Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

tiểu luận những tác động của xuất khẩu đến sự phát triển của kinh tế việt nam từ năm 2008 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.18 KB, 31 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ QUỐC TẾ

TIỂU LUẬN
KINH TẾ PHÁT TRIỂN
NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA XUẤT KHẨU
ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KINH TẾ VIỆT NAM
TỪ NĂM 2008 ĐẾN NAY
Hà Nội, 2011
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế thị trường ngày càng phát triền mạnh mẽ kéo theo sự đi lên tất
yếu của các hoạt động trao đổi buôn bán thương mại giữa các nhóm, các khu vực
kinh tế hay giữa các quốc gia trên Thế giới. Ngày nay, trong mạch chảy không
ngừng nghỉ đó, Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ. Từ những thập niên gần
đây và đặc biệt là từ năm 2008 đến nay, các hoạt động xuất nhập khẩu ở nước ta đã
diễn ra sôi nổi trên tất cả các quy mô lớn, vừa và nhỏ với tốc độ phát triển nhanh
chóng. Điều này góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy nền kinh tế, tận dụng được
những lợi thế so sánh của nước ta, đồng thời nâng cao vị thí của Việt Nam trên
trường quốc tế.
Chính vì tầm quan trọng như vậy của Xuất nhập khẩu đến sự phát triển kinh
tế, bài tiểu luận đã đi sâu vào nghiên cứu nhằm rút ra mối quan hệ biện chứng của
hoạt động này và nền kinh tế ở Việt Nam. Tuy nhiên, bài tiểu luận này tập trung tìm
hiểu về một mặt của vấn đề trên: đó chính là Những tác động của xuất khẩu đến
sự phát triền kinh tế ở Việt Nam từ năm 2008 đến nay.
Nội dung đầu tiên mà bài tiểu luận đề cập đến là đưa ra một bức tranh toàn
cành về thực trạng xuất khẩu ở Việt Nam những năm từ 2008 đến nay, kết hợp vận
dụng với những lý thuyết kinh tế vĩ mô để nêu lên mối quan hệ giữa chúng. Nội
dung tiếp theo là nghiên cứu cụ thể hơn những tác động của xuất khẩu đến phát
triển kinh tế Việt Nam, trên cả hai phương diện tích cực và tiêu cực. Điều quan
trọng cuối cùng chính là từ tất cả những con số, dữ liệu thu thập được từ lý thuyết
và thực tế nền kinh tế, bài tiểu luận xin đưa ra một số đề xuất nhằm khắc phục


những tác động tiêu cực, tăng cường những tác động tích cực của xuất khẩu đối với
phát triển kinh tế ở Việt Nam.
Bài tiểu luận của chúng em chắc chắn sẽ không thể đi sâu đến tất cả các khía
cạnh của vấn đề và gặp phải những thiếu sót. Chúng em rất mong được sự góp ý,
sửa đổi, giúp đỡ của cô giáo cùng các bạn để có thể rút ra những kinh nghiệm quý
báu cho bài tiểu luận này và những bài tập sau được hoàn thiện và thành công hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
Danh sách nhóm thuyết trình Kinh tế phát triển
STT Họ và tên MSV
1 Nguyễn Hồng Ngọc
2 Đỗ Thu Hà
3 Vương Minh Hằng
4 Nguyễn Thiều Thảo Linh
5 Thảo Trần
6 Ninh Phương Hồng
7 Nguyễn Nguyệt Ánh
8 Trần Hương Thảo
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1:
TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM TỪ 2008 ĐẾN NAY
Tình hình xuất khẩu của Việt Nam từ năm 2008 đến nay sẽ được đánh giá
dựa trên 2 tiêu chí là chất và lượng, mặt lượng sẽ được đánh giá dựa trên giá trị
xuất khẩu, mặt chất sẽ được đánh giá dựa trên vị thế của Việt Nam so với khu vực
và thế giới cùng với đó là những mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam trong những
năm gần đây, từ đó chúng ta sẽ có cái nhìn tổng quát hơn về tình hình xuất khẩu
của Việt Nam.
1. Giá trị xuất khẩu của Việt Nam từ năm 2008 đến 8 tháng đầu năm
2011
Năm 2008 2009 2010
2011

(dự đoán)
2011
(8 tháng đầu năm)
Giá trị(tỷ
USD)
62,69 57,1 72,19 84,7 60,8
Nguồn: Tổng cục thống kê />tabid=393&idmid=3&ItemID=10376
Tổng cục hải quan
/>a. Đánh giá tình hình xuất khẩu của Việt Nam dựa theo giá trị xuất
khẩu
Biểu đồ giá trị xuất khẩu của Việt Nam từ năm 2008-2011
Trong 3 năm 2008-2011 giá trị xuất khẩu của Việt Nam có xu hướng tăng
lên.Theo dự đoán đến hết năm 2011 xuất khẩu Việt Nam có thể đạt 84,7 tỷ USD
tăng 22,01 tỷ USD tương đương 35,1 % so với năm 2008.
Tuy nhiên, năm 2009 do ảnh hưởng của khủng cuộc khủng hoảng kinh tế thế
giới đã làm gía trị xuất khẩu của Việt Nam giảm xuống 5,59 tỷ USD tương đương
8,9% so với năm 2008.
Năm 2010, xuất khẩu của Việt Nam đã tăng trưởng rất nhanh,tăng 15.09 tỷ
USD tương đương 26,4% so với năm 2009, đứng thứ 39 trên thế giới tăng 2 bậc so
với năm 2009 tuy nhiên theo thống kê mức độ tăng trưởng này của Việt Nam cao
hơn so với Campuchia, ngang bằng với mức tăng của Malaysia và thấp hơn tốc độ
tăng của tất cả các nước ASEAN khác.
Dựa theo tình hình xuất khẩu năm 2010 và tình hình kinh tế thế giới một số
nhà kinh tế đã dự đoán vào cuối năm 2011 giá trị xuất khẩu của Viêt Nam có thể
đạt tới 84,7 triệu USD,tăng 12,51 tỷ USD tương đương 17,3% so với năm 2010.
Theo số liệu thống kê mới nhất trong 8 tháng đầu năm 2011 giá trị xuất khẩu
của Việt Nam đặt 60,8 tỷ USD tăng 33% so với cùng kỳ năm ngoái.
Từ số liệu giá trị xuất khẩu các năm 2008-2010 cho thấy mặc dù giá trị xuất
khẩu nước ta có xu hướng tăng lên nhưng tốc độ tăng giảm dần qua các năm.
b. Đánh giá tình hình xuất khẩu của Việt Nam thông qua tỷ trọng so

với thế giới
Chỉ tiêu/năm 2008 2009 2010
Tỷ trọng trên thế giới(%) 0,4 0,45 0,47
Tỷ trọng trong Asean(%) 6,33 6,95 6,86
Trong 3 năm 2008 đến 2010 tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam so với thế giới
tăng 0,07% từ 0,4% năm 2008 lên 0,47% năm 2010. Trong đó từ năm 2008 đến
năm 2009 tăng 0,05% nhiều hơn mức tăng từ năm 2009 đến năm 2010 (0,02%)
Nếu so với thế giới tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam có xu hướng tăng nhẹ
đều đặn và liên tục trong 3 năm
Trong khu vực ASEAN tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam trong 3 năm tăng
0,53% từ 6,33% năm 2008 lên 6,86% năm 2010
Tuy nhiên xét trong khu vực ASEAN tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam có xu
hướng tăng giảm không liên tục,năm 2009 tăng 0,62% so với năm 2008 nhưng đến
ngay sau đó năm 2010 thì lại giảm 0,09% so với năm 2009
2. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam từ năm 2008 đến
2011
Biểu đồ các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam từ năm 2008 đến 8 tháng đầu năm 2011
Nhận xét
Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là các mặt hàng thuộc nhóm
ngành công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp
Qua 3 năm từ 2008-2010 và 8 tháng đầu năm 2011 cơ cấu hàng xuất khẩu
của Việt Nam có sự chuyện biến rõ rệt
Trong 3 năm từ 2008-2010 tỷ trọng xuất khẩu ngành công nghiệp nặng và
khoáng sản giảm liên tục trong các năm từ 37% năm 2008 xuống còn 27,2% năm
2010 giảm 9,8%. Tính đến 8 tháng đầu năm 2011 tỷ trọng xuất khẩu của nhóm
hàng này chỉ còn 26.6% nghĩa là giảm tiếp 0,6% so với năm 2010
Trong khi tỷ trọng ngành công nghiệp nặng và khoáng sản có xu hướng giảm
liên tục thì ngành công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp có xu hướng tăng đều
qua các năm 2008-2010,trong vòng 3 năm tỷ trọng nhóm nghành này tăng 6,2%,tuy
nhiên trong 8 tháng đầu năm 2011 tỷ trọng nhóm ngành này có biểu hiện sụt giảm

