúc lợi hoàn
thiện và quan tâm chu đáo tới người thất nghiệp, người tàn tật và người yếu thế. Dưới đây
sẽ nói rõ với bạn về phúc lợi xã hội của thường trú nhân tại Canada:
Bảo hiểm y tế
Thường trú nhân và công dân của Canada đều được hưởng “Chương trình khám chữa

bệnh” và “Chương trình hộ lý bệnh viện” mà chính phủ Liên bang và tỉnh phát động.
Nhưng những công dân đã sống ở nước ngoài trong thời gian dài sau khi trở về nước hoặc
là những cư dân từ tỉnh khác chuyển đến, đều được hưởng chế độ phúc lợi này sau khi cư
trú 9 tháng. Người thất nghiệp hoặc kinh tế có khó khăn cũng có thể đăng ký miễn nộp tiền
bảo hiểm.

Chi phí cho dịch vụ chữa bệnh mà bác sĩ nội khoa, bác sĩ gia đình cung cấp đều do bảo
hiểm y tế chi trả. Nhưng việc khám bệnh của bác sĩ chuyên khoa, bác sĩ khoa mắt thì chỉ
được bảo hiểm một phần; mà phòng khám răng bình thường ngoài một số phẫu thuật đặc
biệt ra, đều không nằm trong phạm vi bảo hiểm này và cũng không bao gồm những toa
thuốc mà bác sĩ kê đơn.
Có 3 loại tham gia bảo hiểm: Một là đóng bảo hiểm theo danh nghĩa cá nhân, hai là đóng
6
bảo hiểm theo gia đình, ba là đóng bảo hiểm theo đoàn thể (những nhà máy và công ty
vượt quá số lượng người nhất định).
Bảo hiểm thất nghiệp
Phần nghiệp vụ này do chính phủ Liên bang chủ trì, do ba bên là chủ sử dụng lao động,
người được bảo hiểm (tức là nhân viên) và chính phủ cùng phân chia chi phí đóng bảo
hiểm. Trên tinh thần là cung cấp khoản tiền sinh hoạt ngắn hạn cho người thất nghiệp. Bất
kể ai mà làm việc cho chủ sử dụng mỗi tuần ít nhất là 15 tiếng hoặc tiền lương tuần là 113
đồng Canada, đều được bảo đảm bởi bảo hiểm thất nghiệp, do chủ sử dụng lao động trực
tiếp khấu trừ chi phí bảo hiểm từ lương của nhân viên mà chủ sử dụng và chính phủ đều
trích một khoản tiền theo tỉ lệ nhất định. Khoản tiền mà bảo hiểm thất nghiệp chi trả và thời
gian được hưởng dài hay ngắn được quyết định bởi tiền lương, thời gian làm việc dài hay
ngắn, tỉ lệ thất nghiệp ở địa phương đó và nguyên nhân thất nghiệp của người đăng ký. Mỗi
tuần nhiều nhất có thể đăng ký 339 đồng Canada, tất cả các khoản tiền nhận được từ bảo
hiểm đều phải nộp thuế thu nhập. Nhưng nếu ai đó mà từ chức với lý do không chính đáng
hoặc vì sơ suất mà bị sa thải thì có thể bị phạt hủy khoản tiền trợ cấp thất nghiệp, khoảng 7
đến 12 tuần, tiền thất nghiệp nhận được cũng sẽ bị cắt giảm.
Người hưởng lợi từ tiền bảo hiểm thất nghiệp cũng có quyền đăng ký tiền cứu tế thất

nghiệp, yêu cầu trợ giúp tìm công việc. Nhưng cũng phải tích cực tìm công việc, tiếp nhận
sự chỉ đạo của nhân viên phụ đạo, hơn nữa phải có thể đi làm ngay. Bất cứ khoản thu nhập
nào trong thời gian này đều phải thông báo. Quan chức phụ trách phụ đạo làm việc có lúc
cũng sẽ yêu cầu người đăng ký nói rõ nguyên nhân tại sao không tìm được việc làm?
Người đăng ký thậm trí có lúc phải đưa ra chứng cứ biểu thị rằng bản thân đã tích cực đi
tìm việc làm. Tiền thất nghiệp bằng 60% mức lương trước đây, nhưng cao nhất không được
7
vượt quá 240 đồng Canada, tiền thất nghiệp phải thông báo theo thu nhập cá nhân.
Những trường hợp bình thường, thất nghiệp khoảng 2 tuần mới được đăng ký cứu tế.
Người đăng ký phải lấy giấy đăng ký từ đương Cục, điền số bảo hiểm xã hội và ký lục làm
việc. Đăng ký phải làm việc quá một thời gian nhất định mới có đủ tư cách đăng ký, về
việc cần kinh nghiệm làm việc bao lâu thì phải xem tỉ lệ thất nghiệp ở các nơi là 10%, thì
phải sau 16 tuần làm việc mới có thể đăng ký. Nếu như là người lần đầu tiên đi làm hoặc
trong vòng hai năm chưa từng làm việc tới 2 lần thì thời gian làm việc có thể kéo dài tới ít
nhất là 20 tuần.
Thời gian nhận tiền bảo hiểm dài hay ngắn cũng được quyết định theo tỉ lệ thất nghiệp tại
nơi ở của người đăng ký và kinh nghiệm làm việc của bản thân. Tỉ lệ thất nghiệp càng cao
thì thời gian được nhận càng dài. Lấy ví dụ từ tỉnh B.C, có thể nhận 27 tuần. Một số ngành
nghề đặc biệt không có cách nào nhận tiền thất nghiệp, ví dụ: nhân viên tự thuê, vì chưa
nộp phí bảo hiểm nên không được đăng ký; nhân viên kiêm chức cũng phải phù hợp với
quy định đặc biệt; giáo viên, người làm nghề nông nghiệp cũng không được đăng ký. Nhân
viên chuyên nghiệp như chủ ngành bất động sản, sau khi nộp lại biển chuyên nghiệp mới
được đăng ký; ngoài ra học sinh cũng không được đăng ký. Ngoài ra bảo hiểm thất nghiệp
còn có một số phúc lợi đặc thù: thứ nhất là là tiền phúc lợi mang thai, cao nhất có thể được
mức tiền của 15 tuần; thứ hai là tiền phúc lợi chăm sóc con cái, hạn chế đối với bố mẹ sinh
con lần đầu hoặc bố mẹ nuôi nhận nuôi con nuôi, cao nhất có thể nhận 10 tuần; thứ ba là
người bị thất nghiệp vì bệnh tật, cao nhất có thể nhận 15 tuần; người đăng ký phải xuất
trình giấy chứng nhận của bác sĩ. Đường dây nóng tư vấn về tình hình bảo hiểm thất nghiệp
: 604-680-5400
Tiền lương hưu ( Phúc lợi của người già)

