SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TIỀN GIANG
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG CHUYÊN
ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG
GIÁO DỤC THẨM MỸ VÀ GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THƠNG
TRONG XU THẾ TỒN CẦU HOÁ VÀ HỘI NHẬP –
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Người thực hiện: NGUYỄN VĂN HƯNG
TIỀN GIANG, THÁNG 03/ 2014
1
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Mục lục
MỞ ĐẦU
0.1. Lý do chọn đề tài ..........................................................
2
0.2. Lịch sử nghiên cứu đề tài ..............................................
4
0.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài .......................
4
0.4. Phương pháp nghiên cứu đề tài .....................................
5
0.5. Đóng góp của đề tài .......................................................
5
0.6. Bố cục của đề tài............................................................
6
Chương 1. THỰC TRẠNG VỀ ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG, VỀ THỊ
HIẾU THẨM MỸ, CẢM NHẬN THẨM MỸ CỦA HỌC
SINH THPT VÀ VIỆC LỰA CHỌN NGHỀ NGHIỆP CỦA
HỌC SINH SAU TỐT NGHIỆP
1.1. Thực trạng về giáo dục đạo đức, lối sống, về thị hiếu
thẩm mỹ, cảm nhận thẩm mỹ của học sinh THPT.........
7
1.2. Việc lựa chọn nghề nghiệp của học sinh sau tốt nghiệp
THPT ..........................................................................
10
1.3. Nguyên nhân của những thực trạng ...............................
11
1.4. Tiểu kết .........................................................................
21
Chương 2. CÁC GIẢI PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG,
GIÁO DỤC THẨM MỸ, GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP
CHO HỌC SINH THPT TRONG XU THẾ TỒN CẦU HỐ
VÀ HỘI NHẬP
2.1. Giải pháp giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh.........
23
2.2. Giải pháp giáo dục thẩm mỹ cho học sinh THPT...........
27
2.3. Giải pháp giáo dục hướng nghiệp cho học sinh THPT
34
KẾT LUẬN
40
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................
43
PHỤ LỤC .......................................................................................
44
2
MỞ ĐẦU
01. Lý do chọn đề tài
Ông cha ta xưa đã đúc kết một kinh nghiệm sâu sắc về giáo dục là “Tiên
học lễ, hậu học văn “ – một triết lý giáo dục Việt Nam đã có từ nghìn đời nay.
“Lễ” ở đây chính là nền tảng của sự lĩnh hội và phát triển tốt các tri thức và kỹ
năng. Ngày nay, phương châm “Dạy người, dạy chữ, dạy nghề “ cũng thể hiện
rõ tầm quan trọng của hoạt động giáo dục đạo đức, nhân cách, lối sống, giáo dục
thẩm mỹ, giáo dục hướng nghiệp cho học sinh, như Bác Hồ đã dạy: “Dạy cũng
như học, phải chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái
gốc quan trọng. Nếu thiếu đạo đức, con người sẽ khơng phải là con người bình
thường và cuộc sống xã hội sẽ không phải là cuộc sống xã hội bình thường, ổn
định...”.
Và sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:
“Có tài khơng có đức chỉ là người vơ dụng.
Có đức mà khơng có tài thì làm việc gì cũng khó “.
Đảng ta đã chủ trương:“Tăng cường giáo dục cơng dân, giáo dục tư
tưởng, đạo đức, lịng yêu nước, chủ nghĩa Mác – Lê Nin, đưa việc giáo dục tư
tưởng Hồ Chí Minh vào nhà trường phù hợp với từng lứa tuổi và bậc
học...”. Bởi vậy, tu dưỡng và rèn luyện bản thân để trở thành người có nhân
cách, vừa có đức vừa có tài là hết sức quan trọng đối với mỗi con người, là
nhiệm vụ hàng đầu của giáo dục - đào tạo.
Ngày nay, giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh là giáo dục lòng trung
thành đối với Đảng, hiếu với Dân, yêu q hương đất nước, có lịng vị tha, nhân
ái, cần cù, liêm khiết và chính trực. Đó là đạo đức Xã hội Chủ nghĩa, là đạo đức
của cá nhân, tập thể và chủ nghĩa nhân đạo mang tính chân thực, tích cực, khác
với đạo đức vị kỷ, cá nhân. Giáo dục đạo đức học sinh gắn chặt với giáo dục tư
tưởng - chính trị, giáo dục truyền thống và giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc,
giáo dục pháp luật nhà nước Xã hội Chủ nghĩa, cung cấp cho học sinh những
3
phương thức ứng xử đúng trước các vấn đề của xã hội…, giúp cho các em có
khả năng tự kiểm soát được hành vi của bản thân một cách tự giác, có khả năng
chống lại những biểu hiện lệch lạc về lối sống.
Giáo dục đạo đức, lối sống, giáo dục thẩm mỹ cho học sinh là một lĩnh vực
quan trọng trong việc hình thành nhân cách, phát triển con người trong nhà
trường. Ðiều đó địi hỏi chúng ta phải tăng cường giáo dục kỹ năng sống để
học sinh có những hành vi ứng xử, có những việc làm đúng đắn trong học tập
và cuộc sống.
Giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông (THPT) cũng là
một trong những nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục THPT, nhằm hướng đến mục
tiêu giáo dục toàn diện học sinh. Đây là điều mà bất kỳ nhà trường THPT Việt
Nam nào cũng đặt ra cho từng năm học.
Tuy nhiên, việc giáo dục đạo đức, lối sống, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục
hướng nghiệp cho học sinh trong nhiều thập kỷ qua còn bỏ ngõ, chưa được các
nhà trường quan tâm đúng mức, hiệu quả đạt được chưa cao. Những bất cập
trong nội dung, hình thức giáo dục đạo đức, lối sống, giáo dục thẩm mỹ, giáo
dục hướng nghiệp ở cấp học này vẫn là vấn đề thời sự đối với ngành giáo dục –
đào tạo, đối với các nhà trường THPT, với những người làm công tác quản lý
giáo dục, đối với nhà giáo, đối với các bậc cha mẹ học sinh và toàn xã hội.
Mặt khác, hiện nay học sinh đang phải đối mặt với nhiều khó khăn trong
việc lựa chọn những giá trị phù hợp với truyền thống của dân tộc, vừa đáp ứng
xu hướng phát triển của xã hội hiện đại, nhất là việc lựa chọn lối sống, hành vi
ứng xử trong cuộc sống, học tập và các mối quan hệ xã hội. Bên cạnh những
học sinh có biểu hiện tư tưởng, đạo đức, lối sống tích cực, lành mạnh và hành
vi ứng xử có văn hóa chuẩn mực, lựa chọn nghề nghiệp tương lai có định
hướng và rất thực tế, vẫn cịn một bộ phận khơng nhỏ học sinh có những hành
vi ứng xử thiếu văn hóa, có biểu hiện vi phạm đạo đức, thậm chí vi phạm pháp
luật, gây lo lắng, bức xúc trong dư luận xã hội; còn việc chọn lựa nghề nghiệp
4
cho tương lai thì thường theo cảm tính, theo phong trào, theo mốt, theo xu
hướng thời thượng, khơng có cơ sở khoa học và thiếu tính thực tế.
