Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

TIỂU LUẬN CÁC RÀO CẢN KỸ THUẬT CỦA EU ĐỐI VỚI MỘT SỐ MẶT HÀNG XUẤT KHẨU CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.6 KB, 15 trang )

CÁC RÀO CẢN KỸ THUẬT CỦA EU ĐỐI VỚI MỘT SỐ MẶT HÀNG
XUẤT KHẨU CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM
1. Dệt may
Các vấn đề TBT chủ yếu được quy định trong luật của EU liên quan đến ngành này
bao gồm:
- Ngăn chặn việc sử dụng một số loại hóa chất trong quá trình sản xuất và dư
lượng hóa chất tối đa được phép tồn tại trong thành phẩm
- Tên sản phẩm dệt và nhãn sợi
- Đóng gói
- Đánh giá tuân thủ và dấu CE
a) Ngăn chặn việc sử dụng một số loại hóa chất trong quá trình sản xuất và
dư lượng hóa chất tối đa được phép tồn tại trong thành phẩm
REACH: Quy định (EC) số 1907/2006 của Nghị viện và Hội đồng châu Âu ngày
18/12/2006 về việc đăng ký, đánh giá, cấp phép và hạn chế sử dụng các loại hóa
chất (REACH), đã thành lập Cơ quan Hóa chất châu Âu, sửa đổi Chỉ thị
1999/45/EC và thay thế Quy định của Hội đồng (EEC) số 793/93 và Quy định
của Ủy ban (EC) số 1488/94 cũng như Chỉ thị của Hội đồng số 76/769/EEC và
các Chỉ thị của Ủy ban số 91/155/EEC, 93/67/EEC, 93/105/EC và 2000/21/EC.
Mục đích chính của REACH là:
- Đảm bảo mọi hóa chất sử dụng ở EU, dù nhập khẩu hay sản xuất trong
khu vực đáp ứng các tiêu chuẩn về sức khỏe và an toàn;
- Buộc các nhà sản xuất và các nhà nhập khẩu phải có trách nhiệm đối với
việc sử dụng và xử lý an toàn các chất của mình tạo ra;
- Thay thế các chất có nhiều khả năng nguy hại nhất bằng những chất ít nguy
hại hơn trong khả năng có thể;
- Thành lập Cơ quan Hóa chất châu Âu để đăng ký, đánh giá, phê duy ệt việc
sử dụng mọi hóa chất.
Vì thế, REACH chủ yếu đặt ra những giới hạn đối với việc sản xuất và sử dụng
hóa chất ở EU, không áp dụng trực tiếp đối với việc sử dụng hoá chất bởi
các nhà sản xuất của Việt Nam, ngoại trừ những quy định cấm và hạn chế cụ
thể tại Phụ lục XVII của Chỉ thị của Hội đồng ngày 27/7/1976 về việc điều


chỉnh thống nhất các luật, quy định và biện pháp hành chính của các quốc
gia thành viên liên quan đến các hạn chế về tiếp thị và sử dụng các chất nguy hiểm.
Phụ lục XVII cấm bán trên thị trường các sản phẩm dệt may, sản phẩm da và giầy
dép, sản phẩm điện tử, sản phẩm gỗ trong quá trình sản xuất có sử dụng hoặc
trong thành phần cấu thành có các loại hóa chất nhất định. Phụ lục này cũng đặt ra
các hạn chế tối đa về dư lượng hóa chất trong các thành phẩm bán trên thị trường
EU. Mặc dù những hạn chế và cấm đoán này đã có hiệu lực trước khi REACH
bắt đầu có hiệu lực, việc nhập các quy định này vào REACH sẽ có nhiều tác động
đến các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam.
Tuy nhiên, ngoài việc áp dụng trực tiếp Phụ lục XVII, REACH có khả năng tác
động gián tiếp đến các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam liên quan đến việc sử
dụng các hóa chất không đăng ký theo REACH. Người tiêu dùng có thể sẽ không
mua những sản phẩm nhập khẩu bán trên thị trường tro ng quá trình sản xuất có
sử dụng hoặc trong thành phần cấu thành có chứa những hóa chất mà các nhà
sản xuất của EU không được phép sử dụng theo REACH. Điều này có thể dẫn
đến việc các nhà nhập khẩu của EU sẽ yêu cầu các nhà cung ứng từ các quốc gia
thứ ba như Việt Nam chỉ đ ược sử dụng những hóa chất đã đăng ký theo REACH
cho việc sản xuất các sản phẩm. Ngoài ra, đối với những hóa chất bị cấm sử dụng
theo REACH vì lý do sức khỏe công cộng, nhiều khả năng các cơ quan quản lý
của các quốc gia thứ ba như Việt Nam cũng sẽ áp dụng tương tự và cấm các nhà
sản xuất của Việt Nam sử dụng các hóa chất này.
Danh sách chính xác các hóa chất được phép sử dụng theo REACH chưa được
công bố cho đến khi hoàn tất quá trình đăng ký và cho phép sử dụng các
hóa chất theo quy định của REACH. Quá trình này có thể kéo dài ít nhất 10
năm. Vì thế, các doanh nghiệp xuất khẩu cần theo dõi sát việc đăng ký và cho phép
sử dụng hóa chất bởi Cơ quan Hóa chất châu Âu.
b) Tên sản phẩm dệt và nhãn sợi
Các quy định sau đề ra các y êu cầu về việc sử dụng tên sản phẩm dệt và nhãn sợi:
- Chỉ thị 96/74/EC về tên sản phẩm dệt đặt ra yêu cầu nhãn sợi đối với các
sản phẩm dệt;