khi chỉ còn 43,4% giảm 2,6% so với năm 2010.Năm 2010 là năm chứng kiến sự
phát triển vượt bậc của xuất khẩu ngành công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp
khi ngành hàng dệt may vươn lên đứng thứ 10 trên thế giới với giá trị xuất khẩu đạt
11 tỷ USD.
So với năm 2008 tỷ trọng nhóm ngành nông lâm thuỷ sản cũng có sự tăng
nhẹ khi tăng 0,2% trong năm 2010, nhưng nếu so với năm 2009 thì tỷ trọng của
nhóm ngành này giảm 0,4%, đây là nhóm ngành sự tăng giảm tỷ trọng không đáng
kể trong 3 năm từ 2008-2010, tuy nhiên, tính đến 8 tháng đầu năm 2011, ta thấy
nhóm ngành nông lâm thuỷ sản có sự tăng trưởng vượt bậc, khi chiếm tỷ trọng
28,05% trong kim ngạch xuất khẩu 8 tháng đầu năm 2011 tăng 5,25% so với năm
2010. Đây cũng là nhóm ngành mà Việt Nam đang giữ vị trí khá cao trên bản đồ
xuất khẩu trên thế giới với các mặt hàng truyền thống như gạo, cà phê, cao su hạt
điều.
Trong tất cả các mặt hàng thì mặt hàng vàng phi tiền tệ có sự thay đổi rõ rệt
nhất khi tăng lên gấp 6,67 lần trong vòng 3 năm, tỷ trọng xuất khẩu ngành này có
sự tăng giảm không đồng đều qua các năm
Từ năm 2008-2009 ta thấy sự nhảy vọt của xuất khẩu trong lĩnh vực vàng phi
tiền tệ khi tăng từ 0,6% năm 2008 lên 4,6% trong năm 2009, tăng gấp 7,6 lần tuy
nhiên đến năm 2010 mặt hàng này có sự giảm nhẹ về tỷ trọng khi giảm xuống còn
4%, tính đến 8 tháng đầu năm 2011 ta lại thấy sự giảm sút tỷ trọng của mặt hàng
này xuống chỉ còn 1,95% chỉ còn bằng 0,49 lần so với năm 2010
3. Nhận xét chung
Trong vòng 3 năm từ 2008 đến 2010 giá trị xuất khẩu Việt Nam có sự tăng
trưởng rõ ràng,tỷ trọng xuất khẩu trên thị trường thế giới cũng tăng,trong đó có sự
thay đổi về cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu,tăng tỷ trọng mặt hàng công nghiệp nhẹ
và thủ công nghiệp giảm tỷ trọng mặt hàng công nghiệp nặng và khoáng sản,mặt
hàng nông lâm thuỷ sản cũng có sự biến đổi nhưng không đáng kể,các mặt hàng
công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp cũng đã đạt được những thành tích đáng
kể,đang dần dần khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường thế giới,mặt khác Việt
Nam vẫn duy trì được thế mạnh ở các mặt hàng truyển thống như gạo,cà phê… ,sự

thay đổi tỷ trọng các mặt hàng xuất khẩu cũng đã góp phần cho sự đi lên phát triển
đất nước
CHƯƠNG 2
Những tác động của xuất khẩu đến phát triển kinh tế của Việt Nam từ
năm 2008 đến nay
1. Những tác động tích cực của xuất khẩu đến phát triển kinh tế của Việt
Nam
a. Kích thích tăng trưởng kinh tế
Sau nhiều năm đổi mới kể từ đại hội Đảng VI năm 1986, Việt Nam từ một
nước trì trệ, tăng trưởng thấp, tích lũy chủ yếu nhờ vào vay mượn bên ngoài, đến
nay đã trở thành một nước có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực. Đóng góp vào
tăng trưởng của kinh tế Việt Nam là một phần không nhỏ của xuất khẩu. Sự tăng
trưởng mạnh mẽ của xuất khẩu đã tác động rất tích cực đến tăng trưởng kinh tế Việt
Nam trong giai đoạn vừa qua. Đây là vấn đề rất ý nghĩa, nhất là trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Tăng trưởng kinh tế của một quốc gia theo bảng cân đối tổng sản phẩm quốc
dân là do tiêu dùng, đầu tư, chi tiêu của chính phủ, xuất khẩu và nhập khẩu (tức cán
cân thương mại quốc tế) đóng góp. Tác động của xuất khẩu tới tăng trưởng kinh tế
ở đây là tác động trực tiếp và đây chính là một trong những động lực khiến tăng
trưởng kinh tế duy trì được ở mức cao như vậy.
Chúng ta hãy cùng xem xét tác động của xuất khẩu đối với tăng trưởng kinh
tế của Việt Nam thông qua các khía cạnh như: đóng góp của xuất khẩu trong tỉ
trọng GDP, mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng trưởng xuất
khẩu.
• Đóng góp của xuất khẩu trong tỉ trọng GDP
Bảng: Xuất khẩu bình quân đầu người và tỉ trọng chiếm trong GDP
Năm
Kim ngạch XK
(tỉ USD)
XK bình quân

đầu người (USD)
Tỉ trọng xuất
khẩu trong GDP
(%)
2008 62,69 727,60 67,99
2009 57,10 665,58 58,81
2010 72,19 830,53 69,68
2011 84,70 935,39 77,14
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Trong giai đoạn vừa qua, xuất khẩu đã góp phần quan trọng cho tăng trưởng
kinh tế Việt Nam.Từ năm 2008 đến nay, tỉ trọng của xuất khẩu trong GDP cao và
có xu hướng tăng. Trong giai đoạn 2008 – 2009, do ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam giảm nhưng vẫn chiếm tỉ
trọng cao trong GDP: năm 2008 chiếm 67,99%; năm 2009 chiếm 58,81% và góp
phần không nhỏ duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta trong cuộc khủng
hoảng kinh tế toàn cầu.
Những năm gần đây, tỉ trọng xuất khẩu trong GDP luôn được duy trì ở mức
cao và có xu hướng tăng càng thể hiện vai trò của xuất khẩu tới tăng trưởng kinh tế.
Năm 2008, con số này ở khoảng 67,99%, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế
thế giới năm 2009 giảm xuống 58,81% và hồi phục trở lại vào năm 2010 với
69,68%. Đến năm 2011, trong 8 tháng đầu năm, mức đóng góp của xuất khẩu vào
GDP đạt 77,14%, cao nhất từ trước đến nay.
Điều này cho thấy xuất khẩu là một nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong những năm qua.
• Mối quan hệ chặt chẽ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng
trưởng xuất khẩu.
Rõ ràng xuất khẩu là một bộ phận của GDP, mỗi sự thay đổi của xuất khẩu sẽ
kéo theo sự thay đổi của GDP. Theo tính toán của một nhà nghiên cứu hiện nay,
GDP cứ tăng 2% là có đóng góp 1% của xuất khẩu. Để đánh giá sâu hơn đóng góp
của xuất khẩu đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam, chúng ta xem xét mối quan hệ

giữa tốc độ tăng trưởng xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng GDP.
Đồ thị tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, nhập khẩu và tốc độ tăng trưởng GDP
Nguồn: Tính toán dựa trên nguốn của Tổng cục Thống kê
Từ đồ thị trên có thể thấy tốc độ tăng trưởng xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng
kinh tế dường như có mối quan hệ với nhau. Trong giai đoạn 2008 – 2009, tăng
trưởng xuất khẩu có xu hướng đi xuống và nền kinh tế cũng tăng trưởng chậm
lại.Sang năm 2010, xuất khẩu lại tăng và thúc đẩy nền kinh tế tiếp tục phục hồi và
tăng trưởng kinh tế đạt với tốc độ 55%/năm. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu kể từ
năm 2010 trở lại đây tuy có giảm nhưng vẫn duy trì ở tốc độ cao 33% đẩy tăng
trưởng GDP đạt tốc độ 40%.
Có thể thấy trong những năm gần đây, cùng với sự tăng trưởng của xuất
khẩu, nền kinh tế Việt Nam đã đạt những thành tựu quan trọng trong tăng trưởng
kinh tế: GDP (tính theo giá trị so sánh) năm 2010 gấp 2 lần so với năm 2000; (tính
theo giá trị thực tế tính bằng đồng đô la Mỹ) ước đạt trên 101 tỉ USD, gấp hơn 3,2
lần năm 2000 (31,2 tỉ USD); (theo giá thực tế bình quân đầu người) ước khoảng
1.160 USD, vượt mục tiêu kế hoạch đề ra là 1.050 – 1.100 USD, vượt qua ngưỡng
nước đang phát triển có thu nhập thấp và trở thành nước có mức thu nhập trung
bình.
Tuy nhiên, chúng ta cần nhận thấy rõ một điều rằng tốc độ tăng trưởng xuất
khẩu trong thời gian qua giao động khá mạnh. Điều này cho thấy nguy cơ tăng
trưởng xuất khẩu kém bền vững của Việt Nam – một đất nước chủ yếu vẫn còn xuất
khẩu sản phẩm sơ chế. Do đó, cần phải có biện pháp quản lí tốt xuất khẩu mới bảo
đảm được sự tăng trưởng bền vững.
b. Tạo nguồn vốn cho nhập khẩu, phục vụ quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước
Công nghiệp hóa đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất
yếu để khắc phục tình trạng nghèo và chậm phát triển của nước ta. Tuy xuất phát
điểm kinh tế rất thấp đã tạo ra rất nhiều khó khăn cho Việt Nam nhưng trong điều
kiện nền kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ cùng với các cuộc cách mạng khoa
học kĩ thuật, Việt Nam cũng có thuận lợi đó là cơ hội rút ngắn quá trình CNH –