Từ thực trạng của việc giáo dục đạo đức, lối sống, giáo dục thẩm mỹ, giáo
dục hướng nghiệp cho học sinh cấp THPT trong vài thập kỷ qua, chúng tôi
nghiên cứu đề tài Giáo dục đạo đức, lối sống, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục
hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông trong xu thế tồn cầu hố và
hội nhập – thực trạng và giải pháp.
02. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu thực trạng và giải pháp giáo dục đạo đức, lối sống, giáo
dục thẩm mỹ, giáo dục hướng nghiệp cho học sinh THPT được đề cập nhiều ở
các bài viết đăng trên các báo, tạp chí chuyên ngành. Song, ở các bài viết trên,
các tác giả chỉ nêu lên những thơng tin mang tính dự báo, chưa phân tích một
cách sâu sắc và có tính hệ thống về những nguyên nhân cụ thể dẫn đến sự xuống
cấp về phương diện đạo đức, lối sống, nhận thức thẩm mỹ của học sinh THPT
hiện nay, cũng như việc lựa chọn nghề nghiệp thiếu tính định hướng của học
sinh sau tốt nghiệp THPT, chưa đưa ra được các giải pháp thiết thực, hữu hiệu
để giáo dục đạo đức, lối sống, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục hướng nghiệp cho
học sinh.
Với đề tài này, chúng tơi sẽ đi sâu phân tích thực trạng việc giáo dục đạo
đức, lối sống, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục hướng nghiệp cho học sinh THPT
trong thời gian qua; trên cơ sở đó, chúng tơi sẽ đưa ra những giải pháp thiết
thực, hiệu quả trong việc giáo dục đạo đức, lối sống, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục
hướng nghiệp cho học sinh THPT trong thời kỳ toàn cầu hoá, hội nhập nhằm
đào tạo một thế hệ học sinh có đủ tài, đủ đức phục vụ cho sự nghiệp cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước; góp phần đưa đất nước ta “sánh vai với cường quốc
năm châu” như sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn.
0.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là:
5
(1) Thực trạng đạo đức, lối sống, thị hiếu thẩm mỹ, cảm nhận thẩm mỹ của
học sinh và việc lựa chọn nghề nghiệp của học sinh trường THPT Chuyên Tiền
Giang sau tốt nghiệp THPT; nguyên nhân của thực trạng trên.
(2) Tìm ra những biện pháp / giải pháp có tính khả thi trong việc giáo dục
đạo đức, lối sống, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục hướng nghiệp cho học sinh THPT
trong xu thế tồn cầu hố và hội nhập; trên cơ sở đó góp phần giáo dục tồn diện
học sinh.
0.4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu mà chúng tôi sử dụng trong đề tài
nghiên cứu là:
- Phương pháp điều tra (bằng phiếu thăm dò), phương pháp quan sát dùng
để quan sát các hoạt động giáo dục đạo đức, lối sống, giáo dục thẩm mỹ, giáo
dục hướng nghiệp trong nhà trường.
- Các phương pháp khác như: phỏng vấn, thống kê để thu thập và xử lý số liệu.
- Phương pháp phân tích, miêu tả dùng để phân tích miêu tả thực trạng đạo
đức, lối sống, cảm nhận thẩm mỹ và giáo dục hướng nghiệp cho học sinh sau tốt
nghiệp THPT.
0.5. Đóng góp của đề tài
Với đề tài này, chúng tôi muốn tạo nên một cái nhìn tồn cảnh về thực
trạng bức tranh giáo dục đạo đức, lối sống, giáo dục thẩm mỹ và giáo dục hướng
nghiệp ở các nhà trường THPT nói chung và ở trường THPT Chuyên Tiền
Giang nói riêng. Trên cơ sở đó, mỗi nhà trường, mỗi Thầy cô giáo, một mặt (1)
nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức, lối sống, giáo dục
thẩm mỹ, giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trong quá trình dạy học / giáo
dục, mặt khác, (2) Thầy cô giáo cùng với nhà trường tìm ra những biện pháp /
giải pháp thích hợp để giáo dục đạo đức, lối sống, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục
hướng nghiệp cho học sinh đạt hiệu quả cao nhất, góp phần giáo dục tồn diện
cho học sinh.
6
0.6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, đề tài được cấu
trúc thành hai chương:
Chương 1. Thực trạng về đạo đức, lối sống, thị hiếu thẩm mỹ, cảm nhận
thẩm mỹ của học sinh THPT và việc lựa chọn nghề nghiệp của học sinh sau tốt
nghiệp THPT .
Chương 2. Các giải pháp giáo dục đạo đức, lối sống, giáo dục thẩm mỹ,
giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông trong xu thế tồn cầu
hố và hội nhập.
7
CHƯƠNG 1.
THỰC TRẠNG VỀ ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG, VỀ THỊ HIẾU THẨM MỸ,
CẢM NHẬN THẨM MỸ CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
VÀ VIỆC LỰA CHỌN NGHỀ NGHIỆP CỦA HỌC SINH
SAU TỐT NGHIỆP TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Thực trạng về đạo đức, lối sống, về thị hiếu thẩm mỹ, cảm nhận
thẩm mỹ của học sinh THPT
1.1.1. Thực trạng về đạo đức, lối sống của học sinh THPT
Một khảo sát được thực hiện ở trường THPT Chuyên Tiền Giang trong
học kỳ 1, năm học 2013-2014 về những biểu hiện hành vi vi phạm đạo đức học
đường của học sinh được thể hiện qua bảng sau:
Số lượng HS
Biểu hiện vi phạm
Đi học khơng đúng giờ
Nghỉ học khơng lí do (KP)
Quay cóp trong thi và kiểm tra (*)
Sử dụng tài liệu trong thi và KT(**)
Nói dối / thiếu trung thực
Vi phạm luật giao thơng (***)
Ứng xử văn hố thiếu chuẩn mực
Hành vi vơ cảm
Lớp 10
SL
%
2/100
2,0
1/100
1,0
3/100
3,0
3/100
3,0
9/100
9,0
8/100
8,0
5/100
5,0
4/100
4,0
Lớp 11
SL
%
4/100
4,0
3/100
3,0
5/100
5,0
4/100
4,0
12/100 12,0
10/100 10,0
7/100
7,0
10/100 10,0
Lớp 12
SL
%
6/100 6,0
6/100 6,0
7/100 7,0
5/100 5,0
16/100 16,0
11/100 11,0
15/100 15,0
18/100 18,0
Một đặc điểm nổi bật nhất của học sinh trường THPT Chuyên là phần lớn
các em có học lực khá giỏi chiếm trên 85%; đa phần là chăm ngoan, biết vâng
lời thầy cô và đặc biệt là có ý thức tự giác cao.
Tuy nhiên, hiện tượng vi phạm đạo đức, lối sống không phải là vắng bóng
mà từng lúc, từng nơi vẫn xảy ra những biểu hiện vi phạm đạo đức. Từ số liệu
khảo sát trên, chúng tơi thấy rằng, một điều dễ thấy là tình hình vi phạm đạo đức
của học sinh là càng học lên cao thì số lượng vi phạm đạo đức càng tăng.