8
Chính phủ Liên bang thực thi rất nhiều biện pháp phúc lợi cho người già, trong đó có một
hạng mục quan trọng nhất là “ Kế hoạch tiền lương hưu Canada”, tất cả các tầng lớp được
thuê làm việc đều phải tham gia. Khi đến 65 tuổi đều có thể nhận lương hưu, do chủ sử
dụng và người làm thuê cùng trích tiền thành lập Quỹ tiền tệ Trung Ương. Khi về hưu sẽ
căn cứ theo khoản tiền mà trước đây người đó đã nộp và tiền lương hàng năm để quyết
định. Khoản tiền lương hưu này có thể nhận trước lúc 60 tuổi hoặc lùi lại tới 70 tuổi mới
nhận. Nhận sớm hơn thì nhiều nhất chỉ được nhận 70% số tiền, nhận muộn hơn thì có thể
nhận nhiều hơn 30%.
Nếu như người tham gia bảo hiểm tàn phế không làm việc được nữa vào trước độ tuổi về
hưu thì lập tức được nhận tiền lương hưu. Nếu như người đóng bảo hiểm tham gia kế
hoạch này sau khi đạt được số niên hạn thấp nhất thì qua đời ngoài ý muốn, người nhà
cũng có thể nhận khoản tiền lương hưu này. Kế hoạch tiền dưỡng lão của Chính phủ Liên
bang đảm bảo cho cuộc sống của người già, công dân cứ từ 65 tuổi trở lên hoặc dân định
cư đã ở Canada đủ 10 năm mà trên 65 tuổi cũng có tư cách đăng ký. Nhưng những người di
cư tới từ sau ngày mùng 01 tháng 07 năm 1977 thì chỉ được nhận một phần khoản tiền.
Nếu như khoản tiền đó và các khoản thu nhập khác vẫn không đủ duy trì mức chi tiêu thấp
nhất thì vẫn có thể đăng ký “Tiền trợ cấp bảo đảm nghỉ hưu”. Người già Canada vẫn có thể
hưởng các khoản phúc lợi khác như: tiền hoàn thuế mua nhà, bảo hiểm y tế miễn phí, miễn
phí tiền thuốc chữa bệnh, đi xe buýt được ưu đãi, v.v. Các khu nhà ở các thành phố lớn tại
Canada thường xuyên tổ chức các hoạt động và dịch vụ giải trí cho người già.
Chế độ phúc lợi khác
Ngoài chế độ phúc lợi chủ yếu nói trên, một số tỉnh còn cung cấp hỗ trợ cuộc sống với
9
người mới tới định cư. Chính phủ Liên bang còn thành lập Ban cho vay tiền giúp đỡ người
dân mua nhà ở; công dân hay người định cư, và đã ở Canada đủ 1 năm, những người không
phải là người định cư mà đã từng nộp thuế về hưu đều có thể đăng ký trợ cấp gia đình cho
con cái dưới 18 tuổi. Sự chăm sóc của Canada đối với nhân dân vô cùng chu đáo và chế độ
phúc lợi cũng vô cùng kiện toàn. Đối với những người muốn tới Canada định cư , đặc biệt
là người về hưu, không những có sự trợ giúp của Chính phủ có thể dưỡng lão, cũng có thể