HĐH của mình bằng cách nhập khẩu các thiết bị máy móc kĩ thuật, công nghệ tiên
tiến và kinh nghiệm quản lí từ các nước phát triển mà không cần phải bắt đầu từ
đầu.
Quá trình CNH – HĐH ở nước ta những năm gần đây đã đạt được những kết
quả đáng khích lệ trong đó xuất khẩu đóng một vai trò không nhỏ.Mục tiêu quan
trọng nhất của xuất khẩu chính là có được ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu của nền
kinh tế trong đó có một nhiệm vụ rất quan trọng đó là phục vụ cho công nghiệp hóa
đất nước.
Đối với một nước có nền kinh tế phát triển vẫn còn lạc hậu như Việt Nam thì
nhập khẩu máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lí là một điều
rất quan trọng phục vụ quá trình CNH – HĐH. Muốn vậy, chúng ta phải có một
lượng vốn ngoại tệ đủ lớn. Nguồn ngoại tệ này có thể xuất phát từ các nguồn như:
xuất khẩu hàng hóa, đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ, thu từ hoạt động du lịch
dịch vụ, xuất khẩu sức lao động… Trong số này, xuất khẩu trong thời gian qua đã
tỏ ra là nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu phục vụ cho công nghiệp hóa đất
nước.Xuất khẩu quyết định qui mô và tốc độ của nhập khẩu.
Bảng: Kim ngạch xuất – nhập khẩu và tỉ lệ nhập khẩu/ xuất khẩu 2008 – 2011
Năm 2008 2009 2010 2011
Xuất khẩu (tỉ USD) 62,69 57,10 72,19 84,70
Nhập khẩu (tỉ USD) 75,50 65,40 79,30 92,10
Nhập khẩu/ Xuất khẩu (%) 120,43 114,54 109,85 108,74
Nguồn: Tính toán dựa trên nguồn của Tổng cục Thống kê.
Tỉ trọng nhập khẩu/ xuất khẩu ngày càng giảm, từ 120,43% năm 2008 xuống
108,74% năm 2011 chứng tỏ trong những năm gần đây, ngoại tệ thu được từ xuất
khẩu đã đáp ứng được một phần lớn nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu.
Có thể thấy xuất khẩu luôn là một nguồn ngoại tệ lớn nhất và rất quan trọng,
bên cạnh những nguồn ngoại tệ khác. Mặt khác, các nguồn vốn như đầu tư nước
ngoài hay viện trợ, vay nợ tuy cũng rất quan trọng nhưng rồi cũng phải trả bằng
cách này hay cách khác ở các thời kì sau, nếu phụ thuộc quá nhiều vào các nguồn
này thì chúng ta sẽ dễ gặp phải những rủi ro nhất định. Chính vì vậy, vốn ngoại tệ

thu từ xuất khẩu lại càng trở nên quan trọng hơn phục vụ cho nhập khẩu và công
nghiệp hóa đất nước.
c. Giải quyết việc làm cho người lao động và cải thiện đời sống nhân
dân
• Tình hình lực lượng lao động nước ta trong thời kỳ 2008 đến
nay
Năm 2008 - 2009 được đánh giá là ảnh hưởng của suy thoái kinh tế lao động
nên khó tìm kiếm việc làm trong khi nhu cầu tiêu dùng không giảm, thậm chí còn
được kích cầu để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Lao động mất việc làm,
được hưởng trợ cấp mất việc nhiều lên. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế,
thì đó không phải là rào cản lớn nhất mà sự mất cân đối nghiêm trọng của lực
lượng lao động hiện đang gây khó khăn cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế
Việt Nam. Theo báo cáo mới nhất về thực trạng cung - cầu lao động được Bộ Lao
động, Thương binh & Xã hội công bố thì cả nước hiện có trên 48 triệu lao động,
trong đó 73% số lao động trên tập trung ở nông thôn. Đặc biệt, trong số 44/48 triệu
lao động có việc làm thì 70% số đó có làm việc không ổn định, là lao động tự do,
dễ bị Tổn thương, dễ bị rơi vào tình trạng nghèo đói.
- Thông qua các Chương trình phát triển kinh tế - xã hội, các dự án, các
hoạt động thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm năm 2010 đã
tạo việc làm cho 1,610 triệu lao động (100,6% kế hoạch), trong đó tạo
việc làm trong nước cho khoảng 1,525 triệu lao động (100,7% kế hoạch).
Nhìn chung, năm 2010 lĩnh vực việc làm, thị trường lao động, bảo hiểm
thất nghiệp được triển khai hiệu quả, hoàn thành chỉ tiêu được giao. Các
hoạt động giao dịch việc làm được diễn ra với tần suất thường xuyên hơn,
quy mô mở rộng hơn, hiệu quả kết nối cung – cầu lao động cao hơn.
Công tác phân tích, dự báo thị trường lao động bước đầu đã đạt được
những kết quả nhất định, hoàn thành việc xây dựng Báo cáo xu hướng
việc làm năm 2010 phục vụ cho hoạch định chính sách thị trường lao
động. Chính sách bảo hiểm thất nghiệp cũng được triển khai tích cực,
đang đi vào cuộc sống, góp phần tích cực vào việc giữ gìn an sinh xã hội.

- Mục tiêu được đề ra trong năm 2011 là: tạo việc làm cho 1,6 triệu lao
động, trong đó tạo việc làm trong nước cho 1,513 triệu người, xuất khẩu
lao động 87 ngàn người; giải quyết việc làm cho 200 nghìn lao động
thông qua dự án vay vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm; đầu tư nâng cao
năng lực cho 32 trung tâm giới thiệu việc làm; hỗ trợ tổ chức sàn giao
dịch việc làm cho 30 tỉnh, thành phố; thực hiện tốt chính sách bảo hiểm
thất nghiệp cho người lao động bị thất nghiệp…
Tích cực đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa, mở rộng quy mô sản xuất, từ đó giải
quyết việc làm cho người lao động là một trong những nguyên nhân quan trọng
nhất đẫn tới hững thành tựu đã đạt được trong công tác giải quyết nạn thất nghiệp,
ổn định thu nhập và cuộc sống cho người lao động như trên.
• Sự chuyển đổi cơ cấu của thị trường lao động Việt Nam
Số liệu được đưa ra trong Báo cáo “Xu hướng việc làm Việt Nam 2010” cho
thấy đang có sự chuyển đổi cơ cấu của thị trường lao động Việt Nam từ những việc
làm trong ngành nông nghiệp có năng suất lao động thấp, đòi hỏi nhiều lao động
sang các ngành công nghiệp và dịch vụ có giá trị gia tăng cao hơn, được đầu tư
công nghệ và tài chính nhiều hơn.
Cũng theo báo cáo trên do Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội công bố
ngày 24/1, ngành chiếm nhiều lao động nhất ở Việt Nam là ngành nông nghiệp, lâm
nghiệp và thủy sản với gần 23 triệu lao động (năm 2008).
Nhưng trong hầu hết các dự báo, việc làm trong ngành nông nghệp, lâm
nghiệp và thủy sản có chiều hướng giảm và sẽ ở mức 21,1 triệu lao động vào năm
2020. Người lao động có trình độ và kỹ năng cao hơn sẽ là chất xúc tác cho quá
trình chuyển đổi này, cũng như sự tăng trưởng thành công của Việt Nam trong vai
trò là quốc gia có thu nhập trung bình.
Các số liệu trong báo cáo cho thấy, trong giai đoạn 2007-2009, Việt Nam gặp
nhiều thách thức do tác động của nền kinh tế toàn cầu bị suy giảm với những ảnh
hưởng rõ rệt đến thị trường lao động.
Báo cáo cũng chỉ ra một số xu hướng quan trọng về việc làm như Việt Nam
đã đạt được các mục tiêu của Chương trình việc làm bền vững, đó là một yếu tố

