Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ ĐÁNH GIÁ ĐỊNH LƯỢNG TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.94 KB, 16 trang )




CHƯƠNG TRÌNH HỖ TRỢ KỸ THUẬT HẬU GIA NHẬP WTO
DỰ ÁN “ĐÁNH GIÁ TỒNG THỂ TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI VIỆT NAM
SAU 5 NĂM GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI




BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ
ĐÁNH GIÁ ĐỊNH LƯỢNG TÁC ĐỘNG CỦA HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ










Hà Nội, tháng 9/2012

Mục lục

1. TỔNG QUAN CÁC MÔ HÌNH CGE SỬ DỤNG TRONG PHÂN TÍCH KINH
TẾ 3
2. TỔNG QUAN TÓM TẮT VỀ VIỆC SỬ DỤNG CÁC MÔ HÌNH CGE TẠI
VIỆT NAM 4


2.1. Đối với chính sách ngoại thương 4
2.2. Đối với thương mại và đầu tư 6
2.3. Đối với chính sách tài khóa (thuế, chi tiêu chính phủ) 7
2.4. Đối với chính sách tiền tệ (tỷ giá hối đoái) 8
2.5. Đối với phân phối thu nhập và nghèo đói 8
3. ĐÁNH GIÁ VIỆC SỬ DỤNG MÔ HÌNH CGE Ở VIỆT NAM VÀ NHỮNG
THIẾU SÓT 10
3.1. Đánh giá việc sử dụng các mô hình CGE ở Việt Nam 10
3.2. Thiếu sót và giới hạn 11
3.2.1. Đối với cơ sở dữ liệu 11
3.2.2. Đối với các kỹ thuật mô hình CGE 12
4. MỘT SỐ HƯỚNG CHO NGHIÊN CỨU TRONG TƯƠNG LAI 14
5. KẾT LUẬN 15

1. TỔNG QUAN CÁC MÔ HÌNH CGE SỬ DỤNG TRONG PHÂN TÍCH KINH
TẾ
Việc sử dụng các mô hình cân bằng tổng thể khả tính (CGE) trong những năm
gần đây ảnh hưởng đến lĩnh vực khác nhau của chính sách công, bao gồm các chính
sách điều chỉnh cơ cấu, thương mại quốc tế, tài chính công, nông nghiệp, phân phối
thu nhập, chính sách năng lượng và môi trường, và nhiều chính sách khác. Theo
Devarajan (2002), đó là do những lợi thế mà chỉ các mô hình CGE có: (i) tính nhất
quán giữa các kết quả từ các mô hình CGE và các phương pháp phân tích khác, (ii)
các mô hình CGE thâu tóm được các tính năng cụ thể của nền kinh tế, chẳng hạn như
tính khó thay đổi của cơ cấu và các hạn chế của thể chế, (iii) các mô hình CGE cung
cấp một khuôn khổ phù hợp để đánh giá các mối liên kết và đánh đổi giữa các gói
chính sách khác nhau.
Trong lý thuyết mô hình, mô hình CGE là mô phỏng dựa trên máy tính về các
hiệu ứng trong tương lai của một nhóm các thay đổi chính sách cụ thể (Abbott,
Bentzen, Hương, và Tarp, 2007). Trong lĩnh vực được áp dụng nhiều nhất (thương
mại), mô hình CGE được sử dụng để đánh giá thương mại, thu nhập, và các hiệu ứng

nghèo của các kịch bản tự do hóa khác nhau. Mô hình xác định các nguồn tăng, giảm
thu nhập từ việc mở cửa thương mại nhiều hơn, và cho thấy chúng được phân phối
như thế nào giữa các quốc gia hoặc khu vực. Các mô hình CGE cũng tính đến việc bất
kỳ chính sách nhằm vào một khu vực hoặc một nhóm có tác động kinh tế gián tiếp đối
với toàn bộ phần còn lại của nền kinh tế. Đó là, các bên cung cấp và nhu cầu của một
cú sốc và các tác động trung gian của các thị trường được phân tích cùng một lúc. Các
mô hình nắm bắt được tác động của các mối liên kết thông qua các yếu tố và thị
trường sản phẩm, tới các quyết định của hộ gia đình, và xa hơn nữa tới các đối tác
thương mại, và ngược lại thông qua các yếu tố và các thị trường sản phẩm.
Các mô hình CGE cũng bị lạm dụng trong phân tích chính sách, bao gồm: (i)
đẩy mô hình vượt ra ngoài phạm vi áp dụng của nó, (ii) vi phạm các nguyên tắc của
Occam là sử dụng mô hình đơn giản nhất phù hợp với nhiệm vụ, (iii) "hội chứng hộp
đen" - kết quả không phù hợp hoặc thích hợp với các thay đổi chính sách.
1

1
Khi đánh giá việc sử dụng các mô hình CGE trong phân tích chính sách, điều quan trọng là phân biệt
giữa các mô hình cách điệu hóa và mô hình ứng dụng. Sự khác biệt quan trọng nhất là các mô hình
cách điệu hóa có xu hướng nhỏ, tập trung và nhấn mạnh một chuỗi nguyên nhân hoặc chính sách cụ
thể. Trong khi đó, mô hình ứng dụng thường lớn hơn, tìm cách nắm bắt đặc điểm thể chế quan trọng
của nền kinh tế được mô hình hóa, và bao gồm một phổ rộng các vấn đề. Các mô hình này, tuy nhiên,
dễ bị hội chứng hộp đen và vi phạm ranh giới Occam (sử dụng mô hình đơn giản nhất phù hợp với
nhiệm vụ). Do vậy, nên phối hợp sử dụng cả hai loại mô hình CGE cách điệu hóa và ứng dụng
(Devarajan, 2002).

2. TỔNG QUAN TÓM TẮT VỀ VIỆC SỬ DỤNG CÁC MÔ HÌNH CGE TẠI
VIỆT NAM
Cùng với quá trình phát triển của các mô hình CGE và kỹ thuật, bao gồm cả
phần mềm máy tính cụ thể, và ứng dụng của chúng trong phân tích kinh tế trên thế
giới, đã có một nhóm ngày càng tăng của các nhà kinh tế và các nhà hoạch định chính

sách sử dụng các mô hình CGE để khai thác lợi thế của mô hình trong các vấn đề kinh
tế khác nhau. Trong đó, các lĩnh vực chính là: ngoại thương, đầu tư trực tiếp nước
ngoài, chính sách tài khóa (thuế, chi tiêu chính phủ), chính sách tiền tệ (tỷ giá hối
đoái), phân phối thu nhập và nghèo đói.