di cư cùng con cái, không cần lo âu về cuộc sống sau này.
Ở Anh⋇
Phúc lợi cho người thương tật và người bị bệnh
Trợ cấp chăm sóc: Trên 65 tuổi, người thương tật cần được chăm sóc thường xuyên. Nếu
người xin trợ cấp mắc bệnh hiểm nghèo, có thể được bố trí đặc biệt để nhận tiền trợ cấp
sớm.
Phúc lợi cho người bị thương gặp sự cố ngoài ý muốn trong công việc: Dành cho
những người không thể làm việc được nữa do bị thương trong khi làm việc hoặc bị bệnh
nghề nghiệp.
Trợ cấp cuộc sống của người thương tật: Người bị thương tật và người cần được chăm
sóc, nếu người phải có sự trợ giúp mới có thể đi lại được cũng được xin trợ cấp.
Trợ cấp thương tật công việc: Dành cho người mỗi tuần làm việc ít nhất là 16 tiếng đồng
hồ. Họ có thể do bị bệnh hoặc bị thương tật mà ảnh hưởng tới cơ hội làm việc, người xin
trợ cấp phải trên 16 tuổi.
Trợ cấp cho thương tật nặng: bắt buộc là phải hơn 16 tuổi, không thể làm việc là 28 tuần.
10
Trợ cấp chăm sóc người thương tật: Từ 16 tuổi đến 65 tuổi. Mỗi tuần phải mất ít nhất là
35 giờ đồng hồ để chăm sóc một người bị thương tật nặng, người này có tư cách được nhận
trợ cấp bậc trung của trợ cấp cuộc sống thương tật hoặc tiền trợ cấp bậc cao hoặc là trợ cấp
chăm sóc. Người xin trợ cấp trừ đi khoản chi tiêu hợp lý sau mỗi tuần, thu nhập không
vượt quá 50 bảng Anh hoặc đang làm 1 công việc toàn thời gian.
Không thích hợp với phúc lợi công việc: Những người lao động không đủ điều kiện để
nhận tiền lương bị bệnh từ chủ sử dụng của họ, công việc tự làm chủ, người thất nghiệp.
Người xin trợ cấp bắt buộc phải nộp đủ số tiền bảo hiểm Quốc dân.
Pháp định lương cho người bệnh: Bị bệnh liên tiếp 4 ngày hoặc lâu hơn. Thời gian không
quá 28 tuần. Người xin trợ cấp bắt buộc thu nhập phải trên 58 bảng Anh. Có thể hưởng
lương bị ốm theo pháp định là 52,50 bảng Anh một tuần.
Phúc lợi khi nghỉ hưu:Phúc lợi cơ bản khi nghỉ hưu, vượt quá tuổi nghỉ hưu, (phụ nữ 60
tuổi trở lên, đàn ông 65 tuổi trở lên) và dành cho người phù hợp với điều kiện bảo hiểm
Quốc dân. Người phải chăm sóc con cái chưa đến tuổi vị thành niên có thể nhận được phúc

lợi khác.
Phúc lợi thất nghiệp :Tiền phúc lợi 2 tuần sẽ được trả 1 lần, trong thời gian là 1 năm.
Người xin trợ cấp nhất định phải có năng lực và tích cực xin việc, họ bắt buộc phải nộp đủ
số tiền bảo hiểm Quốc dân loại 1.
Phúc lợi cho người thu nhập thấp
11
Tiền trợ cấp thu nhập : Từ 18 tuổi trở lên, thu nhập thấp dưới mức nào đấy, dành cho
những người mỗi tuần làm việc không quá 16 tiếng đồng hồ. Người xin trợ cấp bắt buộc
phải có năng lực làm việc và tích cực xin việc.
Trợ cấp cho viện dưỡng lão và viện hộ lý: Người xin trợ cấp phải vào viện dưỡng lão
hoặc là hoặc là viện hộ lý tiếp nhận chăm sóc trước ngày 31 /3/1993. Họ có thể nhận được
tiền trợ cấp thu nhập tương đối cao để trả phí của bệnh viện.
Trợ cấp của Hội đồng thuế Thành phố : Do Hội đồng thuế Thành phố xử lý, để trợ giúp
những người thu nhập thấp nộp thuế cho Hội đồng thuế Thành phố của họ
Trợ cấp tiền thuê nhà : Hội đồng Thành phố đại điện cho những người có nhu cầu cần trả
tiền thuê nhà.
Trợ cấp tiền phí trị liệu: Miễn phí tiền thuốc, trị liệu về răng, khám mắt, mua kính, hoặc
kính áp tròng
Các trợ cấp khác : Người xin trợ cấp nhận viện trợ thu nhập, trợ cấp gia đình, trợ cấp
thương tật.
Quỹ xã hội : Từ thu nhập hàng ngày, trợ cấp dành cho những người có khó khăn trong khi
trả các chi phí bao gồm sinh nở, tình hình khẩn cấp, vay tiễn không lãi, hộ lý cộng đồng
v.v ….
Thái Lan⋇
Có một hệ thống an sinh xã hội được tài trợ bởi các công nhân đóng góp cũng như sự đóng
góp của người sử dụng lao động. Có những phần khác nhau cho hệ thống an sinh xã hội.
Bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội cho người tàn tật già, và những người sống sót. Tất cả những người đang
làm việc trong độ tuổi từ 15 đến 60 có thể đóng góp cho hệ thống này. Một công nhân sẽ
đóng góp 3% tổng thu nhập hàng tháng của họ đối với lương hưu và lợi ích gia đình. Nếu