quan trọng để chống đói nghèo. Tỷ trọng việc làm dễ bị tổn thương giảm xuống
4,3% do sự gia tăng tỷ trọng lao động làm công ăn lương (2,9%) và gia tăng lao
động tự làm (8,2%). Tuy nhiên, lại có sự gia tăng tỷ trọng lao động gia đình không
được trả công (4,0%), đi ngược lại với xu hướng trên.
Việt Nam cũng là nước có tỷ lệ việc làm tính trên dân số tương đối cao, ứng
với gần 75% dân số từ 15 tuổi trở lên. Tuy nhiên, do ảnh hưởng bất ổn của khủng
hoảng tài chính toàn cầu, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động ở Việt Nam đã giảm
trong giai đoạn 2007-2009. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động tăng đối với nam
giới và nữ giới trong độ tuổi 15-19 (từ 37,1% năm 2007 lên 43,8% năm 2009) cho
thấy đã có một lực lượng lớn thanh thiếu niên rời bỏ nhà trường để tìm việc kiếm
sống và hỗ trợ gia đình.
d. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đấy sản xuất phát triển
• Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự thay đổi tỷ trọng của các bộ phận cấu thành
nền kinh tế.Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế xảy ra khi có sự phát triển không đồng
đều về quy mô, tốc độ giữa các ngành, vùng và thành phần kinh tế.
Nội dung và yêu cầu cơ bản của chuyển dịch cơ cấu kinh tế (CCKT) ở nước
ta là chuyển dich theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tăng nhanh tỷ trọng
giá trị trong GDP của các ngành công nghiệp, xây dựng (gọi chung là công nghiệp)
và thương mại – dịch vụ (gọi chung là dịch vụ), đồng thời giảm dần tương đối tỷ
trọng giá trị trong GDP của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp (gọi
chung là nông nghiệp).
Xuất khẩu của Việt Nam trong những năm gần đây đã đem đến nhiều tác
động tích cực cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đáp ứng được nội dung và
yêu cầu cơ bản của quá trình chuyển dịch mà Đảng và Nhà nước đã đề ra - góp
phần làm giảm tỷ trọng trong GDP của ngành nông nghiệp, đồng thời, làm tăng
đáng kể tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ trong GDP.
Trước tiên là vài nét về tình hình xuất khẩu năm 2008
Các sản phẩm đóng tầu thuyền, sản phẩm từ gang thép, cao su đều có mức tăng
trưởng cao so với năm 2007 và là những mặt hàng có triển vọng tăng nhanh trong thời

gian tới. Một số mặt hàng chủ lực tuy khối lượng xuất khẩu giảm nhưng do giá tăng
mạnh trên thị trường thế giới nên trị giá vẫn tăng như dầu thô tăng 23,1%, than đá tăng
44%, cao su tăng 14,6%.
Tựu chung, xuất khẩu cả năm đạt 62,9 tỉ USD, tăng 29,5 % so với năm 2007, trong
khi chỉ tiêu chỉ có 22%. Với tổng kim ngạch trên, bình quân một tháng năm 2008, xuất
khẩu đạt được kim ngạch 5,25 tỉ USD, tương đương kim ngạch xuất khẩu cả năm 1995
(5,4 tỉ USD). Tổng kim ngạch xuất khẩu trên đã vượt xa mức dự định cho năm 2009, tiến
gần mục tiêu vào năm 2010 trong “Đề án xuất khẩu giai đoạn 2006 – 2010”. Với tốc độ
tăng nói trên, chỉ số tăng xuất khẩu năm nay gấp 4,7 lần so với tốc độ tăng GDP, trong
khi năm 2007 chỉ có 2,6 lần.
(Theo Tapchicongsan)
Một số thống kê trong năm 2011
Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2011, dự kiến sẽ đạt khoảng 78 tỷ USD, tăng hơn
10% so với năm 2010, trong đó xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài (không kể dầu
thô) đạt khoảng 38 tỷ USD, chiếm khoảng 48,7% tổng kim ngạch xuất khẩu và tăng 13 %
so với năm 2010. Thủy sản dự kiến kim ngạch đạt khoảng 6 tỷ USD; lượng gạo xuất khẩu
6,5 triệu tấn; cà phê 1,1 triệu tấn, cao su 800.000 tấn.
Nhiều sản phẩm công nghiệp và nhóm hàng hóa mới sẽ có nhiều khả năng tăng
trưởng nhanh trong giai đoạn tới do kết quả của quá trình thu hút vốn đầu tư, đặc biệt là
các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài trong những năm gần đây tăng mạnh (lĩnh vực điện
tử, linh kiện điện tử, máy tính, sản phẩm cơ khí…)
Trong năm 2010, nhóm mặt hàng hạn chế xuất khẩu như: khoáng sản, dầu thô… đã giảm
trên 8,5% về giá trị so với cùng kỳ và xu hướng này sẽ còn tiếp diễn trong những năm tới.
Trong khi đó, theo các chuyên gia, nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong câu lạc bộ tỷ
USD như: gạo, cà phê, thủy sản… đã tới ngưỡng nên việc nâng cao chất lượng, giảm dần
số lượng sẽ làm đòn bẩy nâng kim ngạch xuất khẩu năm 2011.
Ông Nguyễn Hữu Dũng, Phó Chủ tịch Hiệp hội thủy sản Việt Nam (VASEP) cho
rằng: Mặc dù kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm 2010 tăng hơn 16,6% so với năm 2009
nhưng do cách đặt mục tiêu xuất khẩu năm sau bao giờ cũng cao hơn năm trước nên dễ
bị nhà nhập khẩu ép giá. Bởi vậy, từ giai đoạn 2011-2015 sẽ phải thay thế lại cơ cấu xuất

khẩu đó là xuất khẩu sẽ theo hướng xuất được nhiều tiền hơn nhưng sản lượng sẽ giảm
xuống.
(Theo VOVNews)
Dựa trên những số liệu đã nêu của 2 năm 2008 và 2011, ta có thể đưa ra một
vài nhận xét cơ bản về tác động chuyển dịch cơ cấu mà xuất khẩu mang lại, đồng
thời cũng là định hướng đẩy mạnh xuất khẩu trong nước hiện nay như sau:
- Đặc biệt đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng các mặt hàng
có giá trị gia tăng cao; chú trọng đổi mới công nghệ, thiết bị, đẩy mạnh sản
xuất và xuất khẩu các mặt hàng có kim ngạch lớn, có khả năng tăng trưởng
cao. Cơ cấu xuất khẩu tiếp tục được chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ
trọng nhóm hàng chế biến, chế tạo, giảm tỷ trọng xuất khẩu thô.
- Phát triển công nghiệp với giá trị gia tăng cao và công nghiệp hỗ trợ là khâu
trung tâm trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiến trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá của nước ta. Và phần công việc không kém phần khó khăn, phải
đảm bảo ổn định nhập khẩu có kiểm soát các mặt hàng thiết yếu phục vụ sản
xuất cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu; đưa ra các biện pháp chặt chẽ
kiểm soát nhập khẩu những mặt hàng trong nước đã sản xuất được và các
mặt hàng tiêu dùng không thiết yếu, giảm dần nhập siêu”.
- Bên cạnh các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, truyền thống vẫn giữ được nhịp
độ tăng trưởng, đã xuất hiện những mặt hàng tiềm năng có triển vọng tăng
trưởng nhanh mà chưa gặp rào cản cũng như ngưỡng hạn chế nào.
- Bên cạnh việc khai thác tối đa thị trường trọng điểm, chúng ta vẫn tiếp tục
giữ vững thị trường truyền thống, đẩy mạnh việc đa dạng hoá thị trường xuất
khẩu, giảm bớt thị trường trung gian, nhiêù chủng loại hàng hoá đã vào được
các thị trường mới. Đặc biệt là kim ngạch xuất khẩu vào thị trường châu Phi
tăng tới 95% so với năm 2007.
- Cơ cấu nền kinh tế đã chuyển dịch tích cực theo hướng mở cửa, hội nhậpvào
kinh tế toàn cầu, thể hiện ở tỷ lệ xuất khẩu/GDP (XK/GDP) ngày càng tăng,
nghĩa là hệ số mở cửa ngày càng lớn.
• Cơ cấu lao động