2.1. Đối với chính sách ngoại thương
Ngoại thương và chính sách thương mại là một trong những lĩnh vực đầu tiên
mà các nhà kinh tế và hoạch định chính sách sử dụng kỹ thuật CGE. Mô hình CGE đã
được sử dụng rộng rãi trong phân tích ngoại thương vì thực tế rằng hầu hết các tác
động của chính sách thương mại là hiệu ứng cân bằng tổng thể (Devarajan, 2002). Áp
dụng mô hình CGE để phân tích tác động của chính sách thương mại cũng là một
trong những nỗ lực đầu tiên của việc sử dụng các mô hình CGE tại Việt Nam. Giữa
những năm 1990, phiên bản đầu tiên của Ma trận hạch toán xã hội (SAM) được xây
dựng để sử dụng trong các mô hình CGE. Điều này là do thực tế rằng Việt Nam tham
gia cộng đồng ASEAN và mở cửa nền kinh tế với khu vực và thế giới, và một trong
những lĩnh vực quan trọng nhất trong quá trình này là ngoại thương. Như chỉ ra về
mặt lý thuyết và thực nghiệm, các mô hình CGE là những công cụ quan trọng và phù
hợp cho việc phân tích kinh tế của các tác động của tự do hóa thương mại. Các kết
quả của chính sách và các kịch bản tự do hóa thương mại dựa trên các mô hình CGE
phụ thuộc rất nhiều vào cơ sở dữ liệu - SAM. Sau đó đã có những nỗ lực đáng kể
trong việc biên soạn một cơ sở dữ liệu nắm bắt được cấu trúc chính của nền kinh tế
khá chi tiết - SAM (CIEM, 1998; Nielsen, 2001).
Rama và Sa (2005), Abbott và cộng sự (2006) đã tổng quan các nghiên cứu
gần đây liên quan đến các tác động của hiệp định thương mại của Việt Nam và việc
gia nhập WTO. Họ nhận thấy rằng hầu hết các nghiên cứu này sử dụng mô hình cân
bằng tổng thể (CGE) để đánh giá tác động của cải cách thương mại đến toàn nền kinh
tế. Những nghiên cứu này hoặc sử dụng mô hình GTAP (Hertel và Tsigas, 1997) hoặc
mô hình Linkage của Ngân hàng Thế giới (van de Mensbrugghe, 2005). Những mô
hình này nắm bắt hiệu ứng toàn nền kinh tế thông qua nhiều ngành và thị trường yếu
tố sản xuất cũng như các hộ gia đình và chính phủ, vốn và lao động được phân bổ

thông qua thuế và các ưu đãi thuế quan, và giả định một thị trường cạnh tranh hoàn
hảo. Sự khác biệt chính trong các mô hình này là mức độ gộp các ngành.
Cơ sở dữ liệu cho các mô hình này thường được lấy từ bảng đầu vào-đầu ra
(IO) của Việt Nam năm 1996, ma trận hạch toán xã hội (SAM) năm 1997 bằng cách
sử dụng GTAP hoặc một SAM được sử dụng trong Tarp (2001, 2002) và Jensen và
cộng sự (2004). Dữ liệu hộ gia đình được lấy từ Điều tra mức sống dân cư Việt Nam.
Một đặc điểm chính khác của các mô hình này là cho dù đó là mô phỏng để ước tính
kết quả ngắn hạn hoặc dài hạn, phần lớn các nghiên cứu này là mô hình tĩnh và do đó,
không cho thấy các hiệu ứng dồn tích và chuyển tiếp cả trong ngắn hạn lẫn dài hạn
như các mô hình động. Đối với trường hợp tự do hóa thương mại, các mô phỏng chủ
yếu được thực hiện trên các mô hình này là những tác động của AFTA, APEC, WTO,
và US-BTA đối với nền kinh tế của Việt Nam. Fukase và Martin (1999) sử dụng mô
hình GTAP để ước tính hiệu ứng của tự do hóa thương mại của Việt Nam theo AFTA,
APEC và các kịch bản tự do hóa đơn phương với kết quả là lợi ích kinh tế cho Việt
Nam từ AFTA dường như nhỏ do: tỷ trọng xuất khẩu từ Việt Nam sang AFTA là nhỏ,
lợi ích từ việc tạo dựng thương mại phải bù đắp cho chi phí chuyển hướng thương
mại; và điều khoản thương mại có thể bất lợi. Tuy nhiên, với tự do hóa đơn phương
và tự do hóa trong khuôn khổ cam kết APEC, lợi ích kinh tế đối với Việt Nam sẽ cao
hơn. Tương tự như vậy, Phương (2003) phát hiện ra rằng mặc dù có tác động tích cực
từ tự do hóa thương mại, kết quả tổng thể là tương đối nhỏ (GDP chỉ tăng 1,6% khi
gia nhập AFTA, và 4% khi tự do hóa toàn cầu).
Gần đây, Hương và Vanzetti (2006) đánh giá tác động của tự do hóa của Việt
Nam sử dụng mô hình GTAP cho thấy rằng cả nhập khẩu và xuất khẩu tăng trong tất
cả các ngành, đặc biệt là trong dệt may; và mức phúc lợi khá cao, đặc biệt là từ tự do
hóa đơn phương. Lao động phổ thông tăng 38% với đa số lao động làm việc trong các
ngành dệt may, may mặc, sản phẩm gỗ và viễn thông. Tuy nhiên, kết quả này có vẻ
không thực tế với sự đánh đổi giữa việc sử dụng lao động và tiền lương, nên cần có
một cách đóng mô hình thực tế hơn.Bên cạnh mô hình GTAP, đã có các mô hình
CGE khác sử dụng để ước tính các tác động kinh tế của tự do hóa thương mại của
Việt Nam. Ví dụ, Chân và Dung (2001) đã xây dựng một mô hình CGE dựa vào bảng