(*)
Có thể bị giáo viên phát hiện / khơng bị phát hiện.
(**)
Có thể bị giáo viên phát hiện / khơng bị phát hiện.
(***)
Vi phạm có ý thức / vơ thức; có thể bị phát hiện / khơng bị phát hiện.
8
Trong số các hành vi vi phạm thường thấy (như bảng thống kê) thì hành vi
nói dối / thiếu trung thực, hành vi ứng xử văn hoá thiếu chuẩn mực và hành vi
vô cảm là đáng quan tâm hơn cả.
Về hành vi nói dối / thiếu trung thực, lúc đầu thì các em cảm thấy vơ hại, vì
nó khơng ảnh hưởng gì cho bản thân học sinh / người khác. Tuy nhiên, hành vi
này được duy trì thường xuyên và cứ lặp đi, lặp lại nhằm mục đích che đậy
những lỗi lầm của mình thì nó lại vơ cùng tệ hại, trở thành một thói quen xấu mà
xã hội đã và đang lên án.
Về hành vi ứng xử văn hoá thiếu chuẩn mực, thường được biểu hiện ở
những hành vi sau:
- Học sinh giao tiếp với nhau xưng hô mày, tao,… trước mặt thầy cô / người lớn.
- Học sinh khi giao tiếp, ứng xử với thầy cô như giao tiếp với bạn bè, vào
lớp trễ thì ngang nhiên vào, khơng cần xin phép.
- Học sinh có những hành vi chưa thể hiện kính trọng những người lớn tuổi
hơn mình thậm chí bằng tuổi cha, tuổi mẹ mình.
- Học sinh thiếu lễ phép, lễ độ, thiếu sự tôn trọng thầy cơ, coi thường việc
học; thậm chí có trường hợp gọi thầy cô là ông nọ, bà kia bằng các đại từ khẩu
ngữ ngôi thứ ba như “ổng”, “bả” .
- Một số học sinh có biểu hiện của lối sống thực dụng, phủ nhận những giá
trị đạo đức truyền thống, vi phạm giờ giấc, học tập, ứng xử chưa chuẩn mực
trong môi trường sư phạm; ngôn phong, tác phong chưa chưa chuẩn làm ảnh
hưởng đến văn hóa ứng xử trong nhà trường.
- Một biểu hiện dễ thấy là dường như văn hố “cám ơn!”, văn hố “xin lỗi”
ngày càng vắng bóng và trở nên xa lạ đối với học sinh.
Về hành vi vô cảm, nhiều học sinh thiếu sự đồng cảm, sẻ chia với nỗi buồn,
niềm đau với những người xung quanh, sống chỉ biết mình, thờ ơ, dửng dưng
với mọi người.
9
Chính những điều nói trên đã làm cho tâm hồn các em khô cằn, chán nản,
mệt mỏi, tầm thường, rỗng lịng tin. Đó chính là những yếu tố quyết định thái độ
cư xử thiếu văn hóa và đạo đức của con người con người nói chung và của học
sinh nói riêng trong xã hội hôm nay; làm cho học sinh mất đi tâm hồn sôi nổi,
trong sáng. Bởi lẽ, “xã hội giống như một sới vật khổng lồ mà ở đó hầu hết các
đơ vật đều khơng chơi đúng luật, sẵn sàng phạm luật để chiến thắng đối
phương”.
1.1.2. Về thị hiếu thẩm mỹ và cảm thụ thẩm mỹ của học sinh THPT
Thị hiếu thẩm mỹ, cảm thụ thẩm mỹ là một trong những hình thái ý thức xã
hội, có mối quan hệ biện chứng với ý thức đạo đức. Trong cuộc sống, thị hiếu
thẩm mỹ và thị hiếu nghệ thuật có liên quan chặt chẽ với các quy phạm đạo đức.
Trong xã hội, những lý tưởng thẩm mỹ cao đẹp trở thành nhân tố tích cực trong
phát triển nhân cách con người.
Đất nước đang trong thời kỳ đổi mới và sự phát triển của nền kinh tế thị
trường ít nhiều đã ảnh hưởng đến quan niệm đạo đức, lối sống, thị hiếu thẩm mỹ
của con người nói chung và học sinh nói riêng. Vấn đề đặt ra lúc này là phải
tăng cường công tác giáo dục đạo đức mới cho học sinh, kết hợp giáo dục với
các mơn văn hố - khoa học khác để phát triển con người toàn diện. Trong q
trình đó, chúng ta cần coi trọng giáo dục thẩm mỹ cho học sinh, hình thành ở các
em tình cảm, thị hiếu, lí tưởng thẩm mỹ đúng đắn, phù hợp với những giá trị
truyền thống của dân tộc, thúc đẩy học sinh vươn tới cái đẹp và hành động theo
quy luật cái đẹp. Tuy nhiên, trong những năm qua, công tác giáo dục thẩm mỹ,
giáo dục thị hiếu nghệ thuật cho học sinh còn nhiều hạn chế. Điều này dẫn đến
một hệ quả là học sinh có những biểu hiện lệch lạc trong thị hiếu thẩm mỹ và
cảm thụ thẩm mỹ.
Chẳng hạn, học sinh khi đứng trước những loại văn hóa phẩm độc hại, đồi
truỵ, thậm chí phản động, nhiều em đã khơng tạo cho mình khả năng tự phịng
ngừa, "miễn dịch" có hiệu quả. Ngược lại, các em tiếp thu một cách không chọn
10
lọc, thậm chí cịn ca ngợi nó, cổ x nó. Một số học sinh chạy theo thị hiếu thấp
hèn, lối sống thực dụng, cá nhân, vị kỷ, xem thường những giá trị văn hố của
dân tộc, có quan niệm khơng đúng về cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài.
Qua khảo sát 150 học sinh thuộc ba khối lớp (lớp 10, lớp 11 và lớp 12, năm
học 2013 - 2014, mỗi khối lớp 50 học sinh) về thị hiếu thẩm mỹ, cảm thụ thẩm
mỹ, đánh giá và sáng tạo theo quy luật cái đẹp, được biểu hiện qua bảng sau:
Mức độ nhận thức
và cảm thụ thẩm mỹ
Trung
Cao
Thấp
bình
SL
17
%
11,3
SL
101
%
67,3
SL
32
%
21,4
Mức độ đánh giá
thẩm mỹ
Trung Thấp
Cao
bình
SL
17
%
11,3
SL
64
%
42,7
SL
47
%
31,3
Mức độ sáng tạo
thẩm mỹ
Trung
Cao
Thấp
bình
SL
15
%
10,0
SL
44
%
29,3
SL
91
%
60,7
Nhìn chung, sự nhận thức thẩm mỹ, cảm thụ thẩm mỹ của học sinh dừng ở
mức trung bình (chiếm tỉ lệ 67,3%), từ đó kéo theo sự đánh giá thẩm mỹ càng
thấp, còn sự sáng tạo thẩm mỹ của học sinh thì rất yếu.
