Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

ƯỚNG DẪN HỌC SINH LỚP 12 ÔN RÈN KỸ NĂNG LÀM VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.36 KB, 16 trang )

GV: Trương Thị Thanh Trúc

Đề tài:
HƯỚNG DẪN HỌC SINH LỚP 12 ÔN RÈN KỸ NĂNG
LÀM VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI

Phần thứ nhất: ĐẶT VẤN ĐỀ

Nghị luận là kiểu văn bản trọng tâm xuyên suốt chương trình làm văn ở bậc học
THPT. Nhưng trong thực tế giảng dạy và học tập, nghị luận xã hội chưa được chú ý
và coi trọng như nghị luận văn học.Bắt đầu từ năm 2009, đề thi tốt nghiệp THPT (kể
cả thi đại học- cao đẳng) môn Ngữ văn, bên cạnh những phần tái hiện kiến thức văn
học, nghị luận văn học, còn có một phần bắt buộc thí sinh thành lập văn bản nghị luận
khoảng 400 chữ (600 chữ đối với đề thi đại học) bàn về một vấn đề mang tính thời sự
của đời sống xã hội. Thang điểm đánh giá cho phần câu này khá cao, chiếm 3/10 điểm
của toàn bài thi. Nhưng thực tế trong các kỳ thi tốt nghiệp vừa qua, số lượng thí sinh
làm được câu này không nhiều, nếu có làm được thì chất lượng cũng không cao. Vì
sao ? Cần phải làm gì trước thực tế này ? Đó là những câu hỏi đang đặt ra cần phải
giải quyết của giáo viên đang trực tiếp giảng dạy và ôn thi tốt nghiệp Ngữ văn 12
THPT.
Là người tham gia trực tiếp giảng dạy, ôn tập cho học sinh lớp 12 và chấm thi
tốt nghiệp , chúng tôi thực sự trăn trở trước vấn đề này. Qua đề tài nhỏ này, chúng tôi
muốn đề xuất một số phương án ôn rèn kỹ năng làm bài nghị luận xã hội cho học sinh
lớp 12 nhằm tìm ra một hướng đi hiệu quả trong giảng dạy và học tập dạng bài này
Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. Các khái niệm:
1. Nghị luận: đgt. Bàn bạc và đánh giá một vấn đề. (theo Từ điển tiếng Việt)
2. Văn nghị luận
GV: Trương Thị Thanh Trúc


- Văn nghị luận: thể văn dùng lí lẽ phân tích, giải quyết vấn đề. (theo Từ điển tiếng
Việt)
- Văn nghị luận là loại văn trong đó người viết (người nói) trình bày những ý kiến của
mình bằng cách dùng lý luận bao gồm cả lý lẽ và dẫn chứng để làm rõ một vấn đề nào
đó nhằm làm cho người đọc (người nghe) hiểu, tin, đồng tình với những ý kiến của
mình và hành động theo những điều mà mình đề xuất.
3. Văn nghị luận xã hội
- Nghị luận xã hội là kiểu bài nghị luận về một vấn đề xã hội .
Khái niệm xã hội được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm những vấn đề thuộc mọi
quan hệ, mọi hoạt động của con người trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội như chính
trị, kinh tế, giáo dục,văn hóa, môi trường, v.v…Tuy nhiên, đề tài của bài nghị luận xã
hội thông thường hướng vào những vấn đề có tính chất thời sự, có ý nghĩa thiết thực
và cấp bách đối với xã hội.
II. Các dạng bài nghị luận xã hội
SGK Ngữ văn lớp 12 hiện hành ban cơ bản (NXB GD- 2009) chia thành 2 dạng bài
chính:
- Nghị luận về một tư tưởng đạo lý
- Nghị luận về một hiện tượng đời sống
SGK Ngữ văn lớp 12 ban nâng cao có thêm dạng bài nghị luận về một vấn đề xã hội
được đặt ra trong một tác phẩm văn học.
III. Những yêu cầu của bài văn nghị luận xã hội
1. Yêu cầu chung
Bài nghị luận xã hội dù ngắn hay dài đều phải đạt được những yêu cầu sau:
1. 1. Bài nghị luận xã hội phải thể hiện sự hiểu biết chính xác tường tận về vấn đề hay
hiện tượng xã hội được bàn bạc.
1. 2. Bài nghị luận xã hội phải đảm bảo mục đích, tư tưởng đúng đắn: phải xuất phát
từ một lập trường tư tưởng tiến bộ, cao đẹp, vì sự tiến bộ chung của toàn xã hội…để
bàn bạc, phân tích, đánh giá và đề xuất ý kiến .
GV: Trương Thị Thanh Trúc