đầu vào-đầu ra của Việt Nam năm 1996, mô phỏng việc giảm tất cả thuế quan của
Việt Nam xuống 5% và thay thế thuế doanh thu với thuế GTGT. Kết quả của họ cho
thấy một số ngành (than, dầu, khí đốt, giao thông vận tải, thông tin liên lạc và chế tác
công nghệ thấp) mở rộng sản xuất; trong khi đó các ngành khác (nông nghiệp, tài
chính, ngân hàng và bảo hiểm) giảm sản lượng. Với việc giảm thuế quan, xuất nhập
khẩu tăng lên đáng kể (tương ứng là 7,8% và 5%), trong đó xuất khẩu của các ngành
chế tác công nghệ thấp tăng trong khi lĩnh vực nông nghiệp, ngân hàng và tài chính
sụt giảm.
Doanh và Yoon Heo (2009) sử dụng một mô hình CGE cụ thể để ước tính các
tác động kinh tế và phúc lợi của việc cắt giảm thuế quan sau khi gia nhập WTO của
Việt Nam gia nhập WTO có phân biệt các thay đổi trong hệ thống thuế trong nước, 10
nhóm hộ gia đình, dựa trên các Bảng đầu vào-đầu ra 2000 và VHLSS 2004. Những
phát hiện chính là Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ cắt giảm thuế quan sau khi gia nhập
WTO thể hiện ở tăng GDP, tổng phúc lợi và tiêu dùng (trong khi sự gia tăng GDP có
được là nhờ nâng cao hiệu quả của việc phân bổ lại nguồn lực, sự gia tăng phúc lợi
tổng thể là do tăng các giá các yếu tố sản xuất và giảm giá tiêu dùng. Cả khối lượng
xuất nhập khẩu đều tăng do cầu trong nước cao hơn kết hợp với giá nhập khẩu thấp
hơn. Do gia tăng xuất khẩu lớn hơn nhập khẩu, cán cân thương mại sẽ được cải thiện.
Mức phúc lợi tổng thể cao hơn đi kèm với hiệu ứng phân phối do sự thay đổi trong
giá cả yếu tố sản xuất và cấu trúc tiêu dùng. Bất bình đẳng tương đối giữa người giàu
nhất và tăng nghèo nhất tăng nhẹ, trong khi đó sự bất bình đẳng giữa thành thị và
nông thôn giảm.
Đối với các mô hình CGE động, Roland-Holst và cộng sự (2002) mô phỏng
một mô hình CGE động từ giai đoạn 2000 đến năm 2020 để phân tích các tác động
của việc Việt Nam gia nhập WTO. Họ tập trung vào tầm quan trọng của cải cách
trong nước cũng như tự do hóa thị trường vốn cùng với việc gia nhập WTO. Các tác
giả nhận thấy rằng nếu Việt Nam gia nhập WTO theo phong cách thụ động mà không
có bất kỳ cải cách trong nước, điều này sẽ mang lại lợi ích không đáng kể cho nền
kinh tế vì nếu không có cải cách trong nước, nền kinh tế Việt Nam sẽ chỉ tăng cường
lợi thế so sánh trong các ngành lương thấp, dẫn đến xói mòn lợi ích chung của Việt

Nam từ thương mại. Ngoài ra, tự do hóa thị trường vốn sẽ thúc đẩy tăng trưởng nếu
nó được thực hiện cùng với các cải cách trong nước và gia nhập WTO.Toàn (2005) đã
phát triển một mô hình CGE năng động cho nền kinh tế Việt Nam và mô phỏng cắt
giảm 5% thuế quan theo cam kết WTO. Những phát hiện chính của nghiên cứu này là
cắt giảm thuế quan sẽ dẫn đến việc mở rộng công nghiệp chế tác gây thiệt hại cho
ngành nông nghiệp và dịch vụ trong dài hạn. Do đó, nhập khẩu nông sản và dịch vụ,
và xuất khẩu sản phẩm sản phẩm chế tác sẽ tăng lên.

2.2. Đối với thương mại và đầu tư
Abbott và cộng sự (2008) sử dụng một mô hình CGE một quốc gia cách điệu
động để khám phá quan hệ giữa thương mại và phát triển tại Việt Nam. Động cơ thúc
đẩy ở đây là cải cách thuế quan, cơ hội tiếp cận thị trường và cải cách thể chế, tất cả
đều ảnh hưởng cả mức độ và cấu trúc đầu tư theo ngành (tăng thêm năng lực), theo đó
quyết định tăng trưởng. Cải cách chính sách thương mại, bao gồm cải cách thể chế và
cơ hội tiếp cận thị trường đạt được thông qua các hiệp định thương mại, tạo ra các ưu
đãi ảnh hưởng tới mức độ và việc phân bổ đầu tư theo ngành. Mô hình CGE cách điệu
với 35 ngành được sử dụng để dự đoán mức độ thương mại ròng của Việt Nam bắt
đầu từ năm 2000 đến năm 2005. Cân bằng thị trường của nền kinh tế gồm sản xuất và
nhập khẩu bằng cầu trung gian cộng với tiêu dùng cá nhân và chính phủ cộng với cầu
đầu tư công và tư nhân cộng với xuất khẩu.
Các kết quả mô hình làm nổi bật vai trò của nhà nước trong phân bổ đầu tư và
huy động tiết kiệm ở Việt Nam, và tầm quan trọng của tích lũy vốn trong thành tựu
phát triển của Việt Nam. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của đầu tư công và cấu trúc
đầu tư của nền kinh tế: trong khi nhà nước đặc biệt chiếm ưu thế trong lĩnh vực năng
lượng, các công ty có vốn đầu tư nước ngoài tập trung vào công nghiệp chế tác và các
doanh nghiệp tư nhân trong nước chú trọng nông nghiệp và dịch vụ. Tác động của tự
do hóa thương mại lớn hơn trong các kịch bản thay đổi cấu trúc đầu tư theo các cam
kết thương mại chứ không phải là hậu quả của việc cắt giảm thuế quan.

2.3. Đối với chính sách tài khóa (thuế, chi tiêu chính phủ)

Dựa trên sự đóng góp của Harberger về tác động bóp méo của thuế dựa trên
một mô hình cân bằng tổng thể đơn giản cho khu tài chính công. Do tài chính công là
mối quan tâm lớn của nhà hoạch định chính sách, đương nhiên là các mô hình CGE
cũng được đưa vào lĩnh vực chính sách thông qua khu vực này. Các mô hình CGE đã
được sử dụng để đánh giá các vấn đề tài chính công, đặc biệt là cải cách thuế.
2