Thực trạng này đã nói lên sự yếu kém của ngành giáo dục – đào tạo, của
các nhà trường, của đội ngũ thầy cô giáo, của các bậc cha mẹ học sinh trong việc
giáo dục thẩm mỹ cho các em.
1.2. Việc lựa chọn nghề nghiệp của học sinh sau tốt nghiệp THPT
Thực trạng của việc lựa chọn nghề nghiệp của học sinh sau tốt nghiệp
THPT được thể hiện qua bảng sau:
Tiêu chí
lựa chọn
Theo sự rủ rê của
bạn bè, theo phong
trào và ước muốn
của cha mẹ
Theo sở thích và
nguyện vọng
cá nhân
Trên cơ sở khoa
học và thực tiễn
Đối tượng và
số lượng khảo sát
SL
%
SL
%
SL
%
242 học sinh lớp
12, năm học
2013-2014
92
38,1
64
26,4
86
35,5
Từ kết quả khảo sát trên, chúng tơi thấy có đến (i) 38,1 % học sinh chưa
thực sự hiểu rõ về năng lực của bản thân; (ii) 26,1% học sinh chưa hiểu rõ về
tầm quan trọng của việc lựa chọn nghề nghiệp cho tương lai và (iii) chỉ có
11
35,5% học sinh chọn lựa nghề nghiệp tương lai có cơ sở khoa học và tính thực
tiễn cao (lựa chọn dựa vào các tiêu chí: năng lực, sở thích / hứng thú và nhu cầu
xã hội).
Riêng ở trường hợp (i) và (ii) còn nảy sinh một quan niệm là phải đỗ vào
đại học bằng mọi giá, bất kể ngành đó có phù hợp với năng lực bản thân và triển
vọng của nghề nghiệp đó ở tương lai. Chính điều này đã tạo ra một hệ quả là
khơng ít học sinh sau khi thi đỗ và học ở một trường đại học nào đó chỉ được
một năm, sau đó cảm thấy khơng phù hợp với năng lực và sở thích / hứng thú,
buộc phải làm hồ sơ thi vào một trường khác. Khơng ít trường hợp làm những
cơng việc trái với nghề nghiệp đã được đào tạo sau khi tốt nghiệp (chẳng hạn:
tốt nghiệp bác sĩ đa khoa lại đi làm du lịch; tốt nghiệp ngành kỹ thuật lại làm
quản lý kinh tế; tốt nghiệp đại học kinh tế lại làm công nhân…).
1.3. Nguyên nhân của thực trạng
Sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự lệch lạc về thị hiếu thẩm mỹ, cảm
thụ thẩm mỹ của học sinh hiện nay là đáng báo động. Còn về việc làm, sinh viên
sau khi tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề khơng tìm được việc
làm. Một bộ phận làm những công việc trái với nghề nghiệp được đào tạo, một
bộ phận tiếp tục “ăn bám” vào gia đình… Họ tiếp tục là gánh nặng cho gia đình
và xã hội dù đã cầm trong tay đủ thứ bằng cấp.
1.3.1. Nguyên nhân của sự xuống cấp về đạo đức, lối sống của học sinh
1.3.1.1. Về mặt xã hội
Trong những năm gần đây, xu thế tồn cầu hố, hội nhập với thế giới đã
mở ra cho nước ta những thời cơ, vận hội mới. Nền kinh tế đã có những bước
phát triển vượt bậc, đời sống nhân dân được nâng lên; góp phần tích cực cho sự
phát triển của giáo dục và đào tạo nước nhà, tạo nên những thành quả quan trọng
trong thực hiện mục tiêu của Ngành là: “Nâng cao dân trí - Đào tạo nguồn nhân
lực - Bồi dưỡng nhân tài” cho đất nước.
12
Song bên cạnh những tác động tích cực, những tác động xấu từ môi trường
xã hội của thời kỳ “mở cửa, hội nhập”, sự phát triển của công nghệ thông tin đã
tạo nên “thế giới phẳng” đã làm cho những “tư tưởng văn hoá xấu, ngoại lai,
đồi truỵ, phản động” có cơ hội lan nhanh đến với giới trẻ. Phim ảnh, trò chơi
bạo lực / phim ảnh bạo lực xuất hiện nhan nhản trên mạng Internet và một số
kênh truyền hình.
Một tác động tiêu cực khác của cơ chế thị trường là sự lên ngôi của đồng
tiền đã xâm nhập sâu vào mọi ngõ ngách của cuộc sống hàng ngày, tạo nên căn
bệnh chết người – căn bệnh vô cảm ở giới trẻ nói chung và ở học sinh nói riêng.
Đâu đó cịn có những hiện tượng suy thối về đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng,
thích chạy theo lối sống thực dụng.
Những hành động phạm pháp của “người lớn” đã tác động xấu trực tiếp
đến học sinh. Các tệ nạn xã hội có nơi, có lúc đã xâm nhập vào trong trường
học; tình trạng một số học sinh lún sâu vào tệ nạn xã hội, thậm chí đánh thầy,
gây án, giết người, cướp của… số này tuy không phổ biến nhưng có xu hướng
gia tăng, làm băng hoại đạo đức, tha hoá nhân cách; gây nỗi đau cho các bậc cha
mẹ và cho toàn xã hội. Tất cả đã tác động xấu tới các giá trị đạo đức truyền
thống, ảnh hưởng không nhỏ trực tiếp đến công tác giáo dục đạo đức, lối sống
học sinh trong nhà trường, đến an ninh trật tự an toàn xã hội.
Mặc dù nhà trường thường xuyên giáo dục cho các em về tính trung thực,
lòng bác ái, vị tha và phải biết vươn lên bằng chính đơi chân của mình. Nhưng
trong thực tế, các em lại tận mắt chứng kiến quá nhiều người lớn không trung
thực nhưng vẫn "thành đạt"? Tệ nạn sử dụng bằng giả hay mua bằng, gian dối
trong báo cáo thành tích (bệnh thành tích), sự thiếu nghiêm minh của pháp luật
tác động đến các em hàng ngày làm cho các em thiếu niềm tin với những điều
tốt đẹp đã học được trong nhà trường.
13
Sự tha hoá về đạo đức của một bộ phận khơng nhỏ của giới trẻ trong xã hội
ta có một nguyên nhân cần nhấn mạnh là do ảnh hưởng của những tiêu cực đang
diễn ra trong cuộc sống hôm nay.
1.3.1.2. Về phía ngành giáo dục – đào tạo
Việc xây dựng chương trình và biên soạn sách giáo khoa của các môn học
khoa học xã hội như Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý đã bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt
các môn học Đạo đức (cấp tiểu học) và Giáo dục công dân (cấp THCS và
THPT) đã không được quan tâm đúng mức.
Mặt khác, chúng ta đã từng có một quan niệm rất sai lầm là "đi tắt đón
đầu" trong ngành giáo dục – đào tạo. Người ta đã hiểu nhầm chủ trương này, bởi
đi tắt đón đầu trong khoa học và kỹ thuật, trong đổi mới cơng nghệ... thì hồn
tồn đúng. Nhưng người ta đã hiểu "đi tắt đón đầu" trong giáo dục – đào tạo là
dạy cho con trẻ thật nhiều kiến thức thì nền giáo dục Việt Nam sẽ tiến lên hàng
"top" của thế giới, mà quên đi một điều rất cơ bản là muốn làm gì làm nhưng
trước tiên là dạy các em “làm người”.