- Các Chỉ thị 96/73/EC và 73/44/EEC quy định chi tiết phương pháp phân
tích để kiểm tra thành phần sản phẩm dệt có đúng với thông tin trên nhãn
hay không ;
- Chỉ thị 2008/121/EC của Nghị viện và Hội đồng châu Âu ngày 14/1/2009
về tên sản phẩm dệt (quy định lại).EU hiện đang đề xuất một quy định mới
về các loại tên sợi mới liên quan đến tên sản phẩm dệt, nhãn sợi và các thủ
tục liên quan để thực hiện các Chỉ thị nêu trên.
c) Đóng gói: các yêu cầu về dấu và nhận dạng, hạn chế sử dụng các kim loại
nặng
Chỉ thị của Nghị viện v à Hội đồng châu Âu số 94/62/EC ngày 20/12/1994 về
đóng gói và rác thải bao gói quy định các quốc gia thành viên EU phải áp dụng
việc hạn chế sử dụng kim loại nặng và đảm bảo bao gói được đánh dấu và nhận
dạng để tạo thuận lợi cho việc thu gom rác thải bao gói.
d) Đánh giá tuân thủ và dấu CE
Chỉ thị của Hội đồng 88/378/EEC ngày 3/5/1988 về việc điều chỉnh thống nhất
luật của các quốc gia thành viên về đảm bảo tính an toàn của các sản phẩm đồ chơi
đề ra các yêu cầu an toàn thiết yếu đối với các sản phẩm đồ chơi, kể cả các sản
phẩm đồ chơi được làm từ các vật liệu dệt may, đồng thời cũng quy định về dấu
CE.
Lưu ý: Nhìn chung dấu CE không bắt buộc đối với các sản phẩm dệt may .
2. Giày dép
Các vấn đề TBT chủ yếu được quy định trong luật của EU bao gồm:
- Sử dụng hóa chất trong quá trình sản xuất
- Sử dụng tên sản phẩm dệt và nhãn sợi
- Đóng gói
a) Hóa chất trong quá trình sản xuất
REACH áp dụng đối với các sản phẩm da và giày dép tương tự như đối với các sản
phẩm dệt may.
b) Vật liệu sử dụng: Yêu cầu nhãn hàng hóa
Chỉ thị 94/11/EC của Nghị viện và Hội đồng châu Âu ngày 23/3/1994 về

việc điều chỉnh thống nhất luật, quy định và thủ tục hành chính của các quốc gia
thành viên liên quan đến việc dán nhãn các vật liệu sử dụng trong cấu phần chính
của giày dép bán cho người tiêu dùng, cập nhật tại thời điểm hiện tại.
c) Đóng gói
Tương tự như đối với ngành dệt may .
3. Các sản phẩm nhựa
Các vấn đề TBT chủ yếu quy định trong luật của EU bao gồm:
- Cấm sử dụng một số loại hóa chất trong quá trình sản xuất và dư lượng hóa
chất tối đa được phép trong thành phẩm
- Các vật liệu nhựa tiếp xúc trực tiếp với thực phẩm
- Đóng gói
a) Cấm sử dụng một số loại hóa chất trong quá trình sản xuất và dư lượng
hóa chất tối
đa được phép trong thành phẩm
REACH có thể áp dụng gián tiếp đối với nhựa monomer sử dụng để sản xuất
polymer.
b) Các vật liệu nhựa tiếp xúc trực tiếp với thực phẩm
Chỉ thị của Ủy ban ngày 23/2/1990 về các vật liệu và vật tiếp xúc trực tiếp với
thực phẩm, cập nhật đến thời điểm hiện tại. Quy định này đề ra mức độ thôi
nhiễm tối đa cho phép của các thành phần trong vật liệu nhựa vào thực phẩm
nhằm bảo vệ sức khỏe và an toàn của con người.
c) Đóng gói
Tương tự như đối với ngành dệt may .
4. Các sản phẩm gỗ
Các vấn đề TBT chủ yếu quy định trong luật của EU bao gồm
- Cấm sử dụng một số loại hóa chất trong quá trình sản xuất và dư lượng hóa
chất tối đa cho phép trong thành phẩm
- Đánh giá tuân thủ và dấu CE
- Đóng gói
- Bảo tồn môi trường