Giesecke và Trần (2009) sử dụng kỹ thuật CGE để đánh giá những hậu quả kinh tế vĩ
mô và ngành do thực hiện cải cách thuế giá trị gia tăng của Việt Nam. Mô hình được
sử dụng trong nghiên cứu của họ (VIPAG) là mô hình CGE động cho nền kinh tế Việt
Nam, bao gồm phân chia các hàng hóa và người sử dụng khá chi tiết; tương tự như
mô hình MONASH (Dixon và Rimmer 2002). Mô hình của họ sử dụng SAM của Việt
Nam năm 2005 với 113 ngành và 113 mặt hàng, ba yếu tố chính là lao động, vốn và
đất đai. Lao động được phân chia nhỏ hơn theo kỹ năng. Khả năng thay thế không
hoàn hảo giữa hàng hóa trong nước và nhập khẩu của từng mặt hàng được đưa vào
mô hình thông qua giả định Armington về độ co dãn thay thế bất biến (CES). Ba loại
điều chỉnh động là tích lũy vốn, tích lũy nợ ròng và điều chỉnh với độ trễ. Tích lũy
vốn mang tính đặc thù của ngành, và có quan hệ với đầu tư ròng của ngành công
nghiệp cụ thể. Thay đổi hàng năm về nợ ròng của khu vực tư nhân và của khu vực
công có liên quan đến sự mất cân bằng giữa đầu tư và tiết kiệm hàng năm của họ.
Trong mô phỏng chính sách, thị trường lao động được điều chỉnh với độ trễ. Trong
ngắn hạn, tiền lương theo giá so sánh của người tiêu dùng không đổi, do đó áp lực đối
với thị trường lao động trong ngắn hạn chủ yếu biểu hiện qua những thay đổi trong
việc làm. Trong dài hạn, áp lực của thị trường lao động phản ánh những thay đổi
trong tiền lương theo giá so sánh.
Đặc biệt, một hệ thống thuế giá trị gia tăng phức tạp, bao gồm nhiều mức thuế,
nhiều miễn trừ, nhiều mức độ hoàn thuế giữa các người sử dụng hàng hóa, và các
doanh nghiệp cùng lúc sản xuất nhiều sản phẩm đã được đưa vào mô hình. Mô phỏng
được thực hiện là ba mức thuế suất thuế giá trị gia tăng được thay thế bằng một mức
duy nhất là mức thuế không làm thay đổi tổng thu từ thuế, đồng thời loại bỏ các miễn

trừ thuế giá trị gia tăng tùy tiện. Kết quả cho thấy GDP theo giá so sánh, đầu tư, tiêu
dùng tư nhân tăng lên, và hầu hết các ngành đều cùng mở rộng sản xuất. Đặc biệt,
ngành nhà ở bùng nổ nhưng giá nhà đất lại thấp hơn.
2
Ví dụ, mô hình ORANI được xây dựng đầu tiên tại Úc vào năm 1977. Sau đó, các mô hình
ORANI/MONASH đã đóng một vai trò quan trọng trong các cuộc tranh luận của công chúng về thuế
nhập khẩu ô tô, thuế nhập khẩu hàng dệt, mức độ bảo hộ tổng thể và thuế doanh thu (Dixon, 2001).

Mô hình VIPAG có thể ước tính tác động của những thay đổi trong hầu hết
các biến số chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là chính sách thuế và chính sách chi tiêu
của chính phủ. Một số mô phỏng sử dụng mô hình này đã chứng minh kết quả khá
phù hợp trong việc thay đổi mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp, tỷ lệ đầu tư
công, cơ cấu chi tiêu công, v.v…

2.4. Đối với chính sách tiền tệ (tỷ giá hối đoái)
Chính sách tiền tệ, đặc biệt là tỷ giá hối đoái là một trong những lĩnh vực quan
trọng để sử dụng mô hình CGE. Ngoài ra, khi một quốc gia thực hiện chương trình
điều chỉnh cơ cấu nhằm khôi phục lại cân đối kinh tế vĩ mô đồng thời giảm các méo
mó trong cơ cấu kinh tế. Về nhiều phương diện, các mô hình CGE rất phù hợp để
đánh giá các chương trình như vậy. Các mô hình này có thể lột tả những điều chỉnh
kinh tế vĩ mô, chẳng hạn như sự phá giá của tỷ giá hối đoái thực, cùng với một số các
chính sách kinh tế vi mô, chẳng hạn như giảm các rào cản thương mại, trong một
khuôn khổ nhất quán.
3

Mô hình VIPAG (2008) có thể được sử dụng để đánh giá các tác động của
điều chỉnh tỷ giá hối đoái đối với nền kinh tế Việt Nam. Đây là mô hình CGE động
với mức độ phân chia hàng hóa và người sử dụng khá chi tiết theo kiểu mô hình
MONASH (Dixon và Rimmer 2002). Mô hình VIPAG sử dụng SAM của Việt Nam
năm 2005 với 113 ngành và 113 mặt hàng, ba yếu tố sản xuất sơ cấp là lao động, vốn

và đất đai. Việc phá giá tỷ giá hối đoái sẽ dẫn đến sự gia tăng trong xuất khẩu và có
tác động đến tốc độ tăng trưởng GDP cũng như các chỉ số kinh tế vĩ mô chính khác,
theo đúng lí thuyết.

2.5. Đối với phân phối thu nhập và nghèo đói
Cùng với chính sách thương mại, phân phối thu nhập và nghèo đói là một
trong các lĩnh vực quan trọng nhất và sử dụng các mô hình CGE khá thường xuyên do
lợi thế có một không hai của loại mô hình này so với các kỹ thuật khác. Các mô hình
này có thể xử lý nhiều vấn đề khác nhau, bao gồm cả việc người nghèo bị ảnh hưởng
bởi chính sách thương mại, chính sách thuế, chính sách điều chỉnh cơ cấu, và các
chính sách khác.
4

3
Các mô hình CGE cho thấy tác động đơn giản và dễ hiểu của chính sách điều chỉnh, chẳng hạn như
phá giá tỷ giá hối đoái thực và điều chỉnh điều khoản thương mại (Devarajan, Lewis và Robinson
(1993).
4
Vào đầu những năm 1990 đã có một số mô hình CGE xem xét hậu quả đối với phân phối thu nhập
của các chính sách điều chỉnh (ví dụ, Bourguignon, de Melo, và Morrison (1991)).