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã làm thay đổi cơ cấu lao động nước ta theo xu
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Số lao động trong các ngành công nghiệp và
dịch vụ ngày càng tăng lên, trong khi số lao động ngành nông nghiệp ngày càng
giảm đi.
Cụ thể hơn, cơ cấu lao động theo ngành đã có sự chuyển dịch theo hướng
tích cực như sau: Tỷ trọng lao động nhóm ngành nông, lâm nghiệp - thuỷ sản đã
giảm (từ 73% năm 1990 xuống còn 71,3% năm 1995; khoảng 51,9% năm 2009 và
năm 2010 khả năng còn dưới 51% gần đạt mục tiêu đề ra).
Tỷ trọng lao động nhóm ngành công nghiệp- xây dựng tăng liên tục (từ
11,2% năm 1990 lên 11,4%, lên khoảng 13,1% năm 2000, lên 18,2% năm 2005, lên
21,5% năm 2009). Tỷ trọng lao động nhóm ngành dịch vụ tăng liên tục và nhanh
nhất (từ 15,8% năm 1990, lên 17,4% năm 1995, lên khoảng 21,8% năm 2000, lên
24,7% năm 2005 và lên 26,6% năm 2010).
(Theo Chinhphu.vn)
e. Mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của đất nước
Quan hệ kinh tế đối ngoại ở đây được hiểu là tổng thể các mối quan hệ về
thương mại, kinh tế và khoa học kĩ thuật giữa một quốc gia này với một quốc gia
khác hay một tổ chức quốc tế. Như vậy trong quan hệ kinh tế đối ngoại đã bao gồm
nhiều hoạt động khác nhau như xuất nhập khẩu hàng hóa, đầu tư quốc tế, du lịch,
dịch vụ (ví dụ: vận tải đường biển, hàng không, đường bộ, bảo hiểm, thanh toán
quốc tế), xuất khẩu lao động… Qua đó cho ta thấy được mối quan hệ tác động qua
lại phụ thuộc lẫn nhau giữa các lĩnh vực hoạt động này nói chung và giữa hoạt động
xuất khẩu với các lĩnh vực của kinh tế đối ngoại nói riêng.
Hoạt động xuất khẩu với chức năng là kênh lưu thông hàng hóa giữa thị
trường trong nước và thị trường ngoài nước là bộ phận quan trọng của hoạt động
kinh tế đối ngoại. Nó tạo điều kiện thúc đẩy các lĩnh vực khác của quan hệ kinh tế
đối ngoại phát triển
Đầu tư quốc tế và xuất nhập khẩu hàng hóa của một quốc gia luôn có mối
quan hệ chặt chẽ phụ thuộc lẫn nhau trong đó đầu tư quốc tế bao gồm đầu tư của
nước khác vào nước mình và đầu tư từ nước mình ra nước ngoài.

Khi hoạt động xuất khẩu hàng hóa của một nước phát triển, các nhà đầu tư có
thể thấy được tiềm năng, thế mạnh của nước này, uy tín của quốc gia trên thị trường
quốc tế được nâng lên, nhờ vậy các nhà đầu tư càng có lòng tin hơn khi đầu tư, từ
đó làm tăng dòng vốn đầu tư từ nước ngoài vào. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
qua thời kỳ đổi mới đã tăng lên rất nhanh đặc biệt là mấy năm gần đây khi mà kinh
tế Việt Nam nói chung, xuất khẩu Việt Nam nói riêng có những bước tiến mạnh mẽ.
Đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài cũng tăng lên đáng kể nhờ một phần tác
động của xuất khẩu hàng hóa. Thông qua hoạt động xuất khẩu hàng hóa, các nhà
đầu tư Việt Nam có thể tìm hiểu được nhu cầu thị trường, môi trường đầu tư nươc
ngoài, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư ra nước ngoài giúp cho hoạt động
này dễ thành công hơn. Đây chính là hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hóa:
xuất khẩu tư bản. Không những thế, xuất nhập khẩu còn đóng vai trò như một
phương tiện quảng bá hình ảnh đất nước Việt Nam với bạn bè quốc tế, thu hút dòng
khách tới Việt Nam tham quan, tìm hiểu cơ hội làm ăn, thúc đẩy du lịch.
Ngoài ra, xuất khẩu cũng góp phần phát triển các dịch vụ như vận tải giao
nhận, thanh toán quốc tế, bảo hiểm… đây là những dịch vụ không thiếu một khi
xuất khẩu hàng hóa phát triển mạnh. Những dịch vụ này phát triển đến lượt nó lại
tác động, tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng hóa.
Một khi những tiền đề về quan hệ thương mại được thiết lập, chúng ta sẽ
nhanh chóng đi tới được những hiệp định thương mai song phương, đa phương,
tiến tới việc gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế, từ đó lại càng tạo điều kiện thúc
đẩy thương mại hàng hóa nói chung, xuất khẩu nói riêng phát triển mạnh mẽ. Việt
Nam trước năm 1990 mới chỉ có quan hệ thương mại với 40 nước mà đến nay đã có
quan hệ thương mại với hơn 220 nước và vùng lãnh thổ, ký hơn 90 hiệp định
thương mại song phương với các nước trong đó có Hiệp định hợp tác kinh tế -
thương mại với EU (1992), Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (2001), tạo
ra một bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại.
Ngoài ra, Việt Nam cũng đã lần lượt trở thành thành viên và có những đóng
góp quan trọng trong nhiều tổ chức quốc tế và khu vực như ASEAN (1995), ASEM
(1996), APEC (1998)… Tháng 11/2006, Việt Nam lần đầu tiên tổ chức thành công

Hội nghị cấp cao Diễn đàn châu Á – Thái Bình Dương APEC. Sự kiện có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng là ngày 7/11/2006, Việt Nam đã là thành viên thứ 150 của tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO), đánh dấu sự hội nhập hoàn toàn của Việt Nam
vào nền kinh tế toàn cầu, mang đến những cơ hội to lớn về thương mại và đầu tư
cho nền kinh tế Việt Nam.
Thức hiện nhất quán chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương
hóa quan hệ, Việt Nam vẫn không ngừng mở rộng và phát triển từng bước đưa quan
hệ hữu nghị, hợp tác với các nước ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu
quả, nhất là với các nước láng giềng khu vực, các nước lớn, các trung tâm kinh tế
chính trị quan trọng trên thế giới.
Qua đây có thể thấy, xuất khẩu thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế đối ngoại
của đất nước và lại càng tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu phát triển.
2. Những tác động tiêu cực của xuất khẩu đến phát triển kinh tế của Việt
Nam
a. Xuất khẩu tăng trưởng chưa vững chắc ảnh hưởng tới tăng trưởng
kinh tế
Như đã trình bày ở trên, xuất khẩu của Việt Nam chiếm một tỉ lệ khá cao
trong cơ cấu GDP, do đó, một sự biến động của xuất khẩu sẽ có ảnh hưởng nhất
định đến tăng trưởng kinh tế.
Xuất khẩu đóng một vai trò quan trọng trong việc kích tích tăng trưởng kinh
tế, tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực này, nó cũng gây ra một số hiệu
ứng tiêu cực khác.
Trong xu thế hội nhập thế giới, nền kinh tế Việt Nam không thể nào không
hướng đến xuất khẩu.Tuy nhiên sự kỳ vọng quá nhiều vào thị trường thế giới đã
mang lại không ít thất vọng cho các doanh nghiệp Việt Nam khi kinh tế thế giới,
đặc biệt là ở các nước phát triển, lâm vào tình trạng bất ổn.Cuộc khủng khoảng
kinh tế năm 2008 đã có những ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế Việt Nam.Việc quay
trở lại thị trường nội địa và 2 nước Lào, Campuchia đã giúp các doanh nghiệp xuất
khẩu cầm cự qua thời gian khủng khoảng kinh tế toàn cẩu. Chính phủ Việt Nam
cũng đã có chủ trương tăng cường xuất khẩu để giảm nhập siêu, khẳng định rõ ràng