a) Cấm sử dụng một số loại hóa chất trong quá trình sản xuất và dư lượng
hóa chất tối đa cho phép trong thành phẩm
REACH áp dụng đối với các sản phẩm gỗ trong trường hợp có sử dụng
các hóa chất bảo quả.
Chỉ thị 98/8/EC của Nghị viện và Hội đồng châu Âu ngày 16/2/1998 về
việc bán các sản phẩm diệt sinh vật gây hại trên thị trường đề ra các hạn chế về
việc sử dụng chất diệt sinh vật gây hại (thuốc diệt côn trùng không phải cho nông
nghiệp) như các chất bảo quản gỗ.
b) Đánh giá tuân thủ và dấu CE
Chỉ thị 88/378/EEC của Hội đồng châu Âu ngày 3/5/1988 về việc điều chỉnh thống
nhất luật của các quốc gia thành viên để đảm bảo tính an toàn của đồ chơi đề ra
những yêu cầu an toàn tối thiểu áp dụng đối với đồ chơi, bao gồm cả đồ chơi làm
từ các vật liệu dệt may. Chỉ thị này cũng quy định về dấu CE.
c) Đóng gói
Tương tự như đối với ngành dệt may
d) Bảo tồn môi trường
Các quy định và đề xuất dưới đây đề ra các yêu cầu nhằm ngăn chặn việc nhập
khẩu vào EU các sản phẩm gỗ được chế biến từ gỗ khai thác bất hợp pháp và hỗ
trợ việc bảo tồn rừng ở các quốc gia thứ ba.
- Hiệp định Gỗ nhiệt đới quốc tế ban hành năm 2006 – Tuyên bố của Cộng
đồng châu Âu theo Điều 36(3) của Hiệp định – Tuyên bố của EC – Thực
hiện tại EU
- Đề xuất Quy định của Nghị viện và Hội đồng châu Âu về các nghĩa vụ của
các bên bán gỗ và các sản phẩm gỗ trên thị trường {SEC(2008) 2615}
{SEC(2008) 2616}
- Chỉ thị FLEGT: Đề xuất Kế hoạch Hành động của EU về tăng cường thực
thi luật pháp, quản lý và thương mại lâm sản
Các thành viên WTO hiện còn bất đồng về việc các biện pháp môi trường có phải
là vấn đề TBT được điều chỉnh bởi Hiệp định TBT của WTO hay không, nếu có thì
sẽ phải được thông báo như quy định kỹ thuật TBT. Một số thành viên đề xuất các

biện pháp như vậy phải được giải quyết trong khuôn khổ Ủy ban Thương mại và
Môi trường của WTO. EU không đưa các Chỉ thị này vào các thông báo TBT của
mình. Tuy nhiên, chúng tôi xin lưu ý trong báo cáo này là các doanh nghiệp xuất
khẩu các sản phẩm gỗ của Việt Nam cần tuân thủ các Chỉ thị này tương tự như các
quy định TBT.
5. Các sản phẩm điện và điện tử
Các vấn đề TBT chủ yếu quy định trong luật của EU bao gồm:
- Cấm sử dụng một số hóa chất trong quá trình sản xuất và trong bộ phận cấu
thành sản
phẩm
- Bảo vệ môi trường
- Nhãn thiết kế thân thiện với môi trường
- Đánh giá tuân thủ và dấu CE
- Đóng gói
a) Cấm sử dụng một số hóa chất trong quá trình sản xuất và trong bộ phận
cấu thành
sản phẩm
Vì nhiều bộ phận cấu thành các sản phẩm điện và điện tử trong quá trình sản xuất
có sử dụng
các loại hóa chất, REACH có hiệu lực gián tiếp đối với các sản phẩm này.
b) Bảo vệ môi trường
Chỉ thị WEEE: Chỉ thị 2002/96/EC của Nghị viện và Hội đồng châu Âu ngày
27/1/2003 về chất thải là thiết bị điện và điện tử (WEEE) nhằm giảm số lượng các
sản phẩm điện và điện tử sản xuất ra và khuy ến khich việc tái sử dụng, tái chế và
thu hồi các bộ phận cấu thành khi sản phẩm bị thay thế hoặc trở nên lỗi thời. Chỉ
thị này cũng quy định về việc sử dụng biểu tượng (logo) WEEE. Các nhà sản xuất
và nhập khẩu bắt buộc phải chịu chi phí xử lý rác thải, tái chế hoặc thu hồi các loại
sản phẩm cung ứng ra thị trường.
Mặc dù Chỉ thị WEEE chỉ áp dụng trực tiếp đối với các nhà sản xuất và nhập
khẩu của EU, các doanh nghiệp xuất khẩu các sản phẩm điện và điện tử của Việt