Cũng đã có một số mô hình CGE nghiên cứu phân phối thu nhập và nghèo đói
cùng với tự do hóa thương mại dựa trên việc sử dụng số liệu Điều tra mức sống hộ gia
đình Việt Nam (VLSS). Đó là do Việt Nam đã giảm nghèo đáng kể trong quá trình cải
cách kinh tế và tự do hóa thương mại.
Gallup (2002) cũng cho thấy rằng mặc dù đói nghèo đã giảm đáng kể ở Việt
Nam, bất bình đẳng về tiền lương đã tăng lên. Hương (2003) đã trình bày một mô
hình CGE dựa trên bảng IO của Việt Nam năm 1996 và cơ sở dữ liệu VLSS
1992/1993. Với mô phỏng giảm 5% thuế quan và việc giảm thu thuế quan được bù
đắp lại bằng tăng thuế gián tiếp hoặc vay bên ngoài, tác giả nhận thấy rằng nền kinh tế

đã tăng trưởng với một tốc độ chậm hơn khi tăng thuế gián tiếp; các hộ gia đình trong
khi đó có lợi ít hơn từ tự do hóa thương mại. Hộ dân nông thôn đã đạt được nhiều hơn
so với các hộ gia đình thành thị, và có sự cải thiện trong bất bình đẳng thu nhập giữa
các hộ gia đình nông thôn và thành thị. Trong trường hợp sử dụng vay bên ngoài, nền
kinh tế đạt mức phúc lợi cao hơn so với lựa chọn đầu, nhưng bất bình đẳng có xu
hướng doãng rộng giữa các hộ gia đình nông thôn và thành thị.
Jensen và Tarp (2003) nghiên cứu các mô hình CGE tĩnh với cơ sở dữ liệu
SAM Việt Nam năm 2000 và số liệu VLSS năm 1998 (1 mô hình có 16 nhóm hộ gia
đình và mô hình kia có 6002 hộ gia đình). Ba thử nghiệm là: xóa bỏ thuế xuất khẩu,
xóa bỏ thuế nhập khẩu; và xóa bỏ cả thuế xuất khẩu lẫn thuế nhập khẩu. Kết quả cho
thấy rằng khi bỏ thuế ngoại thương số lượng những người sống trong nghèo đói tăng,
đặc biệt là đối với trường hợp của các hộ gia đình nông nghiệp nông thôn ở vùng núi
phía bắc Việt Nam, dẫn đến sự chênh lệch về nghèo giữa các vùng xấu đi.
Nguyễn và Ezaki (2005) cũng đã xây dựng một mô hình CGE bằng cách sử
dụng dữ liệu GTAP và các số liệu VHLSS năm 2002. Với mô phỏng các kịch bản tự
do hóa thương mại khác nhau (xoá bỏ thuế quan giữa: Việt Nam và ASEAN-4, Việt
Nam và ASEAN-4 và Trung Quốc, các nền kinh tế công nghiệp hóa mới ở Đông Á và
Nhật Bản, Bắc Mỹ, và tự do hóa thương mại đa phương, Các tác giả ngạc nhiên thấy
rằng GDP thực tế đã giảm trong tất cả các kịch bản, mặc dù có sự gia tăng trong tiêu
dùng tư nhân và thương mại, thu nhập hộ gia đình và thu nhập lao động.
Trong một mô hình CGE động, Toàn (2005) thấy rằng với cắt giảm thuế quan
của Việt Nam xuống 5% theo cam kết WTO, trong dài hạn, việc tự do hóa thương mại
sẽ tăng các khoảng cách thu nhập giữa các hộ gia đình thành thị và nông thôn vì công
nghiệp chế tác mở rộng sản xuất làm ảnh hưởng xấu đến nông nghiệp và các ngành
dịch vụ.
Fujii và Roland-Holst (2008) khám phá phương diện không gian của đói
nghèo liên quan đến việc Việt Nam gia nhập WTO bằng cách sử dụng một mô phỏng
vi mô tích hợp mô hình với mô hình CGE với ước lượng diện nhỏ cho toàn bộ các
mục tiêu kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô. Họ đã sử dụng một bảng SAM 38 ngành kết
nối với dữ liệu không gian của các biến số địa lý và chi tiêu, thu nhập hộ gia đình, và

từ VLSS và tổng điều tra dân số. Những cú sốc thương mại tạo ra các thay đổi về giá
đầu ra, và điều này về phần mình gây ra những thay đổi ở cấp ngành đối với sản phẩm
giá trị biên của các yếu tố sản xuất, dẫn đến lao động và các yếu tố có thể phân bổ
được chuyển dịch giữa các ngành cùng với những thay đổi về giá các yếu tố sản xuất.
Đối với phúc lợi xã hội, nghiên cứu của họ cho thấy kết quả rằng tự do hóa
thương mại làm tăng phúc lợi tổng hợp và giảm nghèo, trong khi đó bất bình đẳng thu
nhập sẽ tăng lên. Cả hai đơn phương và tự do hóa toàn cầu sản xuất dẫn đến tăng đầu
ra của ngành may mặc và các ngành khác sử dụng nhiều lao động, nhưng tự do hóa
toàn cầu dẫn đến sự gia tăng lớn trong sản lượng nông nghiệp và tài nguyên thiên
nhiên. Mức nghèo sẽ giảm khi Việt Nam loại bỏ tất cả thuế nhập khẩu và trợ cấp xuất
khẩu. Những cải thiện về tình trạng đói nghèo thậm chí còn lớn hơn khi các nước
khác cũng loại bỏ thuế quan đối với các sản phẩm Việt Nam.

3. ĐÁNH GIÁ VIỆC SỬ DỤNG MÔ HÌNH CGE Ở VIỆT NAM VÀ NHỮNG
THIẾU SÓT
3.1. Đánh giá việc sử dụng các mô hình CGE ở Việt Nam
Mô hình CGE đã chứng tỏ là một công cụ mạnh để đánh giá định lượng tác
động của các chính sách công, đặc biệt là thương mại và các chính sách liên quan
trong bối cảnh hội nhập kinh tế ở Việt Nam. Có một số tính năng chính của việc sử
dụng các mô hình CGE tại Việt Nam, như sau:
- Ngày càng có nhiều mô hình CGE được sử dụng để đánh giá tác động của
các chính sách kinh tế và điều chỉnh cơ cấu ở Việt Nam. Hầu hết các mô hình CGE
cho nền kinh tế Việt Nam là tĩnh. Chỉ có một vài mô hình động.
- Các dạng hàm của các mô hình CGE chủ yếu là theo hoặc mô hình GTAP
hoặc mô hình Linkage của Ngân hàng Thế giới, theo đó nắm bắt được toàn bộ các
quan hệ giữa các ngành khác nhau, các thị trường nhân tố sản xuất, các hộ gia đình,
và chính phủ, phân bổ vốn khan hiếm và lao động cho việc sử dụng hiệu quả nhất
dưới động lực chịu ảnh hưởng của thuế quan cũng như các biến số chính sách khác
trong toàn nền kinh tế.
- Hầu hết các mô hình CGE giả định cạnh tranh hoàn hảo, thị trường hiệu quả,