chiến lược phát triển dựa trên xuất khẩu của kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên khi nền
kinh tế phục hồi và tăng trưởng, kim ngạch nhập khẩu cũng gia tăng nhanh chóng.
Nhiệm vụ tăng xuất khẩu để giảm nhập siêu là một nhiệm vụ đầy khó khăn khi các
doanh nghiệp xuất khẩu ở Việt Nam cũng đang gặp nhiều khó khăn và thách thức.
Khó khăn là bởi xuất khẩu ở Việt Nam tăng trưởng chưa vững chắc ảnh
hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
- Tác động tiêu cực đầu tiên của xuất khẩu tới nền kinh tế Viêt Nam đó là các
doanh nghiệp Việt Nam quá say sưa xuất khẩu, ít quan tâm đến thị trường
trong nước, để cho hàng hóa nước ngoài tràn ngập thị trường nội địa. Điều
này cho thấy, nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc khá nhiều vào thị trường bên
ngoài, kém chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Do đó, nền kinh dễ bị tổn
thường bởi các “cú sốc” từ bên ngoài và ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế
trong tương lai của Việt Nam. Cuộc khủng khoảng Tài chính tiền tệ Châu Á
là một minh chứng cho điều này.
Vụ kiện cá tra, cá basa của Việt Nam ở Mỹ cách đây 8 năm đã khiến
cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh sản phẩm này gặp không ít khó
khăn. Lúc này, doanh nghiệp mới nghĩ tớ việc hướng vào thị trường trong
nước. Nhờ vậy, người tiêu dung trong nước, đặc biệt là người phía Bắc mới
được biết đến mùi vị cá tra, cá bas a. Mặt khác, do mặt hàng này cũng có sẵn
thương hiệu ở các nước phát triển nên người dân trong nước ngay lập tức sẵn
sang tiếp nhận và sức tiêu thụ mặt hàng này tăng lên đáng kể. Chỉ tới lúc đó
các nhà sản xuất và kinh doanh cá tra, cá bas a mới nhận ra sức tiêu thụ của
thị trường trong nước đối với sản phẩm này và mới nghĩ tới việc quảng bá
sản phẩm này tại thị trường trong nước.
Một ví dụ khác nữa là hàng dệt may, một trong những mặt hàng chủ
lực của xuất khẩu Việt Nam, mỗi năm kinh ngạch thu về vài ba tỉ USD
nhưng tại thị trường trong nước, hàng nhập lậu lại hoàn toàn chiếm lĩnh.
Những năm qua ngành dệt may tuy đã thành lập được các trung tâm thương
mại thời trang, cửa hàng giới thiệu sản phẩm may mặc tại nhiều thành phố,
khu đô thị lớn nhưng thị phần còn khiêm tốn. Những hang may mặc có chất

lượng tốt, mẫu mã đẹp như Nem, An phước, Ninomax… lại có giá đắt,
không phù hợp với túi tiền hầu hết dân Việt Nam. Các hàng may mặc khác
có giá rẻ thì mẫu mã không đẹp, không theo kịp xu hướng. 2 năm gần đây
xuất hiện các chuỗi cửa hàng Made in Vietnam giá cả phải chăng, chất lượng
tốt, mẫu mã đẹp là điểm khởi sắc trong thị trường may mặc nội địa, người
tiêu dung trong nước cũng được sử dụng sản phẩm tốt hơn mà giá cả rẻ hơn.
Ta thấy nếu các doanh nghiệp có chiến lược đầu tư quảng bá, giới thiệu sản
phẩm đối với thị trường trong nước, xây dựng cho mình một thị trường vững
chắc thì chắc chắn sẽ hạn chế được những rủi ro từ thị trường nước ngoài
- Tác động tiêu cực thứ hai đó là xuất khẩu và sản xuất chưa thực sự gắn kết
với nhau tạo sự mất cân bằng cung cầu, ảnh hưởng tới nền kinh tế.
Các doanh nghiệp xuất khẩu chỉ lo thu mua sản phẩm để xuất khẩu,
không có trách nhiệm trong việc quy hoạch sản xuất dẫn đến tình trạng cung
cầu mất cân bằng.
Lại lấy ngành dệt may làm ví dụ. Việt Nam đang được xếp hạng ở
mức 16/153 nước xuất khẩu dệt may của thế giới, kim ngạch xuất khẩu được
đánh giá là lớn, tuy nhiên lợi nhuận ròng đem lại là rất thấp. Các doanh
nghiệp dệt may của Việt Nam phần lớn là các đơn vị nhận gia công cho nước
ngoài. Một thực tế đó là các nguyên phụ liệu cho ngành này chủ yếu trông
chờ vào nguồn nhập khẩu từ nước ngoài, nguồn nguyên liệu trong nước chỉ
mới đáp ứng được một phần rất nhỏ: bông xơ sản xuất trong nước mới đảm
bảo 5% nhu cầu, tơ sợi tổng hợp phải nhập 30%, vải cho công nghiệp may
phải nhập 52%, nguyên phụ liệu nhập 34% Hiện nay, Việt nam vẫn chưa
dành một sự quan tâm đầu tư thích đáng vào sản xuất nguyên liệu cho ngành
công nghiệp dệt.
- Cơ cấu thị trường xuất khẩu chưa thực sự hợp lý cũng gây tác động tiêu cực
tới xuất khẩu từ đó gián tiếp tác động tới tăng trưởng:
Xuất khẩu nếu như quá phụ thuộc vào một thị trường thì sẽ rất dễ bị ảnh
hưởng khi thị trường đó có biến động.Những số liệu xuất khẩu của nước ta thời
gian sau khi các nước Đông Âu sụp đổ, sau cuộc khủng khoảng tài chính tiền tệ

Châu Á, và sau sự kiện cuộc khủng bố 11/9/2001 ở Mỹ là những minh chứng rất rõ
cho điều này. Cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian vừa qua
khá hợp lý, tuy nhiên, nhìn một cách tổng quát ta thấy: xuất khẩu của Việt Nam
vẫn phụ thuộc khá nhiều vào thị trường châu Á (khoảng trên 50%) và đang có xu
hướng dịch chuyển mạnh sang thị trường Hoa Kỳ, ít quan tâm đến các thị trường
khác. Do đó, mỗi khi có sự biến động của các thị trường châu Á hay Mỹ sẽ ảnh
hưởng rất lớn đến xuất khẩu của Việt Nam và làm cho nền kinh tế tăng trưởng kém
bền vững.Hơn nữa, các quốc gia trong khu vực, đặc biệt là các nước ở Đông – Nam
Á có cùng lợi thế cạnh tranh với nhiều hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.Vì vậy,
khả năng tăng xuất khẩu của Việt Nam vào các thị trường này là có giới hạn.
TS Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế
Trung ương đề nghị cần có cái nhìn thẳng thắn vào sự thật để thấy rằng, xuất khẩu
của chúng ta trong giai đoạn vừa qua phát triển không bền vững, cơ cấu xuất khẩu
chậm chuyển biến: “Qua từng ấy năm mà vẫn xuất khẩu sản phẩm nông lâm, thô…
Cứ đà lạm phát như hiện nay, tôi cho rằng, 5 năm tới xuất khẩu dệt may của chúng
ta sẽ không thể cạnh tranh với Bangladesh, Malaysia…Lý do là vì chúng ta đã ký
hợp đồng từ mấy tháng trước và với sự tăng vọt của mức chi tiêu nội địa, mất ổn
định vĩ mô thì xuất khẩu dệt may chắc chắn sẽ bị đe doạ”, ông Doanh lấy ví dụ.
Theo vị Tiến sĩ kinh tế này, sự thiếu bền vững trong xuất khẩu là một trong những
minh chứng cho thấy tuy Việt Nam đã hội nhập nhưng đó là sự hội nhập thụ
động.“Chúng ta không có những sự lựa chọn chủ động.Đó là điều hết sức nguy
hiểm”, ông Doanh nhận định.
Có thể nói Việt Nam đang chuyên môn hóa vào “các thị trường đang đi
xuống” – khi mà xuất khẩu của Việt Nam vượt quá tốc độ tăng trưởng nhập khẩu
của các thị trường này, trong đó đáng chú ý là thị trường Hoa Kỳ, Nhật Bản,
Đức,Anh và Italia.Trong khi đó, Việt Nam đang giảm thị phần đối với các thị
trường đang phát triển mạnh mẽ như Trung Quốc, Singapore hay Hà Lan và Hàn
Quốc, nơi mà tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn khả năng nhập
khẩu của các quốc gia này.
Biến động thị trường Nhật đã khiến nhiều doanh nghiệp nghĩ đến việc thay