1. 3.Bài nghị luận xã hội cần phải đảm bảo kỹ năng nghị luận nói chung: tập trung
hướng tới luận đề của đề bài, có ý thức triển khai thành những luận điểm chặt chẽ,
nhất quán, tìm được những dẫn chứng xác đáng, giàu sức thuyết phục.
1. 4. Bài nghị luận xã hội là một kiểu bài nghị luận có tính chất tổng hợp cao, đòi hỏi
phải sử dụng nhiều thao tác nghị luận. Một mặt, bài nghị luận xã hội coi trọng việc
giải thích làm sáng tỏ nội dung cụ thể của những thuật ngữ, hiện tượng, vấn đề…được
đề cập đến; mặt khác, nó đòi hỏi phải phân tích những phương diện, những khía cạnh
cụ thể của các hiện tượng, vấn đề xã hội đang bàn bạc. Bài nghị luận xã hội cũng yêu
cầu những nhận định, đánh giá phải có căn cứ xác đáng; những ý kiến, nhận xét cần
phải được chứng minh bằng những dẫn chứng cụ thể.
2. Yêu cầu đối với bài văn nghị luận xã hội trong bài thi Tốt nghiệp THPT .
Bài văn NLXH thi Tốt nghiệp THPT yêu cầu dưới dạng một bài viết khoảng
400 chữ bàn về một vấn đề gần gũi, mang tính thời sự cấp thiết của đời sống xã hội.
Ví dụ: Năm 2009, đề yêu cầu :
Anh/chị hãy viết một bài văn ngắn (không quá 400 từ) phát biểu ý kiến về tác
dụng của việc đọc sách
Năm 2010: Hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 400 từ )trình bày suy nghĩ của
anh/chị về lòng yêu htương con người của tuổi trẻ trong xã hội hiện nay.
Năm 2011: Trước nhiều ngả đường đi đến tương lai, chỉ có chính bạn mới lựa
chọn được con đường đúng cho mình.
Viết một bài văn ngắn (khoảng 400 từ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý kiến
trên.
Năm 2012: Thói dối trá là biểu hiện của sự suy thoái về đạo đức trong đời
sống xã hội.
Viết một bài văn ngắn (khoảng 400 từ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý kiến
trên.
GV: Trương Thị Thanh Trúc

Năm 2013: Trình bày những suy nghĩ của anh/chị trước hành động dũng cảm
cứu người của học sinh Nguyễn Văn Nam (có trích kèm mẩu tin về hiện tượng này)