Nam cũng phải tuân thủ để tiếp cận được thị trường EU.
Chỉ thị RoHs: Chỉ thị 2002/95/EC của Nghị viện và Hội đồng châu Âu ngày
27/1/2003 về việc hạn chế sử dụng các chất độc hại trong các sản phẩm điện và
điện tử. Chỉ thị RoHs có liên quan chặt chẽ với chỉ thị WEEE và được xây dựng
nhằm thúc đ ẩy việc ngăn chặn rác thải thông qua thiết kế sản phẩm, đồng thời tạo
thuận lợi cho việc tái sử dụng, tái chế và thu hồi các bộ phận cấu thành của các
thiết bị điện và điện tử lưu hành trên thị trường. Chỉ thị này cấm việc sử dụng
chì, thủy ngân, cadimi, crom 6+, poly -brominated biphenyls (PBB) hay
polybrominated diphenyl ethers (PBDE) với hàm lượng vượt quá mức tối đa cho
phép trong các sản phẩm điện và điện tử bán trên thị trường.
Hiện nay, Ủy ban châu Âu đang đưa ra một số đề xuất điều chỉnh các Chỉ thị
WEEE và RoHs để các bên liên quan có thể thực hiện các chỉ thị này một cách
hiệu quả hơn.
Chỉ thị 2006/66/EC của Nghị viện và Hội đồng châu Âu ngày 6/9/2006 về pin và
ắc quy, các loại pin và ắc quy thải loại, bãi bỏ hiệu lực của Chỉ thị 91/157/EEC.
Chỉ thị này áp dụng đối với các loại pin sử dụng cho các sản phẩm điện và điện tử,
được xây dựng nhằm bảo vệ môi trường thông qua việc ngăn chặn rác thải, tái sử
dụng, tái chế và thu hồi các sản phẩm điện và điện tử.
c) Các yêu cầu về thiết kế thân thiện với môi trường và nhãn hàng hóa
Chỉ thị 2005/32/EC của Nghị viện và Hội đồng châu Âu ngày 6/7/2005 lập ra
khuôn khổ cho các yêu cầu về thiết kế thân thiện với môi trường áp dụng đối với
các sản phẩm sử dụng năng lượng, sửa đổi Chỉ thị của Hội đồng số 92/42/EEC và
các Chỉ thị số 96/57/EC và 2000/55/EC của Nghị viện và Hội đồng châu Âu.
Các thành viên WTO hiện còn bất đồng về việc các biện pháp môi trường có phải
là các vấn đề TBT được điều chỉnh bởi Hiệp định TBT của WTO hay không, nếu
có thì sẽ phải được thông báo như quy định kỹ thuật TBT. Một số thành viên đề
xuất các biện pháp như vậy phải được giải quyết trong khuôn khổ Ủy ban Thương
mại và Môi trường của WTO. EU không đưa Chỉ thị 2005/32/EC vào các thông
báo TBT của mình. Tuy nhiên, Văn phòng TBT của EU lại phát hành các thông
báo TBT đối với các biện pháp thực hiện Chỉ thị này.

d) Đánh giá tuân thủ và dấu CE
Các Chỉ thị sau đề ra các yêu cầu an toàn tối thiểu mà các sản phẩm điện và điện tử
phải đáp ứng để được bán trên thị trường EU. Các Chỉ thị này cũng quy định các
thủ tục tương ứng để được cấp dấu CE.
- Chỉ thị 2006/95/EC của Nghị viện và Hội đồng châu Âu ngày 12/12/2006
về hài hòa hóa luật của các quốc gia thành viên đối với các thiết bị điện
được thiết kế sử dụng trong phạm vi điện thế nhất định (đồng thời quy định
về dấu CE)
- Chỉ thị 88/378/EEC của Hội đồng châu Âu ngày 3/5/1988 về việc điều
chỉnh thống nhất luật của các quốc gia thành viên đối với đồ chơi an toàn
(đồng thời cũng quy định về dấu CE)
- Chỉ thị 89/336/EEC của Hội đồng châu Âu ngày 3/5/1989 về việc điều
chỉnh thống nhất luật của các quốc gia thành viên đối với tương thích điện từ
(đồng thời cũng quy định về dấu CE)
- Chỉ thị 2004/108/EC của Nghị viện và Hội đồng châu Âu ngày
15/12/2004 về việc điều chỉnh thống nhất luật của các quốc gia thành
viên đối với tương thích điện từ (đồng thời cũng quy định về dấu CE)
- Các trao đổi của Ủy ban để thực hiện Chỉ thị 2004/108/EC của Nghị viện và
Hội đồng châu Âu ngày 15/12/2004 về việc điều chỉnh thống nhất luật của
các quốc gia thành viên đối với tương thích điện từ và bãi bỏ hiệu lực của
Chỉ thị 89/336/EEC
- Chỉ thị 98/37/EC của Nghị viện và Hội đồng châu Âu ngày 22/6/1998
về việc điều chỉnh thống nhất luật của các quốc gia thành viên đối với máy
móc
- Chỉ thị 1999/5/EC của Nghị viện và Hội đồng châu Âu ngày 9/3/1999 đối
với các thiết bị sử dụng sóng radio và các thiết bị đầu cuối viễn thông, đối
với việc công nhận lẫn nhau về việc tuân thủ (đồng thời cũng quy định về
dấu CE)
- Chỉ thị 1996/57/EC của Nghị viện và Hội đồng châu Âu ngày 3/9/1996 về
các y êu cầu sử dụng năng lượng hiệu quả đối với các loại tủ lạnh, máy lạnh