và không cho phép các nền kinh tế quy mô.
- Mức phân chia ngành khá đa dạng dựa trên các mục tiêu nghiên cứu. Nhiều
nghiên cứu hạn chế SAM dưới 20 ngành gộp. Một vài nghiên cứu sử dụng các chi tiết
của bảng IO với trên 100 ngành (VIPAG sử dụng 113 ngành).
- Các cơ sở dữ liệu cho các mô hình CGE chủ yếu là bảng IO chính thức 1996,
và bảng SAM sử dụng số liệu kinh tế vĩ mô năm 1997 như trong các mô hình dựa trên
GTAP. Một số mô hình CGE sử dụng SAM cập nhật (SAM 1999, SAM 2003, SAM
2005). VLSS 1992/93 và 1997/98 là những nguồn thông tin quan trọng về các hộ gia
đình, mặc dù một số thông tin cập nhật trong Điều tra mức sống hộ gia đình năm 2002
và 2004 đã được kết hợp trong một số mô hình.
- Mỗi mô hình CGE thường tập trung vào một khía cạnh của nền kinh tế, nhấn
mạnh vào việc đưa ra đặc điểm mô hình liên quan đến khuôn khổ kinh tế và cải cách
chính sách. Sự khác biệt trong các giả định của mô hình thường dẫn đến sự giải thích
và kết quả khác nhau.
- Chủ đề được thảo luận trong các mô hình CGE cũng đa dạng, từ việc giảm
thuế đến chính sách tài khóa và tiền tệ, từ thương mại đến đầu tư và phân phối thu
nhập. Các chủ đề phổ biến, tuy nhiên, là những vấn đề liên quan đến thương mại.
Ngoài ra, có ngày càng tăng số lượng các nghiên cứu về phân phối thu nhập và tác
động của các chính sách công, bao gồm cả chính sách thương mại đến nghèo đói.
- Cũng có thể thấy rằng các mô hình CGE có thể được chế tác để có được kết
quả mong muốn, vì hầu hết các thay đổi này là kết quả của các giả định ngoại sinh của
các tác giả.
- Kết quả của hầu hết các nghiên cứu CGE là khá hợp lý và thực tế, đặc biệt là
các nghiên cứu về thương mại, tăng trưởng kinh tế, đói nghèo và phân phối thu nhập.

3.2. Thiếu sót và giới hạn
3.2.1.

Đối với cơ sở dữ liệu
a) Xây dựng Bảng IO và SAM

Nếu có một số điều để phàn nàn về các mô hình CGE, điều được trích dẫn
nhiều nhất là cơ sở dữ liệu phù hợp, trong đó phần quan trọng nhất là bảng IO và
SAM, và ước tính các thông số. Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, có
nguồn số liệu đầy đủ chất lượng cao để làm bảng IO và SAM là khá khó khăn. Hầu
hết các nguồn số liệu được rút ra từ số liệu điều tra bảng IO, điều tra doanh nghiệp và
VHLSS. Tuy nhiên, các nguồn dữ liệu này cũng có thể có các vấn đề sau đây:
- Phạm vi thu thập số liệu hạn chế;
- Việc thiết kế phương án điều tra và thực hiện sơ sài;
- Không có sẵn thông tin có liên quan để cập nhật các cơ sở dữ liệu;
- Việc sàng lọc và xử lý cơ sở dữ liệu không tốt;
- Thiếu các nguồn dữ liệu có sẵn để so sánh và điều chỉnh một cách phù hợp;
- Thiếu chuyên môn và nguồn nhân lực trong việc xây dựng bảng IO và SAM,
đặc biệt là các chuyên gia xây dựng cơ sở dữ liệu trong nhiều lĩnh vực như tài chính
công, lực lượng lao động, dân số,
b) Ước tính các thông số
Trong các mô hình CGE, các thông số cần được ước tính có hai loại:
- Các thông số về tỷ trọng như chi phí đầu vào trung gian, tỷ trọng chi dùng, tỷ
lệ tiết kiệm trung bình, tỷ trọng xuất, nhập khẩu, tỷ trọng chi tiêu chính phủ, và các
mức thuế suất trung bình. Các tham số tỷ trọng này có thể được ước tính từ bảng
SAM với giả định rằng năm gốc của SAM là một lời giải trạng thái cân bằng của mô
hình CGE.
- Các thông số độ co giãn mô tả đường cong của các hàm số cấu trúc khác
nhau (ví dụ, hàm sản xuất, hàm tiện ích, hàm cầu nhập khẩu, hàm cung xuất khẩu).
Chúng không thể được ước tính từ bảng SAM, mà cần có số liệu bổ sung.
Việc sử dụng bảng SAM với giả định rằng các cơ sở dữ liệu năm gốc là một
lời giải cân bằng của mô hình để ước tính các thông số tỷ trọng đã được sử dụng rộng
rãi trong các mô hình CGE ("ước lượng chuẩn").
Tuy nhiên, việc ước lượng độ co giãn khó khăn hơn. Các thông tin chi tiết
trong SAM năm gốc không cung cấp thông tin hoặc giá trị của độ co giãn. Cần có
thông tin và số liệu bổ sung cũng như các kỹ thuật ước lượng phù hợp để ước lượng

các tham số này.

3.2.2.

Đối với các kỹ thuật mô hình CGE
Việc áp dụng kỹ thuật CGE đi đôi với những khó khăn nhất định trong sự lựa
chọn mô hình và các hạn chế.
5

Hầu hết các mô hình CGE dự đoán việc phân bổ lại các nguồn lực như là hậu
quả của việc điều chỉnh giá sau khi thay đổi thuế quan trong trạng thái tĩnh và dài hạn.
Những tác động của hiệp định thương mại không ảnh hưởng đến con đường phát
triển. Các nhà mô hình CGE vẫn còn tranh luận về việc đóng vĩ mô trong ngắn hạn và
sự tiến triển của vốn theo thời gian. Giả định của mô hình tĩnh trong dài hạn rằng vốn
sẽ phân bổ sang các ngành với lợi nhuận cao nhất không phù hợp đối với dự đoán
phân bổ đầu tư trong ngắn và trung hạn. Cần phải giải thích tiến triển năng lực của
ngành trong ngắn và trung hạn để xác định các hàm ý phát triển của tự do hóa thương
mại.
Trong các mô hình CGE, cả hai mô hình tĩnh và động, kết quả kinh tế vĩ mô như tăng
trưởng kinh tế được giả định dựa trên những dự báo bên ngoài, chứ không phải dự
báo nội sinh như thuyết tăng trưởng nội sinh. Cơ chế chính mà thương mại ảnh hưởng
đến GDP là thông qua các
lợi ích từ thương mại được tạo ra bởi tái phân bổ tài
nguyên. Do thực tế là các tam giác Harberger về lợi ích thặng dư ròng từ những thay
đổi thuế quan thường khá nhỏ, kết quả đánh giá tác động của tự do hóa thương mại
của WTO từ các mô hình CGE là nhỏ. Tuy nhiên, điều được thừa nhận rộng rãi rằng
các lợi ích động từ tự do hóa thương mại chủ yếu do các khái niệm chủ chốt của hiệu
5
Xem thêm Abbott, Bentzen và Tarp (2009).