Người ta đã quên rằng "dục tốc bất đạt". Thực trạng giáo dục phổ thơng
hiện nay nói chung và ở cấp THPT nói riêng đã gây khó khăn cho giáo dục đại
học. Nhiều học sinh phổ thông khi bước vào ngưỡng cửa đại học rất giỏi các
mơn tốn, lý, hóa, sinh... nhưng khi cần viết một lá đơn xin phép nghỉ học vì đau
ốm (hay vì một lý do chính đáng nào đó) lại không biết bắt đầu như thế nào.
Kiến thức về lịch sử, địa lý Việt Nam thì đã “trả hết” cho thầy cô khi vừa tốt
nghiệp THPT. Những "bài thi kinh khủng" mà báo chí thời gian qua đã cho mọi
người thấy điều đó.
Một ngun nhân khơng kém phần quan trọng, đó chính là chương trình
giảng dạy đạo đức ở các cấp học phổ thơng. Chương trình đạo đức được thực
hiện xuyên suốt, từ bậc Mầm non là giáo dục lễ giáo, bậc Tiểu học là môn Đạo
đức, bậc Trung học là môn Giáo dục công dân. Thế nhưng, chương trình nặng
tính lý thuyết, thiếu giáo dục kỹ năng sống, lại không tạo được dấu ấn để tác
động đến việc hình thành nhân cách học sinh. Những bài học ý nghĩa, gần gũi
với đời sống không được chú trọng mà thay bằng những bài học quá trừu tượng,
14
khô cứng; không dạy cho học sinh những giá trị đạo đức cơ bản của con người
(dạy học sinh làm người) mà đưa vào đó quá nhiều kiến thức triết học, kinh tế
chính trị học mang tính hàn lâm, thiếu vắng việc rèn luyện và hình thành những
thói quen đạo đức và kỹ năng sống phù hợp với những chuẩn mực xã hội.
1.3.1.3. Về phía nhà trường
Trong nhà trường, tính cưỡng chế, áp đặt của giáo dục quá nhiều. Chúng ta
hướng đến giáo dục con người có tư duy độc lập nhưng thầy lại muốn học trò
theo. Nếu học trò nói và làm chệch ra ngồi ý thầy thì sẽ bị phê bình.
Mặt khác, như đã nói trên, cả xã hội đang chạy theo bằng cấp, thành tích và
lao vào cuộc đua mà quên mất những điều đơn giản nhất của đạo đức truyền
thống như biết thưa gửi, cám ơn, chào hỏi…, đặc biệt là việc dạy và hình thành
“tư đức” (đạo đức cá nhân để các em hình thành được bản lĩnh, tính tự chủ trong
cuộc sống sau này) cho học sinh bị bỏ quên. Thầy cô dạy những điều quá lớn lao
mà quên đi những điều nhỏ nhất. Đó là dạy cho học sinh về nhân cách.
Nhà trường hiện nay cũng đang đi theo chiều hướng nhồi nhét kiến thức, đề
cao việc “đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng nhu cầu nhân lực của nền kinh
tế”. Việc giáo dục đạo đức, giáo dục ý thức công dân cho người học sinh gần
như bị bỏ quên hoặc bị xem là thứ yếu. Trong khi đó, vai trị của trường học đâu
chỉ bó hẹp trong việc “dạy chữ”, “dạy nghề” mà còn phải truyền tải cho người
học những giá trị, chuẩn mực của xã hội để họ trở thành những con người tồn
diện, biết sống vì mọi người và biết tơn trọng người khác.
Chính vì chỉ quan tâm đến việc nhồi nhét kiến thức nên trường học chỉ có
thể đào tạo ra những con người đầy tri thức, thông thạo các kỹ năng mang tính
cơng cụ nhưng khơng phải là những người trí thức thật sự. Vì khơng phải là
người trí thức nên những “sản phẩm giáo dục” ấy rất “hồn nhiên” gây tổn hại
đến người khác và vi phạm pháp luật.
Có lúc, có nơi uy tín người thầy bị sa sút, các giá trị truyền thống “Tôn sư
trọng đạo” bị nhìn nhận một cách méo mó, vật chất hố, thực dụng; có trường
15
hợp người thầy khơng giữ được tư thế đáng kính trọng trong quan hệ thầy trị,
thiếu gương mẫu; tình trạng vi phạm dạy thêm, học thêm tràn lan đã tác động
xấu đến uy tín của người thầy trong suy nghĩ học sinh và khơng ít phụ huynh.
Một ngun nhân cơ bản khác là môn Giáo dục công dân – môn học góp
phần khá quan trọng trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh bị xem là môn
phụ, không được coi trọng và thậm chí bị xem thường. Học sinh học theo kiểu
chiếu lệ để lấy điểm.
Nói tóm lại, nguyên nhân của mọi nguyên nhân dẫn đến sự xuống cấp về
đạo đức, lối sống của học sinh hiện nay là chúng ta quá chú trọng đến việc “dạy
chữ” (dạy kiến thức) mà quên dạy cho học sinh “làm người”. Từ lâu, dạy chữ
được coi trọng hơn dạy làm người; việc dạy làm người cho học sinh đôi lúc
được xem là thứ yếu.
1.3.1.4. Về phía Thầy cơ giáo
a). Về phía giáo viên chủ nhiệm lớp
Công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh không được giáo viên chủ
nhiệm lớp quan tâm đúng mức, mà thay vào đó là cơng việc quản lý mang tính
hành chính là chủ yếu. Nội dung sinh hoạt lớp trong giờ sinh hoạt thì nghèo nàn
và thường thực hiện theo lập trình định sẵn và được thực hiện từ tuần này sang
tuần khác. Việc lồng ghép các chuyên đề có tác dụng giáo dục đạo đức, lối sống,
giáo dục ý thức công dân cho học sinh ít được thực hiện. Nội dung sinh hoạt thì
nghèo nàn, và thậm chí đơi lúc mang tính chiếu lệ.
Điều này làm cho công tác chủ nhiệm lớp của giáo viên chủ nhiệm nói
chung và giờ sinh hoạt chủ nhiệm nói riêng khơng phát huy tác dụng trong giáo
dục đạo đức, lối sống và ý thức công dân cho học sinh.
b). Về phía giáo viên giảng dạy các bộ mơn văn hoá - khoa học
Đa phần giáo viên giảng dạy bộ mơn văn hố – khoa học đều cho rằng, việc
giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh là nhiệm vụ của giáo viên chủ nhiệm,
của giáo viên giảng day mơn Giáo dục cơng dân, của các đồn thể nhà trường,
16
cịn họ là “những người ngồi cuộc”. Từ quan niệm trên, cho nên, giáo viên khi
lên lớp, đơn thuần chỉ truyền thụ kiến thức cho học sinh mà không hề quan tâm
đến việc giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh thông qua môn dạy / tiết dạy /
bài dạy. Việc lồng ghép chủ đề tích hợp giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh
dường như ít khi được giáo viên thực hiện.