và máy hỗn hợp trong gia đình
e) Đóng gói
Tương tự như quy định áp dụng đối với ngành dệt may .
6. Cá và các sản phẩm cá
Các vấn đề TBT chủ yếu quy định trong luật của EU bao gồm:
- Dấu sức khỏe, nhận dạng và nhãn hàng hóa
- Các vật liệu nhựa tiếp xúc trực tiếp với thực phẩm
- Đóng gói
- Bảo vệ môi trường
- Bảo tồn môi trường
a) Dấu sức khỏe, nhận dạng và nhãn hàng hóa
Quy định (EC) số 853/2004 của Nghị viện và Hội đồng châu Âu ngày 29/4/2004
đề ra các yêu cầu vệ sinh cụ thể đối v ới thực phẩm có nguồn gốc động vật, trong
đó bao gồm các yêu cầu về dấu nhận dạng và nhãn của sản phẩm.
b) Các vật liệu nhựa tiếp xúc trực tiếp với thực phẩm
Tương tự như các sản phẩm nhựa ( xem 3b)
c) Đóng gói
Tương tự như đối với ngành dệt may .
d) Bảo vệ môi trường
Chỉ thị 98/8/EC của Nghị viện và Hội đồng châu Âu ngày 16/2/1998 về việc đưa ra
thị trường các sản phẩm trừ sinh vật có hại cũng đề ra những giới hạn sử dụng các
chất diệt sinh vật có hại (các chất diệt sinh vật không phải sử dụng cho nông
nghiệp) để làm sạch các thiết bị sản xuất thực phẩm.
e) Bảo tồn môi trường
Chỉ thị IUU: Quy định của Hội đồng (EC) số 1005/2008 ngày 29/9/2008 thành
lập một hệ thống cấp Cộng đồng để chống đánh bắt cá bất hợp pháp, không báo
cáo hay không tuân thủ quy định , sửa đổi các Quy định (EEC) số 2847/93, (EC)
số 1936/2001 và (EC) số 601/2004 và bãi bỏ hiệu lực của các Quy định (EC) số
1093/94 và (EC) số 1447/1999. Quy định này cũng yêu cầu phải có chứng nhận
về cá được đánh bắt hợp pháp để cung ứng cá và các sản phẩm cá ra thị trường EU.

Các thành viên WTO còn tranh cãi về việc các biện pháp môi trường có phải là
các vấn đề TBT được điều chỉnh bởi Hiệp định TBT của WTO hay không, nếu có
thì sẽ phải được thông báo như quy định kỹ thuật TBT. Một số thành viên đề xuất
các biện pháp như vậy phải được giải quyết trong khuôn khổ Ủy ban Thương mại
và Môi trường của WTO. EU không đưa Quy định của Hội đồng (EC) số
1005/2008 vào các thông báo TBT của mình. Thay vào đó, EU thông báo biện
pháp này cho Ủy ban Thương mại và Môi trường của WTO.
7. Các sản phẩm nông nghiệp và thực phẩm
Các nội dung TBT chủ y ếu được quy định trong luật của EU đối với ngành này
bao gồm:
- Tiếp thị và tiêu chuẩn chất lượng
- Các vật liệu nhựa tiếp xúc trực tiếp với thực phẩm
- Đóng gói
- Bảo vệ môi trường
a) Tiếp thị và tiêu chuẩn chất lượng
Quy định của Ủy ban (EC) số 1221/2008 ngày 5/12/2008 sửa đổi Quy định
(EC) số 1580/2007 nhằm thực hiện các Quy định của Hội đồng (EC) số 2200/96,
(EC) số 2201/96 và(EC) số 1182/2007 đối với rau quả, chẳng hạn như các tiêu
chuẩn về tiếp thị. Quy định này đề cập đến kích cỡ, nhãn hiệu của sản phẩm.
b) Các vật liệu nhựa tiếp xúc trực tiếp với thực phẩm
Xem mục 3b: Tương tự như các sản phẩm nhựa
c) Bao bì
Tương tự như đối với ngành dệt may .
d) Bảo vệ môi trường
Chỉ thị của Hội đồng châu Âu ngày 21/12/1978 cấm đưa ra thị trường cũng như
cấm sử dụng các sản phẩm nhằm bảo vệ cây trồng có chứa các chất hoạt tính theo
danh mục sửa đổi tại thời điểm ban hành Chỉ thị. Chỉ thị này nhằm đảm bảo các
sản phẩm bảo vệ cây trồng sử dụng tại EU chỉ chứa các chất hoạt tính đ ược phép.
Mặc dù chỉ áp dụng trực tiếp đối với các nhà sản xuất và nhập khẩu các sản phẩm
bảo vệ cây trồng, Chỉ thị này tác động gián tiếp đến các nhà xuất khẩu thực phẩm

vì các khách hàng EU có khả năng sẽ đặt ra y êu cầu các cây trồng và sản phẩm
thực vật mà họ mua để cung ứng cho thị trường EU phải được bảo vệ bởi những
loại sản phẩm bảo vệ cây trồng được phép sử dụng theo Chỉ thị này .
CÁC RÀO CẢN KĨ THUẬT CỦA NHẬT BẢN ĐỐI VỚI MỘT SỐ MẶT
HÀNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
1. Đối với hàng nông sản:
1.1 Mặt hàng gạo
Nhật bàn là một trong những thị trường tiềm năng xuất khẩu gạo của
Việt Nam ở châu Á. Phần lớn gạo xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật là
những hợp đồng trúng thầu do chính phủ Nhật tổ chức. Gạo là một trong
những mặt hàng thuộc nhóm điều tiết bằng các quy định về thương mại
Nhà nước- State trading( thuốc lá, gạo, lúa mạch, lúa mì, sản phẩm sữa
và tơ tằm nguyên liệu) và Luật kiểm dịch. Từ năm 2002 Việt Nam bắt
đầu xuất khẩu sang Nhật Bản thông qua những cuộc đấu thầu do Chính
phủ Nhật tổ chức.