ứng vì cạnh tranh của tự do hóa thương mại và tăng năng suất từ mở cửa nền kinh tế.6
Roland-Holst và cộng sự (2002) đã đưa vào mô hình cả việc tăng năng suất, mà họ
cho rằng có được nhờ cải cách chính sách trong nước đi kèm, và điều này được áp đặt
1 cách ngoại sinh. Mối quan hệ giữa tự do hóa thương mại và tăng trưởng vẫn còn gây
tranh cãi. Giả định về mối quan hệ mang tính hệ thống giữa mức độ thương mại và
năng suất trong một ngành, thường được sử dụng trong các mô hình CGE để nắm bắt
lợi ích động, vẫn chưa được minh chứng đầy đủ. Một số nghiên cứu đã chứng minh
rằng sự phát triển và tăng trưởng vừa do tiến bộ công nghệ hoặc tăng năng suất có
được từ các yếu tố cải thiện hiệu quả cũng như do tích lũy vốn.7
Cơ chế chủ chốt trong các mô hình thương mại hiện có định hướng các thay
đổi sau khi cải cách là cắt giảm thuế quan và các thay đổi về giá tiếp theo, nhưng
thậm chí việc đặt ra giả định thay đổi thuế quan cho một mô hình gộp cũng có vấn đề.
Một vấn đề là cần phải qui đổi các hàng rào phi thuế quan thành thuế quan. Thuế nhập
khẩu ở Việt Nam đã gia tăng do hàng rào phi thuế quan sau một vài cải cách trong
cuối những năm 1990 khi mức độ thương mại ngày càng tăng.
Mức độ gộp cũng là vấn đề đối với việc áp dụng mô hình CGE tại Việt Nam.
Các cuộc đàm phán liên quan đến nhượng bộ ở mức độ rất chi tiết, và các sản phẩm
quan trọng và những dòng thuế tương ứng được đàm phán cho các ngành hẹp. Trong
việc đánh giá kết quả tiềm năng từ vòng đàm phán Doha, Anderson và Martin (2005)
cho thấy rằng việc miễn trừ 5% các dòng thuế khỏi cắt giảm có thể làm mất đi các lợi
ích tiềm năng từ tự do hóa thương mại theo vòng Doha. Còn thiếu nghiên cứu CGE
với mức độ phân tổ chi tiết để giải quyết những vấn đề này. Thay đổi thuế quan được
giả định theo hướng đơn giản hóa và dường như được đánh giá quá cao, trong khi dự
báo kết quả thương mại và kinh tế lại được đánh giá thấp.
Một số lựa chọn khi xây dựng mô hình cụ thể trong số các mô hình thương
mại điển hình cũng có vấn đề, bao gồm dạng hàm quyết định cơ chế theo đó cắt giảm
thuế quan được chuyển thành cải thiện tiếp cận thị trường. Một trong những tính năng
quan trọng nhất là dạng hàm Armington xác định thị phần quốc tế. Trong phương
pháp này, đầu vào trung gian nhập khẩu (theo nguồn) được giả định là tách biệt với
đầu vào trung gian sản xuất trong nước. Các dạng hàm cụ thể được sử dụng (ví dụ, độ

co giãn thay thế bất biến) có đặc tính cho phép thương mại hai chiều quan sát được,
và điều này làm hạn chế các lời giải năm gốc và mô phỏng các cú sốc nhỏ gần với kết
quả năm gốc, do đó, kết quả mô hình dường như khá thực tế. Các giá trị của độ co
giãn thay thế Armington được giả định một cách đơn thuần. Các tham số này, tuy
nhiên, rất quan trọng trong việc xác định mức độ và bản chất của sự thay đổi trong các
mô hình CGE. Chưa có nghiên cứu nào ước tính các thông số cho mô hình CGE của
Việt Nam.
6
Xem thêm Dee và cộng sự (2005).
7
Xem thêm Andersen và Dalgaard (2006).

Giả định thị trường lao động cũng là vấn đề trong các mô hình CGE. Trong
các nghiên cứu về Việt Nam, Vanzetti và Hương (2007) giới thiệu một cách đóng mô
hình cho phép xảy ra tình trạng thất nghiệp; tuy nhiên, nó có thể không cực đoan như
vậy. Trong khi vẫn còn khá thấp so với thực tế đã xảy ra, cách đóng này đưa ra mức
tác động thương mại và GDP hợp lý nhất. Cũng có thể xảy ra trường hợp trình độ học
vấn hạn chế tăng trưởng việc làm trong một số hoạt động, nhưng không hạn chế đối
với hoạt động khác, cho thấy cần một cái nhìn chi tiết hơn đối với thị trường lao động.
Cũng cần phải giải thích mối quan hệ giữa thị trường lao động thành thị và nông thôn
và các hạn chế nảy sinh từ quan hệ này đối với các ngành cụ thể.
Một vấn đề cơ bản là về hạn chế đối với tăng trưởng ngành. Trong hầu hết các
mô hình CGE, lợi ích cho một ngành thường khiến các ngành khác thiệt hại do vốn cố
định và lao động được phân bổ lại. Ở Việt Nam, điều này có thể khác. Thay đổi thể
chế, cải thiện tiếp cận thị trường và cải cách trong nước dẫn tới thay đổi các ưu đãi
đầu tư trong các ngành cụ thể sau khi thực hiện các hiệp định thương mại. Những đầu
tư cùng với sự thay đổi thể chế có tác dụng cải thiện năng lực và nâng cao năng suất.