trong bài văn nghị luận ngắn ( khoảng 400 từ)
Với dung lượng khoảng 400 chữ thì quan trọng nhất là thí sinh phải biết cách tạo
lập một văn bản NLXH: đúng thể loại, có kết cấu logic, diễn đạt mạch lạc ; đảm bảo
tối thiểu về mặt kiến thức : biểu lộ tương đối hiểu biết về lĩnh vực bàn luận, có ý kiến
, quan điểm rõ ràng , có lý lẽ dẫn chứng xác đáng, có cách lập luận chặt chẽ, thuyết
phục trong quá trình giải quyết vấn đề.
Vấn đề được đưa ra bàn luận ở đây không quá khó đối với học sinh lớp 12 về
cả dung lượng lẫn nội dung nghị luận. Điều quan trọng là các em làm thế nào để viết
ra được những hiểu biết đó, bàn bạc về nó, có quan điểm, thái độ rõ ràng…bằng một
văn bản đúng với yêu cầu về kiến thức và kỹ năng.
CHƯƠNG II: CƠ SỞ THỰC TIỄN
I. Vai trò vị trí của văn nghị luận xã hội :
1. Trong đời sống
Nghị luận xã hội là loại văn được ứng dụng hết sức rộng rãi trong đời sống . Ta
có thể dễ dàng bắt gặp nó trên bất kỳ một một phương tiện thông tin đại chúng nào,
nằm dưới dạng các bài bình luận, xã luận về một vấn đề nào đó, một hiện tượng nào
đó thuộc lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, v.v…Dù tồn tại dưới dạng nói hay dạng
viết thì nghị luận xã hội luôn có một vị trí quan trọng trong đời sống xã hội. Bởi nó
giúp con người nhận thức một cách đầy đủ, cập nhật, khách quan các vấn đề liên quan
đến đời sống , để từ đó định hướng tốt cho sự phát triển tích cực theo quy luật vận
động của xã hội. Ở Việt Nam, việc đưa câu hỏi nghị luận xã hội vào đề văn là một tín
hiệu thể hiện sự phát triển của đời sống xã hội và vị trí quan trọng của loại văn này.
Nghị luận xã hội là một yêu cầu cần thiết trong đời sống đặc biệt là cho học sinh.
Bởi vì qua đó, có thể kiểm tra chính xác năng lực tư duy, óc sáng tạo, sự hiểu biết của
học sinh; mặt khác tránh tình trạng lệ thuộc nhiều vào sách vở.
2. Trong nhà trường
GV: Trương Thị Thanh Trúc

Văn nghị luận nói chung, văn nghị luận xã hội nói riêng được đưa vào chương
trình phổ thông cả hai cấp học (THCS và THPT) với vị trí trọng yếu trong hệ thống

thể loại văn bản được lựa chọn đưa vào tìm hiểu và rèn luyện kỹ năng tạo lập văn bản.
2. 1. Chương trình trung học cơ sở:
Nghị luận xã hội được hướng dẫn khá kỹ ở lớp 9 với phần khái luận lẫn cách
làm bài và đề cập đến cả hai loại bài NLXH, với 4 bài cụ thể:
- Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống
- Cách làm bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống
- Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lý
- Cách làm bài nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lý
Nhận xét: Nhìn chung chương trình THCS chỉ mang tính giới thiệu và thực hành
NLXH ở mức độ sơ giản, chưa tập trung vào việc khắc sâu tri thức và rèn luyện kỹ
năng làm bài dạng nghị luận này. Nói đúng hơn đó chỉ là bước đệm để hoàn thiện ở
chương trình THPT
2. 2. Chương trình Trung học phổ thông (THPT)
Trong chương trình THPT, dạng nghị luận xã hội được thực hành khá kỹ, bắt
đầu từ lớp 11. Bài viết số 1 ở đầu năm học lớp 11 đã được định hướng làm bài NLXH,
những ngữ liệu SGK hướng dẫn học sinh tiếp cận hàng loạt các thao tác lập luận như
phân tích, bác bỏ, bình luận, so sánh… đều lấy dạng NLXH. Cụ thể:
- Bài thao tác lập luận phân tích có một đoạn ngữ liệu viết về vấn đề dân số;
- Bài luyện tập thao tác lập luận phân tích có một đoạn ngữ liệu viết về vấn đề khoa
học
- Bài thao tác lập luận bác bỏ có một đoạn ngữ liệu viết về vấn đề tiếng mẹ đẻ, một
đoạn viết về hút thuốc lá
- Bài thao tác lập luận bình luận: ngữ liệu luyện tập một đoạn bàn về giao thông, một
đoạn bàn về pháp luật
- Bài luyện tập thao tác lập luận bình luận ngữ liệu một đoạn viết về lời cảm ơn, một
đoạn viết về vấn đề áo phao phòng chết đuối cho HS đi học qua sông suối
GV: Trương Thị Thanh Trúc