Mặt khác, việc phối hợp giữa giáo viên bộ môn với giáo viên chủ nhiệm
trong công tác giáo dục học sinh chưa được thực hiện một cách thường xuyên.
1.3.1.5. Về phía cha mẹ học sinh
Một bộ phận cha mẹ học sinh sống không gương mẫu, buông lỏng giáo
dục, phó mặc cho xã hội, cho nhà trường với quan niệm “trăm sự nhờ thầy”; có
những bậc cha mẹ lại quá nuông chiều con cái theo kiểu “muốn gì được nấy”.
Phần lớn gia đình chỉ suy nghĩ một cách giản đơn là có tiền cho con đi học và
chỉ quan tâm đến một việc duy nhất là con mình học giỏi là được, chứ khơng
quan tâm đến những hành vi đạo đức, hành vi ứng xử, lối sống của con cái.
Để cho đạo đức, nhân cách, lối sống của học sinh xuống cấp nghiêm trọng
như hiện nay cũng là hệ quả của một phần trách nhiệm của gia đình, quá trình
giáo dục lâu dài trong nhà trường (trong đó có một phần trách nhiệm của gia
đình học sinh).
1.3.1.6. Về phía bản thân học sinh
Một bộ phận khơng nhỏ học sinh hiện nay thiếu tu dưỡng, rèn luyện, sống
thiếu ý thức, sống bng thả, bon chen, đua địi. Đặc biệt là các em lạm dụng tự
do để làm những chuyện phi đạo đức. Và các em đã hiểu sai cái tự do đó, tự do
khơng phải là làm những gì mình thích, tự do phải là một giá trị để đảm bảo
hạnh phúc cho mình và cho người khác. Nói như Jean Cocteau: “Cái thảm kịch
của giới trẻ, chính là giới trẻ bị đặt vào tình trạng khơng thể khơng vâng lời vì
sự tự do q đáng”.
17
1.3.2. Nguyên nhân của sự yếu kém về thị hiếu thẩm mỹ và cảm thụ
thẩm mỹ của học sinh THPT
Từ mục tiêu giáo dục đến nhận thức thực tiễn giáo dục ở bậc trung học phổ
thông cho thấy một thực tế rằng, đa phần lứa tuổi học sinh trung học phổ thơng
đều có ước muốn, khát khao chinh phục, khám phá, sáng tạo nên cái đẹp, chiếm
lĩnh những giá trị thẩm mỹ. Song, bên cạnh đó một bộ phận học sinh còn nhận
thức, hành động lệch lạc, phản thẩm mỹ đi ngược lại mục tiêu giáo dục mà xã
hội đang hướng tới. Mặt khác, trong tiến trình hội nhập với thế giới, sự bùng nổ
của công nghệ truyền thông đa phương tiện với sự xuất hiện của nhiều hình thức
giải trí đã tác động đến q trình phát triển tâm lý, sự hình thành nhân cách của
một bộ phận thanh thiếu niên mà chủ yếu là lứa tuổi học sinh trung học phổ
thông.
Ở lứa tuổi trung học phổ thông, các em dù chưa thực sự trở thành người lớn
nhưng có những chuyển biến mạnh mẽ và thay đổi về tâm sinh lý đặc biệt là
việc hình thành và phát triển của sự tự ý thức. Nó đem đến cho học sinh những
tri giác, cảm nhận về đặc điểm cơ thể, cử chỉ, thái độ, cách hành xử, nghĩa là các
em bắt đầu quan tâm đến yếu tố thẩm mỹ của bản thân và của thế giới xung
quanh. Ngay tại trường học, việc thực hiện trang phục, lễ phục và nghi thức học
đường như đồng phục, bảng tên, nề nếp sinh hoạt, học tập,… đúng quy định,
nghiêm túc cũng là những biểu hiện của việc các em đã bộc lộ xu hướng vươn
đến sự thẩm mỹ cho bản thân và nhà trường theo khuynh hướng thẩm mỹ chung.
Bên cạnh đó, trong các hoạt động ngoại khóa như văn nghệ, hội trại truyền
thống, thể dục thể thao, thi cắm hoa… qua trang phục, nội dung, hình thức thể
hiện, trang trí, phong cách trình bày, học sinh trung học phổ thơng ln hướng
về một sự hồn thiện, sống có hồi bão, lý tưởng, thích khám phá, làm chủ các
giá trị nghệ thuật, làm chủ cái đẹp. Cái đẹp, cái thẩm mỹ trở thành những đề tài
quan trọng trong các diễn đàn, trao đổi của học sinh THPT.
18
Tuy nhiên, sự thiếu chín chắn và non nớt trong nhận thức khiến lứa tuổi
học sinh trung học phổ thông có chiều hướng “đánh giá thấp cái tích cực, tập
trung phê phán cái tiêu cực; hoặc là đánh giá quá cao nhân cách của mình, tỏ
ra tự cao, coi thường người khác”. Thêm vào đó, sự tương tác giữa nhận thức
thiếu chín chắn, tâm lý chưa phát triển hồn thiện và sự lôi cuốn của các phương
tiện truyền thông mà chủ yếu là sự tác động tiêu cực của các loại hình giải trí
bạo lực như game online, internet với những website thiếu lành mạnh. Sự lan tỏa
của những tác động đó đã mang đến những hệ quả khơng nhỏ trong xu hướng
phát triển chung của nhân cách, năng lực cảm thụ thẩm mỹ của lứa tuổi trung
học phổ thông. Do đó, năng lực thẩm mỹ của một bộ phận học sinh có sự thiên
lệch theo hướng tiêu cực với những biểu hiện:
Thứ nhất, các em tiếp nhận nghệ thuật một cách lệch lạc, chắp vá, thiếu cân
nhắc, lựa chọn, chạy theo những thị hiếu thẩm mỹ tầm thường, không lành
mạnh. Hầu hết, những hình thức, loại hình nghệ thuật được các em tiếp nhận chủ
yếu thông qua công cụ internet và khơng ít học sinh ở lứa tuổi này khai thác
những thông tin không đúng, tiêu cực đi trái lại những nội dung, quan điểm,
mục đích giáo dục mà chúng ta đang hướng đến. Cho nên, khi thị hiếu của các
em được hình thành khơng được phát triển tồn diện, đi vượt ra khỏi quỹ đạo
phát triển chung của xã hội.
Thứ hai, sự yếu kém về năng lực và trình độ để cảm nhận giá trị thẩm mỹ
của các tác phẩm, cơng trình thẩm mỹ mà sự cảm nhận chủ yếu xuất phát từ yếu
tố trực quan của bản thân học sinh. Dưới tác động và sức lôi cuốn của trí tị mị,
óc khám phá của học sinh, các trị chơi trên internet, các hình thức giải trí nhanh
đã khiến học sinh ít có điều kiện và càng khơng quan tâm đến những vấn đề
xung quanh. Các em chỉ nặng và thích những vấn đề liên quan đến việc khẳng
định bản thân mình đã lớn như chơi game hành động, nghe hay thưởng thức các
tác phẩm âm nhạc của người lớn mà ít chú trọng đến các phương diện khác của
19
nghệ thuật. Thái độ và sự am hiểu của các em cịn q hạn chế so với trình độ
thẩm mỹ mà xã hội quy định đối với lứa tuổi của các em.