4. MỘT SỐ HƯỚNG CHO NGHIÊN CỨU TRONG TƯƠNG LAI
Mặc dù các mô hình CGE đã phát triển nhanh chóng tại Việt Nam kể từ hai

thập niên qua, vẫn còn nhiều dư địa để khám phá chúng. Một số hướng cho các
nghiên cứu trong tương lai của mô hình CGE tại Việt Nam có thể là như sau:
- Phát triển các mô hình CGE động: các mô hình CGE tĩnh chủ yếu xử lý cơ
cấu kinh tế nền tảng. Trong khi đó, các mô hình CGE động nắm bắt tốt hơn các chi
tiết về điều chỉnh cơ cấu, kết hợp nhiều loại hình tăng trưởng đa dạng và xem xét cả
tính bền vững, và nắm bắt các đặc tính cốt yếu liên thời của quá trình ra quyết định và
hành vi. Nó đặc biệt quan trọng đối với các nước đang phát triển như Việt Nam trên
con đường phát triển kinh tế đa dạng của mình.
- Quy mô nền kinh tế và cạnh tranh không hoàn hảo: Các mô hình CGE hiện
có thường sử dụng điều kiện hiệu suất không đổi và cạnh tranh hoàn hảo dựa trên thực
tế là các mô hình này theo dạng mô hình kinh tế tân cổ điển. Khuôn khổ cấu trúc và
hành vi hạn hẹp có thể hạn chế việc áp dụng các mô hình này, đặc biệt là trong điều
kiện thị trường không hoàn hảo và thể chế chưa phát triển như ở các nước đang phát
triển. Ngoài ra còn có bằng chứng rằng quy mô nền kinh tế là rất quan trọng. Quy mô
kinh tế tốt có thể đẩy nhanh tiến bộ theo hướng cạnh tranh với bên ngoài và tăng
trưởng trong nước.
- Vốn chuyển dịch giữa các quốc gia: luồng tài chính nói chung và luồng vốn
nước ngoài nói riêng đã là một trong những thách thức cho các nhà lập mô hình CGE.
Những luồng này là đặc biệt quan trọng đối với các nước đang phát triển như Việt
Nam, nơi đầu tư trực tiếp nước ngoài và các luồng vốn bên ngoài khác có thể tác động
đáng kể đến quá trình tăng trưởng và các thể chế trong nước. Điều này tuy nhiên là
nhiệm vụ khó khăn bởi vì dạng hàm cấu trúc của hành vi tài chính rất khó lồng ghép
vào thuyết cân bằng tổng thể.
- Ngành dịch vụ: dịch vụ là một vấn đề nghiêm trọng đối với các mô hình
CGE, trong khi đó nó chiếm phần lớn các hoạt động kinh tế. Các mô hình CGE cần
được nghiêm túc xem xét về khía cạnh này để phản ánh chính xác hơn tác động của
việc điều chỉnh chính sách cụ thể hoặc điều chỉnh cơ cấu đối với nhà nước và phát
triển của toàn bộ nền kinh tế.
- Các hàng rào phi thuế quan và quy đổi thành tương đương thuế quan: một
cấu phần rất lớn trong chương trình nghiên cứu CGE giải quyết các vấn đề chính sách

thương mại, nhưng chủ yếu là dựa trên bảo hộ thuế quan. Hiện vẫn còn nhiều rào cản
phi thuế quan và quy đổi thành tương đương thuế quan phải được tính toán trong các
mô hình CGE.
- Cơ sở dữ liệu và độ co giãn thương mại: cải thiện cơ sở dữ liệu là một trong
những vấn đề quan trọng nhất đối với các mô hình CGE để sử dụng tốt và cải thiện
kết quả chạy mô hình. Trong đó, cần nhiều nỗ lực vào việc xây dựng bảng IO và
SAM như là một điều kiện tiên quyết và các công cụ chính để cho người làm mô hình
CGE. Đối với độ co giãn thương mại, trong khi việc xử lý các dạng hàm của mô hình
và số liệu đã nhận được nhiều chú ý, không nên đánh giá thấp vai trò thiết yếu của các
thông số cấu trúc. Những thông số này là cần thiết để hoàn tất thông tin của mô hình,
cũng như xác định mức độ phản ứng của các quan hệ hành vi, và do đó, các kết quả
trong các thử nghiệm đối chứng. Có nhiều lý do dẫn đến thiếu chú ý đến các thông số
này, một phần là do tình trạng thiếu thông tin và thiếu sự tham gia của các nhà kinh tế
lượng để ước tính các tham số này.

5. KẾT LUẬN
Hiện đã có một nhóm ngày càng nhiều các nhà kinh tế và các nhà hoạch định
chính sách sử dụng các mô hình CGE để khai thác lợi thế của chúng trong việc nghiên
cứu các vấn đề kinh tế mới nổi tại Việt Nam, chẳng hạn như ngoại thương, đầu tư trực
tiếp nước ngoài, chính sách tài chính (thuế, chi tiêu chính phủ), chính sách tiền tệ (tỷ
giá), phân phối thu nhập và nghèo đói. Cách xây dựng các mô hình CGE khá đa dạng
với cấu trúc và mức độ phân tổ theo nhiều ngành hơn và phức tạp hơn để nắm bắt tác
động của các kịch bản khác nhau về chính sách cải cách và điều chỉnh cơ cấu trong
nền kinh tế. Mặc dù vẫn còn thiếu sót trong mô hình CGE, đặc biệt là những vấn đề
liên quan đến cơ sở dữ liệu (bảng IO và SAM), ước lượng các thông số, và các kỹ
thuật mô hình CGE, sự phát triển của các mô hình CGE đã góp phần đáng kể trong cả
hai khía cạnh của quá trình nghiên cứu học thuật và hoạch định chính sách ở Việt
Nam trong quá trình hội nhập kinh tế.
Trong hai thập niên qua, mặc dù các mô hình CGE đã phát triển nhanh chóng
và đa dạng, vẫn còn rất nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ cho các nghiên cứu sâu hơn. Cần

phải chú ý và nỗ lực trong lĩnh vực này để sử dụng tốt hơn các mô hình CGE trong
phân tích kinh tế và quá trình hoạch định chính sách. Trong đó, lĩnh vực quan trọng
nhất bao gồm phát triển các mô hình CGE động, xử lý vấn đề kinh tế quy mô và cạnh
tranh không hoàn hảo, di chuyển vốn giữa các quốc gia, khu vực dịch vụ, cải thiện cơ
sở dữ liệu và độ co giãn thương mại.

×