- Bài viết số 6 lại tiếp tục được định hướng làm bài nghị luận xã hội.
Đến lớp 12 thì phần nghị luận XH được đề cập ngay từ đầu năm học với hai bài lý

thuyết cụ thể:
- Nghị luận về một tư tưởng đạo lý
- Nghị luận về một hiện tượng đời sống
Và bài viết làm văn số 1 cũng được ấn định là văn NLXH
Nhận xét: Như vậy nghị luận xã hội có vị trí hết sức quan trọng trong nhà trường phổ
thông. Ở đó học sinh không chỉ được tiếp cận dạng bài NLXH mà còn được luyện tập
thực hành thành lập văn bản này.
II. Thực trạng vấn đề
Như trên đã trình bày, vai trò vị trí, tầm quan trọng của NLXH lớn như vậy,
nhưng thực tế kết quả làm bài của học sinh trong các bài kiểm tra, thi tốt nghiệp
THPT chưa cao. Nhiều học sinh chưa làm tốt bài nghị luận xã hội, ít thí sinh dành
điểm cao cho câu này. Có khá nhiều nguyên nhân, nhưng tập trung vào mấy điểm sau:
- Sự tiếp xúc với muôn mặt đời sống ít, nên dẫn đến vốn hiểu biết xã hội, kỹ năng
sống của học sinh hạn chế.
- Ý thức tiếp cận những vấn đề xã hội của các em chỉ mang tính quan sát mà không
mang tính nhận thức cho nên biết mà không nói được một cách kỹ càng.
- Số tiết dành cho việc luyện tập kỹ năng phân tích, lập dàn ý bài văn nghị luận xã hội
trong chương trình rất ít,nhiều học sinh còn lúng túng, chưa nắm vững phương pháp
làm bài .
- Bài nghị luận xã hội còn bị coi nhẹ, học sinh ít chú ý rèn luyện.
Thực tế bài làm của học sinh cho thấy lỗi vi phạm chủ yếu là không biết cách làm bài,
không xác định được phải viết gì, viết như thế nào. Nói đúng hơn không biết cách xác
định từng phần nội dung cho bài viết của mình. Cho nên dẫn đấn tình trạng chung là
kết cấu rời rạc,nghĩ gì viết đó, thiếu tính hệ thống, lập luận lỏng lẻo không có tính
logic, lý lẽ kém tính thuyết phục, thiếu dẫn chứng thực tế hoặc dẫn chứng chưa tiêu
biểu, sát hợp .
GV: Trương Thị Thanh Trúc

Như vậy vấn đề đặt ra cấp bách cần giải quyết trong việc ôn thi làm văn NLXH
đối với lớp 12 là ôn tập lý thuyết, hướng dẫn các cách thức làm bài, thực hành rèn

luyện kỹ năng làm văn NLXH
CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP ÔN RÈN
I. Hướng dẫn ôn tập lý thuyết
Lý thuyết làm văn NLXH không nhiều chủ yếu tập trung vào mấy đơn vị kiến thức
cơ bản sau:
- Khái lược về NLXH (bao hàm khái niệm, đặc điểm, yêu cầu của nghị luận xã
hội…)
- Cách làm bài NLXH
Trong hai phần này, phần khái luận chủ yếu để học sinh nhận diện được NLXH là
gì, các chủ đề của nó và bản chất của dạng văn bản này. Do vậy chúng tôi chỉ hướng
dẫn học sinh xem lại lý thuyết ở SGK lớp 9 đặc biệt là SGK lớp 12. Sau đó dành thời
gian ôn tập cách làm văn cho 2 loại nghị luận xã hội mà SGK ngữ văn đề xuất.
Sau đây là hệ thống kiến thức phần lý thuyết ôn tập:
HỆ THỐNG LÝ THUYẾT LÀM VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
A/NGHỊ LUẬN VỀ MỘT TƯ TƯỞNG , ĐẠO LÝ
1. Khái niệm, đề tài, yêu cầu và các thao tác chính:
a) Khái niệm: Nghị luận về một tư tưởng đạo lí là quá trình kết hợp những thao
tác lập luận để bàn luận và thể hiện tư tưởng, quan điểm và thái độ của mình về
vấn đề tư tưởng đạo lí trong cuộc sống.
Dạng đề này thường được đặt ra trực tiếp hoặc được gợi mở qua một câu tục ngữ,
danh ngôn…
b) Đề tài
Đề tài của nghị luận về tư tưởng, đạo lí là vô cùng phong phú, bao gồm:
- Các vấn đề về nhận thức như lí tưởng, mục đích sống,…
- Các vấn đề về tâm hồn, tính cách như:
GV: Trương Thị Thanh Trúc