bạn muốn đóng góp tự nguyện, bạn có thể đóng góp 9% thu nhập lên đến 4.800 THB mỗi
12
tháng. Những người kiếm được ít hơn 1.650 sẽ không đóng góp. Tự làm chủ là một đóng
góp hàng năm là 3.360 THB. Thêm vào đó, những người được tuyển dụng sẽ có những
đóng góp của họ đứng đầu của người sử dụng lao động 3% và chính phủ sẽ bổ sung thêm
1%.
Phúc lợi khi nghỉ hưu
Để được trợ cấp tuổi già, một người phải được ít nhất là 55 tuổi và đã thực hiện ít nhất là
180 tháng đóng góp. Lương hưu chỉ có thể được khẳng định nếu nguyên đơn không còn
được làm việc và nếu anh ta / cô ấy bắt đầu làm việc sau khi tuyên bố lương hưu bị đình
chỉ cho đến khi họ ngừng làm việc trở lại. Nếu một người hưu trí chết trong vòng 60 tháng
bắt đầu để yêu cầu bồi thường trợ cấp tuổi già một lần là trả cho vợ, chồng, con cái và bất
kỳ bậc cha mẹ còn sống sót. Mức lương hưu được chi trả là tương đương với 20% mức
lương trung bình kiếm được trong 60 tháng trước đó trước khi nghỉ hưu. Thanh toán được
tăng 1,5% của số tiền này cho mỗi khoảng thời gian 12 tháng đóng góp hơn và trên tối
thiểu 180 tháng. Vì không có lương hưu tối thiểu, người thu nhập thấp có thể thấy rằng số
tiền lương hưu của họ không phải là rất cao.
Lương hưu khuyết tật được bao phủ trong phần này, nhưng những người cho rằng phải có
giấy chứng nhận y tế nói rằng họ không còn khả năng làm việc và họ phải có giá trị ít nhất
3 tháng đóng góp trong vòng 15 tháng trước đó. Này chỉ được thanh toán khi nguyên đơn
không còn được tuyên bố lợi ích bệnh tiền mặt. Mức lương hưu khuyết tật được tính trên
mức cao nhất 3 tháng thu nhập trong 9 tháng trước đó và được trả ở mức 50% của mức
trung bình hàng ngày. Lương hưu này có thể được để chi phí tăng lên sống.
Trợ cấp thất nghiệp
Trợ cấp thất nghiệp được bảo hiểm do quỹ bảo hiểm xã hội và mỗi công nhân sẽ đóng góp
0,5% từ tiền lương của họ được xuất hiện bởi người sử dụng lao động và được thêm vào
13
với 0,25% của chính phủ Thái Lan tặng. Người lao động tự làm việc có thể không được
bao phủ bởi lợi ích này. Để yêu cầu bồi thường lợi ích này một người cần phải có giá trị ít
nhất 6 tháng đóng góp trong 15 tháng trước đó. Để khẳng định nó là điều cần thiết để được

đăng ký với dịch vụ việc làm Chính phủ và sẵn sàng chấp nhận bất cứ công việc phù hợp.
Nếu nhân viên đã bị sa thải sau đó họ có thể không có hội đủ điều kiện để được lợi ích này,
nhưng hệ thống an ninh xã hội trông cẩn thận ở từng trường hợp cá nhân. Quyền lợi này
cũng được tính toán trong cùng một cách mà lợi ích khuyết tật, ốm đau, thai sản, nhưng sẽ
chỉ được thanh toán sau khi ít nhất 8 ngày kể từ ngày thất nghiệp.
Ở Việt Nam⋇
Bảo hiểm thất nghiệp
Tất cả lao động là công dân Việt Nam có hợp đồng lao động 12-36 tháng hoặc không xác
định thời hạn đều được tham gia bảo hiểm thất nghiệp.
Tuy nhiên, để nhận được trợ cấp thất nghiệp, người lao động phải có những điều kiện như:
bị mất việc làm, bị chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật lao động mà
chưa tìm được việc làm; trước khi bị thất nghiệp, người lao động đã đóng bảo hiểm thất
nghiệp được 12 tháng trở lên và đã đăng ký thất nghiệp với tổ chức bảo hiểm xã hội.
Theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội thì mức đóng bảo hiểm thất nghiệp được quy định
như sau: người lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp bằng 1% tiền lương, tiền công tháng;
người sử dụng lao động đóng bằng 1% quỹ tiền lương, tiền công tháng và Nhà nước sẽ hỗ
trợ từ ngân sách bằng 1% quỹ tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của
những người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp.
Mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hàng tháng của người lao động bằng 60% mức bình quân
14
tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của 6 tháng liền kề trước khi thất
nghiệp.
Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp là 3 tháng nếu có đủ 12 tháng đến dưới 36 tháng đóng
bảo hiểm thất nghiệp; 6 tháng nếu có từ đủ 36 tháng đến dưới 72 tháng đóng bảo hiểm thất
nghiệp; 9 tháng nếu có đủ từ 72 tháng đến dưới 144 tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp; 12
tháng nếu có từ đủ 144 tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp trở lên.
Ngoài trợ cấp thất nghiệp, người lao động còn được hỗ trợ học nghề, hỗ trợ tìm việc làm và
được hưởng bảo hiểm y tế theo quy định.
Cụ thể, mức hỗ trợ học nghề cho người thất nghiệp trong trường hợp này bằng mức chi phí
học nghề ngắn hạn theo quy định pháp luật về dạy nghề. Thời gian học nghề cho lao động