Năm 2007, Việt Nam đã 4 lần trúng thầu với tổng số 66.050 tấn gạo.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện hợp đồng lần 2 và lần 3, lô hàng đầu
tiên của VN bị phía Nhật phát hiện Luật Vệ sinh an toàn thực phẩm với
dư lượng Acetamiprid vượt quá mức cho phép( 0,01ppm) dẫn đến việc
Nhật Bản quyết định tăng cường 30% gạo có xuất xứ từ Viết Nam đối
với chất Acetamiprid và gạo Việt Nam đứng trước nguy cơ bị Nhật Bản
áp dụng lệnh kiểm tra 100%. Kiểm tra 100% lô hàng trước khi cho vào
thị trường là một trong những biện pháp nghiêm khắc nhất mà cơ quan
hải quan Nhật Bản có thể sẽ áp dụng nếu số lô hàng bị phat 1hien65 vi
phạm VSATTP ngày càng nhiều.
Bộ y tế, Lao động và phúc lợi Nhật Bản yêu cầu phía Việt Nam phối hợp
để truy xuất nguồn gốc gạo. Tuy nhiên theo hiệp hội lương thực Việt
Nam, một bất cập trong việc kiểm soát tiêu chuẩn VSATTP đối với gạo
xuất khẩu là gạo Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản do nhiều nguồn

cung cấp khác nhau và việc truy xuất nguồn gốc gặp nhiều khó khăn.
1.2 Sản phẩm điều
Từ năm 2006, Việt Nam đã trở thành nớc đứng đầu thế giới về sản
phẩm điều. Tuy nhiên, Nhật Bản hiện vẫn chiếm một tỷ trọng nhỏ trong
tổng kim ngạch xuất khẩu hạt điều của Việt Nam. Hạt điều nhập khẩu
vào thị trường Nhật Bản phải tuân thủ các quy định của Luật Bảo vệ
thực vật, Luật vệ sinh an toàn thực phẩm cũng nh Luật JAS của Nhật
Bản. Khác với nhiều thị trờng xuất khẩu điều lớn của Việt Nam nh Mỹ,
Trung Quốc, EU . Nhật Bản có quy định chặt chẽ về lượng chất
Permethrin.
Theo Hiệp hội điều Việt Nam (Vinacas), Permethrin là chất diệt côn
trùng được sử dụng phổ biến trong kỹ thuật hun trùng cho các loại hạt. Loại
chất này được nhiều công ty quốc doanh chế biến hạt điều sử dụng để bảo
quản hạt khỏi bị mối mọt. Đối với dư lượng Permethrin trong hạt điều, sản
phẩm Việt Nam luôn được các nhà nhập khẩu Mỹ và nhiều nớc nhập khẩu
khác đánh giá cao về đáp ứng tốt yêu cầu chất lượng, chỉ có Nhật Bản đa ra
tiêu chuẩn Permethrin cho hạt điều.
Trong năm 2006, Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi Nhật Bản đã có thông báo
gửi Bộ Thơng mại Việt Nam (nay là Bộ Công Thơng) về việc phát hiện
lô hàng hạt điều của một doanh nghiệp Việt Nam có dư lợng chất Permethrin
vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Lô hàng hạt điều tơi của công ty này xuất
khẩu vào Nhật Bản có dư lợng chất Permethrin là 0,08 ppm, trong khi dư
lợng tối đa cho phép tại Nhật Bản chỉ là 0,05ppm. Bộ Y tế, Lao động và
Phúc lợi Nhật Bản yêu cầu tất cả các trạm kiểm dịch cửa khẩu của Nhật Bản
lấy mẫu kiểm tra 50% đối với mặt hàng hạt điều có xuất xứ từ Việt Nam
(trước đây chỉ kiểm tra 5% và cho thông quan ngay không cần chờ kết quả
kiểm tra). Ngoài ra, kể từ ngày 19/12/2006, nếu phát hiện thêm một lần vi
phạm sẽ áp dụng ngay lệnh kiểm tra 100%, đồng thời toàn bộ các lô hàng sẽ
không đợc thông quan cho đến khi có kết quả kiểm tra. Sự việc này đã tác
động đến kim ngạch xuất khẩu điều của Việt Nam sang Nhật Bản, thể hiện