+ Lòng yêu nước, lòng nhân ái, vị tha, khoan dung,…
+ Thói ích kỉ, dối trá,
+ Tính trung thực, dũng cảm, khiêm tốn,…

- Về các quan hệ gia đình như tình mẫu tử, anh em,
- Về quan hệ xã hội như tình đồng bào, tình thầy trò, bạn bè,…
- Về cách ứng xử, những hành động của mỗi người trong cuộc sống.
c) Yêu cầu:
- Hiểu được vấn đề cần nghị luận qua phân tích, giải thích để xác định vấn đề
- Phân tích, chứng minh những biểu hiện cụ thể của vấn đề, thậm chí so sánh,
bàn bạc, bác bỏ,… nghĩa là biết áp dụng nhiều thao tác lập luận.
- Phải biết rút ra ý nghĩa của vấn đề.
2. Các thao tác lập luận cơ bản
Các thao tác lập luận cơ bản thường được sử dụng trong kiểu bài này là giải
thích, phân tích, chứng minh, so sánh, bác bỏ, bình luận.
3. Nội dung cơ bản của bài làm:
- Giới thiệu, giải thích tư tưởng đạo lý cần bàn
- Phân tích những mặt đúng, bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến
vấn đề cần bàn
- Nêu ý nghĩa, rút ra bài học nhận thức và hành động về tư tưởng, đạo lý
4. Dàn bài khái quát
a) Mở bài
- Giới thiệu vấn đề tư tưởng, đạo lí được đưa ra bàn luận.
- Nêu luận đề: dẫn nguyên văn câu chứa nội dung tư tưởng, đạo lý
- Giới hạn nội dung và thao tác nghị luận sẽ triển khai.
b) Thân bài
- Giải thích tư tưởng, đạo lí cần nghị luận (giải thích từ ngữ, hình ảnh đến giải
thích ý nghĩa cả ý kiến, nhận định)
GV: Trương Thị Thanh Trúc

- Phân tích, lý giải, chứng minh, bình luận các khía cạnh ; bác bỏ, phê phán
những sai lệch (nếu có).
- Khẳng định chung, nêu ý nghĩa, nêu ý phản đề, liên hệ thực tế, rút ra bài học
nhận thức và hành động.