không quá 6 tháng, tính từ ngày lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Còn số lao động sẽ được “hưởng lợi” hiện chúng tôi chưa có con số thống kê cụ thể. Tuy
nhiên, chính sách bảo hiểm thất nghiệp có hiệu lực từ 1/1/2009, vì thế, người lao động chỉ
được hưởng trợ cấp thất nghiệp sớm nhất là từ đầu năm 2010 (sau 12 tháng liên tục doanh
nghiệp và người lao động nộp tiền vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp).
Chế độ bồi thường, trợ cấp cho người lao động bị tai nạn lao động, bị bệnh nghề
nghiệp
Người lao động bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp đúng theo quy định của bộ lao
động thương binh và xã hội được bồi thường ít nhất bằng 30 tháng tiền lương và phụ cấp
lương (nếu có) đối với người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc
15
bị chết do tai nạn loa động ,bệnh nghề nghiệp .Ít nhất bằng 1.5 tháng tiền lương và phụ cấp
lương (nếu có) đối với người bị suy giảm khả năng lao động từ 5%→ 10% sau đó nếu bị
suy giảm khả năng lao động từ 10% →81% thì cứ tăng 1% được cộng thêm 0.4 tháng tiền
lương và phụ cấp lương.
Chế độ lương hưu
Người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện được hưởng lương hưu do quỹ bảo hiểm xã hội
chi trả khi có một trong các điều kiện sau :
Nam đủ 60 tuổi ,nữ đủ 55 tuổi và có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên.
Nam từ đủ 55 tuổi trở lên, nữ từ đủ 50 tuổi trở lên mà trước đó đã có đủ 20 năm trở lên
đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc ,trong đó có đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc nặng
nhọc,độc bụi ,nguy hiểm nơi có hệ số phụ cấp khu vực từ 0.7 trở lên bị suy giảm khả năng
lao động từ 61% trở lên được hưởng lương hưu với mức thấp hơn nếu thuộc một trong các
trường hợp sau:nam đủ 50 tuổi trở lên, nữ đủ 45 tuổi trở lên .có đủ 15 năm làm nghề hoặc
công việc đặc biệt nặng nhọc độc hại,nguy hiểm trở lên.
Trợ cấp cho lao động thu nhập thấp
Người lao động trong doanh nghiệp có thu nhập dưới 2,2 triệu đồng một tháng sẽ được hỗ
trợ tối đa 250.000 đồng.
Theo đó, mức hỗ trợ cho đối tượng lao động nghèo, gặp khó khăn tối thiểu là 250.000 đồng
một người. Số tiền trợ cấp này không phải nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm

thất nghiệp và kinh phí công đoàn.
Các doanh nghiệp nằm trong danh sách được dành quỹ hỗ trợ người lao động khó khăn là
các công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu, công ty nhà
nước chưa chuyển đổi. Đồng thời, các doanh nghiệp FDI cũng áp dụng quy định trợ cấp
khó khăn cho người lao động.
Cán bộ, công nhân viên nằm trong danh sách được trợ cấp 250.000 đồng là những lao động
có thu nhập tại thời điểm ngày 30/3/2011 dưới 2,2 triệu đồng một tháng. Mức lương được
16
sử dụng làm căn cứ ưu đãi này chưa bao gồm các khoản tiền thưởng từ lợi nhuận sau thuế
của doanh nghiệp, tiền ăn ca, chế độ bảo dưỡng nghề độc hại
Trước đó, ngày 7/7, Thủ tướng cũng ban hành nghị định 57 cho phép tăng mức trợ cấp đối
với cán bộ công chức thuộc các đơn vị sự nghiệp, lực lượng vũ trang quân đội thêm 10%.
2.So sánh các hình thức trợ cấp ở các nước với Việt Nam
Các nước phát triển như Mỹ ,Anh ,Canada, ngay cả với nước đang phát triển như Thái Lan
thì tất cả đều có nền kinh tế phát triển hơn Việt Nam rất nhiều nên nói về sự đa dạng trong
hệ thống phúc lợi xã hội cho người dân nói chung và các hình thức trợ cấp dành cho người
lao động nói riêng sẽ phong phú đa dạng hơn Việt Nam ví dụ như ở Mỹ có phiếu lương
thực, có trường học cung cấp các bữa ăn giá rẻ hoặc miễn phí,chương trình trợ cấp năng
lượng trong nhà cho những gia đình có thu nhập thấp…các phúc lợi này ở Việt Nam thì
chưa có các hình thức trợ cấp dành cho người lao động cũng đươc thực hiện sớm hơn nhiều
ở Việt Nam( ví dụ như bảo hiểm thất nghiệp Việt Nam có hiệu lực từ ngày 1/1/2009 nên
người lao động sẽ được hưởng trợ cấp thất nghiệp sớm nhất là vào năm 2010).
Chúng ta sẽ lấy một loại hình cụ thể để so sánh đó là bảo hiểm thất nghiệp:
Có thể nói rằng Việt Nam là nước ra đời BHTN muộn nhất – 2009. Một trong những nước
sớm nhất phải kể đến Đan Mạch- 1907; Canada- 1940; Pháp- 1958…. Tuy nhiên, số lượng
người lao động thất nghiệp ở Việt Nam lại được đánh giá gần như thấp nhất – 2,6% chỉ sau
Thái Lan 0,50%.
Hầu hết đối tượng tham gia là người lao động tự nguyện ( tại Việt Nam là người lao động
có hợp đồng làm việc không xác định thời hạn với người sử dụng lao động có từ 10 lao
động trở lên ). Ở Đan Mạch, đối tượng tham gia BHTN còn có thêm sinh viên mới tốt