Thứ ba, năng lực sáng tạo của học sinh cịn hạn chế ở nhiều mặt. Học sinh
phổ thơng khơng tìm ra được hướng đi đúng cho mình trên con đường khám
phá, giải mã các giá trị thẩm mỹ. Hành trình khám phá địi hỏi sự sáng tạo khơng
ngừng. Chúng ta khơng thể phủ nhận một điều rằng chính cơng nghệ và phương
tiện truyền thông đã trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực cho quá trình sáng tạo của
học sinh. Tuy nhiên, có một thực tế rằng, học sinh THPT cịn phụ thuộc q
nhiều vào truyền thơng cho nên chưa tìm ra được con đường khám phá cái đẹp,
cái tốt cho bản thân mình.
Thứ tư, Những nét đẹp trong lối sống, giao tiếp học đường, giao tiếp xã hội
có xu hướng cực đoan hoá so với chuẩn mực giá trị chung của xã hội. Ở lứa tuổi
này, học sinh thường xuất hiện các hiện tượng gây mất trật tự trong trường học,
bạo lực học đường, sự thay đổi trong quan hệ thầy trị, quan hệ bạn bè. Đó chính
là xu thế của sự tác động từ game hành động, bạo lực, từ phim, video trên mạng
internet. Tất cả làm cho các em hành động giao tiếp thiếu chuẩn mực và quy
phạm, ảnh hưởng không nhỏ đến đạo đức, nhân cách của học sinh.
Một thực tế đang tồn tại là phương diện giáo dục thẩm mỹ bị coi nhẹ nhất
trong trường THPT, thậm chí các mơn nghệ thuật khơng được tiếp tục giảng dạy
ở cấp THPT. Do không được học các môn nghệ thuật ở cấp THPT, cho nên học
sinh vào đời mang theo những khiếm khuyết của tuổi trẻ về tình cảm, tâm hồn
và nhân cách, về tri thức và thị hiếu thẩm mỹ – nghệ thuật, đó là chưa nói đến
việc năng khiếu nghệ thuật khơng có điều kiện nuôi dưỡng.
Giáo viên giảng dạy các bộ môn văn hoá – khoa học chỉ chú trọng đến việc
truyền thụ kiến thức, rèn luyện kĩ năng về mơn mình đang dạy nhằm giúp học
sinh đạt kết quả tốt trong các kỳ thi mà khơng tích hợp giáo dục thẩm mỹ cho
các em (thậm chí mơn học vừa có tính khoa học, vừa có tính thẩm mỹ cao được
dạy và học ở THPT – môn Ngữ văn / môn Ngoại ngữ).
20
Các hoạt động ngoại khoá (chủ yếu là các hoạt động Văn Thể Mỹ) được
tiến hành theo thời vụ và ngày càng xa dần mục tiêu giáo dục thẩm mỹ, chưa
chú ý nhiều đến năng lực cảm thụ thẩm mỹ và sáng tạo thẩm mỹ của học sinh.
1.3.3. Nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém trong công tác hướng nghiệp ở
trường THPT
Theo tôi, sự yếu kém trong công tác hướng nghiệp ở nhà trường THPT xuất
phát từ những nguyên nhân sau:
Trước hết là do việc định hướng nghề nghiệp cho các em ở các nhà trường
phổ thông là chưa tốt, thậm chí là yếu kém. Việc phân luồng học sinh ở cuối cấp
THCS chưa được thực hiện một cách khoa học và có tính liên thơng với cấp
THPT.
Bản thân giáo viên (giáo viên chủ nhiệm lớp, cả giáo viên giảng dạy bộ
mơn văn hố – khoa học) chưa thực hiện được chủ đề tích hợp hướng nghiệp
trong giảng dạy và giáo dục. Bản thân các em khơng thể hình dung ra nghề
nghiệp sau này của mình như thế nào. Vì thế, việc lựa chọn trường và nghề
nghiệp của các em thì rất cảm tính. Đa phần các em vào đại học là lựa chọn đầu
tiên. Nhiều em năng lực có hạn mà vẫn cố cho bằng được để vào đại học. Điều
này gây ra sự lãng phí, cả về tiền của, công sức và thời gian.
Một nguyên nhân không kém phần quan trọng là sức ép từ phía cha mẹ và
bệnh sính bằng cấp tạo nên. Có nhiều cha mẹ học sinh ép buộc con em mình
phải vào đại học cho bằng được mà không cần biết đến năng lực, sở thích / hứng
thú và cả nhu cầu xã hội về nghề nghiệp đó.
Một phần trách nhiệm nữa là thuộc về phía các trường đại học, cao đẳng và
dạy nghề là chưa làm tốt công tác hướng nghiệp cho học sinh THPT. Trong
những buổi tư vấn tuyển sinh, các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề chủ yếu là
quảng bá trường / ngành nghề mà trường mình đang đào tạo để cho học sinh thi
vào (càng đông, càng tốt) mà chẳng giúp cho học sinh có một cái nhìn về một
21
bức tranh tổng thể về các ngành nghề mà nhu cầu xã hội cần, cũng như triển
vọng trong tương lai của những nghề nghiệp đó.
1.4. Tiểu kết
Sự xuống cấp về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ học sinh
trong thời gian qua là dễ nhận thấy. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến việc “nâng cao
dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” cho đất nước. Thực trạng
này chịu chi phối từ nhiều nguyên nhân – chủ quan lẫn khách quan (như trình
bày ở tiểu mục 1.2.1.). Nhưng theo chúng tôi, một trong những nguyên nhân cơ
bản nhất là chúng ta quá chú trọng việc “dạy chữ” hơn “dạy người”. Còn trong
việc dạy học sinh “làm người” thì chúng ta lại quên hẳn và dường như không hề
quan tâm đến việc định hướng thị hiếu thẩm mỹ, cảm thụ thẩm mỹ và sáng tạo
thẩm mỹ cho các em, nhằm góp phần giáo dục tồn diện cho học sinh.
Về công tác hướng nghiệp, trong thời gian qua trường THPT nào cũng thực
hiện hoạt động này nhưng theo kiểu “đến hẹn lại lên”, làm theo kiểu thời vụ.
Công tác hướng nghiệp không được tiến hành xuyên suốt cả cấp học, chưa được
quan tâm một cách đúng mức. Học sinh thì ln trong trạng thái cảm thấy “chơi
vơi” giữa biển trời nghề nghiệp. Thậm chí có học sinh, đến hết hạn đăng ký dự
thi vào các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề mà vẫn chưa quyết định được là
chọn ngành nào hoặc thi vào trường nào.
22
CHƯƠNG 2.