c) Kết bài
- Tóm tắt các ý, nhấn mạnh luận đề đã nêu ở đầu bài nhằm chốt lại bài viết hoặc
mở rộng, gợi ý thêm cho người đọc về vấn đề đang bàn luận.
- Rút ra bài học
- Nêu cảm xúc, suy nghĩ hành động của bản thân về vấn đề.
B/NGHỊ LUẬN VỀ MỘT HIỆN TƯỢNG ĐỜI SỐNG
1. Khái niệm
Nghị luận về một hiện tượng đời sống là kiểu bài lấy một hiện tượng xảy ra trong
đời sống để bàn bạc. Từ hiện tượng này, người nghị luận phải phân tích để tìm ra
ý nghĩa xã hội về tư tưởng, đạo đức mà bàn bạc, đánh giá.
Đề tài bàn bạc của dạng đề này thường gần gũi với đời sống,mang tính thời sự,
sát hợp với trình độ nhận thức của học sinh như tai nạn giao thông, hiện tượng môi
trường bị ô nhiễm, những tiêu cực trong thi cử, nạn bạo hành trong gia đình, trong
học đường, phong trào thanh niên tiếp sức mùa thi, cuộc vận động giúp đỡ đồng
bào hoạn nạn, những tấm gương người tốt việc tốt,…
2. Các thao tác lập luận cơ bản
Các thao tác lập luận cơ bản thường được sử dụng trong kiểu bài này là giải
thích, phân tích, chứng minh, so sánh, bác bỏ, bình luận.
3. Nội dung cơ bản
- Nêu rõ hiện tượng bàn luận và vấn đề đặt ra trong hiện tượng đời sống bàn luận .
- Phân tích mặt đúng mặt sai, mặt tích cực, mặt tiêu cực, mặt lợi mặt hại …của
hiện tượng đời sống .
- Chỉ ra nguyên nhân và bày tỏ thái độ, ý kiến của người viết về hiện tượng xã hội
GV: Trương Thị Thanh Trúc

đó.
4. Dàn ý khái quát
a, Mở bài
- Giới thiệu hiện tượng đời sống cần nghị luận
- Xác định vấn đề đặt ra cần nghị luận trong hiện tượng.

b, Thân bài
- Giải thích hiện tượng cần bàn luận (nếu cần)
- Nêu thực trạng của hiện tượng
- Xác định nguyên nhân của thực trạng hiện tượng
- Đánh giá, phân tích mặt tốt - xấu, tích cực – tiêu cực, lợi – hại…của vấn đề
- Đề xuất giải pháp cho vấn đề: phát huy, khắc phục…
c, Kết bài:
- Tóm tắt chốt lại vấn đề
- Rút ra bài học
- Nêu suy nghĩ và hướng hành động của bản thân đối với vân đề

II. Hướng dẫn thực hành làm bài NLXH
1. Thực hành tìm hiểu đề
Trước bất cứ đề bài nghị luận nào GV đều phải hướng dẫn HV đọc kỹ, gạch
chân những từ quan trọng (từ khóa) và tự đặt ra câu hỏi:
- Vấn đề đặt ra trong đề bài là gì ?
- Vấn đề nghị luận về một tư tưởng đạo lý hay một hiện tượng đời sống?
- Cần sử dụng thao tác nào để nghị luận?
Rồi tự đi tìm câu trả lời để từ đó định hướng cho nội dung bài làm, cơ sở để tìm ý và
lập dàn ý.
2. Thực hành tìm ý và lập dàn ý
GV: Trương Thị Thanh Trúc

Thực hành tìm ý và lập dàn ý sẽ định hướng cho nội dung bài viết một cách đầy
đủ, logic, khoa học, giúp người viết làm chủ nội dung, làm chủ thời gian. Trong khi
đó học sinh thường làm bài theo cảm tính, nghĩ gì viết nấy, nghĩ đến đâu viết đến
đấy, không có thói quen tìm ý và lập dàn ý trước. Vì vậy GV nhất thiết phải hướng
dẫn cho học sinh bước này và nhắc nhở học sinh thực hiện.
Cách 1: Tìm ý và lập dàn ý dựa vào dàn ý khái quát.
Đây là cách thông thường người viết hay làm nhất, nhưng sẽ thuận lợi cho