nghiệp đang tìm kiếm việc làm hoặc Bahrain là những người lần đầu đi tìm việc.
Ở các nước như Việt Nam, Bahrain,Canada, Đan Mạch, Pháp… thì người lao động được
tham gia dịch vụ công, các nước khác như Argentina, Hàn Quốc, Thái Lan thì không. Nếu
17
như ở Canada, Quân đội được tham gia còn đại biểu dân cử không được phép thì ở Đan
Mạch lại cho phép cả đại biểu dân cử tham gia dịch vụ công và ở Bahrain, Quân đội không
được tham gia. Tại Việt Nam, viên chức có giao kết hợp đồng lao động được tham gia và
không được tham gia đối với cán bộ cơ quan chính phủ và công chức có hợp đồng lao động
không xác định thời hạn.
Vấn đề người lao động nước ngoài có được tham gia BHTN hay không? Tại các nước
Bahrain, Canada, Đan Mạch, Pháp và Hàn Quốc, người lao động nước ngoài được phép
tham gia BHTN nhưng tại Việt Nam, Argentina , Thái Lan thì không.
Tại nhiều nước, số tháng làm việc cần thiết để được hưởng BHTN là 12 tháng trong vòng
24-36 tháng liền kề trước khi mất việc. Riêng tại Canada là 420- 700 giờ ( tương đương 12-
20 tuần ); ở Pháp là 4 tháng trong vòng 28 tháng liền kề trước khi mất việc nếu trẻ hơn 50
tuổi, hoặc 4 tháng trong vòng 36 tháng liền kề trước khi mất việc nếu già hơn; Tại Hàn
Quốc là 180 ngày trong 18 tháng liền kề trước khi mất việc; Và Thái Lan là 6 tháng trong
vòng 15 tháng liền kề trước khi mất việc.
Mức hưởng trợ cấp thất nghiệp tại Việt Nam là 60%, Argentina là 50% cho 4 tháng đầu tiên
sau đó thấp hơn, 60% cho người kiếm việc làm lần đầu tiên tại Bahrain, 55% ở Canada, cao
nhất là Đan Mạch 90%; tại Pháp là 75% cho thu nhập thấp và 57% cho thu nhập cao, 50%
cho người thất nghiệp ở Hàn Quốc và Thái Lan.
Thời giam chờ trước khi hưởng BNTH ở Đan Mạch là 3 tuần nếu nghề tự kinh doanh, 2
tuần cộng với thời gian được hưởng tiên trợ cấp thôi việc tại Canada, không tìm được việc
làm trong vòng 15 ngày sau khi đăng ký thất nghiệp và 7 ngày ở Bahrain, Hàn Quốc, Thái
Lan.
Về thời gian hưởng BHTN, 3-12 tháng ở Việt Nam; 4-12 tháng ở Argentina, tuy nhiên
người lao động già hơn có thể được cộng thêm 6 tháng; 6 tháng ở Bahrain và Thái Lan; 14-
45 tuần ở Canada, 24 tháng tại Đan Mạch; 4-24 tháng ở Pháp, 3-8 tháng ở Hàn Quốc.
18

Ngoài Việt Nam không có hình thức phạt khi người lao động chủ động chấm dứt hợp đồng
lao động hay bị đuổi việc thì hầu hết các nước khác đều có. Trừ những trường hợp như
không chủ ý, nghỉ bắt buộc.
Cơ quan vận hành ở các nước cũng khác nhau. Ở Việt Nam cơ quan Bảo hiểm xã hội chịu
trách nhiệm thu và chi trả trợ cấp thất nghiệp, Cục Việc làm chịu trách nhiệm xử lý đơn yêu
cầu bảo hiểm, Sở Lao động- Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm đưa ra quyết định.
Với Argentina, cơ quan Thuế chịu trách nhiệm thu tiền đóng BHTN, cơ quan An sinh xã
hội chịu trách nhiệm xử lý đơn yêu cầu bảo hiểm, đưa ra quyết định và chi trả BHTN.
Bahrain, cơ quan An sinh xã hội chịu trách nhiệm thu tiền đóng bảo hiểm thất nghiệp và
thanh toán trợ cấp thất nghiệp, Bộ Lao động chịu trách nhiệm xử lý đơn yêu câu hưởng
BHTN và đưa ra quyết định. Tại Canada, cơ quan Thuế chịu trách nhiệm thu tiền BHTN
như Argentina nhưng chịu trách nhiệm xử lý đơn, ra quyết định và chi trả trợ cấp thất
nghiệp là cơ quan dịch vụ Canada. Đan Mạch, Quỹ BHTN độc lập thu phí, xử đơn và chi
trả trợ cấp thất nghiệp, cá nhân phải đăng ký tại trung tâm dịch vụ việc làm. Cơ quan chính
phủ tại Hạt chịu trách nhiệm thu phí Bảo hiểm xã hội và thu phí BHTN, cơ quan Thị
trường lao động độc lập chịu trách nhiệm xử lý hồ sơ và chi trả trợ cấp thất nghiệp tại
Pháp.
Phần II:Chứng minh quan điểm :Không đồng ý với nhận định trên
I.Cơ sở lí thuyết
1.Các chương trình thay thế thu nhập
Bảo hiểm thất nghiệp ,tiền bồi hoàn và bảo hiểm mất sức có thể được gọi là các chương
trình thay thế thu nhập .Bảo hiểm thất nghiệp là số tiền trả cho người công nhân đã bị mất
việc ,tạm thời hay thường xuyên ,còn tiền bồi thường được trả cho những người công nhân
bị tai nạn lao động .Tất cả các chương trình này đều để bù đắp cho những người công nhân
nhằm chi trả cho những khoản chi tiêu mà họ không có khả năng trang trải do mất khả
năng lao động
19
a.có nên thay thế hoàn toàn thu nhập hay không?
Bảo hiểm thất nghiệp ,tiền bồi thường ,các chương trình bảo hiểm mất sức nhằm mục đích
thay thế cho sự mất khả năng kiếm tiền khi người lao động già đi hoặc không còn sức để