CÁC GIẢI PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG,
GIÁO DỤC THẨM MỸ, GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THƠNG
TRONG XU THẾ TỒN CẦU HỐ VÀ HỘI NHẬP
2.1. Giải pháp giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh THPT
2.1.1. Đối với ngành Giáo dục – Đào tạo
Để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh, Bộ Giáo dục và
Đào tạo cần có (i) một cuộc tổng rà soát lại nội dung chương trình học tập của
cấp THPT, để từ đó cân đối giữa việc dạy kiến thức và dạy ý thức công dân cho
con em trước khi chúng bước qua tuổi 18; (ii) thay đổi nội dung chương trình và
phương pháp dạy và học môn Giáo dục công dân cho phù hợp và thiết thực; (iii)
khắc phục và triệt tiêu căn bệnh thành tích, bệnh sính bằng cấp trong giáo dục –
đào tạo; (iv) đổi mới hình thức và nội dung thi cử, nội dung chương trình các
mơn học; (v) khắc phục có hiệu quả việc dạy thêm, học thêm tràn lan như hiện
nay; đặc biệt là (vi) đổi mới phương pháp giảng dạy – giáo dục, phát huy được
tính năng động tích cực của học sinh; tăng cường dự án dạy học theo chủ đề tích
hợp.
Mặt khác, Bộ cần có chủ trương nhất quán trong việc đưa các chuyên đề về
“Tấm gương tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh” và các chuyên đề
về giáo dục pháp luật vào nộị dung sinh hoạt ngoài giờ lên lớp cho học sinh
hoặc tích hợp trong giảng dạy của giáo viên. Có thể nói, đây là những chuyên đề
khá thú vị và hết sức quan trọng, có tác dụng góp phần “chữa trị” căn bệnh
xuống cấp về đạo đức, lối sống của học sinh hiện nay.
2.1.2. Đối với các nhà trường
Tăng cường công tác chỉ đạo của Chi bộ Đảng, Ban lãnh đạo nhà trường
trong việc quản lý, giáo dục đạo đức học sinh; triển khai kịp thời sâu rộng mọi
Chỉ thị của Đảng và Nhà nước, làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng
thơng qua các buổi chào cờ hay các buổi sinh hoạt chủ điểm nhân ngày lễ kỷ
niệm lớn của đất nước và dân tộc (mỗi tháng cần lấy một chủ điểm để sinh
23
hoạt); phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng đảng viên phụ trách các hoạt động
quan trọng của nhà trường như: cơng tác chủ nhiệm, cơng tác đồn thể, tổ
chun mơn, cơng đồn trường, quản lý học sinh nội trú (nếu có)… để các đảng
viên phát huy vai trị tiên phong của mình trong các hoạt động quản lý, giáo dục
đạo đức học sinh.
Chi bộ Đảng, Ban lãnh đạo nhà trường đã đưa ra kế hoạch gắn liền với việc
giáo dục đạo đức học sinh từng tháng, từng tuần theo các chủ điểm và giao cho
Đoàn Thanh niên phối hợp với giáo viên chủ nhiệm triển khai thực hiện.
Mặt khác, để giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, nhà trường cần ban
hành quy tắc ứng xử đối với cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh, dựa trên
sự hướng dẫn của ngành Giáo dục và Đào tạo. Quy tắc ứng xử văn hoá được
thực hiện thường xuyên trên cơ sở tinh thần tự phê bình, phê bình trung thực,
thẳng thắn và gắn với các tiêu chí đánh giá, xếp loại, khen thưởng giáo viên,
nhân viên và học sinh. Nhà trường cần tổ chức cho cán bộ, giáo viên, nhân viên
và học sinh ký cam kết việc thực hiện tốt quy tắc đó nhằm hướng tới một lối
sống trong sáng lành mạnh, có văn hố.
2.1.3. Đối với nhà giáo
2.1.3.1. Đối với giáo viên chủ nhiệm
Giáo viên chủ nhiệm lớp là người trực tiếp thay mặt nhà trường giáo dục
học sinh, là người thực hiện sự phối hợp, liên kết bền chặt với giáo viên bộ mơn,
các đồn thể trong nhà trường, giữa “Gia đình - Nhà trường - Xã hội”. Giáo dục
đạo đức học sinh là một công việc địi hỏi sự kiên trì, cần phải có tâm huyết với
nghề; có phương pháp chủ nhiệm tốt với một kế hoạch tồn diện, hợp lý.
Từ việc tìm hiểu, nắm bắt hồn cảnh gia đình, năng lực từng học sinh,
những học sinh có hồn cảnh khó khăn, đến việc xử lý các tình huống,... địi hỏi
cần có sự nghiêm khắc của người thầy đồng thời phải có tấm lịng u thương,
thể hiện trách nhiệm, lòng vị tha như cha mẹ đối với con cái; thông cảm chia sẻ
niềm vui, nỗi buồn, giúp đỡ các em vượt qua khó khăn, dành thời gian để tâm sự
24
và cho các em những lời khuyên bảo chân tình; tạo được niềm tin và động lực
cho học sinh phấn đấu để hồn thiện bản thân. Hình ảnh người thầy ảnh hưởng
khơng nhỏ đến học sinh, chính vì vậy giáo viên chủ nhiệm không những cần
năng lực chuyên môn, mà còn đòi hỏi phải thật sự là tấm gương sáng về tác
phong, tư cách đạo đức; chuẩn mực trong trang phục, lời nói, cách ứng xử…
như vậy lời nói của giáo viên chủ nhiệm mới có trọng lượng với học sinh.
2.1.3.2. Đối với giáo viên giảng dạy các bộ môn văn hố – khoa học
Mỗi một giáo viên bộ mơn, hãy phấn đấu dạy tốt mơn học của mình, chú ý
đến mọi đối tượng học sinh, giúp đỡ các em tiếp thu tốt nhất kiến thức mình
truyền đạt. Tích cực nâng cao chất lượng giờ dạy, chú trọng yêu cầu tích hợp nội
dung giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh trong môn học / bài học / giờ học.
Trong đó, giáo viên dạy các mơn Khoa học xã hội và nhân văn như: Ngữ văn,
Lịch sử, Điạ lý, Sinh học và đặc biệt là môn Giáo dục công dân có vị trí quan
trọng đối với việc trang bị cho học sinh những hiểu biết cơ bản về phẩm chất,
đạo đức về quyền và nghĩa vụ công dân sẽ giúp học sinh có thái độ tích cực và
thực hiện những hành vi phù hợp chuẩn mực đạo đức .
2.1.4. Đối với cha mẹ học sinh
Gia đình đóng một vai trị rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách
con người. Gia đình là ngơi trường đầu tiên của con người, từ đó những đứa trẻ
học được nhân cách làm người. Vì thế, muốn cho con cái trở nên tốt, gia đình
phải là nơi mọi người sống yêu thương, nâng đỡ và đùm bọc lẫn nhau. Các thế
hệ cùng chung sống phải biết quan tâm tới nhau, thì con cái sẽ có nền tảng đạo
đức tốt. Hay nói cách khác, giới trẻ sống trong gia đình đó sẽ rập theo nếp sống
của cha ơng chúng. Đồng thời, gia đình phải sống hạnh phúc, nơi đó cha mẹ và
con cái sống hài hoà với nhau, người trẻ sẽ cảm nhận được những giá trị cao đẹp
như: hạnh phúc, lắng nghe, yêu thương, tha thứ, nâng đỡ và chấp nhận những
khác biệt của nhau.
25