đổi thị trường xuất khẩu. Những diễn biến bất lợi tại Nhật, thị trường xuất khẩu
chủ lực của Việt Nam trong nhiều năm qua, do thảm họa động đất - sóng thần,
khiến nhiều doanh nghiệp bắt đầu nghĩ đến việc điều chỉnh cơ cấu xuất khẩu, nhằm
giảm thiểu những khó khăn ở thị trường này.
Bên cạnh đó, phải đáp ứng những tiêu chuẩn khắt khe hơn ở thị trường châu
Âu và Mỹ. Hai thị trường xuất khẩu truyền thống của Việt Nam là Mỹ và EU ngày
càng “khó tính”, bằng những rào cản phi thuế quan, tiêu chuẩn nhập khẩu khắt khe
hơn. Các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước cần sớm nắm bắt những quy định mới
này.
Theo ông Lê Văn Đạo, Tổng thư ký Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas),
ngoài những vấn đề về chất lượng, giá cả, năm 2011, các nhà nhập khẩu EU sẽ
nhập khẩu hàng hóa có chọn lọc hơn. Chẳng hạn sản phẩm nhập khẩu vào EU phải
đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng, các chất độc hại không được dùng trong sản
xuất hàng may mặc theo quy định EU, áp dụng tiêu chuẩn về an toàn đối với các
sản phẩm dùng cho trẻ em. Ngoài ra, doanh nghiệp xuất khẩu buộc phải tuân thủ
những quy định về ghi nhãn mác, môi trường (xử lý nước thải), trách nhiệm xã
hội mới có thể xuất khẩu vào thị trường này.
Mỹ là thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam.Thị trường này cũng có
những thay đổi quan trọng trong năm 2011, gây khó khăn và trở ngại cho hàng xuất
khẩu trong nước.Theo ông Nguyễn Duy Khiên, Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Mỹ
thuộc Bộ Công Thương, kinh tế Mỹ phục hồi chậm, tỷ lệ thất nghiệp ở mức cao,
sức mua của thị trường này có thể giảm sút trong năm nay. Bên cạnh đó, đang có sự
cạnh tranh gay gắt giữa các nhà sản xuất nội địa và các quốc gia xuất khẩu vào thị
trường Mỹ. Chính sách bảo hộ của Mỹ như đạo luật Farm Bill cho mặt hàng thủy
sản, Lacey cho sản phẩm gỗ sẽ tiếp tục gây khó khăn cho hàng xuất khẩu của Việt
Nam. Vì vậy, để duy trì sức mua của thị trường này, doanh nghiệp cần có những
chiến lược dài hạn dựa trên việc đa dạng hóa sản phẩm, đẩy mạnh xuất khẩu những
mặt hàng tăng trưởng cao nhưng chiếm thị phần thấp ở Mỹ. Quan trọng hơn, doanh
nghiệp nên tìm ra những phân khúc thị trường mới thông qua cộng đồng doanh
nghiệp Việt Nam ở nước ngoài.

Ngoài ra, chất lượng hàng xuất khẩu kém và quy mô xuất khẩu còn nhỏ cũng
là những yếu tố góp phần ảnh hưởng xấu tới xuất khẩu của nước ta trong tương lai
và cũng là những vấn đề cần được xem xét.
b. Tác động xấu tới tài nguyên thiên nhiên môi trường
- Tác động của xuất khẩu tới nguồn tài nguyên thiên nhiên
Cơ cấu xuất khẩu hàng hóa của VN từ lâu đã là một vấn đề được Nhà nước
quan tâm. Trong thời kì đổi mới, chúng ta đã có nhiều chính sách thúc đẩy cơ cấu
này chuyển dịch theo hướng tích cực tuy nhiên, tốc độ chuyển dịch còn chậm, cho
đến nay, vẫn chưa có sự thay đổi nào được xem là đáng kể.
Trong cơ cấu này, tỷ trọng xuất khẩu nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản luôn
chiếm một tỷ trọng khá cao, nhiều năm gần đây đã giảm nhưng vẫn duy trì trên
mức 20%. Điều đáng nói đó là các mặt hàng này được xuất khẩu dưới dạng thô,
không qua chế biến nên giá trị gia tăng thấp hơn rất nhiều. Mặt hàng khoáng sản và
nguyên liệu xuất khẩu chủ yếu là dầu thô và than đá.
Trong chiến lược Khai thác than được Chính phủ phê duyệt ngày
29/11/2003, sản lượng khai thác trong năm 2005 chỉ được 16-17 triệu tấn, năm
2010 là 22-24 triêu tấn và năm 2020 là 29-30 triệu tấn. Vậy mà tính riêng trong
năm 2006, ngành than đã khai thác hơn 30 triệu tấn, trong đó xuất khẩu 16 triệu
tấn, với lập luận rằng, do giá than trong nước thấp, nên lấy xuất khẩu để bù lỗ
lượng than tiêu thụ trên thị trường trong nước.
Nếu như trong tương lai, tăng trưởng của Việt Nam vẫn tiếp tục phụ thuộc
quá nhiều vào xuất khẩu tài nguyên và nhiên liệu như hiện nay thì kinh tế Việt Nam
có nhiều nguy cơ bị ảnh hưởng nghiêm trọng khi mà nguồn tài nguyên đang bị cạn
kiệt dần và đặc biệt sẽ cạn kiệt một cách nhanh chóng khi chúng ta không có kế
hoạch khai thác và sử dụng một cách hợp lý.
Một thực trạng trong ngành khai thác khoáng sản xuất khẩu đó là việc khai
thác một các bất chính của các tổ chức, cá nhân.Tình hình này trước đây đã rộ lên
và được các cơ quan chức năng đôn đốc, gần đây có phần yên ắng.Tuy nhiên, chính
quyền địa phương vẫn cần phải đặt nhiều chú ý hơn khi mà hiện nay, giá của các
mặt hàng như dầu mỏ, than đá trên thế giới cũng như trong nước đang tăng cao.

Hiện tại, chúng ta cũng đã đưa ra các chiện lược sủ dụng nguồn tài nguyên,
Nhà nước cũng đã có rất nhiều biện pháp nhằm hạn chế lượng xuất khẩu tài nguyên
khoáng sản. Đến năm 2010, phấn đấu giảm tỷ lệ xuất khẩu nhóm hàng khoáng sản
và nguyên liệu xuống còn 9,6%
- Tác động của xuất khẩu tới môi trường
Xuất khẩu Việt Nam trong hơn 20 năm đổi mới và đặc biệt trong những năm
gần đây liên tục được đẩy mạnh. Và do mục đích khai thác tài nguyên cũng như sản
xuất sản phẩm để xuất khẩu, nhằm đẩy mạnh kim ngạch xuất khẩu, đạt được lợi
nhuận cao, nhiều doanh nghiệp đã bất chấp tất cả, không quan tâm tới vấn đề môi
trường, khiến cho tình trạng ô nhiễm hiện nay càng trở nên trầm trọng hơn. Ngành
thủy, hải sản là một minh chứng điển hình.
Hiện nay, Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong 10 nước có kim ngạch
xuất khẩu thủy sản đứng đầu thế giới. Song do kỹ thuật và công nghệ khai thác, chế
biến, nuôi trồng thủy sản lạc hậu, công tác quản lý còn yếu kém nên đã và đang làm
suy thoái môi trường ven biển, dẫn đến nguồn lợi thủy sản gần bờ ngày càng cạn
kiệt một cách nhanh chóng. Theo báo cáo của Hội khoa học kĩ thuật biển Việt Nam
thì khoảng hơn 70% các chất ô nhiễm từ nguồn lục địa thải ra vùng cửa sông và
ven biển, sau đó các chất nguy hại này bị tích lũy lại với hàm lượng ngày càng cao
tại ven bờ. Theo các kết quả nghiên cứu của các chuyên gia, ở những khu vực lân
cận thuộc các cảng biển, tỷ lệ nước biển ở đây ô nhiễm dầu, mỡ đều vượt chuẩn
cho phép. Chẳng hạn như Đà Nẵng 24,6 mg/lít, Ninh Thuận 18,1 mg/lít, Phú Yên
14,7 mg/lít, Khánh Hòa 14,6 mg/lít… đó là chưa kể đến những vụ tai nạn tràn dầu
ra biển hàng chục nghìn tấn, bình quâ nước ta mỗi năm xảy ra từ 5-7 vụ tai nạn tràn
dầu như thế. Ô nhiễm môi trường ven biển gia tăng, cộng thêm phương pháp đánh
bắt theo lối hủy diệt như dùng hóa chất độc hại, sử dụng chất nổ, lưới mắt nhỏ, khai
thác tôm cá trái vụ… đang làm giảm mạnh chất lượng hệ sinh thái biển. Trong đó
17 loài cá biển, 57 loại cá nước ngọt có nguy cơ tuyệt chủng; các rạn san hô, thảm
cỏ biển và rừng ngập mặn dần biến mất mà nguyên nhân ở đây là do việc phát triển
kinh tế một cách tràn lan không có kế hoạch ở các vùng ven biển và trên lưu vực
các con sông gây ra.