những học sinh có khả năng tư duy và viết bài tốt, còn những học sinh yếu thì hơi
khó sử dụng. Người viết bám vào khung dàn ý khái quát và định ra một dàn ý cụ
thể, thậm chí còn có thể biến tấu trên khung này nếu năng lực tư duy tốt.
DÀN Ý KHÁI QUÁT
1. Dàn ý khái quát văn nghị luân về một tư tưởng, đạo lý
a) Mở bài
- Giới thiệu vấn đề được đưa ra bình luận.
- Nêu luận đề: dẫn nguyên văn câu chứa nội dung tư tưởng, đạo lý
- Giới hạn nội dung và thao tác nghị luận sẽ triển khai.
b) Thân bài
- Giải thích tư tưởng, đạo lí cần nghị luận (giải thích từ ngữ, hình ảnh đến giải
thích ý nghĩa cả câu nói, ý kiến)
- Phân tích, chứng minh, bình luận các khía cạnh ; bác bỏ, phê phán những sai
lệch (nếu có).
- Khẳng định chung, nêu ý nghĩa, nêu ý phản đề, liên hệ thực tế, rút ra bài học
nhận thức và hành động.
c) Kết bài
- Tóm tắt các ý, nhấn mạnh luận đề đã nêu ở đầu bài nhằm chốt lại bài viết
hoặc mở rộng, gợi ý thêm cho người đọc về vấn đề đang bàn luận.
- Rút ra bài học
GV: Trương Thị Thanh Trúc

- Nêu cảm xúc, suy nghĩ hành động của bản thân về vấn đề.
2. Dàn ý khái quát văn nghị luận về một hiện tượng đời sống
a, Mở bài
- Giới thiệu hiện tượng đời sống cần nghị luận
- Xác định vấn đề đặt ra cần nghị luận trong hiện tượng.
b, Thân bài
- Giải thích hiện tượng (nếu cần)
- Nêu thực trạng của hiện tượng

- Xác định nguyên nhân của thực trạng hiện tượng
- Đánh giá, phân tích mặt tốt - xấu, tích cực – tiêu cực, lợi – hại…của vấn đề
- Đề xuất giải pháp cho vấn đề: phát huy, khắc phục…
c, Kết bài:
- Tóm tắt chốt lại vấn đề
- Rút ra bài học
- Nêu suy nghĩ và hướng hành động của bản thân đối với vân đề


Cách 2: Tìm ý và lập dàn ý theo câu hỏi
Đây là cách tìm ý và lập dàn ý rất phù hợp với năng lực của học sinh trung bình vì
nó có một hệ thống câu hỏi được lập thành một bộ khung; khung câu hỏi này được
xây dựng dựa trên cơ sở dàn bài khái quát, nhưng nó được cụ thể thành các câu hỏi
dễ hiểu, dễ trả lời. Học sinh nhớ các câu hỏi này, khi tìm ý và lập dàn ý chỉ cần trả
lời các câu hỏi đó là tìm được ý, thậm chí viết thành văn bản luôn, nếu là học sinh
khá. Tuy nhiên nó hơi hạn chế về mặt sáng tạo. Vì vậy cần nhắc nhở học sinh
không quá máy móc khi ứng dụng.
CÂU HỎI TÌM Ý VÀ LẬP DÀN Ý
1/ Đối với nghị luận xã hội về một tư tưởng, đạo lí:
GV: Trương Thị Thanh Trúc

a. Mở bài:
- Vấn đề sắp trình bày là gì?
- Thái độ của xã hội nói chung đối với vấn đề như thế nào?
b. Thân bài :
- Vấn đề có ý nghĩa như thế nào?
- Vấn đề đúng hay sai, tốt hay xấu, tích cực hay tiêu cực…?
- Vì sao đúng (sai)?
- Tình trạng của vấn đề đang diễn ra như thế nào trong xã hội?
- Cần có thái độ gì đối với tình trạng đó? Điều gì cần phê phán?

- Từ vấn đề bàn luận có thể rút ra bài học gì về nhận thức và hành động?
c. Kết bài :
- Cần tóm tắt, chốt lại vấn đề như thế nào?
- Bài học chung rút ra từ vấn đề là gì?
- Bản thân có suy nghĩ cảm xúc riêng và hành động như thế nào trước tư tưởng, đạo lý?