kim ngạch xuất khẩu đã giảm từ 4,13 triệu USD năm 2005 xuống còn 3,3
triệu USD năm 2006.
1.3 Sản phẩm thịt
Tính theo giá trị nhập khẩu, Nhật Bản là nước nhập khẩu thịt lớn nhất
trên thế giới với kim ngạch nhập khẩu thịt lợn đến trên 4 tỷ USD/năm, thịt
bò trên 2 tỷ USD/năm và thịt gia cầm khoảng trên 1,5 tỷ USD/năm. Do chi
phí nguyên liệu và lao động ngày càng tăng tại Nhật Bản, xu hướng nhập
khẩu ngày càng gia tăng, cụ thể là thị phần hàng nhập khẩu liên tục tăng từ
3,2% trong tổng mức tiêu thụ vào năm 2002 lên đến khoảng 10% vào năm
2006. Các nước xuất khẩu sản phẩm chế biến từ thịt lợn gồm: Trung Quốc,
Mỹ, Italy, Thái Lan, Đức, Tây Ban Nha.
Trước đây, Việt Nam không được phép xuất khẩu các sản phẩm chế biến từ
thịt lợn sang Nhật Bản vì bị xếp trong danh sách các nước có dịch bệnh lở
mồm long móng. Thương vụ Việt Nam đã làm việc với Bộ Nông Lâm Ngư
nghiệp và Bộ Y tế, Phúc lợi xã hội Nhật Bản đề nghị tạo điều kiện thuận lợi,
đồng ý nhập khẩu các sản phẩm chế biến từ thịt của Việt Nam.
Theo Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản, từ tháng 10/2007, các doanh
nghiệp Việt Nam có thể xuất khẩu thịt chế biến sang Nhật Bản. Thương vụ
Việt Nam tại Nhật Bản đã nghiên cứu kỹ nhu cầu nhập khẩu các sản phẩm
chế biến từ thịt lợn (gồm: xúc xích và giăm bông) của Nhật Bản nhằm tìm
kiếm mặt hàng xuất khẩu mới thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang
thị trường Nhật Bản.
Bộ Nông Lâm Ngư nghiệp Nhật Bản đã đa ra Dự thảo quy định nhập khẩu
các sản phẩm chế biến từ thịt của Nhật Bản dành cho Việt Nam gồm 29 điều
kiện. Nếu các doanh nghiệp Việt Nam có thể đáp ứng đầy đủ các điều
kiện trên, đặc biệt là khâu chế biến và xử lý nhiệt, Thương vụ Việt Nam tại
Nhật Bản sẽ tiếp tục vận động Bộ Nông lâm ng nghiệp và Bộ Y tế, Phúc lợi
xã hội Nhật Bản cử chuyên gia sang Việt Nam kiểm tra thực tế và đánh giá
chất lượng sản phẩm trước khi ký kết thỏa thuận với Việt Nam đồng ý nhập
khẩu các sản phẩm chế biến từ thịt của Việt Nam.

1.4 Các sản phẩm rau quả
Đối với rau quả, Luật Kiểm dịch Nhật Bản đa Việt Nam vào danh sách
các nớc có dịch bệnh ruồi đục quả nên Việt Nam không đợc phép xuất khẩu
quả tơi có hạt nh thanh long, nhãn, xoài, đu đủ, da chuột, cà chua . Vì vậy,
hàng năm Việt Nam xuất khẩu rất ít các loại rau và quả sang Nhật Bản (tổng
cộng chỉ khoảng 1.347 triệu Yên - tơng đơng 12,3 triệu USD trong 8 tháng
đầu năm 2008).
Mặc dù vây, rau quả Việt Nam xuất sang Nhật Bản tiếp tục có thể sẽ gặp
khó khăn do nớc này áp dụng quy định mức giới hạn tối đa hoá chất (MRL)
đối với thực phẩm nhập khẩu. Mức MRL áp dụng lần này sẽ tập trung vào d
lợng thuốc trừ sâu (Tolfenpyrad) và thuốc diệt nấm (Cyazofamid). Các thực
phẩm nhập khẩu nếu vi phạm quy định mới về MRL này sẽ không đợc phép
đa vào thị trường. Hiện tại, Nhật Bản đã ban hành MRL đối với 242 chất hoá
học.
Riêng lần này sẽ áp dụng cho 25 mặt hàng (đối với thuốc trừ sâu) và 19 mặt
hàng (với thuốc diệt nấm). Nhật Bản đang lấy ý kiến đóng góp của các cơ
quan hữu quan về thời điểm cụ thể áp dụng những rào cản mới này.
Quy định MRL lần này đối với d lợng thuốc trừ sâu và dư lượng thuốc
diệt nấm nghiêm ngặt hơn nhiều so với lần sửa đổi năm 2003 vì ngoài mục
đích bảo vệ sức khoẻ ngời tiêu dùng, Nhật Bản còn nhắm đến việc bảo hộ
nông sản trong nước.
2. Đối với mặt hàng lâm sản
Mặt hàng gỗ xuất khẩu sang Nhật Bản cũng đang rất có nhiều tiềm năng.
Hiện mặt hàng này đang tăng trởng với tốc độ nhanh, chiếm 8,3% thị phần
nhập khẩu đồ gỗ của Nhật Bản và đang có xu hớng tăng hơn nữa. Đến năm
2006, kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam đạt 286 triệu USD, xếp thứ
2 sau Trung Quốc. Năm 2007 kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ đạt 307 triệu USD,
tăng 7,3% so với năm 2006.
Các mặt hàng gỗ xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản rất đa dạng
gồm: gỗ nhiên liệu dạng khúc (mã HS 4401), gỗ cây (mã HS 4403), gỗ đã