Cũng do nuôi trồng thủy sản ở nước ta phát triển theo lối tự phát, thiếu hẳn
quy hoạch vững bền, nên nó vừa là nạn nhân vừa là thủ phạm của tình trạng ô
nhiễm. Bởi hầu hết những vùng nuôi trồng thủy sản đều không có hệ thống thủy lợi
hoặc hệ thống xử lý chất thải dư thừa, làm cho những chất độc này đọng lại,hàm
lượng oxy hòa tan trong nước thấp, lượng chất hữu cơ tăng lên, chất sunphuahydro
vượt ngưỡng cho phép hàng chục lần. và chất lượng môi trường nuôi trồng bị giảm
đi một cách nghiêm trọng. Chỉ sau một năm sử dụng, các đầm, ao nuôi thả thủy sản
đều giảm năng suất rõ rệt, đồng thời gây bùng phát các dịch bệnh làm cho vật nuôi
chết hàng loạt trên phạm vi rộng lớn. Hàng vạn hộ gia đình ven biển Cà Mau, Phú
Yên, Đà Nẵng, Khánh Hòa… thua lỗ nặng nề, nợ nần chồng chất, không ít hộ buộc
phải bỏ hoang phá đầm, ao do họ không thể xử lý đc nguồn nước nuôi trồng bị ô
nhiễm nặng.Hoặc trong hoạt động khai thác than, việc nước thải mỏ thải ra môi
trường gây ô nhiễm nguồn nước xung quanh cũng là một vấn đề nổi cộm đang
được nhiều người quan tâm.
Nếu chúng ta không kịp thời có những biện pháp bảo vệ và quản lý một cách
hợp lý thì tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng kéo dài đến một lúc sẽ không những ảnh
hưởng tới tình hình kinh tế mà còn kéo theo ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của
người dân.
CHƯƠNG 3
Đề xuất một số giải pháp khắc phục những tác động tiêu cực của xuất
khẩu đến phát triển kinh tế của Việt Nam
1. Phát triển khoa học công nghệ và nguồn nhân lực
Khoa học công nghệ là một trong những yếu tố quan trọng bậc nhất trong
quá trình phát triển kinh tế nói chung và trong đẩy mạnh xuất khẩu nói riêng. Khoa
học công nghệ phổ biến hơn trong các ngành từ sản xuất đến xuất khẩu sẽ giúp
nước ta nâng cao được năng suất, tiết kiệm được các chi phí không cần thiết và thời
gian, từ đó hiệu quả sản xuất cũng như xuất khẩu sẽ được nâng cao. Trong xuất
khẩu, khoa học công nghệ giúp các bên tham gia vào thương mại tiến hành việc tìm
hiểu đối tác tiến tới thương lượng và mua bán một cách dễ dàng , giúp đơn giản hóa
các thủ tục xuất nhập khẩu khi áp dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lí

xuất nhập khẩu,… Chính vì vậy, việc phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ
hơn nữa trong các nhành sản xuất và xuất khẩu sẽ góp một phần lớn nâng cao hiệu
quả sản xuất trên thị trường cả về chất lượng lẫn giá thành, giúp đẩy mạnh xuất
khẩu và phát triển kinh tế một cách bền vững hơn.
Để tạo điều kiện cho khoa học công nghệ phát triển, Nhà nước cần tạo lập
một thị trường cho khoa học công nghệ và có các chính sách ưu đãi về thuế, về tín
dụng để khuyến khích các doanh nghiệp nghiên cứu ứng dụng các công nghệ mới.
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần lập thêm những quĩ hỗ trợ cho khoa học
công nghệ đẩy nhanh quá trình phát triển của ngành khoa học công nghệ của Việt
Nam, bắt kịp trình độ phát triển của thế giới.
Với cơ cấu xuất khẩu như nước ta hiện nay, điều cần thiết phải làm là tập
trung đầu tư có chọn lọc khoa học công nghệ cho các ngành sản xuất các mặt hàng
công nghiệp để sản xuất và đầu tư phát triển khoa học công nghệ cho ngành công
nghiệp chế biến, góp phần nâng cao tỷ trọng của nhóm hàng công nghiệp trong cơ
cấu hàng xuất khẩu đồng thời nâng cao giá trị tăng thêm cho các sản phẩm nông
sản – một trong những thế mạnh của nước ta.
Ngoài ra, tăng cường ứng dụng những thành tựu ứng dụng những thành tựu
khoa học kĩ thuật trong công tác hành chính, giúp đơn giản hóa thủ tục, tiết kiệm
thời gian và tiền bạc cho cả Nhà nước lẫn doanh nghiệp xuất khẩu.
Đi đôi với khoa học công nghệ, việc phát triển nguồn nhân lực cũng là một
điều không thể thiếu. Khi trang thiết bị máy móc thiết bị hiện đại cho sản xuất pahir
nghĩ tới những cán bộ kỹ thuật giỏi và công nhân lành nghề có thể điều khiển được
các trang thiết bị máy móc đó. Hiện nay, nước ta rất thiếu cán bộ kĩ thuật và công
nhân kĩ thuật có tay nghề cao. Do đó khả năng cạnh tranh quốc tế hóa chưa cao.
Để khắc phục tình trạng này Việt Nam cần tổ chức nhiều chương trình đào
tạo chuyên sâu cho các cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật thuộc các lĩnh vực để
tạo ra đội ngũ công nhân lành nghề trong các ngành chế tạo, sản xuất chế biến.
Trong đó, cần cập nhật chương trình đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của
thị trường.Bên cạnh đó, cần gắn bó chặt chẽ việc đào tạo với cơ sở sản xuất với
nhiều hình thức hiệu quả, thích hợp.

Đồng thời Việt Nam nên tăng cường hợp tác quốc tế trong sản xuất và trong
đào tạo nguồn nhân lực với nhiều hình thức phong phú như: có thể kết hợp đưa
công nhân đi đào tạo, có thể tranh thủ các nguồn tài trợ, các dự án của các tổ chức
quốc tế, các công ty nước ngoài hoặc mời các chuyên gia sang đào tạo,…từ đó vừa
tận dụng được khoa học công nghệ của nước bạn, vừa nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực cho nước mình.
Ngoài việc chú trọng đào tạo cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật, Việt
Nam cần phải quan tâm đào tạo để có đội ngũ cán bộ thương mại giỏi hỗ trợ đắc
lực trong việc đưa sản phẩm có chất lượng cao thâm nhập được vào mọi thị trường,
kể cả các thị trường khó tính của thế giới. Trong việc phát triển nguồn nhân lực cho
xuất khẩu, chúng ta nên chú ý đào tạo ứng dụng các kỹ năng nghiên cứu thị trường,
marketing, kỹ năng đàm phán quốc tế, nghiệp vụ kỹ thuật ngoại thương, nâng cao
trình độ ngoại ngữ, ứng dụng tin học, nâng cao tay nghề, nâng cao hiểu biết về
pháp luật kinh tế quốc tế và của các nước… Việc đào tạo này cần được phát triển
theo hai hướng, trước mắt, đối với người lao động cần thuần thcuj về kỹ năng và
chuyên môn hóa sâu. Mặt khác, phải chú trọng đặc biệt tới đào tạo, bồi dưỡng nhân
tài, có khả năng ứng dụng và tích hợp khoa học công nghệ của nhân loại cho phát
triển của Việt Nam về lâu dài.
Bên cạnh vấn đề đào tạo nguồn nhân lực, chúng ta cần phải chú ý tới vấn đề
lương bổng và chế độ đãi ngộ đối với cá nhân tài.Hiện nay, ở ngay trên đất nước
chúng ta đang xảy ra tình trạng chảy máu chất xám. Rất nhiều cán bộ, kỹ sư giỏi
đều bị thu hút vào các công ty nước ngoài vì ở đó họ nhận được nhiều quyền lợi
hơn. Chúng ta nên có biện pháp thu hút đội ngũ trí thức và duy trì được một đội
ngũ nhân lực chất lượng cao đó trong công cuộc xây dựng tổ quốc, bao gồm cơ chế
chính sách, sự khuyến khích về tài chính và tinh thần như đãi ngộ về lương bổng,
thuế, nhà cửa và các giải thưởng…Ngoài ra chúng ta cần tạo điều kiện để khai thác
tối đa tiềm năng khao học kỹ thuật của đội ngũ các nhà khoa học cũng như các
quản lý giỏi.
2. Tập trung phát triển sản xuất và xuất khẩu hàng công nghiệp và một số
nhóm hàng xuất khẩu chủ lực giúp đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu

sản xuất.
Cơ cấu xuất khẩu của nước ta hiện nay vẫn còn đang rất lạc hậu và mặc dù
trong nhiều năm qua đã có những chuyển dịch theo hướng tích cực tuy nhiên tốc độ
chuyển dịch còn chậm. Cơ cấu xuất khẩu của nước ta chủ yếu vẫn phụ thuộc vào
mặt hàng khoáng sản, các sản phẩm nông lâm, thủy sản; các mặt hàng công nghiệp

×