2/ Đối với nghị luận xã hội về một hiện tượng đời sống :
a. Mở bài:
- Hiện tượng bàn luận là gì?
- Hiện tượng đặt ra vấn đề gì cần giải quyết?
b. Thân bài :
- Thực trạng của hiện tượng đang diễn ra như thế nào?
- Nguyên nhân nào dẫn đến hiện tượng và thực trạng đó ?
- Những hậu quả (tốt, xấu) từ hiện tượng là gì?
- Cần có thái độ, hành động như thế nào đối với hiện tượng?
c. Kết bài :
- Cần tóm tắt, chốt lại vấn đề như thế nào?
- Bài học chung rút ra từ hiện tượng là gì?
- Bản thân có cảm xúc suy nghĩ gì và cần phải làm thế nào trước hiện tượng?
GV: Trương Thị Thanh Trúc

III. Hướng dẫn thực hành viết bài
Đây là bước quan trọng nhất của làm văn. Chính vì vậy giáo viên và học sinh
phải tập trung đầu tư thời gian cho việc hướng dẫn và thực hành viết bài .
Sau khi đã lập dàn ý, học sinh phải dựa vào đó để viết, điều quan trọng nhất là
học sinh phải tìm được cách diễn đạt trong sáng, cách trình bày lý lẽ dẫn chứng
một cách cô đúc mà chặt chẽ, giàu sức thuyết phục. Khả năng này đòi hỏi thời gian
rèn luyện nhiều. Qua mỗi bài viết, học sinh sẽ rút ra được rất nhiều kinh nghiệm
trong quá trình thực hành và ngày càng nắm vững phương pháp cũng như kỹ năng
làm bài nghị luận xã hội.

IV. Hướng dẫn tích lũy kiến thức xã hội
Thực ra kiến thức xã hội của học sinh không thể tích lũy trong một sớm một
chiều mà là cả một quá trình tiếp nhận, nhận thức, tích lũy lâu dài.Vì vậy GV phải
biết định hướng vùng kiến thức để các em kịp thời xâu chuỗi bổ sung, nguồn kiến
thức thông qua sách vở, các phương tiện thông tin đại chúng, bạn bè, người thân,
thầy cô, thực tiễn cuộc sống đang diễn ra xung quanh; hình thành ý thức và thói
quen tích lũy vốn sống thường xuyên.
Giáo viên có thể chọn một số vùng kiến thức cơ bản tập trung vào những vấn
đề bức thiết đối với xã hội, mang tính thời sự cao để học sinh chú ý tìm hiểu; cung
cấp cho học sinh tư liệu về người thật việc thật để học sinh có thể vận dụng vào bài
nghị luận xã hội thích hợp.
Phần thứ ba: KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Vấn đề xã hội đời sống rất phong phú, đa dạng. Làm tốt bài văn nghị luận xã
hội không phải là việc một sớm một chiều có thể làm được ngay mà cần phải trải qua
quá trình rèn luyện bền bỉ với một phương pháp khoa học.Trên đây là một số ý kiến
nhỏ về hướng ôn tập rèn luyện phương pháp, kỹ năng làm bài nghị luận xã hội cho
học sinh THPT với mong muốn giúp các em tự tin, chủ động và đạt hiệu quả tốt hơn
khi thực hiện kiểu bài này.

GV: Trương Thị Thanh Trúc











TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Ngữ văn 12, tập 1, tập 2 – NXB Giáo dục – năm 2009
2. Sách giáo viên Ngữ văn 12, tập 1, tập 2 – NXB Giáo dục – năm 2009
3. Sách giáo khoa Ngữ văn 9, tập 1, tập 2 – NXB Giáo dục – năm 2009
4. Sách giáo khoa Làm văn 12, tập 2 – NXB Giáo dục – năm 1996
5. Sách giáo viên Làm văn 12, tập 2 – NXB Giáo dục – năm 1996
6. Sách giáo khoa Làm văn 12, tập 2 dành cho ban xã hội – NXB Giáo dục – 1996
7. Để làm tốt bài văn nghị luận xã hội – Nguyễn Xuân Lạc – NXB Giáo dục - 2010
8. Dạy và học nghị luận xã hội – Đỗ Ngọc Thống – NXB Giáo dục- 2010










GV: Trương Thị Thanh Trúc











×