lao động .Một số lợi ích được chi trả theo 3 chương trình này không bị đánh thuế ,và phần
thu nhập sau thuế được thay thế thậm chí sẽ cao hơn cả thu nhập người lao động có trước
khi mất sức lao động .Tại sao?
Lý do cho việc không nên bù đắp hoàn toàn cho thu nhập bị mất là do việc khuyến khích
lao động.Cả những công nhân gặp tai nạn lao động lẫn những người bị mất thu nhập (do
thất nghiệp hoặc do mất sức ) sẽ suy xét xem họ sẽ không làm việc trong bao lâu.Một
người bị thương ở tay sẽ có thể tiến hành công việc thông thường của họ chỉ với một chút
bất tiện sau một vài ngày chữa trị hoăc quyết định nghỉ ngơi cho đến khi lành hẳn vết
thương mới quay trở lại làm việc.Một người thất nghiệp cũng có thể lựa chọn chấp nhận
công việc được đề nghị đầu tiên hoặc đợi cho đến khi có cơ hội tốt hơn.Trong cả 2 trường
hợp này ,người lao động có quyền hợp pháp rộng rãi ( chỉ bị giới hạn chút ít) khi nào quay
trở lại làm việc.Quyết định này rõ ràng bị tác dộng bởi động cơ làm việc gắn liền với
chương trình thay thế thu nhập.
Thay thế hoàn toàn thu nhập bị mất có thể dẫn tới việc bù đắp quá mức do đã tạo ra mức
thỏa dụng cao hơn trước khi bị mất thu nhập và sẽ khiến người được trợ cấp quyết định trì
hoãn việc đi làm lại của họ càng lâu càng tốt.
b.trợ cấp theo khoản thu nhập bị mất trên thực tế hay trợ cấp “ theo mức độ thương
tật”
Vấn đề thứ hai trong chương trình thay thế thu nhập là làm cách nào để thiết kê được khoản
bù đắp thu nhập hợp lí trong trường họp người lao động mát khả năng lao động vĩnh
viễn.Người lao động mất khả năng lao động tạm thời hay vĩnh viễn nên nhận sự bù đắp
theo thu nhập thực tế của họ hay nên nhận lợi ích bù đắp theo tùng mức độ mất khả năng
lao động của họ?
20
Một người ban đầu có thể nghĩ rằng bù đắp theo thu nhập thực tế có vẻ công bằng hơn.Tuy
nhiên ,tại hầu hết các bang của nước Mỹ,bù đắp cho sự mất khả năng lao động lâu dài lại
không phụ thuộc vào thu nhập thực tế bị mất.