ca hoặc xẻ theo chiều dọc (mã HS 4407), tấm gỗ lạng làm lớp mặt (mã HS
4408), gỗ ván trang trí làm sàn (mã HS 4409), ván sợi bằng gỗ (mã HS
4415), tượng gỗ và đồ trang trí bằng gỗ (mã HS 4420), ghế ngồi (mã HS
9401), đồ nội thất khác và các bộ phận của chúng (mã HS 9403).
Ở Nhật Bản, tiêu chuẩn kỹ thuật với thơng mại rõ nhất với sản phẩm gỗ
nhiệt đới là Tiêu chuẩn Nông nghiệp Nhật Bản (JAS) và tiêu chuẩn công
nghiệp Nhật Bản (JIS) về lợng formaldêhyde phát xạ gắn liền hội chứng nhà
bệnh. Sản phẩm bị ảnh hưởng là gỗ dán, ván dăm bào, MDF, ván xây dựng,
vãn phủ mặt, ván sàn, mặt cầu thang. Mỗi loại sản phẩm yêu cầu có giấy
chứng nhận riêng phù hợp tiêu chuẩn tương ứng.
Các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu Việt Nam cũng cần đạt chứng
chỉ rừng FSC (Forest Stewardship Council) - chứng chỉ toàn cầu kiểm định
chuỗi sản phẩm gỗ từ nguyên liệu đến thành phẩm, đặc biệt là trong điều
kiện mối quan tâm đến các vấn đề ô nhiễm môi trờng ngày càng cao. Ngoài
ra, các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu cũng cần cung cấp thông tin về
các chất liệu hóa chất xử lý gỗ để tăng độ tin cậy an tâm của khách hàng khi
giao dịch.
3. Đối với các mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu
Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam thời gian qua phải đối phó với các rào
cản kỹ thuật của các nớc trên thế giới nói chung và Nhật Bản nói riêng
nhằm "cảnh báo" hoặc "hạn chế" xuất khẩu của Việt Nam.
Từ cuối năm 2006, Nhật Bản đã thay đổi chính sách kiểm soát dư lượng
kháng sinh khiến nhiều lô hàng thủy sản xuất khẩu sang thị trờng này bị từ
chối hoặc bị trả lại do phát hiện chứa d lợng kháng sinh cao hơn giới hạn
cho phép theo qui định mới, đặc biệt là các lô hàng phải qua chế độ kiểm tra
tăng cường. Với những quy định đó, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam bị
ảnh hưởng khá nặng nề. Rất nhiều lô hàng của Việt Nam bị trả về, các sản
phẩm luôn nằm trong sự cảnh báo ở mức cao, làm kim ngạch xuất khẩu
thủy sản sang Nhật bị giảm sút nghiêm trọng. Cuối năm 2006, thủy sản Việt
Nam xuất khẩu vào Nhật Bản bị kiểm tra 100% lô hàng nhập khẩu. Tiến

trình này đã được Tham tán thương mại của Việt Nam tại Nhật Bản cảnh
báo từ khi những lô hàng thuỷ sản đầu tiên xuất khẩu vào Nhật Bản phát
hiện có vấn đề về VSATTP và phía Nhật Bản thông báo sẽ kiểm tra 100%
lô hàng tôm nhập khẩu từ Việt Nam nếu Việt Nam không có biện pháp chấn
chỉnh.
Tháng 3/2007, Nhật Bản liên tiếp phát hiện các lô hàng tôm, mực và nem
hải sản của Việt Nam chứa d lợng chất kháng sinh chlromphenicol, AOZ.
Lệnh kiểm tra AOZ đối với 100% lô hàng thuỷ sản Việt Nam đợc ban hành.
Tháng 4/2007, Nhật Bản liên tiếp cảnh báo 16 nhà xuất khẩu thủy sản Việt
Nam, vì phát hiện d lợng CAP, AOZ và Semicarbazide trong hải sản nhập
khẩu.
Tháng 6/2007, 14 doanh nghiệp Việt Nam lại tiếp tục nhận văn bản cảnh báo
từ Nhật cho các sản phẩm không đạt chất lượng của mình. Đầu tháng
7/2007, Đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam đã gửi thư cảnh báo rằng cơ quan phụ
trách kiểm dịch của Nhật sẽ xem xét áp dụng biện pháp cấm nhập khẩu thuỷ
sản Việt Nam.
Mới đây nhất, Nhật Bản đã có những biện pháp mạnh đe dọa sẽ cấm nhập
khẩu hoàn toàn thủy sản của Việt Nam nếu việc nhiễm dư lợng kháng sinh
hóa chất không được cải thiện. Nguyên nhân để phía Nhật Bản có thể áp
dụng biện pháp này là trong 6.000 lô hàng xuất khẩu sang Nhật Bản có tới
94 lô (chiếm 1,6%) bị cảnh cáo có các loại chất kháng sinh, hóa chất bị cấm
sử dụng. Nếu lệnh cấm nhập khẩu được công bố thì xuất khẩu thủy sản của
Việt Nam sẽ bị tác động mạnh vì thị trường Nhật Bản chiếm tới gần 10%
kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam.

×