Hình 1

Hình 1cho thấy minh họa bằng đồ thị rằng nếu việc bù đắp là theo mức độ mất khả năng
lao động thì động cơ làm việc là lớn hơn so với việc bù đắp hoàn toàn thu nhập bị
21
mất.Người công nhân bị thương sẽ tối đa hóa độ thỏa dụng tại điểm G hơn điểm B mặc dù
cả hai chương trình bù đắp sựu mất khả năng lao động đều trả cùng một mức trợ cấp như
nhau đối với những người không thể lao động hay không chọn lao động.
Kết luận là việc chi trả theo mức độ thương tật sẽ tạo ra động cơ làm việc lớn hơn việc bù
đắp hoàn toàn thu nhập bị mất trên thực tế của người lao động,thậm chí ngay cả khi lợi ích
chi trả theo mức độ thương tật giảm xuống dưới EO.Khi lợi ích chi trả giảm xuống ,giới
hạn ngân sách ABJ dịch chuyển gần hơn tới AD.Điểm tối đa hóa độ thỏa dụng sẽ di chuyển
ra xa G và gần hơn tới F(điểm tối đa hóa thỏa dụng khi không có chi trả bù đắp mất khả
năng lao động).Động cơ làm việc tối đa vẫn được giữ lại khi không có chương trình trợ cấp
nào ,một tình huống rõ ràng là mâu thuận với mục tiêu tổng thể là hỗ trợ cho những công
nhân gặp khó khăn.
Trong khi mục tiêu cơ bản của nhwungx chương tình này là bù đắp sựu suy giảm thu nhập
của những công nhân gặp khó khăn, điều quan trọng là cần duy trì nỗ lực lao động càng
nhiều càng tốt .Nếu ta gọi AD là đường giới hạn ngân sách khi không có trợ cấp và điểm F
là điểm tối ưu nỗ lực lao động,điều dễ nhận thấy từ hình 1 là trợ cấp theo mức độ thương
tật sẽ chỉ tạo ra hiệu ứng thu nhập .Đường giới hạn ngân sách dịch chuyển ra ngoài tới ABJ
nhưng không thay đổi độ dốc.
Ngược lại ,nếu trả một khoản trợ cấp dựa trên thu nhập thực tế bị mất ,sẽ có cả hiệu ứng
thay thế và hiệu ứng thu nhập .Cả hai hiệu ứng này đều hoạt động theo cùng một
hướng.Trợ cấp lúc này sẽ làm tăng thu nhập trong khi giảm nỗ lực lao động xuống bằng
0(đoạn BA trên đường giới hạn ngân sách ABCD).
2. Các chương trình duy trì thu nhập
a.hệ thống phúc lợi cơ bản
Trong những năm gần đây,hệ thống phúc lợi được tổ chức dưới dạng bảo đảm thu nhập
hàng năm.Một nhân viên công tác xã hội sẽ xác định thu nhập “cần thiết” của một người
hay một gia đình thuộc đối tượng của chương trình ,dựa vào quy mô hộ gia đình,chi phí
22

sinh hoạt trong khu vực và các quy định về phúc lợi địa phương.Thu nhập thực tế thường
được trừ đi từ mức thu nhập “cần thiết”này,và người thụ hưởng sẽ được nhận khoản còn
thiếu hàng tháng.Nếu thu nhập thực tế của người thụ hưởng gia tăng ,phúc lợi xã hội sẽ
giảm xuống .Điều này tạo ra đường giới hạn thu nhập là đường ABCD như trong hình 2 và
thu nhập “cần thiết” là Yn.Những người được hưởng trợ cấp sẽ không có động cơ làm việc
vì phần lớn thời gian làm việc của họ sẽ nhận được “tiền lương bằng 0”( đoạn BC).Do
đó ,hệ thống phúc lợi cơ bản sẽ làm tăng thu nhập của người nghèo bằng cách dịch chuyển
phần thấp nhất của đường giới hạn ngân sách AC chuyển sang ABC.Sự dịch chuyển này
tạo ra một hiệu ứng thu nhập có xu hướng làm giảm cung lao động ,thể hiện bằng sự dịch
chuyển từ điểm E lên điểm F.Tuy nhiên điều này cũng làm cho tiền lương hiệu quả giảm
tới mức 0(mỗi một đôla tiền lương mà người lao động kiếm được sẽ làm giảm đúng một
đôla mà anh ta nhận được từu hệ thống phúc lợi ).Việc này đã gây ra một hiệu ứng thay thế
khổng lồ có thể khiến cho người thụ hưởng không muốn lao động và lựa chọn điểm B.Tất
nhiên là người thụ hưởng mong muốn tối đa hóa lợi ích sẽ lựa chọn điểm F và lựa chọn lao
động.
23
Hình 2
b.hệ thống phúc lợi sửa đổi
Vào đầu những năm 1990 ở Hoa Kì ,hệ thống phúc lợi xã hội cơ bản kề trên đã được sủa
đổi theo hướng yêu cầu người thụ hưởng (không có con dưới 3 tuổi) lao động 16 tiếng mỗi
tuần trong thời gian tối thiểu là 6 tháng mỗi năm.Tuy nhiên không rõ là liệu có bao nhiêu
người thụ hưởng thực tế được yêu cầu lao động vì 2 lí do.Lý do thứ nhất là sẽ mất một
khoảng thời gian khá dài để giới thiệu việc làm cho họ.Lý do thứ hai là những người không
tìm được việc làm có thể đáp ứng yêu cầu trên bằng cách tham dự một chương trình dạy
nghề.Mặc dù việc áp dụng quy định này tiến triển rất chậm chạp,tuy nhiên vẫn rất thú vị
nếu xem xét ảnh hưởng của việc cải cách này tới động cơ làm việc.
Giả sử chính phử yêu cầu người dân lao đọng 3 giờ mỗi ngày nếu muốn được tham gia vào
chương trình phúc lợi.Nếu lao động ít hơn 3 giờ mỗi ngày,người lao động sẽ phải tự phụ
thuộc vào tiền lương kiếm được để sinh sống và họ sẽ dối diện với đoạn AB nếu lao động ít
24

hơn 3 giờ mỗi ngày.(hình 3)
Hình 3
Tại điểm mà người công nhân lao động 3 giờ mỗi ngày ,nếu anh ta là người nghèo ,anh ta
sẽ được hưởng lợi ích từ chương trình phúc lợi.Do đó ,sau 3 giờ làm việc,thu nhập của
người đó sẽ được nâng lên mức Yn và mỗi đôla anh ta kiếm được cũng sẽ làm giảm đi một
đôla nhận được từ chương trình phúc lợi.Điều này tương ứng với đoạn BCD trong hình
25

×